Văn Khúc – can Kỷ hóa thành sao Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa
Kị mà bị trắc trở.

      Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn
nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

      Văn
khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà
gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn
thất.

      Văn khúc thường thường còn biểu
trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra
hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu
trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác
giới.

      Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị
thì lại không có liên quan về phương diện tài
năng.

      Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ,
Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói
lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ
trích.

      Văn khúc còn mang sác thái kim
tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định,
như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều
có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa
Kị.

      Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình
huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây
lụy.

      Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi
vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà
không gặp thời.

      Trên là thuật những nguyên tắc cơ
bản, cần xem xét thêm các sao hội hợp mà định tình huống cụ thể.
      Tính chất của Thiên Đồng cơ bản là miêu tả
về tâm trạng, cho nên lúc hóa thành sao Kị, ý nghĩa phổ biến là “tâm trạng không
ổn định”, nếu Thiên đồng nhập miếu thì càng đúng, vì vậy không phải là tai
vạ.

      Thiên Đồng chủ về tay trắng làm nên, ý vị mở rộng
là trung niên ắt sẽ có một khoảng thời gian gian khổ, sau khi Thiên Đồng hóa Kị
sẽ làm mạnh thêm ý vị này. Do đó, thường thường biểu trưng cho tuổi trẻ có gia
cảnh không tệ, đột nhiên mọi thứ thay đổi, thế là phải sống độc lập, trải qua
gian khổ của cuộc đời.

      Thiên Đồng còn là sao “tình
cảm”, sau khi Hóa Kị thường chủ về xảy ra tình huống rắc rối khó xử về “tình
cảm”, có tình yêu không bình thường nên đau khổ vì tình, trong tình cảnh này
mệnh tạo thường thường khó tự động đứng lên, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự
nghiệp.

      Thiên Đồng hóa Kị ở cung lạc hãm, đây là tâm
trạng không yên, tinh thần xuống thấp (suy sụp), do đó không có cách nào chuyên
tâm phát triển sự nghiệp. Thường thường còn biểu trưng cho “Lý tưởng vượt quá
hiện thực”, vì vậy mà đời người theo đuổi “lý tưởng” rất lao khổ. Nếu có các sao
Sát – Hình trùng trùng, thì tâm lý bị mất quân bình, trở thành đa nghi mà chịu
nhiều lo lắng.

      Thiên Đồng hóa thành sao Kị thường
thường biểu trưng cho hội chứng “suy nhược thần kinh”, cũng tức là nói “âm hư”,
“khí hư” mà cổ nhân đã nói.

      “Thiên đồng
Thái âm” đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn gặp Lộc tồn), Thiên Đồng
hóa Kị, tam phương hội hợp với “Thiên cơ Thiên lương”, và mượn “Thái dương Cự
môn” để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.

      Thiên Đồng ở
cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kị quấy
rối.

      “Thiên đồng Thái âm” ở cung Ngọ đều bị lạc hãm,
khi Thiên Đồng hóa Kị thường biểu trưng cho lo nghĩ nghi ngờ không có căn cứ, có
thể dẫn đến hội chứng “suy nhược thần kinh”, lại còn tự chuốc lấy rắc rối về
tình cảm, dẫn đến xảy ra những phiền phức không cần
thiết.

      Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm,
trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.

      Bất kể là nam
mệnh hay nữ mệnh gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho kiếm tiền không thuận lợi,
có lúc còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến những trắc trở không cần thiết,
nhưng tài lộc vẫn không lo bị
thiếu.

      “Thiên đồng Cự
môn” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì đồng độ với Đà la, ở cung
Sửu thì bị Kình dương Đà la hội chiếu), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp
với Thiên Cơ độc tọa, và “Thái dương Thiên lương” mà Thái Dương hóa
Lộc.

      Thiên Đồng ở hai cung này là lạc hãm, lúc Hóa Kị
rất dễ gây ra sóng gió, trắc trở, và rắc rối khó xử trong tình cảm, do đó dẫn
đến “điều tiếng thị phi”. Còn chủ về dễ mắc chứng viêm đau thần kinh, như thoái
hóa đốt sống làm đau dây thần kinh. Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là dễ bị
“trúng phong”, thậm chí có thể “bán thân bất toại”.

     
Do có tinh hệ “Thái dương Thiên lương” hội hợp, mà Thái Dương hóa Lộc, vì vậy
cũng thích hợp nghiên cứu học thuật. Thiên Đồng hóa Kị càng biểu trưng cho tâm
tư lo nghĩ lúc nghiên cứu, nhưng vẫn cần chú ý sức
khỏe.

      “Thiên đồng Thiên lương” đồng độ ở
hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây
chiếu, tam phương hội hợp với thái âm độc tọa và Thiên Cơ độc
tọa. 

      Nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không,
Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ về mệnh tạo tay trắng kiếm tiền, nhưng phải hao tổn
tinh thần. Nếu có Sát tinh, thì biểu trưng cho tâm trạng không yên một nghề,
không chuyên nhất theo một ngành nghề mà thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng
đến sự ổn định của cuộc sống.

      Đặc biệt là lúc có Địa
không, Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư tưởng của mệnh tạo, do đó xử sự
không hòa hợp. Thiên đồng ở cung Thân là cung vượng, tốt hơn ở cung
Dần.

      Thiên Đồng độc
tọa hóa Kị ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì đồng độ với Kình dương, ở
cung Mão thì bị Kinh dương Đà la chiếu xạ), đối cung là Thái Âm độc tọa, tam
phương hội hợp với Cự môn độc tọa và Thiên Cơ độc
tọa.

      Đây cũng là tinh hệ nhiều lo nghĩ, nghi ngờ, nên
cũng chủ về có khuynh hướng “suy nhược thần kinh”. Kiếm tiền phải hao tổn tinh
thần, sự nghiệp nhiều biến động thay đổi, là đặc điểm của tinh hệ
này.

      Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ chuốc “đố kị”,
“điều tiếng thị phi”, thường thường là do mệnh tạo cố tránh “điều tiếng thị phi”
mà ra, đúng với câu nói “càng sợ thì càng gặp nhiều”. Nhưng Thiên Đồng ở cung
Mão là nhập miếu, chỉ chủ về có tâm trạng không ổn định, ưu hơn ở cung
Dậu.

      Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung
Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được hội Lộc tồn), đối cung là Cự Môn, tam phương
hội hợp với Thiên Lương độc tọa và “Thái âm Thiên cơ”

     
Hai cung Thìn và Tuất là “Thiên la Địa võng”, lúc Thiên Đồng hóa Kị sẽ biến
thành lực kích phát, do đó thường là cách “phản bối”, có thể không thành cách
“phản bối” nhưng cũng chủ về nhờ trải qua nhiều biến động thay đổi mà thành
người hữu dụng.

      Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, biến
động thay đổi trong đời người cũng ít hơn, biên độ biến động thay đổi cũng nhỏ
hơn. Hơn nữa thường lại được phát triển một cách thiết thực, và dễ gặp cơ hội
phát đạt đột ngột, có ý vị “vô tình cắm liễu, liễu xanh
um”.

      Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần
kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ
hơn.

      Thiên Đồng độc
tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp
với “Thiên cơ Cự môn”, và mượn “Thái dương Thái âm” nhập cung mà Thái Dương hóa
Lộc. Tinh hệ này “tam phương tứ chính” đều gặp Kình dương hoặc Đà
la.

      Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi là nhập miếu,
Hóa Kị chỉ làm tăng “tâm trạng không ổn định”.

      Nhưng
có lúc “tâm trạng không ổn định” này, có thể chuyển biến thành bất mãn với người
phối ngẫu. Nữ mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà xảy ra sự cố, gây nên sóng
gió trắc trở trong đời sống tình cảm và hôn nhân. Nếu có các sao đào hoa trùng
trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu không sau khi kết hôn dễ thay đổi tình
cảm.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *