Văn xương và Văn khúc – Toàn thư

Văn xương và Văn khúc – Toàn thư
Văn Xương

      Thuộc tính ngũ hành của
Văn Xương là dương kim, là trợ tinh của chòm
Trung Thiên Đẩu, hóa khí là Văn Khôi chủ về khoa giáp. Sao Văn xương cùng với
Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt được gọi chung là 6 cát tinh.
Sở dĩ chúng trở thành cát tinh, vì chúng đều có khả năng trợ giúp phò tá, nếu
gặp được cách tốt hoặc chủ tinh miếu vượng, chẳng khác gì hổ thêm cánh, sẽ được
tăng cường thêm khí thế và thêm phát triển. Nếu gặp phải các sao lạc hãm, 6 cát
tinh này sẽ đem lại tác dụng trợ giúp đắc lực. Sáu Cát tinh có khả năng chống
trọi với sáu Sát tinh Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, có thể dung hòa được hung
tính của sát tinh, thậm chí có thể dẫn dắt chúng được phát triển theo chiều
hướng tốt. 

      Sao Văn xương chủ
về khoa giáp, sẽ có thành tựu lớn về nghiệp văn, nhưng phải có công mài sắt mới
có ngày nên kim, cần phải cần cù khổ luyện mới có được thành tựu. Sao Văn xương
hợp nhất với sao Hóa Khoa (năm Bính Văn xương hóa Khoa), nếu gặp Hóa Khoa
miếu vượng thì tài năng trong lĩnh vực văn nghệ và học thuật càng được bộc lộ rõ
nét. Sao Văn xương nếu gặp gỡ các sao Thái dương, Thiên lương, Lộc tồn tại các
cung vị tam phương tứ chính, sẽ tạo thành cách Dương Lương Xương Lộc chủ
về tiền tài danh vọng song toàn, tham gia các kỳ thi quan trọng của nhà nước
chắc chắn sẽ thi đỗ.

      Sao Văn xương
nhập cung miếu vượng sẽ có tài hoa trong lĩnh vực văn nghệ. Nếu văn xương lạc
hãm thì tài hoa khó được bộc lộ. Nếu Văn xương lạc hãm lại gặp Hóa Kị (năm
Tân văn xương hóa Kị
) chủ về thành tích học tập không tốt, có chí cũng khó
thành tựu, thường xuyên thi trượt, thậm chí còn thất học, khiến cho nảy sinh tâm
lý bi quan và chán nản. Tiểu hạn, lưu niên nếu gặp phải sao Hóa Kị Văn xương lạc
hãm, cần phải chú ý những sơ xuất về văn thư đơn từ, nếu không dễ vướng mắc vào
kiện tụng. Học sinh cần chú ý đến thành tích học
tập.

      Sao Văn xương lạc
hãm lại gặp 4 sát tinh Kình Đà Hỏa Linh, chủ về khôn vặt, thích tranh luận với
người khác để khoe tài ăn nói, có thể kiếm sống bằng tài nghệ đặc thù này. Sao
Văn xương là sao Văn, sao Vũ khúc là sao Võ, Văn xương gặp Vũ khúc là người văn
võ song toàn.

      Văn Xương chủ
khoa giáp      Văn xương chủ khoa giáp

 
    Thìn Tị thị vượng địa               Thìn Tị là vượng
cung

      Lợi Ngọ hiềm Mão Dậu      
     Ưa Ngọ ghét Mão Dậu

 
    Hỏa sinh nhân bất lợi              Sinh năm Hỏa là
hung

      Mi mục định phân minh    
      Mặt mũi chừng sáng sủa

 
    Tướng mạo cực tuần lệ           Dung mạo đẹp vô
cùng

      Hỷ vu kim thủy nhân      
         Người kim thủy ưa gặp

 
    Quan quý song toàn mỹ           Giầu sang được trọn
lành

      Tiên nan nhi hậu dị      
           Trước khổ sau thành tựu

 
    Trung vãn hữu thanh danh      Trung niên có công
danh

      Thái dương ấm phúc tập    
    Thái dương nhiều phúc ấm

 
    Truyền lô đệ nhất danh            Đề danh tại bảng
vàng.  

      Văn
Khúc

      Thuộc tính ngũ hành
của Văn khúc là âm thủy, là trợ tinh của chòm Bắc đẩu, hóa khí là ăn nói
hùng biện (thiệt biện), chủ về khoa giáp, thiên về các lĩnh vực tài ăn
nói, triết học, tướng mệnh, ca hát văn nghệ, là một trong sáu Cát tinh. Sao Văn
khúc nếu đóng ở cung Thân cung Mệnh chủ về đào hoa, trên thân người thường có
dấu vết lạ, tính cách thông minh lanh lợi, có tài ăn nói hung biện, cá tính có
phần cô độc, nhưng lại rất có tài nghệ trong lĩnh vực biểu
diễn.

      Sao Văn khúc tốt
nhất nên đống ở những cung vị miếu vượng và nằm cùng với sao Lộc tồn. Nếu tại
cung vị tam phương tứ chính có sao Văn xương hội và chiếu, sẽ hình thành cách
Lộc Văn củng mệnh chủ về phú quý, được tài nhờ văn chương, có biểu hiện
xuất sắc về mặt tài nghệ. Nếu không gặp sát tinh, sẽ trở thành người giầu có nổi
tiếng.

      Sao Văn khúc cũng
hợp với Hóa Khoa, vì có thể tăng cường tài hùng biện và tài năng trong các lĩnh
vực nghệ thuật như âm nhạc. Nhưng nếu Văn khúc lạc hãm, thì tài năng nghệ thuật
sẽ rất khó được phát huy. Văn khúc thuộc âm thủy nên có mang tính đào hoa, lại
là sao giờ (được xác định theo giờ sinh), nên mang đậm tính cách phong
lưu đa tình, hay thay đổi không chung thủy. Nếu Văn khúc lạc hãm lại gặp Hóa Kị
sẽ chủ về tài năng nghệ thuật khó phát huy, dễ gặp rắc rối trắc trở trên các
phương diện tình cảm, tiền tài, ăn nói. Nếu lại gặp Liêm trinh, Hỏa tinh, Linh
tinh dễ vì tiền của làm lỡ thời cơ. Nếu gặp các sao đào hoa như Hồng loan, Thiên
hỷ, Hàm trì, Thiên diêu thì đường tình duyên càng thêm bất lợi, thường gặp
chuyện đau buồn bất hạnh.

      Sao Văn khúc cũng
ưa thích nằm đồng cung với Vũ khúc, nếu nằm đồng cung tại Hợi địa chủ về học vấn
uyên bác. Nếu Văn khúc Vũ khúc đồng độ tại Tuất địa thì có thể giảm bớt tính
cách cô độc và đào hoa của sao Văn khúc.

      Sao Văn khúc là
sao Văn chủ về tài hùng biện, bởi vậy không nên đồng cung với sao Cự môn vốn chủ
về miệng lưỡi thị phi, nếu ở mệnh nữ lại càng bất lợi, chủ về trắc trở trong
đường tình duyên. Nếu sao Văn khúc đứng một mình tại Tuất địa, tại tam phương
hội với hai sao Thái dương và Cự môn, sẽ tạo thành cách Đào hoa cổn lãng
(Hoa đào dào dạt), dù ở mệnh nam hay mệnh nữ đều chủ về đào hoa cực thịnh, như
sóng biển hết cơn này đến cơn khác ập đến, nên đường tình duyên vô cùng trắc
trở, phong ba dồn dập.   

                       Vũ khúc hóa Khoa không chủ về “khoa danh”
(có danh tiếng trong khoa cử), khác với Hóa Khoa của Văn xương và Văn khúc. Khi
Vũ khúc hóa Khoa chỉ chủ về có danh tiếng giới hạn trong một ngành nghề, hoặc
trong một phạm vi nhất định, chưa chắc được đại chúng trong xã hội biết
đến.


      Cho nên Vũ khúc hóa Khoa không có ý vị được
tuyên dương rộng rãi. Hơn nữa, một khi tuyên dương rộng rãi, sẽ dễ bị ở vào vị
trí lúng túng, gượng gạo, khó xử, như bị người ta đả kích, đố kị, .v.v… Nữ
mệnh càng dễ bị rắc rối về tình cảm, thường bị người đã có gia đình theo
đuổi.

      Ưu điểm lớn nhất của Vũ khúc hóa Khoa là làm
tăng năng lực quyết đoán theo hướng tốt, chẳng bị rơi vào tình trạng võ đoán
hoặc suy nghĩ nông cạn.

      Tinh
hệ “Vũ khúc Thiên phủ” thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Khoa, đối
cung là Thất sát, tam phương hội hợp với Liêm trinh độc tọa hóa Lộc ở cung Tài,
và “Tử vi Thiên tướng” ở cung Quan. “Vũ khúc Thiên phủ” ở cung Ngọ còn gặp Lộc
tồn, nên ở cung Ngọ có lợi hơn ở cung Tý.

      Nhóm tinh
hệ này rất ưa gặp sao Lộc, được “Khoa Lộc” là kết cấu tinh hệ tốt lành. Trong
các tình hình thông thường, chủ về xử lý công việc thuận lợi, thích hợp với
ngành nghề kinh tế tài chính, dễ được ngân hàng tín nhiệm, còn có biểu hiện tốt
trong nghề nghiệp.

      Do Liêm trinh hóa Lộc hội chiếu,
nếu gặp các sao đào hoa, cũng chủ về dễ chuốc rắc rối khó xử về tình
cảm.

      Tinh hệ “Vũ khúc Tham lang” thủ Mệnh ở
hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Khoa, đồng thời còn gặp Kình dương Đà la
hoặc có Kình dương đồng độ. Tam phương hội hợp có “Liêm trinh Phá quân” ở cung
Tài chia ra một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền, và hội cung Quan có “Tử vi Thất
sát” là kết cấu sao quyền lực.

      Tinh hệ có kết cấu sao
kiểu này, có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ thì mới phát huy được đặc tính của “Vũ
khúc Tham lang” có thể phát đột ngột. Nếu không thành cách “Hỏa Tham” hay “Linh
Tham”, thì đây là cách “Lộc Quyền Khoa hội” chủ về phát vượt lên nhưng không có
ý vị phát đột ngột, mà là phát lâu dài.

      Ở đại hạn
hoặc lưu niên mà gặp nhóm sao này, cũng là vận tốt, nhưng nên tránh bất hòa với
thượng cấp và bậc trưởng bối, thường làm cho thượng cấp đố kị tài
năng.

      Tinh hệ “Vũ khúc Thiên
tướng” thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Khoa ắt có Lộc tồn hội
hợp hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp có “Liêm trinh Thiên phủ” mà Liêm trinh
hóa Lộc ở cung Tài, và Tử vi độc tọa ở cung Quan, đối cung Thiên Di có Phá quân
hóa Quyền.

      Nhóm sao này cũng là kết cấu “Lộc Khoa
Quyền hội cách”, do Tử vi ở cung Quan nên rất dễ ở địa vị lãnh đạo và có danh
tiếng, cũng thích hợp tự mình phát triển kinh doanh. Có điều lúc đồng độ với Lộc
tồn, ắt sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, do đó không nên phát triển riêng
một cách độc lập quá sớm, nếu không sẽ dễ bị phá tán, thất
bại.

      Nhóm sao này thường thường cũng thành kết cấu
thích hợp làm việc trong chính giới, lúc đó càn phải gặp các sao Phụ diệu, Tá
diệu, nhưng lại không nên ở địa vị lãnh đạo. Ảnh hưởng của Phá quân hóa Quyền ở
đối cung Thiên Di, chỉ chủ về có thể nắm thực quyền.

     
Đại hạn hoặc lưu niên rất ưa gặp nhóm tinh hệ này, chủ về bỏ cũ đổi mới, gặp cơ
hội tốt.

      Tinh hệ “Vũ khúc Thất sát” thủ
Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Khoa tuy sẽ gặp Kình dương Đà la
hoặc đồng độ với Kình dương, nhưng đồng thời cũng sẽ hội với “Tử vi Phá quân” mà
Phá quân hóa Quyền ở cung Quan, và “Liêm trinh Tham lang” mà Liêm trinh hóa Lộc
ở cung Tài. Không những thành kết cấu “Lộc Quyền Hoa hội” tốt lành, mà còn là
cách “cương nhu” phối hợp thích đáng.

      Chỉ có một
khuyết điểm bất lợi về Cha , chủ về không được “phụ ấm” (cha che trở), hoặc chủ
về hai cha con gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, nhưng cũng chính vì vậy mà
“kích phát” năng lực khai sáng sự nghiệp. Thích hợp với những ngành nghề như
kinh tế tài chính, giải trí, vui chơi, nghệ thuật, .v.v… nhất là những ngành
nghề giầu tính cạnh tranh.

      Đại hạn hoặc lưu niên gặp
nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về có tính sáng tạo, càng có cạnh tranh càng có
lợi.

      Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh
hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp có
“Tử vi Thiên phủ” ở cung Quan, và “Liêm trinh Thiên tướng” mà Liêm trinh hóa Lộc
ở cung Tài, Vũ khúc ở cung Tuất còn được gặp Lộc tồn.

     
Nhóm tinh hệ này cũng là kết cấu “Khoa Lộc” tương hội, nhưng trừ phi thành cách
“Hỏa Tham” hay “Linh Tham”, nếu không sẽ rất ngại bản thân “Tử vi Thiên phủ” ở
cung Sự nghiệp có mâu thuẫn, cung Tài “Liêm trinh Thiên tướng” có ý vị bị động,
tuy nhờ Vũ khúc hóa Khoa cũng chỉ chủ về được người ta trọng dụng nhất thời, mà
không có trợ lực thực tế.

      Nếu Vũ khúc hóa Khoa có Hỏa
tinh Linh tinh đồng độ cũng chủ về phát đột ngột, nhưng không lớn bằng “Hỏa
Tham” hay “Linh Tham”, mà còn dễ bị phá tán thất
bại.

      Tinh hệ “Vũ khúc Phá
quân” thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Vũ khúc hóa Khoa mà Phá quân đồng thời
hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật “Phá quân hóa
Quyền”.

      Tử vi rất ưa hóa Khoa, bởi vì đối với Đế
tinh, nhiều lúc danh dự còn quan trọng hơn quyền lực. Sau khi hóa Khoa, Tử vi có
thể cải thiện một số khuyết điểm, như cố chấp, độc đoán, yêu ghét tùy ý,
.v.v…

      Tử vi sau khi hóa Khoa chủ về tăng danh vọng
ở phạm vi khá rộng, còn có sắc thái công chúng, hơn xa Vũ khúc hóa Khoa chỉ có
tính cục bộ.

      Chỉ cần không phải là “tại dã cô quân”,
sức ảnh hưởng của Tử vi hóa Khoa thường có tính quyền uy, dễ là được người khác
tin phục.

      Tử vi vốn có đặc tính “lấy tai làm mắt”, ưa
nghe lời xiểm nịnh, nhưng sau khi hóa Khoa, có thể phân biệt rõ thị phi, có điều
khi xử sự vẫn có phong cách cá nhân mạnh mẽ.

      Tử vi
sau khi hóa Khoa, dù không có Xương Khúc hội hợp, cũng chủ về dễ tiếp thu tri
thức, và có thể biểu đạt ý nghĩa ý nghĩa hiểu biết của mình. Cho nên nó ở trong
số  “sao Khoa” có tính chất khá thiết thực và tốt
lành.

      Tử vi hóa Khoa nếu còn được các sao Phụ diệu,
Tá diệu, thì thích hợp làm việc trong chính giới, cổ nhân gọi là “nho thần”, ắt
sẽ có địa vị rất cao. Nếu gặp Sát tinh, thì chỉ có thể biểu hiện trong phạm vi
cục bộ.

      Nhưng phàm là Tử vi hóa Khoa, thì vất kể là
có kết cấu tinh hệ nào, cũng đều dễ chuốc đố kị, chỉ không bị tổn thương mà
thôi.

      Tử vi độc tọa
thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Tham
lang ở đối cung, tam phương hội cung có “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung Quan, và
hội cung Tài với tinh hệ “Vũ khúc Thiên tướng”.

      Tử vi
độc tọa vốn đã mang ý vị độc lập, chỉ có hóa Khoa, mà không có sao Cát hóa khác
hội chiếu, còn không gặp Lộc tồn, nên chỉ chủ về có năng lực suy nghĩ độc lập,
mà lại còn khéo phát huy phong cách cá nhân. Nói về cảnh ngộ đời người, dễ được
người khác ủng hộ (ở cung Ngọ ưu hơn cung Tý, vì ngại Thái âm hóa Kị ở cung Tị
là cung Giao hữu), nhưng vẫn là tổ hợp chủ về “danh lớn hơn lợi” chẳng túng
thiếu, nhưng cũng không dư giả.

      So đặc tính của hai
cung Tý hoặc Ngọ, người ở cung Tý thì “tinh” (chuyên sâu), còn người ở cung Ngọ
thì “bác” (uyên bác).

      Ở đại hạn hoặc lưu niên thì
không có tính chất đã thuật ở trên, nhưng lại thường là điềm tượng có cơ hội thể
hiện bản thân.

      Tinh hệ “Tử vi Phá quân” thủ
Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thiên tướng, tam
phương hội cung có “Vũ khúc Thất sát” ở cung Tài ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc
vây chiếu, và hội cung Quan là tinh hệ “Liêm trinh Tham
lang”.

      Tử vi hóa Khoa của nhóm tinh hệ này chủ yếu
làm mạnh thêm thanh thế của Phá quân, đồng thời còn có ý vị, vì tuy là cầu danh
tiếng mà chủ động thay đổi. Nếu có Cát tinh hội hợp thì vì Danh mà thay đổi, sau
khi thay đổi thì danh tiếng càng lớn, do đó lại cầu thay đổi tiếp. Thế là đương
số không ngừng theo đuổi, không ngừng biến đổi, đời người tuy khó tránh vất vả,
khổ lụy, nhưng bản thân đương số lại cảm thấy vẻ vang và thỏa
mãn.

      Nếu trong lúc đang thay đổi, bỗng nhiên họ dừng
bước, thì trái lại, sẽ dễ vì phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ mà
dẫn đến tổn thất phá tán, thất bại. Cũng do không ngừng cầu thay đổi, nên quan
hệ giao tế cũng thay đổi luôn, cho nên khi Tử vi hóa Khoa cũng không thể cải
thiện tính chất “vô tình vô nghĩa” của nó.

      Ở đại hạn
hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về có biểu hiện vẻ vang rực rỡ và thay
đổi.

      Tinh hệ “Tử vi Thiên phủ” thủ Mệnh ở
hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội
cung là Vũ khúc độc tọa ở cung Tài và “Liêm trinh Thiên tướng” ở cung Quan. “Tam
phương tứ chính” đều gặp Sát tinh.

      Tử vi và Thiên phủ
vốn có tính mẫu thuẫn, vừa chủ động lại vừa bị động, vừa tiến công lại vừa phòng
thủ. Sau khi Tử vi hóa Khoa thì Tử vi được tăng thêm sức mạnh, nhờ vậy mà giải
quyết được tình trạng mẫu thuẫn của “Tử vi Thiên phủ”. Một khi mẫu thuẫn được
giải quyết, xung chiếu Thất sát, thì tính chất hóa thành quyền lực được phát
huy. Cho nên tinh hệ này khi Tử vi hóa Khoa trở thành có trí tiến thủ, và năng
lực quyết đoán cao được phát huy, đây là điều mà tinh hệ “Tử vi Thiên phủ” vốn
không có.

      Như tinh hệ này lại có đặc điểm là ưa lộ sự
sắc xảo, luôn muốn khoe tài năng, vì vậy mà thường bị người ta công kích. Còn
cần đặc biệt lưu ý khi đến đại hạn hoặc lưu niên “Liêm trinh Thiên tướng” đừng
cố xuất đầu lộ diện mà mang họa vào thân.

      Nhóm tinh
hệ này khi gặp ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có bản chất này (kiểm ?), chỉ
chủ về bộc lộ những biểu hiện cá nhân, mà cần lưu ý không được nóng
nảy.

      Tinh hệ “Tử vi
Tham lang” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn
đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội cung với “Vũ khúc Phá quân” ở cung Tài,
và “Liêm trinh Thất sát” ở cung Quan.

      Tinh hệ này vốn
có sắc thái không ổn định, nhưng Tử vi hóa Khoa chỉ có tính chất nhờ thay đổi
cải cách mà người ta biết tiếng, thậm chí ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị
này.

      Tinh hệ “Tử vi
Thiên tướng” thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Khoa, ắt sẽ đồng
thời gặp Kình dương đồng độ, hoặc Kình Đà giao hội, có Phá quân độc tọa ở đối
cung, tam phương hội cung có “Vũ khúc Thiên phủ” ở cung Tài và Liêm trinh độc
tọa ở cung Sự nghiệp.

      Nhóm tinh hệ này Tử vi rất ưa
được hóa Khoa, vì Thiên tướng đồng độ với Tử vi nên Thiên cơ hóa Lộc và Thiên
lương hóa Quyền tất sẽ giáp cung, chủ về người có tài năng đặc biệt. Ngoại trừ
trường hợp Tử vi độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đây cũng là nhóm tinh hệ lợi về
nghiên cứu học thuật.

      Liên quan đến khuynh hướng của
tài năng, phải xem xét các sao hội hợp có tính chất mạnh yếu như thế nào mà
định. Nếu “Vũ khúc Thiên phủ” có lực mạnh thì giỏi quản lý tài chính, nếu Liêm
trinh có lực mạnh thì có tài năng văn nghệ, nhưng có lúc cũng chủ về làm việc
trong chính giới, lấy thỏa hiệp làm sở trường, chưa chắc đã có lập trường nhất
định.

      Tinh hệ “Tử vi
Thất sát” thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thiên
phủ, tam phương hội cung có “Liêm trinh Phá quân” ở cung Sự nghiệp, và “Vũ khúc
Tham lang” ở cung Tài.

      Tử vi và Thất sát đồng độ đã
có sắc thái quyền lực, khi Tử vi hóa Khoa khiến cho quyền lực và danh dự đều
được vẻ vang, rực rỡ, do đó đây cũng là kết cấu tinh hệ có tính chất tốt
lành.

      Khi quyền lực và danh dự vẻ vang rực rỡ, thì
lại có khuyết điểm là: lý tưởng của đời người đặt ở vị thế quá cao, thế là theo
đuổi lý tưởng không ngừng nghỉ, đời người khó tránh vất vả và khổ lụy. Ở tuổi
vãn niên có lúc bỗng cảm thấy cuộc đời là hư ảo, rồi sinh buồn rầu, thích bàn
luận triết lý.

      Ngoài ra tình cảm vợ chồng cũng có tì
vết, nhưng mệnh tạo lại thích che dấu, không cho người ngoài
biết.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tính hệ
này, thường thường chủ về biến đổi quyền lực, thông thường là ở vận
tốt.

      Văn Xương ưa hóa
Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình
hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng,
cũng lợi về văn học nghệ thuật, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về
nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi
lộc.

       Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm
tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy
chẳng phải cái được là hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung
Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư
danh.

       Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển
thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh
trong thi cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp
thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại “thuần thanh”, thì lợi về tham gia
các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên
viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn
xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

      
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được thuyết
trình phát biểu tác phẩm chuyên đề, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi
về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho
nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, mà
trước thi cử một năm cũng có lợi.

      Thái dương chủ về
“Quý” nên ưa hóa Khoa. Có điều phải ở cung miếu vượng mới chủ về có danh dự và
địa vị trong xã hội. Nếu Thái dương hóa Khoa nhập cung hãm địa, thì chỉ có hư
danh, nhất là dễ vì chính cái “hư danh” mà bị gây liên
lụy.

      Hóa Khoa làm tăng năng lực hướng ngoại của Thái
dương, do đó thường làm người ta để ý và đố kị. Vì vậy, cần xem xét cung Huynh
hệ và cung Giao hữu gây ảnh hưởng như thế nào đến mệnh tạo? sẽ quyết định là Cát
hay là Hung đối với Thái dương hóa Khoa thủ Mệnh.

      Nếu
Thái Dương hóa Khoa hội Thiên lương, mà còn có các sao Sát – Kị – Hình hội
chiếu, thì cổ nhân định lệ đây là tổ hợp tinh hệ “phục độc” (dùng độc dược). Ở
thời hiện đại, có thể nhuyễn hóa thành sử dụng ma túy, mua bán ma túy, hoặc bị
bệnh mà uống nhầm thuốc, thậm chí phác đồ điều trị còn bị sai lầm. Cần phải quan
sát toàn Cục để định tính chất cụ thể.

      Thái Dương thủ
Mệnh hóa Khoa, cung Phúc đức ắt sẽ là Thiên Cơ hóa Kị, do đó có thể biết, khi
cầu danh sẽ bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt tinh thần. Lúc luận đoán nên xem
xét tính chất của tình trạng bị quấy nhiễu gây khó khăn này. Kết cấu tốt nhất là
bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt nghiên cứu học thuật. Kết cấu xấu nhất là bị
quấy nhiễu, gây khó khăn do điều tiếng thị phi.

      Chỉ
khi gặp Văn Xương và Văn Khúc giao hội, thì Thái Dương hóa Khoa mới có lợi về
“điển thí”, cổ nhân gọi đây là cách “đan trì”. Nhưng dù không gặp Xương Khúc,
thông thường Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về thông minh, nhân sinh đắc ý là do
cảm giác thành tựu và được nhiều người biết đến mà
có.
      Thái Dương độc tọa
thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình dương đồng độ hoặc vây
chiếu, đối cung là Thiên Lương xung chiếu, tam phương tương hội Cự môn độc tọa ở
cung Sự nghiệp, và phải mượn “Thiên cơ Thái âm” nhập cung Tài bạch để hội hợp,
mà Thiên Cơ hóa Kị và Thái Âm hóa Quyền.

      Thái Dương
sai khi hóa Khoa, sẽ làm mạnh thêm năng lực giải “ám” của Cự Môn và bản chất “cô
độc và hình khắc” của Thiên Lương, đồng thời còn mang lại danh tiếng. Nhưng
những tác dụng này, lại có sự khác nhau giữa hai cung Tý và
Ngọ.

      Thái Dương hóa Khoa ở cung Tý, tác dụng lớn nhất
chỉ là giảm bớt tính “thị phi” của Cự Môn và giảm bớt tính “cô độc và hình khắc”
của Thiên Lương. Ví dụ như tính chất bất lợi ban đầu đối với người cha có thể là
“tử biệt”, thì sau khi Thái dương hóa Khoa sẽ biến thành “sinh ly”, còn tác dụng
mang lại tiếng tăm thì chỉ giới hạn trong một phạm vi
nhỏ.

      Thái Dương hóa Khoa ở cung Ngọ, cũng có thể giảm
bớt tính “thị phi” và tính “cô độc và hình khắc” của Cự môn và Thiên lương,
nhưng tác dụng lớn nhất mang lại đó là danh tiếng có tính chất quảng đại công
chúng. Có điều, lúc nổi tiếng sẽ làm cho sự nghiệp có vẻ lớn lao, nhưng thực ra
bên trong lại trống rỗng. Đây chính là khuyết điểm của Thái Dương hướng ngoại
một cách thái quá.

      Tinh hệ “Thái dương
Thái âm” thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà có Thái dương hóa Khoa thì Thái âm
ắt sẽ hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật “Thái âm hóa
quyền”.

      Tinh hệ “Thái dương
Cự môn” thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Khoa, tam phương
tương hội mượn “Thái âm Thiên đồng” có Thái âm hóa Quyền để nhập cung Sự nghiệp,
và mượn “Thiên cơ Thiên lương” để nhập cung Tài bạch có Thiên cơ hóa Kị. Tổ hợp
tinh hệ này “tam phương tứ chính” đều gặp Sát tinh.

     
Thái Dương hóa Khoa ở hai cung này, tác dụng chủ yếu chỉ làm tăng mạnh sức
thuyết phục của ngôn từ, và khiến cho Hóa Kị của tinh hệ “Thiên cơ Thiên lương”
ở cung Tài bạch chủ về lao tâm tổn thần, mà không chủ về “thị phi” hoặc phạm sai
lầm, do đó cũng làm mạnh thêm tính chất “dùng lời nói để kiếm
tiền”.

      Tinh hệ này có lúc còn biểu trưng cho “thiên
tài về ngôn ngữ”, chủ về học nói tiếng nước ngoài và tiếng địa phương khác rất
dễ dàng (nhưng chỉ về “nghe nói”, chứ không phải “đọc viết” tiếng nước
ngoài).

      Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tinh hệ này,
cần chú ý đến cơ hội khi thuyết phục người khác, và thường thường nhờ vào đó mà
gặp được hoàn cảnh thuận lợi.
      Tinh hệ “Thái dương
Thiên lương” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà thái dương hóa Khoa (Mệnh cung
ở Dậu có thể gặp Lộc Tồn ở cung Tị). Tam phương hội với Thái Âm hóa Quyền ở cung
Tài bạch, và mượn “Thiên đồng Cự môn” nhập cung Sự nghiệp để hội
hợp.

      Kết cấu tinh hệ này chỉ chủ về làm tăng độ danh
tiếng, và khiến cho phạm vi nổi tiếng mở rộng. Ví dụ như một vị Giáo sư, danh
tiếng của ông vốn chỉ được biết đến trong nội bộ, nhiều lắm cũng chỉ được biết
đến trong giới học thuật. Nhưng khi gặp Thái Dương hóa Khoa lại có thể khiến cho
danh tiếng của ông lan tỏa rộng ra xã hội, cho dù không phải là người trong
nghề, thậm chí không ở trong giới học thuật, cũng biết có vị giáo sư này. Đây là
tác dụng của Thái Dương hóa Khoa.

      Thái Dương hóa Khoa
ở cung Mệnh tương hội Thái Âm hóa Quyền, thì Thái Âm không còn chủ về “tài khí”,
mà chỉ chủ về lợi ích do danh tiếng mang lại, còn Hóa Quyền chỉ làm tăng tính ổn
định của nó.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh
hệ này, thường thường có lợi về thi cử, hoặc có lợi khi cạnh tranh, nhờ vào đó
mà mang lại lợi ích (ví như đoạt giải
thưởng).

      Thái dương độc tọa
thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ hoặc Kình dương
Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa Quyền, tam phương tương hội với Cự môn
độc tọa ở cung Tài bạch, và mượn “Thiên đồng Thiên lương” để nhập cung Sự
nghiệp.

      Hai cung Thìn và Tuất vốn là “Thiên la Địa
võng”, khi Thái Dương hóa Khoa thì không cần đột phá, ánh sáng chói lọi của Thái
Dương thì “thiên la địa võng” cũng không thể làm lu mờ. Vì vậy thường thường có
cơ hội thoát ra khỏi những cảnh ngộ không hay.

      Thái
dương ở cung Thìn là mặt trời mọc, lúc Hóa Khoa thì càng thêm chói lọi, cho nên
dễ có biểu hiện, nhưng cũng dễ chuốc lấy đố kị. Thái dương ở cung Tuất là mặt
trời lặn về Tây, dù có Hóa Khoa, thì muốn biểu hiện cũng chỉ được cái nhỏ, hơn
nữa những cái biểu này cũng chỉ thuộc hư danh. Vì vậy cũng chỉ có thể lợi dụng
vào hư danh để mưu cầu phát triển.

      Ở đại hạn hoặc lưu
niên mà gặp tinh hệ này, chỉ chủ về có những biểu hiện được bộc lộ ra bên ngoài
và nhờ vào đó mang lại lợi
ích.

      Thái Dương độc tọa
thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng cung hoặc vây
chiếu, đối cung là Cự Môn. Tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa hóa Quyền ở
cung Quan, và hội hợp với Thiên lương độc tọa ở cung Tài
bạch.

      Do đối nhau với Cự Môn, nên Thái Dương hóa Khoa
cũng chủ về “thiên tài ngôn ngữ”, nhưng lại không chủ về ngôn từ có sức thuyết
phục, chỉ biểu hiện là giỏi biện luận. Nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể phát
triển thành tài ăn nói ở các phương diện như ca xướng, người điều khiển dẫn
chương trình, nghệ thuận biểu diễn.

      Thái dương hóa
Khoa ở cung Tị thì thanh danh khá thực tế, hóa Khoa ở cung Hợi thì chỉ có hư
danh (ví dụ như giáo sư thâm niên, thanh danh vốn chỉ nhờ lâu năm, chứ không
phải nhờ có biểu hiện đặc biệt).

      Cự Môn đồng thời còn
mang lại điều tiếng thị phi, Thái Dương hóa Khoa ở cung Tị cũng được hóa giải dễ
hơn.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, cũng
chủ về có biểu hiện lý tưởng, và nhờ vào đó mà thu được lợi
ích.

      Thiên lương là sao sang quý, Hóa Khoa khá
hợp với khí chất của nó. Vì vậy có thể làm mạnh thêm khí chất hành động một
mình, tuyệt đối không bị cuốn theo dòng nước.

      Thiên
Lương hóa Khoa còn làm tăng thêm trí tuệ, khiến khả năng lãnh ngộ có thể được
tăng lên, do đó cũng làm tăng năng lực quan sát, nên cũng có lợi về thi cử, nhất
là phạm vi thi cử chuyên nghiệp.

      Sau khi Thiên Lương
hóa Khoa, lại có nguy cơ tự sùng bái cá nhân mình, vì vậy chẳng thể mang lại lợi
ích một cách thực tế, hoặc chỉ thu được lợi ích một cách có giới
hạn.

      Thiên Lương vốn có bản chất “tiêu tai giải nạn”,
sau khi Hóa Khoa, bản chất này càng rõ nét, có thể chuyển nguy thành an khiến
cho vấn đề được giải quyết tận gốc, từ đó quét sạch những phiền phức kéo dài lâu
ngày. Ví dụ người hay bị đau dạ dày, vì bị xuất huyết nên được điều trị triệt
để, nhờ vậy không bị đau dây dưa nữa.

      Lúc Thiên Lương
“tiêu tai giải nạn”, thường thường khó tránh phải dùng biện pháp mạnh, khiến cho
người ta cảm thấy đau khổ. Nhưng sau khí Hóa Khoa, biện pháp sẽ ôn hòa, đau khổ
cũng ít hơn.

      Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh
thích hợp với những ngành về y học, trị liệu, công tác xã hội, đây là mưu sinh
bằng cách “tiêu tai giải khó” cho người khác, nhờ vậy cũng giảm bớt những khó
khăn của bản thân.

      Người Thiên Lương hóa
Khoa thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Thái Dương vây chiếu, tam phương tương
hội có Thiên đồng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và “Thiên cơ Thái âm” ở cung Tài
bạch. Thiên Lương ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, vì vậy có thể thành
cách “Dương Lương Xương Lộc”.

      Người thành cách “Dương
Lương Xương Lộc”, do Thiên Lương hóa Khoa sẽ làm mạnh thêm bản chất “Dương Lương
Xương Lộc”. Cho nên có lợi về thi cử, có lợi về cạnh tranh. Dù không gặp Văn
xương Văn khúc mà không thành Cách, thì vẫn có lợi về thi cử và cạnh tranh,
nhưng mức độ thì không bằng người thành cách “Dương Lương Xương
Lộc”.

      Tinh hệ này cũng thuộc cách “Cơ Nguyệt Đồng
Lương”, người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh vốn đã có bản chất phục vụ, một khi
có địa vị xã hội cao tất nhiên sẽ rất quý danh dự, chỉ ngại nhất khi xử sự trong
quan hệ giao tế, lại thường sử lý quá nguyên tắc một cách không cần
thiết.

      Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa
Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên Cơ, tam phương tương hội với
Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch, và Thái Dương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Cung độ
của thiên Lương ắt sẽ gặp Kình Dương.

      Thiên Lương bị
ảnh hưởng của Thiên Cơ ở đối cung, tâm trạng vốn không ổn định, sau khi hóa Khoa
tâm trạng sẽ biến thành ổn định.

      Do Thái Dương và
Thái Âm cùng chiếu, có lúc sẽ khiến Thiên Lương biến thành hay do dự hoặc ở
trong tình cảnh phải lưỡng lự.

      Nhưng vì ảnh hưởng của
Kình Dương, khi Thiên Lương hóa Khoa nhiều khi sẽ biến thành không câu nệ vào
nguyên tắc, cho nên không tốt bằng Thiên Lương hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc
Ngọ.

      Tinh hệ “Thiên đồng Thiên lương” thủ
Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội Thiên cơ
độc tọa ở cung Sự nghiệp, và Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch. Đây là cách thuần
túy “Cơ Nguyệt Đồng Lương”. Ở cung Dần được hội Lộc
tồn.

      Do Thiên Lương đồng độ với Thiên Đồng, khiến cho
Thiên Lương hóa Khoa tăng thêm phong cách cá nhân, hoặc có phong thái tiêu sái
của bậc danh sỹ, cho nên rất thích hợp làm cố vấn, có địa vị mà không cần phải
làm hay phụ trách công tác thực tế, hoặc thích hợp với những nghề nghiệp tự do
có tính chuyên nghiệp.

      Nếu gặp Văn Khúc hóa Kị cùng
bay đến, có thể là văn sỹ giang hồ hay “hào môn thanh khách” (kẻ làm khách của
nhà giầu thời xưa).

     
Tinh hệ “Thái dương Thiên lương” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên
Lương hóa Khoa, tam phương hội có Thái âm độc tọa ở cung Tài bạch, mượn “Thiên
đồng Cự môn” để nhập cung Sự nghiệp. Kết cấu này “tam phương tứ chính” đều gặp
Sát tinh, không cần thành cách “Dương Lương Xương Lộc” đã có tính chất cạnh
tranh, đồng thời do Thiên Lương sau khi hóa Khoa đã giảm bớt tính “cô độc và
hình khắc”, vì vậy sức mạnh của Thái Dương càng được phát huy, giúp cho sự tăng
thanh danh và biểu hiện bản thân.

      Tinh hệ này thích
hợp cho giới nghiên cứu học thuật, bởi vì bản thân “Thái dương Thiên lương” đã
có sắc thái giữ nguyên tắc, mà nghiên cứu học thuật là xác lập nguyên tắc hoặc
xác lập định nghĩa. Cho nên “Thái dương Thiên lương” không thiên về văn nghệ, dù
gặp Văn Xương cũng chỉ nâng cao năng lực lý giải và khảo
cứu.

      Nếu có Văn Khúc hóa Kị đồng độ, thì nên nghiên
cứu học thuật một cách khách quan, nếu không ắt sẽ nảy sinh nhiều tranh
luận.

      Tinh hệ “Thiên
cơ Thiên lương” thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Lương hóa Khoa (ở
cung Tuất được hội Lộc tồn), tam phương tương hội “Thiên đồng Thái âm” ở cung
Tài bạch, vay mượn “Thái dương Cự môn” nhập cung Sự nghiệp để hội
hợp.

      Do đồng độ với Thiên Cơ, với tính chất do dự và
không ổn định, cho nên tinh hệ này trái ngược với tinh hệ “Thái dương Thiên
lương” chủ về hướng ngoại mà không hướng nội. Vì vậy thích hợp với ngành nghề
như quảng bá, quan hệ công cộng, ngoại vụ, .v.v… Hóa Khoa chủ về “danh khí”,
giúp cho biểu hiện về công việc.

      Nếu theo những ngành
nghê như nội vụ, quản lý, thiết kế, .v.v … thì cần phải phát huy phong cách cá
nhân một cách đầy đủ, thì mới có thành
tựu.

      Thiên Lương độc
tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Thiên Đồng, tam
phương hội “Thái dương Thái âm” ở cung Tài bạch, mượn “Thiên cơ Cự môn” nhập
cung Sự nghiệp để hội hợp. Cung Mệnh ắt dẽ gặp Đà La.

     
Tinh hệ này có kết cấu phức tạp, cho nên sắc thái quảng bá và văn nghệ giảm
nhiều, tính chất của Thiên lương nhuyễn hóa thành mạo hiểm. Hóa Khoa chỉ làm
tăng danh vọng trong nội bộ, không nên dương danh ở bên ngoài, nếu không ắt sẽ
mang lại tai nạn và nguy hiểm.

      Nhưng do Thiên Lương
hóa Khoa, nên cho dù có tai ách cũng dễ chịu đựng, còn có thể chuyển “nguy”
thành “an”.

              Phái Trung Châu định lệ Thiên Phủ hóa Khoa,
còn các phái khác thì Thái Dương và Thiên Phủ không hóa Khoa, mà thay vào đó là
Tả phụ và Hữu bật.

      Sự truyền thụ nào thì cũng có nguồn gốc
lịch sử của nó, do đó tốt nhất là giải quyết theo cách: để cả hai thuyết cùng
lưu truyền tùy theo môn phái.
      Thiên Phủ hóa Khoa có uy tín như giới ngân
hàng, uy tín là điều tối trọng yếu của ngân hàng, cho nên phái Trung Châu cho
rằng khi Thiên Phủ hóa Khoa cũng không phải là vô
lý.
      Do đó, ý nghĩa của Thiên Phủ hóa Khoa cực
kỳ đơn giản, nó không giống như các Sao khác, thông thường sau khi Hóa Khoa sẽ
có bản chất “lưỡng trùng”, đó là vừa cải thiện khuyết điểm, vừa làm tăng năng
lực cho sự biểu hiện. Nhưng bản chất của Thiên Phủ hóa Khoa chỉ có một, đó là
làm tăng mức độ của uy tín. Thực ra đây cũng đã bao gồm bản chất “lưỡng trùng”
đã thuật ở trên. Bởi vì “kho tiền” mà có uy tín thì đương nhiên phải rất ít
khuyết điểm, đồng thời phải có biểu hiện tốt thì mới tạo dựng được uy
tín.
      Cho nên, Thiên Phủ thuộc vào loại “kho
trống”, “kho lộ” vốn chủ về gian xảo, nhưng sau khi hóa Khoa, thì dù là “kho lộ”
hay “kho trống”, cũng biến thành không thể gian
xảo.

      Tinh hệ “Vũ khúc Thiên Phủ” thủ Mệnh ở hai
cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên Phủ hóa Khoa thì Vũ khúc ắt sẽ hóa Kị, còn đồng độ
với Kình dương hoặc có Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương
hội là Liêm trinh độc tọa ở cung Tài bạch, và “Tử vi Thiên tướng” ở cung Sự
nghiệp mà Tử vi hóa Quyền.
      Thông thường tổ hợp tinh hệ này không thích
hợp tự kinh doanh làm ăn. Vũ Khúc hóa Kị chủ về “nhập xuất” tài chính gặp khó
khăn và nhiều nan giải, còn Thiên Phủ hóa Khoa chủ về được người ta tín nhiệm,
do đó kinh doanh làm ăn dễ bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, biến thành mối
quan hệ tài chính có hệ số rủi ro rất cao. Lúc Thiên Phủ hóa Khoa chỉ thích hợp
làm việc trong ngành tín dụng hoặc chính giới, chủ về dễ được thượng cấp tin
tưởng đề bạt. Có điều không nên ở vị trí cao nhất, nếu không sẽ dễ thất bại.
Ngoài ra mệnh tạo cũng thích thực thi công việc có tính liều lĩnh, mạo hiểm có
hệ số nguy hiểm cao.
      Đối với nữ mệnh, phần nhiều đều bất lợi về
hôn nhân, thường ít có lạc thú phòng the đối với chồng (nhưng vẫn thích lạc thú
phong the đối với nhân tình).

      Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai
cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là “Liêm trinh Thất sát”, tam phương tương hội là
Thiên tướng ở cung Sự nghiệp, và mượn “Tử vi Tham lang” nhập cung Tài bạch để
hội cung mà Tử vi hóa Quyền.
      Thiên Phủ hóa Khoa nên tinh hệ này vẫn chủ
về tốt, do ảnh hưởng của “Tử vi Tham lang” ở cung Phúc nên có lúc xảy ra mâu
thuẫn. Có trí tiến thủ, chịu tiêu xài thích đáng trong giao tế, nhưng vẫn giữ
tác phong rất bảo thủ, nhất là quá xem trong chữ “tín”.
      Thiên Phủ hóa Khoa của tinh hệ này cũng chỉ
có lợi khi ở địa vị ” cấp phó”. Thích hợp với những nghề mang tính chuyên
nghiệp, trong lúc làm việc thường để lại uy tín và có thể còn được nhiều trợ
lực.
      Trọn lựa quyết định về địa vị đối với nhóm
tinh hệ này là rất quan trọng, thường thường sẽ biểu hiện khi đến các cung hạn
như “Từ vi Tham lang”, “Vũ khúc Phá quân”, “Liêm trinh Thất sát”, những hành
động thuộc hậu thiên ở vào thời điểm này có thể ảnh hưởng đến tình huống diễn
biến thực tế.
      Nhưng về phương diện hôn nhân tinh hệ này
cũng có khuyết điểm, nhất là nữ mệnh, hoặc người phối ngẫu có những khiếm khuyết
đáng tiếc, nên dốc tâm vào việc giáo dục con
cái.
      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này,
thì không có những bản chất đã thuật ở trên, nhưng nên lưu ý đến cơ hội thăng
chức, hoặc nguồn tiền tài thay đổi theo hướng tốt, cũng chủ về là vận thế thuận
lợi toại ý nhưng vẫn rất bảo thủ.

      Tinh hệ “Tử vi Thiên phủ” thủ Mệnh ở hai
cung Dần hoặc Thân, mà Thiên phủ hóa Khoa thì Tử vi ắt sẽ hóa Quyền, có Lộc tồn
đồng độ hoặc vậy chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung với Vũ khúc
hóa Kị độc tọa ở cung Tài bạch, và “Liêm trinh Thiên tướng” ở cung Sự
nghiệp.
      Khi Tử vi và Thiên phủ đồng độ, thì sức
mạnh của Thiên Phủ thường khó phát huy, có lúc biến thành gây lụy. Nhưng trong
kết cấu tinh hệ này, lực của Thiên Phủ khá mạnh, tức có sao Lộc mà còn hóa Khoa,
sẽ ảnh hưởng đến năng lực quyết đoán và chí tiến thủ của Tử vi tuy bị giảm thấp
nhưng lại có thể tiến bộ trong sự phát triển ổn định. Tinh hệ này có sở trường
thích bàn luận về chính trị, binh pháp.
      Nhưng tinh hệ này cũng bất lợi về hôn nhân,
chủ về không hợp tính cách với người phối ngẫu, nhìn bề ngoài vẫn duy trì mối
quan hệ hôn nhân, nhưng bên trong cấu thành nỗi đau khổ thầm
kín.
      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ
này, chủ về được tăng quyền lực một cách thầm kín, lợi ích cũng nhờ đó mà tăng
lên.

      Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai
cung Mão hoặc Dậu, gặp Sát tinh, đối cung là “Vũ khúc Thất sát” mà Vũ khúc hóa
Kị, tam phương tương hội là Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn “Liêm
trinh Tham lang” để nhập cung Tài bạch. Thiên Phủ ở cung Mão được gặp Lộc
tồn.
      Tinh hệ này tuy bất lợi khi đi xa, nhưng
“Liêm trinh Tham lang” ở cung Phúc đức thường thường lại khiến mệnh tạo phải rời
xa quê hương mới phát triển tốt, dễ gặp vận trình tốt có tính phát đột ngột. Nếu
cố thủ ở nơi sinh ra, thì uy tín chỉ đạt được trong phạm vi hạn chế, sự nghiệp
phát triển nhỏ hơn, có thể vì danh tiếng trong địa phương quá nhỏ hẹp, nên
thường ở vào tình cảnh bị ép phải tham gia những cuộc thù tạc giao tế mà bản
thân không thích, thậm chí còn phải hao tổn, do đó tạo thành những phiền phức
khó xử trong lòng.
      Cung Thiên Di có “Vũ khúc Thất sát” mà
Thiên phủ hóa Khoa tương hội, cho nên sau khi trải qua gian khổ ở xứ người, thì
có thể tạo dựng được sự nghiệp và được tin tưởng, cho nên có thể xoay chuyển
được tình thế công việc đúng lúc cần thiết nhất. Ngoài ý vị thích hợp với những
ngành nghề mang tính mạo hiểm có mức độ nguy hiểm cao, nếu mệnh tạo an phận thủ
thường, ở lại quê nhà thì không nên tự kinh doanh làm ăn, chỉ thích hợp làm nhân
viên hưởng lương.
      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ
này, không nên mở rộng việc kinh doanh làm ăn, chỉ chủ về vận trình tăng thêm vẻ
vang.

      Tinh hệ “Liêm trinh Thiên phủ” thủ
Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên phủ hóa Khoa, đối cung là Thất sát, (ở
cung Thìn mệnh tạo được Lộc tồn hội chiếu), tam phương hội cung có Tử vi độc tọa
ở cung Tài bạch, và “Vũ khúc Thiên tướng” ở cung Sự nghiệp mà Vũ khúc hóa Kị.
Cung Mệnh gặp Sát tinh đồng độ hoặc vây chiếu.

      Tinh
hệ này, về sự nghiệp và hôn nhân đều có khuyết điểm.

     
Ở phương diện sự nghiệp, không nên tự sáng lập sự nghiệp, bất lợi nhất  là các
công việc hay nghề nghiệp có liên quan đến tiền tệ, nghiệp vụ ngân hàng, không
được đầu cơ vì có đầu cơ thì cũng thất bại, nếu làm việc hưởng lương thì cũng
không được quản lý tiền bạc.

      Về phương diện hôn nhân,
thường chủ về tái hôn, mà cũng dễ “ngó đứt mà tơ
vương”.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ
này, người kinh doanh làm ăn phải đề phòng vấn đề xoay chuyển tiền bạc khó khăn,
trắc trở về sự nghiệp.

      Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc
tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là “Tử vi Thất sát” mà Tử vi hóa Quyền, tam
phương tương hội với Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn “Vũ khúc Tham
lang” nhập cung Tài bạch có Vũ khúc hóa Kị.

      Tinh hệ
dạng này chủ về đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng phần nhiều đều có thanh
thế lớn bề ngoài, mà bên trong chi ra quá nhiều, may mà có tín dụng chống đỡ,
vẫn có thể vững bước phát triển sự nghiệp.

      Thiên Phủ
hóa Khoa thì không sợ thiếu nguồn tiền tài, nhưng khuyết điểm lớn nhất của tinh
hệ này là dễ xác định sai kế hoạch. Đạo “xu cát tị hung” là cần phải kinh doanh
thiết thực và sống có tiết chế một cách thích đáng.

      Ở
lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, cũng phải lưu ý khuyết điểm đã thuật ở
trên.


       Gia
Thi
noreply@blogger.com
0
tag:blogger.com,1999:blog-1198932845514600860.post-56516726024656928882012-11-13T08:52:00.000+07:002012-11-13T08:52:02.211+07:00      Trong các tình hình thông thường, Thái Âm
hóa Khoa là biểu trưng cho sự tu dưỡng phát triển tài năng “nhân văn”, thiên
hướng nghiêng về văn học nghệ thuật, khí chất nhàn nhã, thông minh tài
trí.

      Thái Âm nhập miếu mà Hóa Khoa, còn chủ về
uy tín và danh tiếng, nếu có Văn tinh hội hợp, ắt sẽ xuất thân từ điển thí mà có
Danh; nếu có các Sao đào hoa hội hợp, thì danh tiếng thuộc lĩnh vực giải trí,
vui chơi, văn nghệ biểu diễn; nếu có các Sao tiền tài hội hợp, thì có danh vọng
và uy tín trong giới làm anh kinh doanh.
      Thái Âm lạc hãm mà Hóa Khoa, ắt sẽ mang lại
khuyết điểm, như bất lợi đối với người thân phái nữ, vẫn có những tính chất
giống như nhập miếu mà Hóa Khoa, nhưng danh vọng nhỏ
hơn.
      Nữ mệnh gặp Thái Âm hóa Khoa thì thích hợp
hơn nam mệnh, có thể làm tâng tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, quan tâm
chăm sóc hơn, đối với nam mệnh thì giảm bớt tính cách hướng nội mà tăng khả năng
hướng ngoại.

      Thông thường, Thái Âm hóa Khoa cũng có
lợi về hôn nhân; nam mệnh lấy được vợ xinh đẹp; nữ mệnh lấy được chồng có năng
lực làm việc, quan tâm chăm sóc vợ con, hoặc chồng có tài hoa chói lọi. Nhưng
Thái Âm hóa Khoa thì Tham Lang ở cung Phụ Mẫu ắt sẽ hóa Kị, là biểu trưng cho
hiện tượng thông thường “tài cao thì chuốc đố
kị
“. Cho nên cần phải quan sát các đại hạn xem có rơi vào tình huống bị
áp chế hay không? Nếu thấy gặp phải nhiều tình huống này, thì có tài mà không
gặp thời.

      Tinh hệ “Thiên đồng Thái âm” thủ
Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc
vây chiếu; tam phương tương hội với “Thiên cơ Thiên lương” ở cung Sự nghiệp, và
mượn “Thái dương Cự môn” để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa
Quyền.

      Trong tinh hệ này, Thái Âm hóa Khoa có sao Lộc
là kết cấu tốt lành, nếu lại được Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, thì đây là cách
“Lộc Văn củng mệnh”, chủ về có vợ đẹp, khoa cử công danh thuận lợi. Ở thời hiện
đại thì thích hợp nghiên cứu học thuật.

      Người có tinh
hệ này thủ Mệnh, nam chủ về phong thái nho nhã, nữ chủ về thích trang điểm làm
đẹp. Cho nên đều tạo được “hảo cảm” với người khác, nếu có tinh thần sung mãn
thì toàn mỹ.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ
này, chủ về tài lộc thuận lợi toại ý, nhưng không biểu trưng cho việc sáng lập
sự nghiệp.

      Tinh hệ
“Thái dương Thái âm” thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ
đồng độ với Đà La, hoặc hội với Kình dương Đà la; tam phương hội hợp với Thiên
Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn “Thiên cơ Cự môn” để nhập cung Tài bạch
mà Cự môn hóa Quyền.

      Do Thái Âm đồng độ với Thái
Dương, nên lực của Hóa Khoa có biểu hiện kém hơn, không hiển hách bằng Thái
Dương hóa Khoa, vì vậy chỉ có hư danh về mặt danh nghĩa, mà không có lợi ích
thực tế.

      Thái Dương ở cung Sửu có sức ảnh hưởng nhỏ,
do đó Thái Âm hóa Khoa ở cung Sửu tốt hơn ở cung Mùi, ở cung Sửu khi Thái âm hóa
Khoa sẽ được thực tiễn hơn. Mượn “Thiên cơ Cự môn” để hội hợp mà Cự Môn hóa
Quyền, cho nên thích hợp “dùng lời nói để kiếm tiền”, có thể phát huy năng lực
phục vụ của tài nói chuyện.

      Nhưng nữ mệnh mà gặp nhóm
tinh hệ này thì bất lợi về hôn nhân, đối với nam mệnh có thể mượn lực của Thái
Âm hóa Khoa để bổ khuyết.

      Tinh hệ “Thiên cơ Thái âm” thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà
Thái Âm hóa Khoa (ở cung Thân còn hội Lộc tồn). Tam phương hội hợp với Thiên
Đồng đọc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự
nghiệp.

      Trong tổ hợp này, nếu Thái Âm không Hóa Khoa,
thì đây là mệnh rời xa quê hương, sau khi Hóa Khoa sẽ khiến cho bản chất vốn
hiếu động trôi nổi của hai sao Thiên cơ và Thái âm trở thành ổn định, có thể
phát triển ở bản địa, mà còn có tiếng tăm. Có điều, nguồn tiền tài vẫn gặp nhiều
sóng gió, trắc trở, ở cung Thân thì tốt hơn.

      Thái Âm
hóa Khoa làm mạnh thêm sắc thái thích hợp về công việc nội vụ, vì vậy nên làm về
ngạch hành chính.

      Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh,
Thái Âm sau khi Hóa Khoa đều có thể cải thiện tính chất vốn bất lợi ở cung Phu
Thê.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này,
chỉ chủ về được người ta tán thưởng những biểu hiện của bản thân mệnh tạo, quan
trọng nhất là nắm bắt được cơ hội để phát vượt
lên.

      Thái Âm độc tọa
thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau với Thiên Đồng; tam phương
tương hội với Thái Dương độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung
Sự nghiệp. Kết cấu tinh hệ này, “tam phương tứ chính” đều gặp Sát
tinh.

      Thái Âm hóa Khoa ở cung Mão không bằng ở cung
Dậu, vì ở cung Mão thì lạc hãm, và không thành cục “phản bối” (không gặp sao
Lộc, Thái dương ở cung Hợi lại đồng độ với Đà la). Cho nên Thái Âm hóa Khoa ở
cung Dậu dễ được người ta trọng dụng, còn ở cung Mão thì trở thành tự sùng bái
cá nhân mình.

      Tinh hệ có một ưu điểm, bất kể ở cung
Mão hay ở cung Dậu, đều chủ về làm tăng phong thái của mệnh tạo, có phong cách
cá nhân đặc biệt. Nhưng ở thời hiện đại, nhóm sao này, lại thường có khuynh
hướng “đồng tính luyến ái”, khi Thái Âm hóa Khoa làm tăng lực hấp dẫn càng
mạnh.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ
này, chỉ chủ về tâm tình vui vẻ.

      Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung
Thìn còn gặp Lộc tồn), gặp Thái Dương ở đối cung độc tọa; tam phương tương hội
với Thiên Cơ độc tọa ở cung Tài bạch, và “Thiên đồng Thiên lương” ở cung Sự
nghiệp.

      Thái Âm nếu không hóa Khoa, thì ở cung Tuất
ưu hơn ở cung Thìn. Như sau khi Hóa Khoa có thể chủ về nắm quyền về hình pháp,
quân đội hay cảnh sát, ở cung Tuất vẫn tốt hơn.

      Thái
Âm hóa Khoa ở cung Tuất thì cung Di là Thái dương ở cung Thìn, hội Lộc tồn và
chia ra một sao Hóa Quyền một sao Hóa Khoa, kết cấu này vận trình sáng sủa hơn
xa Thái Âm ở cung Thìn, vì vậy nên rời xa quê hương để phát triển chủ về dễ được
quý hiển. Đây là sự khác biệt rất quan trọng giữa hai cung Thìn và
Tuất.

      Nhưng bất kể trong tình huống nào, Thái Âm ở
“thiên la địa võng” đều ưa Hóa Khoa, có thể đột phá “thiên la địa võng” mà tỏa
ánh sáng, dẫn tới đời người ắt sẽ có biểu hiện tốt, hơn nữa còn có thể cải thiện
sự bất lợi về hôn nhân.

      Thái Âm độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Đà la
đồng độ hoặc hội Kình dương Đà la; đối cung với Thiên Cơ, tam phương hội hợp với
“Thái dương Thiên lương” ở cung Sự nghiệp, và mượn “Thiên đồng Cự môn” nhập cung
Tài bạch có Cự môn đồng thời hóa Quyền.

      So sánh hai
cung, ở cung Tị không bằng ở cung Hợi, Hóa Khoa chỉ hơi cải thiện khuyết điểm
lúc lạc hãm. Ở cung Hợi có thể theo ngành nghề chuyên về kế hoạch, vạch kế sách,
thiết kế, phần nhiều đều có biểu hiện tốt, cũng thích hợp với kế hoạch tài vụ,
có thể thành danh.

      Nhưng Thái Âm ở hai cung này đều
rất dễ xảy ra đau khổ vì tình, nhất là nữ mệnh gặp Thái âm thủ Mệnh ở cung Tị,
thường thường nỗi đau khổ trong lòng suốt đời sẽ không thể
quên

      Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, ở
cung Hợi thì có lợi ích thực tế, ở cung Tị thì chỉ được hư
danh.

       Lúc Thái Dương và Thái Âm
hóa Kị đều có biểu hiện tổn hại các mối quan hệ nhân tế. Thái Dương chủ về người
thân phái nam, Thái Âm chủ về người thân phái nữ.

      Ở một phương
diện khác, do Thái Dương chủ về “quý”, Thái Âm chủ về “phú”. Cho nên Thái Dương
hóa Kị sẽ gây ảnh hưởng đến địa vị, ví dụ như bất hòa với thượng cấp, bị thượng
cấp đè ép. Thái Âm hóa Kị thì ảnh hưởng đến tài lộc, ví dụ như vì ly hôn mà tổn
thất tiền của.

      Về phương diện tổn hai nhân tế, biểu hiện cụ thể
bao gồm: ly biệt, bệnh tật mà mất, thị phi, đố kị, cạnh tranh không lành mạnh,
hai bên công kích lẫn nhau, kiện tụng, .v.v …

      Về phương diện sự
nghiệp, biểu hiện cụ thể là lo lắng và tranh chấp.

      Thái Dương ở
cung lạc hãm rất ngại hóa thành sao Kị, lúc miếu vượng thì có tốt hơn. Lấy bất
lợi về Cha để làm ví dụ, miếu vượng thì có thể là “sinh ly”, lạc hãm thì có thể
chuyển thành “tử biệt”, hoặc có hai họ (vì cha mất, mẹ có chồng
khác).

      Do Thái Dương chủ về “quý”, cho nên lúc Hóa Kị còn chủ về
danh dự bị tổn hại. Theo quan điểm của cổ nhân, phụ nữ lấy “trinh liệt” làm danh
dự, cho nên Thái Dương hóa Kị thường chủ về bị lừa dối về tình cảm, hoặc bị kẻ
cường bạo cưỡng hiếp.

      Thái Dương cũng đại biểu cho sức khỏe của
bản thân, khi Hóa Kị thì sức khỏe không tốt, cần xem xét các tổ hợp tinh hệ mà
định tính chất cụ thể.

     Thái Dương hóa Kị ở bản cung là cung độ ít
gặp tai nạn nhất, chỉ chủ về dễ bị người ta áp chế làm cho tâm tình không vui.
Nam mệnh cần lưu ý đại hạn thứ hai, dễ mang lại họa hoạn nhỏ, về sức khỏe nên
phòng bệnh tim mạch và bệnh về mắt.

      Thái Dương hóa Kị ở
cung Tý là lạc hãm, hóa Kị có tính chất không tốt, nên giấu bớt tài năng, chọn
sách lược thủ thành, hơi lộ sự sắc xảo lập tức bị trắc trở. Lúc chưa gặp thời cơ
nên tự ngầm tu dưỡng (như tự bồi dưỡng trình độ để có cơ hội thăng chức, chuyển
nghề). Về sức khỏe nên đề phòng bật tật ở mắt, đầu choáng mắt hoa, tuổi già đề
phòng bệnh phủ tạng.

      Tinh hệ “Thái dương Thái âm” đồng
độ ở cung Sửu, khi gặp Thái Dương hóa Kị thì đời người lên xuống vô thường, tuổi
trẻ ít có duyên với Cha, ít được thượng cấp quan tâm và đề bạt. Còn ngại có Đà
La đồng độ, dễ biến thành tiêu cực, hoặc chần chừ lần nữa làm mất cơ hội. Nếu
cung Phụ mẫu gặp Cát tinh, thì nên đề phòng vì đối với cha mẹ nuông chiều mà
thành ỷ lại.

      Tinh hệ “Thái dương Cự môn” đồng độ ở cung
Dần, có Lộc tồn đồng cung, lúc Thái Dương hóa Kị chủ về đời người gặp nhiều điều
tiếng thị phi, thích hợp với những nghề “dùng lời nói để kiếm tiền”, cũng là Đạo
“xu cát tị hung” vậy. Cuộc đời sau khi trải quan nhiều trắc trở mới ổn định, hơn
nữa còn bị một trận tai nạn nghiêm trọng, và không có duyên với cha
mẹ.

      Tinh hệ “Thái Dương Thiên lương” ở cung Mão, có Kình
dương đồng độ, lúc Thái Dương hóa Kị là “biến cảnh”, chủ về tuổi trẻ phải trải
qua gian nan trắc trở mới thành hữu dụng, nhưng vẫn không có duyên với cha mẹ. Ở
lưu niên hay đại hạn mà gặp “biến cảnh” lại có lợi về cạnh tranh, có thể thắng
lợi vào lúc cuối.

      Thái Dương hóa thành sao Kị ở cung
Thìn, là rơi vào “Thiên la Địa võng”, chủ về có khoảng ngăn cách giữa hai đời
rất sau nặng, mà mệnh tạo còn phải tự lập không được cha mẹ che trở. Lúc trẻ còn
gặp thêm Văn xương Văn Khúc hóa thành sao Kị ở lưu niên hay đại hạn, thường
thường chủ về bỏ dở việc học hành.

      Thái Dương
hóa Kị ở cung Tị, gặp Đà la, cũng chủ về dùng “lời nói để kiếm
tiền”.

      Thái Dương hóa Kị ở cung Ngọ, bất lợi
đối với Cha, phần nhiều là “sinh ly” hay “tử biệt”, còn khó được cấp trên tin
tưởng đề bạt. Ngoài ra còn chủ về nội tâm tróng rỗng, dễ đau khổ về tình cảm. Sự
nghiệp lớn lao nhưng trống rỗng. Theo đạo “tìm cát tránh hung” là phải phát
triển một cách thiết thực, không được khoa trương, nhất là lúc đến đại hạn hoặc
lưu niên có Thái Dương song hóa Kị, thường dễ bị thất bại. Về sức khỏe thì nên
đề phòng bệnh tật ở mắt, huyết áp cao, tắc nghẽn mạch máu (vascular thrombosis),
trúng phong.

      Tinh hệ “Thái dương Thái âm” đồng
độ ở cung Mùi, có Kình dương Đà la giao hội, mà Thái âm lạc hãm còn Thái Dương
thì lại hóa Kị, kết cấu này ít duyên phận với cha mẹ, gặp thêm Hỏa tinh Linh
tinh thì dễ bị cha mẹ bỏ rơi. Nữ mệnh  chủ về trưởng tử yểu mạng, hoặc sinh
không đủ tháng, vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều. Thái Dương hóa Kị ở cung
này, còn chủ về quan hệ giao tế phần nhiều không được như ý, cần phải tự tìm lối
đi, không được sinh tâm lý ỷ lại.

      Tinh hệ “Thái dương Cự
môn” đồng độ ở cung Thân, có Lộc tồn vây chiếu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về hôn
nhân bất lợi, cũng bất lợi về đời sống tình cảm. Nữ mệnh càng dễ bị đàn ông gây
phiền lụy, nên kết hôn với người ở nơi xa hay người ngoại quốc. Về phương diện
sự nghiệp có oán trách rất lớn, cho dù theo những nghề “dùng lời nói để kiếm
tiền” cũng gặp nhiều thị phi rắc rối không thể tự giải quyết, mức độ ảnh mang
tính cộng đồng xã hội.

      Tinh hệ “Thái dương
Thiên lương” ở cung Dậu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về rất chủ quan và thiếu
nguyên tắc, tuy có Thiên Lương hóa giải, cũng dễ vì tính chủ quan mà gây nên rắc
rối rất phiền phức. Theo đạo “tìm cát tránh hung” thì nên theo nghiên cứu học
thuật đối với bộ môn ít được chú ý, hoặc những nghề mà ít người làm, thì có thể
thuận lợi toại ý hơn.

      Thái Dương hóa Kị ở cung
Tuất là cung độ rất yếu, lúc còn nhỏ có thể “sinh ly” hay “tử biệt” với cha,
đường đời nhiều gập gềnh, thường hay bất đắc trí. Về sức khỏe nên phòng bệnh
tiểu đường, bệnh tim mạch, bệnh về mắt.

      Thái
Dương hóa Kị ở cung Hợi chủ về không có duyên với cha mẹ, trước 30 tuổi cuộc đời
nhiều chìm nổi, sau 30 tuổi mới phát vượt lên, thường thường có thể tay trắng
làm lên. Về sức khỏe dễ mắc bệnh ở mắt và ở khoang miệng. Nữ mệnh không nên lấy
chồng trong giới kinh doanh làm ăn, nếu không chồng dễ thay đổi tình
cảm.

      BỔ CHÚ:

– Thái dương Hóa Kị
ở cung Mệnh, chủ về không lợi cho phái nam, thanh danh có dấu hiệu bị xâm phạm
nặng nề. Không lợi về sức khỏe.

– Thái dương Hóa Kị ở cung Tài
bạch, chủ về kiếm tiền mà sinh chuyện thị phi.

– Thái dương Hóa
Kị ở cung Quan lộc, chủ về gian khổ mà không thành tựu.

– Thái
dương Hóa Kị ở cung Thiên di, chủ về bên ngoài bị chuốc miệng tiếng thị
phi.

– Thái dương Hóa Kị ở cung Phúc đức, chủ về sức mệt và tâm
phiền.

– Thái dương Hóa Kị ở cung Phụ mẫu, chủ về hình khắc
Cha.

– Thái dương Hóa Kị ở cung Huynh đệ, chủ về hình khắc anh
em trai, không khắc chị em gái.

Thái dương Hóa Kị ở cung Phu thê, chủ về nữ mệnh
thì hình khắc chồng, nam mệnh thì bản thân bất
lợi
.

– Thái dương Hóa Kị ở cung Tử nữ, chủ về hình khắc
con trai, không hình khắc con gái.

– Thái dương Hóa Kị ở cung
Nô bộc, chủ về tranh chấp cãi vã

– Thái dương Hóa Kị ở cung
Điền trạch, chủ về không có gia sản của tổ tiên để giữ.

– Thái
dương Hóa Kị ở cung Tật ách, chủ về huyết áp cao, bệnh
tim.
      Thái Âm hóa Kị, ý nghĩa
phổ biến nhất là bất lợi đối với người thân phái nữ, nhất là ở cung vị lạc hãm
thì càng đúng.

      Nói “bất lợi” ở đây, không nhất định là bệnh tất
hay tử vong, có lúc chỉ biểu hiện là thiếu duyên phận với nhau, hai bên khó
thông cảm cho nhau, hoặc vì hoàn cảnh khách quan mà hai bên ít cớ cơ hội gặp
nhau. Cần phải xem xét kỹ các sao Sát – Hình – Kị hội hợp thực tế mà
định.

      Gặp Thái Âm hóa Kị, cũng biểu trưng cho tình huống rắc rối
về tình cảm, thường chủ về trong lòng có ẩn tình khó sử. Nếu gặp thêm Hỏa tinh,
Linh tinh, Văn xương, Văn khúc, thì đây là điềm tượng tình yêu không bình
thường, nam mệnh phần nhiều chủ về có khuynh hướng “đồng tính luyến
ái”.

      Thái Âm hóa Kị ở cung miếu vượng, thì ảnh hưởng đến tình hình
lợi lộc, thường thường biểu hiện là trong đời người có một thời kỳ cảm thấy mình
rất có tài mà không gặp thời. Nếu Thái âm hóa Kị ở cung lạc hãm, thì đây là điềm
tượng không tốt; trái lại, sẽ ưa gặp Sát tinh “kích thích”, chủ về có thể theo
ngành công nghệ. Cổ nhân gọi là “thợ”, nhưng ở thời hiện đại, cũng chủ về những
ngành khoa học kỹ thuật.

      Thái Âm hóa thành sao Kị ở cung
Tý, đồng độ với Thiên Đồng. Đối với nữ mệnh thì rất ưa trang điểm, chải chuốt,
làm đẹp, nhưng tính cách điệu nghệ thuật không cao, thường dễ bị người ta phê
bình cách thức trang điểm của bản thân đương số.

      Đối với nam mệnh
thì có nội tài, dễ được người khác giới để mắt, nhưng lại thiếu duyên phận. Về
hôn nhân, nam mệnh và nữ mệnh đều nên nhờ người giới thiệu, và nên kết hôn muộn,
nếu không sẽ chủ về duyên phận không đủ.

      Khi gặp hoặc Văn xương,
hoặc Văn khúc, thì thường là văn sỹ nghèo nàn, thất chí, nhưng cũng có chút
thanh danh.

      Về sức khỏe phần nhiều chủ về bệnh ở mắt, như bệnh nốt
ruồi bay, nếu có thêm các sao Sát Hình nặng, thì có thể bị
mù.

      Thái Âm hóa Kị ở cung Sửu, là Thái âm và Thái dương
đồng cung. Vì Thái Âm hóa Kị nên gây lụy cho Thái Dương, khiến tăng thêm vất vả
khổ lụy, và không có duyên với cha mẹ.

      Cuộc đời và sự nghiệp có
tính lưu động khá lớn, dễ thay đổi nghề, mà nghề thường thường cũng là loại “lao
tâm tổn thần”, cũng chủ về có lúc cuộc sống dễ chịu thì lại không có tinh thần
làm việc, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sự nghiệp.

     
Thái Âm hóa Kị ở cung Dần, là “Thiên cơ Thái âm” đồng độ với Đà la, Thiên cơ
đồng thời hóa Lộc. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì tình hình tiền bạc
trong tương lai khá nghiêm trọng. Tham khảo thêm ở đoạn thuật “Thiên cơ hóa
Lộc”.

      Thái Âm hóa Kị ở cung Mão, khá bất lợi về hôn
nhân, tình hình dễ xuất hiện nhất là vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, nhất
là đối với nữ mệnh, nên kết hôn muộn. Nam mệnh thì phần nhiều sự nghiệp chìm nổi
thất thường, chỉ thích hợp làm công hưởng lương, không thích hợp tự kinh doanh
làm ăn, tự kinh doanh làm ăn sẽ dễ xảy ra trắc trở và thất
bại.

      Thái Âm rất ngại hóa Kị ở cung Thìn, hội Sát tinh,
cần phải rời xa quê hương để phát triển, nếu ở bản địa sẽ gặp nhiều áp lực. Nếu
có các sao Sát – Hình đồng độ, thì có lợi khi rời xa quê hương có thể làm những
ngành nghê thủ công để mưu sinh, ở thời hiện đại có thể làm những nghề về khoa
học kỹ thuật.

      Nam mệnh và nữ mệnh, hôn nhân đều bất lợi, nên kết
hôn muộn.

      Thái Âm hóa Kị ở cung Tị, cũng nên chủ động rời
khỏi quê hương để phát triển. Cung Di là Thiên cơ hóa Lộc hội Thiên mã, là cách
“Lộc Mã giao trì”, nếu xuất ngoại ắt sẽ sáng sủa phát đạt.

      Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, an Mệnh tại cung Tị này đều
bất lợi đối với người thân phái nữ.
Cho nên nam mệnh hôn nhân không tốt
đẹp, thường thường phải tái hôn mới sống đến bạc đầu.

     
Tinh hệ “Thái âm Thiên đồng” đồng độ ở cung Ngọ, mà Thái Âm hóa Kị, cần phải xem
xét tình hình của tinh hệ hội hợp mà định. Nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ,
sẽ chủ về rời xa quê hương, hoặc chủ về “song trùng phụ mẫu”.

      Thái
Âm hóa thành sao Kị ở bản cung, thường thường bị ảnh hưởng về sự nghiệp, chủ về
có biên độ lên xuống thất thường rất lớn, vì vậy nên làm những công việc có tính
thiết thực, cũng chủ về có khuynh hướng “đồng tính luyến ái” như Thái Âm hóa Kị
ở cung Tý.

      “Thái Âm đồng cung với Thái Dương” ở cung Mùi,
mà Thái Âm hóa Kị, còn Thái dương cũng bắt đầu ngả về chiều, cho nên bất lợi đối
với cha mẹ, bất lợi nhất là người thân phái nữ. Nếu Sát tinh quá nặng, cũng chủ
về Mẹ sống cảnh góa bụa.

      Người có tinh hệ này thủ Mệnh, bất kể nam
mệnh hay nữ mệnh, thường thường đều có tính bên ngoài thì “cương” mà bên trong
thì “nhu”, cho nên phần nhiều đều gặp trắc trở về sự nghiệp và tình cảm (ngược
lại: ngoại nhu nội cương ?).

      “Thái âm Thiên cơ” đồng độ ở
cung Thân, mà Thái Âm hóa Kị, cũng có tình hình “cọp mà ăn thức ăn của mèo”.
Tham khảo thêm ở đoạn thuật “Thiên Cơ hóa Lộc”.

      Thái Âm
hóa Kị ở cung Dậu, nữ mệnh rất bất lợi về tình cảm, thường chủ về làm “nhị
phòng” hay “kế thất”, nếu không khó có thể sống với nhau đến bạc đầu. Đối với
nam mệnh chủ về lang bạt tha hương rồi mới tay trắng làm nên, nhưng vẫn chủ về
“danh” lớn hơn “lợi”, mức độ thu nhập tăng theo địa
vị xã hội
, và không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Dễ được phái nữ yêu
thích, nên cũng gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm, do vậy lãng phí rất nhiều
thời gian của đời người.

      Thái Âm hóa Kị ở cung Tuất,
không có ảnh hưởng xấu, Thái Dương ở Thìn đối cung là ánh sáng đang hiển lộ,
Thái Âm đối nhau ở xa xa, là cách ưu mỹ. Nên Thái Âm hóa Kị chỉ chủ về thiếu
phúc ấm của cha mẹ, nhưng lại biểu trưng cho “tay trắng làm
nên”.

      Thái Âm rất ưa hóa Kị ở cung Hợi, là “biến cảnh”.
Thái Âm lúc này tỏa sáng, khi Hóa Kị chỉ chủ về đời người phải trải qua một giai
đoạn đau khổ, nhờ vào đó mà thành tựu được sự nghiệp.

      Nhưng “tam
phương tứ chính” có các sao hội hợp phần nhiều có tính “lưu động”, cho nên bất
kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về dễ gặp rắc rối khó xử về tình cảm, thường
vì có khuynh hướng yêu đương lãng mạn (nên gia đình đổ
vỡ).

      BỔ
CHÚ
:

– Thái âm Hóa Kị ở cung Mệnh, chủ về nhiều mưu kế,
không thành thực.

– Thái âm Hóa Kị ở cung Tài bạch, chủ về lừa
gạt để kiếm tiền, hoặc đầu tư thất lợi.

– Thái âm Hóa Kị ở cung
Quan lộc, chủ về nên làm công việc hưởng lương, không nên đầu
tư.

– Thái âm Hóa Kị ở cung Thiên di, chủ về ở bên ngoài bị
lừa, làm ăn buôn bán thất bại.

– Thái âm Hóa Kị ở cung Phúc
đức, chủ về tính cách ích kỷ tư lợi, hiếu sắc.

– Thái âm Hóa Kị
ở cung Phụ mẫu, chủ về Mẹ chết trước.

– Thái âm Hóa Kị ở cung
Huynh đệ, chủ về không thể nhờ cậy, bị anh em lừa dối.

– Thái
âm Hóa Kị ở cung Phu thê, chủ về nam mệnh thì không lợi cho vợ, nữ mệnh thì không lợi cho bản
thân
.

– Thái âm Hóa Kị ở cung Tử nữ, chủ về con cái dễ
lầm đường lạc lối.

– Thái âm Hóa Kị ở cung Giao hữu, chủ về bạn
bè, thuộc hạ không trung thực, thường cắt xén ăn chặn lợi ích của
mình.

– Thái âm Hóa Kị ở cung Điền trạch, chủ về bị tổn thất
nặng khi mua bán bất động sản.

– Thái âm Hóa Kị ở cung Tật ách,
chủ về chứng âm hư, như đổ mồ trộm, mất ngủ, tâm phiền
… 

      Cự Môn không ưa hóa thành sao Kị, vì vốn đã
có tính chất “điều tiếng thị phi”. Sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất
này, khiến cho một đời người thêm nhiều rắc rối phức tạp.

 
    Cự Môn sau khi Hóa Kị, cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ
xảy ra rắc rối phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người
Cự Môn hóa Kị tại Mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê có hoàn mỹ đến đâu, ít
nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiêu sau đó để
lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

      Thích cầu toàn
cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không như
lý tưởng hằng ước vọng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự toàn mỹ, vì vậy sinh ra
sự thất vọng bất mãn. Hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển, thì mệnh tạo
rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà la đồng độ, khuynh hướng này càng bộc lộ
rõ hơn.

      Cự Môn hóa Kị
ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên Cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ
hoặc vậy chiếu, tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa và mượn “Thiên đồng
Thiên lương” mà Thiên Đồng hóa Quyền.

      Cự Môn hóa Kị ở
trong tinh hệ này, một đặc điểm thường nhờ “hung sự” mà biến thành lực “kích
phát”. Sự cố trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, nhưng mỗi
lần gặp trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục được hoàn thiện và hoàn
mỹ hơn. “Thấy hung nhưng thực ra là cát” là một đặc điểm của tinh hệ
này.

      Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du
với nhiều người khác giới nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài, hoặc lúc tình cảm
trở thành sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia
ly.

      Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung
Tý, nhưng lại thành sức mạnh “kích
phát”.

      “Thiên đồng Cự
môn” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Cự môn hóa Kị thì Thiên đồng ắt sẽ hóa
Quyền. tham khảo ở đoạn thuật “Thiên đồng hóa
Quyền”.

      “Thái dương
Cự môn” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa
Kị, tam phương mượn “Thiên cơ Thiên lương” mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn “Thái
âm Thiên đồng” trong đó một sao hóa Lộc một sao hóa
Quyền.

      Tinh hệ này thành cách “Tứ Hóa hội hợp”, nhưng
do Cự Môn của bản cung hóa Kị nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường
bất lợi đối với người thân phái nam, cho nên không thích hợp với nữ mệnh đến
tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách
đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về thiếu duyên với Cha,
hoặc dễ xung đột với thượng cấp.

     Do tính chất “điều
tiếng thị phi”, nên rất thích hợp với những nghề “dùng lời nói để kiếm tiền”,
như luật sư, dạy học, .v.v … nhờ có “Lộc Quyền Khoa hội” có thể thăng tiến
danh dự và tài lộc.

      “Thiên cơ Cự môn” đồng
độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự Môn hóa Kị ắt Thiên cơ hóa Khoa. tham khảo ở
mục “Thiên cơ hóa Khoa”.

      Cự Môn độc tọa,
Hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Tuất ắt sẽ gặp Lộc tồn), Thiên Đồng của
đối cung hóa Quyền, tam phương tương hội với Thái dương độc tọa và mượn “Thiên
cơ Thái âm” mà Thái âm hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa.

     
Cự Môn hóa Kị ở “Thiên la Địa võng” lại chủ về cát lợi, tính chất “thấy hung mà
thực ra là cát” rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, rắc rối, thị
phi, nhưng kết cục lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh khỏi
phải trải qua gian khổ, tâm tư nhiều lo nghĩ.

      Nếu gặp
thêm Hỏa tinh, Linh tinh, hoặc Địa không Địa Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp
“dùng lời nói để kiếm tiền”. Có điều mệnh tạo lại ưa giải quyết khó khăn giúp
cho người khác, nên sự nghiệp tuy ổn định có chiều hướng tốt nhưng cuộc đời lại
khó được yên tịnh.

      Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất
kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự
nghiệp.

      Cự Môn độc
tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương
Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương tương hội với Thiên Đồng độc tọa hóa
Quyền và Thiên Cơ độc tọa hóa Khoa.

      Thông thường tinh
hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, khi Cự môn hóa Kị ở cung Hợi càng
nhẹ hơn. Nhưng tình trạng điều tiếng thị phi, sóng gió trắc trở trong tình cảm
thì khá nặng.

      Nam mệnh ắt lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt
lấy được chồng có sự nghiệp tốt. Bàng nhân thiên hạ nhìn bề ngoài đều cho rằng
họ đẹp đôi, nhưng bên trong họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên
thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người đều ngạc
nhiên.

      Thiên Cơ vốn có tính linh động, sau khi hóa
Kị sức linh động giảm bớt, chủ về gặp chướng ngại, hoặc vì một số nhân tố khách
quan và chủ quan, dẫn đến mất cơ hội tốt.

      Thiên Cơ có
tính chất kế hoạch, sau khi Hóa Kị sẽ biến thành kế hoạch sai
lầm.

      Thiên Cơ vốn có tính chất suy nghĩ, sau khi Hóa
Kị thì biến thành lo toan nghĩ ngợi, thậm chí thành ra lo lắng. Vì vậy lúc Thiên
Cơ hóa Kị ở cung Tật Ách, có đặc trưng mất ngủ, suy nhược thần kinh, “Can vị bất
hòa”, “Tâm Thận bất giao”, tình hình nghiêm trọng là “trúng
phong”.

      Lúc Thiên Cơ hóa Kị có Sát tinh đồng độ, đặc
biệt dễ mắc bệnh mang tính thần kinh, như co dật thần kinh mặt, kinh phong, .v.v

      Đối với nữ mệnh, Thiên Cơ hóa Kị phần nhiều chủ
về vì tâm trạng xung động nhất thời mà xa chân lỡ bước.

   
  Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho sự cố bị người ta phỉ báng, nói xấu, bêu
rếu, hai bên công kích lẫn nhau, cạnh tranh không lành mạnh, nếu mệnh tạo “hao
thần tổn khí” quyết đối phó, thì càng khiến sóng gió dễ nổi lên, tốt nhất nên
“dĩ bất biến ứng vạn biến” thì tự nhiên sóng yên biển
lặng.

      Thiên Cơ độc
tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý thì bị Kình dương Đà la chiếu xạ, ở
cung Ngọ thì đồng độ với Kình dương), tứ chính đối cung là Cự Môn độc tọa, tam
phương tương hội với “Thiên đồng Thiên lương” và Thái Âm độc tọa hóa
Quyền.

      Tổ hợp tinh hệ của hai cung này, chủ về cách
suy nghĩ của mệnh tạo khó giải quyết vấn đề, một sự cố đơn giản có thể biến
thành cục diện phức tạp, vì vậy mà kế hoạch sai lầm. Do tính chất này, còn có
thể mở rộng thành tình trạng “không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn”,
hoặc làm việc không có phương pháp, thiếu mạch lạc, lớp
lang.

      Thương thường, khi Thiên Cơ hóa Kị còn biểu
trưng cho là “kinh sợ”, hoặc bị uy hiếp, trong thương trường thì đột nhiên bị
cạnh tranh không lành mạnh, trong chính giới thì hai bên công kích lẫn
nhau.

      Lúc có các sao Sát – Hình cùng chiếu, chủ về
điềm tượng di chứng của bệnh tật, như bán thân bất toại, tứ chi tổn thương tàn
tật. Ở cung Ngọ nặng hơn ở cung
Tý.

      Thiên Cơ độc tọa,
Hóa Kị ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu thì gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên
Lương, tam phương hội hợp với Thiên Đồng đọc tọa và Cự Môn độc
tọa.

      Do đối nhau với Thiên Lương, nên tinh hệ này chủ
về tình trạng gặp rắc rối, phiền phức, tuy nhiên cuối cùng cũng hóa giải được,
nhưng phải hao tổn tinh thần rất nhiều.

      Liên quan đến
sự cố phiền phức đột nhiên xuất hiện, thường thường có liên quan đến việc vạch
kế hoạch sai lầm, vì vậy nội tâm càng nhiều lo lắng.

     
Tinh hệ này còn chủ về những rắc rối khó xử trong tình cảm và hôn nhân. Nam mệnh
thì người phối ngẫu ưa lộ sự sắc sảo, nữ mệnh thì dễ bất hòa với
chồng.

      “Thiên cơ Thái
âm” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Thiên cơ hóa Kị thì Thái âm hóa Quyền.
Tham khảo ở đoạn thuật “Thái âm hóa
Quyền”.

      “Thiên cơ Cự
môn” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu sẽ gặp Lộc tồn), tam phương hội
hợp với Thiên Đồng độc tọa, và mượn “Thái dương Thái âm” để nhập cung, trong đó
Thái Âm hóa Quyền còn Thái Dương hóa Khoa.

      Tinh hệ
“Thiên cơ Cự môn” đồng độ vốn đã có tính chất “phá phách”, khi Thiên Cơ hóa Kị
sẽ làm mạnh thêm tính chất “phá phách” này. Do đó chủ về không theo đuổi một
ngành nghề nào chuyên nhất, đứng núi này trông núi nọ, mệnh tạo thường cảm thấy
mình có tài mà không gặp thời.

      Tinh hệ này còn chủ về
trong quan hệ giao tế, thường hay “nói năng lỡ lời”, mà thường thường bị thất
thố vào những lúc quan trọng.

      Do “Thiên cơ Cự môn”
đồng cung, cho nên thích hợp làm công việc có tính chất “nhờ miệng lưỡi để kiếm
tiền”.

      “Thiên cơ
Thiên lương” đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Cơ hóa Kị đồng độ với
Đà la, hoặc bị Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương hội hợp với “Thiên đồng
Thái âm” mà Thái Âm hóa Quyền, và mượn “Thái dương Cự môn” để nhập cung mà Thái
Dương hóa Khoa.

      Do có Thái Âm và Thái Dương hóa thành
sao Cát hội chiếu, các Sao hội hợp lại không phải là “vô lực” (Cơ Lương ở cung
Thìn thì càng tốt), cho nên tinh hệ này chủ về Thiên Lương phải hao tổn sức lực
để hóa giải những gì Thiên Cơ hóa Kị gây ra. Biểu trưng cụ thể là có sắc thái
“rời xa người thân”, “lưu lạc”, “tính hiếu động trôi nổi”, “do dự không quyết
đoán”, “xử sự sai lầm gây nên sóng gió trắc trở”, .v.v

      Tinh hệ Cơ Lương vốn có năng lực “dự cảm”, nhưng
sau khi Thiên Cơ hóa Kị, sẽ rất dễ vì quá “dự cảm” mà biến thành quá lo lắng,
dẫn đến quyết đoán sai lầm, nhất là ở cung Tuất thì càng
đúng.

      Thiên Cơ độc
tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối
cung là Thái Âm hóa Quyền, tam phương hội hợp với “Thiên đồng Cự môn”, và mượn
“Thái dương Thiên lương” nhập cung mà Thái Dương hóa
Khoa.

      Tinh hệ này thường chủ về “cơ quan dùng lầm”,
bao gồm sự nghiệp và tình cảm. Cho nên hễ tâm bình thường mà xử sự, thì không
xảy ra sóng gió, trắc trở. Nếu tâm không bình thường, thì sẽ nổi sóng gió ngoài
dự liệu của mọi người.

      Thiên Cơ độc tọa ở cung Hợi
còn chủ về hư danh, về tình cảm rất dễ bị quấy nhiễu gây khó
khăn.

      Ngoài ra tinh hệ này còn chủ về dễ bị uy hiếp,
và bị áp lực vô hình. Nếu Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ với Thiên Cơ hóa Kị, thì
nên đề phòng lúc vãn niên sẽ bị “trúng phong”.



Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *