ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN. BÀI 5

PHẦN 3 . MỘT SỐ KIẾN THỨC PHỤ TRỢ.
( Trong phần này dienbatn sử dụng tư liệu trong cuốn Kim Hàm Ngọc Kính của Lưu Bá Ôn ,“透地奇门地理奥秘 -Thấu địa kì môn Địa lí áo bí . Hoàng Triêu Toàn . ( Trung hoa dân quốc thất thập ngũ niên tứ nguyệt tam nhật – Thai Loan dịch học quán quán chủ Hoàng hào phi long Triêu Toàn , trung chánh đại học giáo thụ hoàng giới lương đồng bổ thuật .)
Thấu Địa kỳ môn tác giả VinhL ,

Lưu ý : 
Ứng dụng năm tháng ngày giờ thì là lập quẻ Kỳ Môn Độn Giáp.(Còn được gọi là Thời Gia Kỳ Môn).
Thời Gia Kỳ Môn thì lại dùng Tiết Khí, tính Siêu Thần, Tiếp Khí để định cục khỡi từ Phù Đầu nào. 
Thấu Địa Kỳ Môn là dùng cho 60 Long nhập thủ – (Giáp Tý tới Quý Hợi) .
Cách lập bảng Thấu Địa Kỳ môn ta thường dựa vào những bảng tính sẵn áp vào 60 Long nhập thủ theo tiết khí nên cũng không quá khó như phần đã trình bày ở trên. dienbatn sẽ trình bày một số bảng tính sẵn ở phần sau. Khi lập được bảng Thấu Địa kỳ môn của Long nhập thủ mới chỉ là bước đầu và là công cụ dùng cho tính toán khi xây cất mộ phần. Đây mới chính là vấn đề dienbatn muốn trao đổi cùng các bạn.
Một số kiến thức dùng trong quá trình phân tích bảng Thấu địa kỳ môn dienbatn dựa vào những kiến thức trong cuốn La kinh thấu giải của tác giả Vương Đạo Hạnh sau đây.

1/  TẦNG THỨ 13: 60 LONG THẤU ĐỊA 
Chia đều 60 long thấu địa gọi là thiên Kỷ, bắt đầu từ Giáp Tý ở tầng chính châm. Hợi, 
Mùi thuộc Kiền cung; Kiền của hậu thiên thì liên hệ với Cấn ở tiên thiên; Cấn là sơn vì cớ đó gọi là xuyên sơn. Chia đều 60 long bắt đầu từ Giáp Tý ở chính châm. Nhâm đứng ở đầu thuộc Khảm; Khảm  ở hậu thiên, liên hệ với Khôn  ở tiên thiên; Khôn là  đất nên gọi là thấu  địa; không nói xuyên mà nói thấu; lấy thấu là thông thấu tất cả, như cái ống thổi tro, hơi ra ở cái lỗ đó là thoát thấu được hết. Không nói sơn mà nói địa, là vì địa phát sinh ra vạn vật và ngũ hành khí đều do ở trong định địa có cát khí, thổ tùy khí mà khởi, có thể thấy hình tượng nổi lên trên mặt đất, đều do khí của ngũ hành thấu qua địa trung, hễ khí mạnh thì đất tùy khí mà lên cao,hễ khí yếu thì đất cũng tùy khí mà bình phục; khí thanh thì đất được thanh tú đẹp đẽ, khí trọc thì đất cũng tùy khí mà hung ác. Như vậy, khả dĩ nói là đắc địa. không nói hổ mà nói long; là vì long có khí mà không hình, nó biến hóa không lường được, không ai là không phải luận long, thấu ở huyệt trung vì long đó là đầu mối biến hóa. Vậy cần phải biết cái hay của 60 long thấu địa nên gọi là thấu địa long. Vì lẽ đó, sự tác dụng này là “táng thừa sinh khí”. Tất nhiên là phải nhận định cái long lai nhập thủ trước hết; tức là chỗ xương sống đất phân thủy ở sau huyệt, phải nhận xét kim của la bàn và mạch vào huyệt cho thật đúng. 
Ví dụ:
Nhập thủ long: như 60 long: Tân Hợi nạp âm thuộc kim, mạch long từ bên hữu lại thì lấy tay bên tả làm thừa khí, thì huyệt tinh phải tọa Kiền hướng Tốn mới thấu được Đinh Hợi khí là thuộc thổ; chính Kiền long tọa huyệt là thổ sinh Tân Hợi kim, là huyệt sinh lai long thì nhà ấm phát phúc. Nhược bằng thấu được ất Hợi thì 7 phân Hợi, 3 phân Kiền là hỏa âm (âm nạp âm) tọa huyệt thì khắc Tân Hợi là long lai khắc huyệt sơn, thì nhà áo ít có lộc, cũng thấu được Kỷ Hợi khí 5 phân Kiền, 5 phân Hợi là sát diệu gọi là hỏa khanh thì con phá phần nhiều mắc bệnh lao thổ huyết, tổn thê, khắc tử, bị nước, bùn, kiến, mối vào quan tài đục gặm hài cốt. 
Có bài thi ca của Tiên Thánh rằng: 
   Nhị thập tứ sơn, điên điên, đảo đảo 
   Nhị thập tứ sơn, hữu châu bảo 
   Nhị thập tứ sơn, thuận nghịch hành, 
   Nhị thập tứ sơn, hữu hỏa khanh. 
 Lại nói: “Đáo đầu sai nhất chỉ, như cách vạn trùng sơn”. Xem đó được thấy xuyên sơn, thấu địa đều là tự dụng 72 long chỉ luận về lai mạch, để định cương đầu (chỗ sống đất gồ lên)mà thấy phân thủy, ở sau huyệt, cứ trên long tích mà đặt bàn châm, độ khoảng 8 thước loan đầu ở phía sau huyệt, dùng bàn châm của 60 long thấu địa, xuyên sơn thì không cần dùng. 
Thẩm nhân, khí pháp huyệt của 60 long; mỗi một long có 5 khí, chữ là vượng khí; như long của 2 vòng Bính Tý và Canh Tý, thì có 24 vị châu bảo là cát. Lai cần phải tránh chỗ không, hư, sát, diệu, sai khác, không vong như: Giáp Tý, Nhâm Tý, Mậu Tý long ở trong 3 vòng này, có 36 huyệt là sai thác quan sát là toàn hung. Lại cần phải tránh cái hỗn thiên độ, không nên khắc phân kim; phân kim không nên khắc tọa huyệt; tọa  huyệt không nên khắc thấu địa; thấu địa không nên khắc lai long. Khắc thì nên thuận khắc: lấy cái hạ khắc thượng thì sinh cát. Sinh thì nên nghịch sinh: là lấy dưới sinh trên thì làm xem đó thấy tác dụng của thấu địa, phải nên lưu tâm, cẩn thận chớ nên khinh thường. 
Trong La kinh bàn chép 24 vị có chính tự, hợp với 24 sơn chính khí mạch, nhập thủ là châu bảo. Chép có 12 ngũ tự là hỏa khanh. 
Trong 24 sơn thì có 37 long là sai thác, không vong. Người đời ai cũng biết là huyệt tại sơn, mà không biết các vị trí của huyệt chỉ độ 1 tấc vuông, là nhỏ bằng sợi dây tơ, đặt nằm trên la bàn.   
NGHIỆM TÂN CỰU PHÂN ĐOÁN 
THI CA 
     Nhất cá sơn đầu, táng thập phân 
   Nhất phân phú quý, cửu phân bần 
     Đông sơn, đông hướng, đông triều thủy 
   Cánh hữu đồng đôi, cộng tỉnh doanh 
   Nhất biến quang hoa, sinh phú quý 
   Nhất quan nên thủy, tuyệt nhân Đinh 
   Huyệt tọa hỏa khanh, chiếu nê thủy 
   Kim ngưu tọa huyệt, khởi tứ đằng 
   Thời sư nhược năng tri thử lý 
     Đả phá âm dương huyền diệu tinh 
Nghĩa là: 
   Một khoảng sơn ở sau đầu, chôn 10 ngôi mộ 
   Chỉ có 1 ngôi là phát phú quý, còn 9 ngôi bần 
    Cùng 1 sơn, 1 hướng, 1 dãy thủy chầu 
   Cũng có cùng đông mộ, ở cùng một lỗ huyệt 
   Một bên khí nhuận tươi sáng thì sinh phú quý 
   Một bên thấy bùn nước vào quan tài bị tuyệt tự 
   Đó là huyệt tọa vào chỗ hỏa khanh, thì bùn nước vào 
   Huyệt tọa vào chỗ kim ngưu thì có tơ tía quấn phủ 
   Thầy địa nào biết lý khí này nghiệm như thế 
   Là khám phá được mọi huyền diệu tinh vi của âm dương 
TINH VI HUYỀN THƠ THI CA 
  Bát xích loan đầu yêu thức chân 
  Trung gian tích thủy lưỡng biên phân 
  Khán tha sinh ý quy hà xứ 
 Thập tự đương trung chính lập thành 
  Cánh khán lương biên vô cường nhược 
  Định tâm phương khả hạ la châm 
 Châu bảo hỏa khanh an bài định 
  Phú quý bần tiện nghiệm như thần 
 Nhị thập tứ sơn điên điên, đảo đảo 
 Nhị thập tứ sơn hữu châu bảo 
 Hữu nhập tọa liễu thử nhất huyệt 
  Vinh hoa phú quý thử trung thảo 
Nhị thập tứ sơn đảo đảo điên 
 Nhị thập tứ sơn hữu hỏa khanh 
 Hữu nhân tọa liễu thử nhất huyệt 
 Gia nghiệp thoái bại, tuyệt nhân Đinh 
 Chỉ nhân bất thức, loan đầu xử 
 Hỏa khanh tương lai, tác châu bảo 
 Hữu nhân tri đạo, kỳ trung diệu 
 Năng cứu thế gian bần cùng nhân 
 Lập lại loan đầu tâm chính khí 
 Kim ngưu tọa huyệt khởi tử đằng 
Giải nghĩa theo nguyên văn: 
– Cần nhận rõ ở chỗ loan đầu khoảng 8 thước 
– Ở giữa khoảng sống đất cao rộng thủy phân hai bên 
– Xét cái ý nó chuyển về bên nào, đó là sinh khí 
– Mình đứng chính giữa chỗ chữ thập đỏ 
– Xét thấy 2 bên quân bình, không bên nào mạnh yếu 
– Quyết định có thể đặt la bàn đúng châm 
– Sự giàu sang nghèo hèn ứng nghiệm như thần 
– Trong 24 sơn đảo xuất, đảo ngược nhau đều là có châu bảo 
– Đều là có châu bảo ở trong 24 sơn đó 
– Ai đặt huyệt tọa đúng chỗ châu bảo là phú quý 
– Trong 24 sơn cũng đảo ngược đảo xuôi kia 
– Đều có vị trí của hỏa khanh đó ở trong đó 
– Nếu ai đặt táng tọa vào hỏa khanh thì tuyệt tự 
– Đó chỉ vì họ không biết rõ khí của loan đầu 
– Nên làm lẫn lộn vị trí của hỏa khanh đem làm châu bảo 
– Nếu ai biết được cái đạo lý kỳ diệu ở trong đó 
– Có thể cứu được những người cùng khổ ở trong đời 
– Là đứng tại giữa chỗ loan đầu mà tìm chính khí 
– Đặt huyệt đúng tọa vào kim ngưu thì tơ hồng tía quân phủ. 

DƯƠNG CÔNG NGŨ KHÍ LUẬN .
Theo ông Dương Công luận xét thì: Từ Giáp Tý luân chuyển đi một vòng đến ất Hợi là mạch lãnh khí, là hư, từ Bính Tý đi một vòng đến Đinh Hợi là mạch chính khí là vượng; từ Mậu Tý một vòng đến Kỷ Hợi là mạch bại khí là sát; từ Canh Tý một vòng đến Tân Hợi là mạch khí vượng là tướng; từ Nhâm Tý một vòng đến Quý Hợi là mạch khí thoái là hư .

2. LỤC THẬP LONG THẤU ĐỊA – TỨC NGŨ TÝ KHÍ – CÁT HUNG BÍ QUYẾT 
1-Khí Giáp Tý 7 phân Nhâm 3 phân Hợi là tiểu thác; là Giáp Tý xung quan mà sanh ra ác bệnh: hoàng sũng, điên dại, phong, lao, tê liệt, cùi hủi, gái câm, trai ngọng v.v… Nếu thấy ủy ở phương Bính lại, thì trong quan tài có bùn nước đọng sinh ra thưa kiện v.v… sẽ ứng ào những năm Tị, Dậu, Sửu. 
2-Khí Bính Tý ở chính Nhâm long thì rất tốt thêm người, gia của phú quý song toàn, mọi việc đều tốt. Nếu thấy thủy ở phương Mùi lại và phương Khôn thì chung quanh quan quách là ái lọ chứa nước, rất xấu, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu. 
3-Khí Mậu Tý, 5 phân Tý, 5 phân Nhâm là hỏa khanh thì sinh ra người du đãng, bại nhân luân, không những quan tài bị rễ cây xuyên vào mà còn kiến, mối đục nữa. Nếu thấy thủy ở phương Tốn lại thì trong quan tài có 2,3 phần nước, bùn thì hỏng, sẽ ứng vào những năm: Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn. 
4-Khi Canh Tý ở chính Tý long được phú quý song toàn, phúc lộc thịnh vượng lâu bền. Nếu thấy thủy ở Tốn lại là trong quan tài có bùn thì xấu hay dở sẽ ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn. 
5-Khí Nhâm Tý, 7 phân Tý, 3 phân Quý là dương nhận, sinh ra người hay chết non và bị trộm cướp, tổn thê, hại tử, gặp nhiều tai nạn. Nếu thấy thủy ở Canh Tân lại thì trong quan tài có đầy bùn nước, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn. 
6-Khi Ất Sửu 7 phân Quý, 3 phân Tý thì người của đều được thịnh vượng, sang giàu. Nếu thấy thủy ở phương Ngọ, Đinh thì quan tài có đầy bùn nước; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu 
7-Khí Đinh Sửu ở ngay Quý long, sinh ra người thông minh, lanh lợi, phú quý lâu bền; mọi sự vui vẻ. Nếu thấy thủy ở phương Mùi đến, thì trong quan tài có nước như ao thì hỏng; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn 
8-Khi Kỷ Sửu có 5 phân Sửu, 5 phân Quý là hắc phong, thì con gái bị chết non, con trai bệnh tật; mọi sự đều xấu, thường sinh ra bệnh điên khùng và thất bại đau đớn. Nếu thấy thủy ở phương Hợi lại thì trong huyệt có nước và sâu bọ, là vì thủy ở trong hỏa khanh sinh xuất, sẽ ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất 
9-Khí Tân Sửu ở chính Sửu long, thì 30 năm sau mới giàu sang Đinh tài, đại vượng; mọi sự cát tường, sinh ra người nhân từ hiếu thảo, khác thường. Nếu thấy thủy ở phương Dần lại, trong quan tài có bùn nước là xấu. 
10-Khí Quý Sửu, 7 phân Sửu, 3 phân Càn là phạm cô hư, sau khi tọa táng xong có nhiều tai họa xảy ra; mọi sự không vừa ý, cả gia đình đều lủng củng, khẩu thiệt sẽ ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy thủy ở phương Kiền thì có rễ cây xuyên vào quan tài 
11-Khí Bính Dần, 7 phân Cấn, 3 phân Sửu thì huyệt bình thường, phát phúc, nhưng không bền sẽ  ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất; mọi sự  đều cát tường. Nếu thấy thủy  ở phương Hợi lại thì quan tài bị bùn vào nát hư 
12-Khí Mậu Dần chính Cấn long thì phú quý vinh hoa đời đời thịnh vượng, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn đậu đạt; chỉ sợ thủy ở phương Mão lại xung quan thì hung. 
13-Khí Canh Dần, 5 phân Càn, 5 phân Cấn là cô hư, hỏa khanh, hắc phong, không vong. Sau khi táng 3, 6, 9 năm thấy sinh ra bệnh tật, gia tộc bại tuyệt, rất đau buồn. Lại thấy Thân thủy lại xung thì trong huyệt có bùn vào 
14-Nhâm Dần khí ở chính long Dần, thì phú quý, phúc trạch dồi dào, lắm ruộng nhiều vườn, sẽ ứng vào các năm Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy thủy ở phương Ngọ xung thì quan tài có bùn là hỏng. 
15-Giáp Dần khí có 7 phân Dần, 3 phân Giáp thì được bình an, một đời phát phúc, qua đời sau bị mắc bệnh đau mắt. Nếu thấy thủy ở Khôn xung vào thì quan tài bị mối, kiến đục thì xấu. 
16-Đinh Mão khí có 7 phân Giáp, 3 phân Dần là bình thường, sinh ra người hay tửu sắc, phiêu lưu, lười biếng, ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất. Nếu thấy thủy ở Hợi xung vào thì huyệt có nhiều bùn nước là họa bại 
17-Kỷ Mão khí ở chính Giáp long, Đinh tài đều phát đạt, ăn mặc phong lưu. Nếu thấy thủy ở Tốn xung vào thì có chuột bọ đục khoét hài cốt, con cháu đau buồn, không nghi hoặc gì nữa. 
18-Tân Mão khí có 5 phân Tân, 5 phân Mão là hắc phong, hỏa khanh sanh ra trộm cướp,ngành thứ 3 bị bại tuyệt trước, rồi đến cả các ngành khác; sau bị thưa kiện, xảy ra nhiều sự hung dữ. Nếu thấy thủy ở Canh Thân lại thì quan tài có đầy bùn ngập. Mộ này chậm không chịu di cải thì bị bại tuyệt không tránh khỏi. 
19-Quý Mão khí ở chính Mão long thì phú quý song toàn, sinh ra người thông minh, khỏe mạnh, mọi sự tăng tiến. Nếu thấy thủy ở  Tị phương xung vào thì có rễ cây đâm vào quan tài, lành dữ đều ứng vào các năm Tị, Dậu, Sửu 
20-Ất Mão khí, 3 phân ất, 7 phân Mão, hay sinh ra người cô quả, yểu tử, đời sau sinh ra người khòng lưng, khèo chân, tuy có người cũng khó giữ thân thế an toàn. Nếu thấy thủy ở phương Tuất xung vào thì trong huyệt có nhiều bùn nước nuôi cá tốt. 
21-Mậu Thìn khí, 7 phân ất, 3 phân Mão, thì được người trường thọ, giàu sang, danh giá nêu cao. Nếu thấy thủy ở phương Thân, Dậu xung vào thì trong quan tài có kiến, bọ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu 
22-Canh Thìn khí ở ngay ất long, thì an nhàn phát phúc vĩnh cửu vô cùng; 7 đời giàu sang, sanh ra người tuấn tú, anh hùng, siêu quần quán thế, ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi; chỉ sợ Đinh thủy xung vào thì sinh hỏa tai. 
23-Nhâm Thìn khí, 5 phân Thìn, 5 phân ất là hắc phong, hỏa khanh, bại tuyệt, hay què chân, sinh khẩu thiệt, thưa kiện, ly hương, tu đạo, biệt tông. Nếu thấy thủy ở phương Tuất lại thì quan tài có bùn, bọ, kiến ở trong. 
24-Giáp Thìn khí ở chính Thìn long thì 75 năm phát giàu sang thịnh vượng. Nếu thấy Tý, Quý thủy đến thì trong huyệt có bùn ngâm 
25-Bính Thìn khí, 7 phân Thìn, 3 phân Tốn, thì người ngoài được phát phúc no ấm, yên ổn, rước con rể vào phòng (rước họa vào nhà) đời sau bại tuyệt vô tử, ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy Dần, Thân thủy xung vào, thì bị rễ cây đâm vào quan, vong nhân bất an. 
26-Kỷ Tị khí, 7 phân Tốn, 3 phân Thìn thì phú quý ngang nhau, ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy phương Kiền thủy xung, thì thây cốt chôn bùn 
27-Quý Tị khí, 5 phân Tị, 5 phân Tốn là hắc phong, hỏa khanh thì bại tuyệt, bách sự hung dữ, sau khi táng 5 hoặc 7 năm thì già trẻ, lục súc tan như gió bay. Nếu thấy thủy ở phương Sửu đến xung thì có chột làm tổ ở trong huyệt. 
28-Ất Tị khí  ở chính Tị long,  được vinh hoa, phú quý, phúc lộc hưng long,  ứng vào những năm Dần, Ngọ, Tuất có nghiệm. Nếu Quý thủy xung vào thì quan tài có bùn đầy.
29-Đinh Tị khí, 7 phân Tị, 3 phân Bính, thì sau 3 hoặc 7 năm thì khẩu thiệt đều. Nếu thấy Mão thủy đến thì trong quan tài có bùn và nước ở ngoài xâm nhập 
30-Tân Tị khí ở chính Tốn long thì quá nguyệt là phát vinh hoa phú quý cho con cháu dòng họ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu; chỉ sợ là Ngọ Đinh thủy lại xung thôi 
31-Canh Ngọ khí, 7 phân Bính, 3 phân Tị thì nhân hưng tài vượng sẽ hẹn được đời đời tăng tiến hạnh phúc, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất; chỉ kỵ thủy ở Giáp Dần lại thì tổn Đinh. 
32-Nhâm Ngọ khí ở chính Bính long thì sinh xuất anh hung, phú quý song toàn, được 3 đời, sau cháu chắt vẫn còn thịnh vượng, ân hưởng bằng sắc huy chương. Kỵ thấy thủy  ở phương Thân lại thì hỏng. 
33-Giáp Ngọ khí, 5 phân Bính, 5 phân Ngọ là hỏa khanh, năm Tị, Dậu, Sửu gia trung bị bại khuynh. Lại thấy Đinh, Ngọ thủy lại thì đáy quan tài nát như bùn. 
34-Bính Ngọ khí ở chính Ngọ long thì gia nghiệp bình bình, sinh ra người thông minh, mọi mưu sự đều thành tốt lành; gặp vào các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy Sửu, Cấn thủy lại xung thì trong quan tài bùn nước vào thì hỏng. 
35-Khí Mậu Ngọ, 7 phân Ngọ, 3 phân Đinh thì quan tụng, khẩu thiệt rắc rối, người của bình thường, hằng năm hay sanh ra hoành sự bất ngờ. Nếu thấy thủy ở Quý, Tý xung thì ứng vào những năm Dần, Ngọ, Tuất không sai 
36-Tân Mùi khí, 7 phân Đinh, 3 phân Ngọ thì sinh người tuấn kiệt, phát phúc mạnh như sấm động, tiền nát, thóc mục đầy kho. Nếu thấy Ngọ phương thủy xung, thì quan tài bị rễ cây xuyên vào thì rất xấu. 
37-Quý Mùi khí ở chính Đinh long, thì sinh ra người phú quý, thọ khảo mộc đầu. Nếu thấy phương Canh thủy xung vào thì người chết về tai ách, ứng vào các năm Hợi, Mão, Mùi 
38-Ất Mùi khí, 5 phân Đinh, 5 phân Mùi là phạm cô hư, hỏa khanh thì bại tuyệt rất đau đớn. Lại thấy Tị phương thủy xung, thì thây xương nát rã thành đất bùn, ứng vào các năm Tị, Dậu Sửu. 
39-Đinh Mùi khí ở chính Mùi long thì gặp được phú quý song toàn, lâu dài, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn.  Còn gặp hung sự vào những năm Dần, Ngọ, Tuất. Nếu thấy Sửu, Cấn phương thủy xung vào thì bùn nước đầy trong quan tài là hỏng. 
40-Kỷ Mùi khí, 7 phân Mùi, 3 phân Khôn là phạm cô hư thì bị tai họa phá bại không sai. 
Đến hạn những năm Dần, Ngọ, Tuất thì sinh ra bệnh phong mê cuồng độc. Nếu thấy thủy ở phương Hợi, Nhâm xung vào thì nhi tôn có sự tai họa bất ngờ. 
41-Nhâm Thân khí, 7 phân Khôn, 3 phân Mùi thì phá gia tài, bại sản, bệnh tật, đau đớn 
liên miên đáng buồn khổ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu, thuốc thang khó điều trị. Nếu gặp thủy ở phương Ngọ xung thì quan tài có đầy nước. 
42-Giáp Thân khí ở chính Khôn long, được sinh ra người thông minh, tuấn tú, phú quý 
thanh nhàn, điềm ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn; đời đời vui vẻ vô cùng. Nếu thấy thủy phương Càn lưu xung thì quan tài bể nát làm hư thì hỏng bại .
43-Bính Thân khí, 5 phân Thân, 5 phân Khôn là hắc phong, hỏa khanh bị bại tuyệt bần cùng. Nếu thấy Tý, Quý thủy xung thì huyệt có bùn nước, thực không sai. 
44-Mậu Thân khí ở chính Thân long thì sinh ra người thông minh trường thọ, phú quý song toàn. Nếu thấy Giáp thủy xông vào thì quan tài đầy bùn nước, là tối hung. 
45-Canh Thân khí, 7 phân Thân, 3 phân Canh thì phạm cô hư, có nhiều tai nạn xảy ra. Lại thấy Kiền thủy lai xung, thì người bị về tai nạn áp bức chết. 
46-Quý Dậu khí, 7 phân Canh, 3 phân Thân được phát phú quý, người của vẹn toàn cả hai và sống lâu. Nếu thấy thủy phương Đinh xung vào thì huyệt trở thành ao ngâm nước quan tài, hài cốt hư nát. 
47-Đinh Dậu khí, 5 phân Canh, 5 phân Dậu là phạm hỏa khanh, thì bách sự bất như ý, bị tuyệt tự nhân Đinh. Nếu thấy Quý thủy xung vào thì quan tài đầy bùn nước mãi. 
48-Ất Dậu khí ở chính Khôn long sinh ra người rất thông minh và giàu sang. Nếu thấy thủy Thìn phương xung vào thì quan tài chôn chỗ nước bùn. 
49-Kỷ Dậu khí ở chính Dậu long, thì phát văn võ gần tới tước tam công (quan to) đời đời giàu sang, điềm ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy thủy phương Mão xung, thì áo quan cũng bị bùn vào, không kết phát đâu. 
50-Tân Dậu khí, 7 phân Dậu, 3 phân Tân thì giàu sang bền mãi, người của hưng vượng, mọi sự đều tốt lành, sẽ ứng vào các năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy Kiền thủy phương xung vào quan tài thì lại ưu sầu. 
51-Giáp Tuất khí, 7 phân Tân, 3 phân Dậu, được phát phú quý 1 đời không vẹn, qua đời sau sinh ra người đi làm tăng ni tu đạo; ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất, bị cô quả mà bại tuyệt, mọi sự buồn chán, lo âu. Nếu thấy thủy phương Nhâm xung vào thì sinh ra kỳ quái, ma quỷ trêu quậy. 
52-Bính Tuất khí ở chính Tân long thì sinh ra nhân Đinh phát đạt vui vẻ, đăng khoa cập đệ sớm, vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy Giáp Mão thủy xung, có rễ cây đâm xuyên vào quan tài. 
53-Mậu Tuất khí 5 phân Tuất, 5 phân Thân, phạm vào cô hư, hỏa khanh, bị bại tuyệt, 
người sinh nhiều bệnh tật, chết non, cô quả, vào chùa tu đạo, tổn vợ khắc con, quyết định không nghi hoặc, ứng vào các năm Ngọ, Mùi đã biết trước rồi, lại chịu nhiều tai họa kỳ dị. Nếu thấy thủy phương ở Thân xung thì quan tài hư nát không còn. 
54-Canh Tuất khí ở chính Tuất long, thì được giàu sang, sung sướng,ăn mặc phong lưu,những năm Tị, Dậu, Sửu thấy tin vui mừng, 36 năm sẽ sanh ra người thông minh xuất chúng. Nếu thấy Ngọ, Đinh thủy xung vào thì hung bại. 
55-Nhâm Tuất khí, 7 phân Tuất, 3 phân Kiền, sinh ra người chết non, không có của cải, Ly hương vào chùa tu đạo, tổn khê, khắc tử, bại phòng 2 (con thứ 2 bại), thoái bại không thể lo tính thoát khỏi.  Điềm  ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy thủy Thìn, Tuất phương xung thì trong quan tài có đầy bùn nước ngập.
56- Ất Hợi khí, 7 phân Kiền, 3 phân Tuất sinh ra con dâu quả phụ, chết non, bệnh tật 
phong tàn đủ cảnh thảm thương, con mồ côi. Năm Dần, Ngọ, Tuất thì phát khốc đau buồn. Nếu thấy thủy ở cung Khôn xung thì trong quan tài đầy mối kiến đục gặm. 
57-Đinh Hợi khí ở chính Kiền long thì đại phát phú quý, được nhiều sự cát khánh, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn; chỉ sợ Tốn thủy phương xung thì quan tài đầy bùn nước mục nát,tối hung. 
58-Tân Hợi khí ở chính Hợi long, thì Đinh tài đều phát, lâu bền thịnh vượng. Nếu thấy Ngọ, Đinh thủy xung thì bùn vào quan tài mục nát, đại hung, tối kỵ. 
59-Kỷ Hợi khí, 5 phân Kiền, 5 phân Hợi là phạm hắc long hỏa khanh, sinh ra hung bại, đến những năm Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất người ly tán tha phương, đa sinh kỳ quái. Nếu thấy Canh, Dậu thủy xung, thì rễ cây xuyên đâm vào quan tài thì hung bại. 
60-Quý Hợi khí, 7 phân Hợi, 3 phân Nhâm, được làm quan, phát mọi sự, phong hanh, người của được thịnh vượng, sẽ ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn có nhiều cảnh vui đẹp. Nếu thấy Thìn thủy xung thì trong quan tài không sạch sẽ. 
3. NHỊ THẬP TỨ SƠN 

HỎA KHANH THÂN ĐOÁN 

Mậu Tý, Giáp Ngọ khí nan đương (khí ác khó chịu) 

Âm dương sai thác, thị (là) không vong 

Hốt thính sư nhân chân khẩu quyết (tức là phép truyền khẩu) 

Lập trạch (nhà) an phận (mả) kiên Tốn thương 

Thân, Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất (ứng vào 6 năm này) 

Tật bịnh quang tai (thưa kiện) tổn nhị phòng (con thứ 2) 

Quan tặc khiên liên (kéo dài) phòng phòng chiêm (cả các con) 

Nê thủy nhập mộ (mộ) bất phi thường (độc lắm). 

   ****** 

Kỷ Sửu, Ất Mùi, khí hung bạo (dữ tợn) 

Kỳ trung hỏa khanh, tối bất lương 

Tị, Dậu, Sửu niên, Hợi, Mão, Mùi (ứng vào 6 năm)  

Tật bịnh quang tai, thoái điền trang 

Bạch nghĩ (môi trắng) biện tòng đế hạ (dưới đáy) nhập 

Tổn thê, khắc tử, tại tam phòng (con thứ 3) 

Thử phân (mộ này) nhược hoàn (nên còn) bất cải dĩ 

Tử tôn tháp tự (giống như) ngõa thượng sương (tuyết) 

   Canh Dần, Bính Thân, khí bất lương 

   Lập trạch, an phân, tổn trưởng phòng 

    Thân, Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất 

   Tổn thê, khắc tử tối nan đường 

   Tật bịnh quang tai, phòng phòng chiếm (lẫn cả cho con) 

   Thủy, hỏa, khiên liên tổn ấu phòng (con trẻ nhỏ) 

   Bạch nghĩ tiên tòng, để hạ nhập 

   Điền trang thoái bại, thủ không phòng (nghĩa là kiến, mối,… dưới đáy quan mà 

vào khoét, thì ruộng nương tan hết, giữa buồng rỗng tuếch) 

   Tân Mão, Đinh Dậu bãi vi cường (chẳng phải mạnh) 

   Lập trạch, an phân, tổn nhị phòng 

   Hợi, Mão, Mùi niên, Tị, Dậu, Sửu 

   Tật bịnh, quang tai, tổn tam phòng 

   Thủy, hỏa Khôn liên, đa hoành sự 

    Nhân Thân liên lụy, phòng phòng đương (cả các con) 

 Nhâm Thìn, Quý Tị khí như thương (mũi nhọn) 

 Lập trạch, an phân tổn tam phòng 

 Thân. Tý, Thìn niên, Dần, Ngọ, Tuất 

 Tật bịnh, quang tai, tổn tiểu phòng (con út) 

 Hậu đại nhi tôn, đa tăng đạo 

 Tổn thê, khắc tử, bất an khang. 

  ****** 

 Mậu Tuất, Kỷ Hợi thị không vong 

 Lập trạch, an phân tổn trưởng phòng 

 Tị, Dậu, Sửu niên, Hợi, Mão, Mùi 

 Tật bịnh, quan tai, tổn tiểu phòng 

 Thủy, hỏa khiên liên, xuất ngoại tử (chết) 

Điên địa, nhân tài, như tuyết sương 

 Bạch nghĩ tiên tòng, để hạ nhập 

 Nhi tôn ngỗ nghịch, tẩu tha hương. 

Tiên Thánh nói:  ở dưới chỗ huyệt ngồi mà không  được là chân khí mạch, thì dầu có muôn tầng núi trùng Trùng, điệp điệp ở trước mặt cũng coi như là không có gì cả. 

Chỗ đặt mộ mà được long mạch tốt đẹp hoàn toàn, thì dù có ít sơn sa, cũng có thể phát phú quý được, chính là bảo vệ lý khí ở bài trên đây. 

Bính Tý, Canh Tý 2 vòng này là châu bảo, đó là “Tầng thừa sinh khí” là được cái linh khí của núi sông. Vậy lấy là cái tốt hàng đầu của 36 vòng La kinh. 

 THẤU ĐỊA LỤC THẬP LONG THỨC .


Bên dưới mỗi chữ về thấu địa có ghi rõ chữ số tam (3), thất (7), ngũ (5), và chữ chính, 

làm 1 vòng đến chữ thiên chính, đã bày ở tầng thứ 14. 

Đặt táng vào hỏa khanh, thì huyệt sẽ có mối, kiến, rễ cây và bùn nước chiếm ngâm nát 

hài cốt, đất trên mả khô khan, cây cỏ héo hon như phân trâu, bò, con cháu sinh dâm loạn, yểu vong, cô quả, sinh ra người ngỗ nghịch, điên cuồng, người hết, của hao, tai họa, kiện cáo liên miên v.v… 

Đặt táng vào huyệt châu bảo, mở xem hẳn là thấy có sinh khí ôn nhuận, đất có ngũ sắc vân như hồng hoàng, sáng sủa, lại có tơ hồng, dây tía phủ quấn quan tài, hài cốt. Đất trên mộ thì có khí mát, ẩm dịu, cây cỏ xanh tươi tốt. Vậy sinh ra phú quý không sai. 


4/ TẦNG THỨ 14:  THẤU ĐỊA KỲ MÔN ? 

TỬ PHỤ, TÀI QUAN, LỘC MÃ QUÝ NHÂN 

 BÀI CA NGŨ NGÔN: TIÊN NGÔN XUYÊN SƠN HỔ 

   Phương hành thấu địa long 

   Hỗn thiên khai bảo chiếu 

   Kim thủy nhật, nguyệt phùng 

Nghĩa là: Trước hết nói xuyên sơn hổ, rồi đi đến thấu địa long, tự nhiên trời mở sáng như bảo kính soi, thì kim, thủy, nhật, nguyệt gặp nhau. “Xuyên sơn hổ” là tiếp mạch của 72 long, “tiên thức” là xét cái lai mạch trước để biết nhập thủ là long gì ? Không nói là long mà nói là hổ, đó là ý nghĩa của phép dùng “ngũ hổ” làm nguyên độn để ứng khí hậu, “phương hành” là đã biết long nhập thủ rồi, thì sau mới có thể làm việc thừa khí, tọa huyệt được, “thấu địa” tức là 60 long của tọa huyệt, với 72 long là cái bên trong, cái ở ngoài, nên bảo là “tương biểu lý”, thâu: là như dùng cái ống thổi khói, để khí thông vào huyệt, “xuyên” là như dùng sợi chỉ để xỏ vào lỗ kim, để được suốt tới; “hỗn thiên” là cái hỗn thiên lục Giáp dùng làm độn khởi, để tìm cái sa thủy của tứ cát, tam kỳ, “bảo chiếu” là như cái gương sáng, soi vào vật đó, có thể thấy đủ cả tứ cát tinh của hỗn thiên di chuyển “kim, thủy; nhật, nguyệt” là 4 cấm tinh này hội hợp 1 chỗ, lấy đó làm tác dụng, để thu sa, thủy, lai long của bản ở tọa huyệt hợp với tầng thứ 5 của la bàn, cùng luật lệ; trước hết theo thời tiết của 6 Giáp, định ra 3 thời hậu: thượng, trung, hạ, sau khi đã chia ra 9 cung dùng để độn Giáp, xem khởi Giáp Tý ở cung nào, sau đó mới đặt ra quẻ độn, biết quẻ đầu ở đâu, bản long tới chỗ nào, tử, phụ, tài, quan nhân đó mà suy đoán. Nhật, nguyệt, kim, thủy theo đó mà hội. Tam kỳ bát môn theo đó mà suy ra, thì biết hết sự của tinh độ nội quái. 

DƯƠNG ĐỘN KHỞI TIẾT CA 

   Đông chí, kinh chập, nhất thất tứ 

   Tiểu hàn, nhị bát ngũ vi thứ 

   Đại hàn, xuân phân, tam cửu lục 

   Lập xuân, bát ngũ nhị tương trục 

    Thanh minh lập hạ, tứ nhất thất 

   Ngũ thủy, cửu lục tam vô thất 

   Tiểu mãn, cốc vũ ngũ nhị bát 

   Nang chủng, lục tam cửu số chi 

Nghĩa là: Thuộc về tiết đông chí và kinh chập thì khởi ở số 1, 7, 4. Tiết tiểu hàn thì khởi ở số 2, 8, 5. Tiết đại hàn và xuân phân thì khởi ở số 3, 9, 6. Tiết lập xuân thì khởi ở số 8, 5, 2. Tiết thanh minh và lập hạ thì khởi ở số 4, 1, 7. Tiết ngũ quỷ thì khởi số 9, 6, 3. Tiết tiểu mãn và cọc vũ thì khởi ở số 5, 2, 8. Tiết mang chủng thì khởi ở số 6, 3, 9.

         ÂM ĐỘN KHỞI TIẾT CA 

   Hạ chí, bạch lộ, cửu tam lục 

   Đại tuyệt, tứ thất, nhất cung trú 

   Đại thử, thu phân, thất nhất thứ 

   Tiểu thử bát nhị ngũ trung xuy 

   Lập đông, hàn lộ, lục tam cửu 

   Lập cung, nhị ngũ, bát cung tham 

   Tiểu hàn sương giáng, ngũ bát nhị. 

   Sứ thử nhất tứ thất nội hàm 

Nghĩa là: Tiết hạ chí, bạch lộ ở số 9, 6, 3. Tiết đại hàn ở số 7, 1, 4. Tiết đại tuyết bạch lộ ở số 4, 7, 1. Tiết tiểu thử ở số 8, 2, 5. Tiết lập đông hàn lộ ở số 6, 3, 9. Tiết lập thu ở số 2, 5, 8. Tiết tiểu hàn sương giáng ở số 5, 8, 2. Tiết sử thử ở số 1, 4, 7.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *