PHONG THỦY LUẬN . BÀI 2

TRẠCH
HÌNH

Dung huyệt: 1) Chỉ nền đất của nhà ở, thôn xóm, thành
trấn (thành thị, thị trắn), gọi là huyệt trường của dương trạch, điểm dương
huyệt” tức là xác định nền đất và phạm vi của một địa chi nào đó. 2) Mộ huyệt có
phân ra âm và dương; âm long mà kết huyệt âm thì chủ bị nói xấu, phá hại gia
sản; dương long mà kết huyệt dương, chu sự sinh li tử biệt. Phân biệt âm dương
thì căn cứ vào vị trí âm hay dương mà xác định.
Chính huyệt: Chỉ trung tâm
của thành trấn. Tức Chính trung của Dương huyệt. Đất là nơi xây cất công trình
chính, nếu ở kinh đô thì là nội thành cung điện, hoàng cung; nếu ở tỉnh thành
thì đó là dinh tỉnh trưởng, ở châu huyện là công đường. Cho nên, xây dựng kinh
đô thì trước hết phải xây dựng ở trung tâm (Chính huyệt) tông miếu, cung điện;
xây dựng tỉnh thành thì trước tiên xây dựng dinh thự quan nha; xây dựng châu
huyện thì trước hết chọn Chính huyệt xây dựng công đường chính trị, thứ đến kho
lẫm, nhà lao. Thuật Phong thủy coi đây là bảo đảm thể hiện thể chế tông pháp
phong kiến trong kiến trúc thành trấn, cũng là một đặc trưng kiến trúc đô thị
của Trung Quốc thời cổ.
Trạch hình: Tức hình dáng của nhà ở, chia ra hai loại
trong và ngoài. Hình dáng bên ngoài của nhà ở là chỉ vị trí, hình dạng, địa hình
tứ phía cùng cảnh vật kiến trúc của toàn bộ ngôi nhà. Hình dáng bên trong của
nhà ở thì chỉ hình dạng,vị trí của mọi vật kiến trúc cùng hình thức phối hợp
giữa chúng với nhau. Thuật Phong thủy cho rằng hình dáng bên ngoài của nhà ở
liên quan đến khí thế của mạch đến, nếu không tốt, thì dù hình dáng bên trong có
hay mấy, cũng sẽ không toàn vẹn. Hình dáng bên ngoài của nhà ở lấy vị trí địa
thế của nhà ở làm yếu tố quan trọng nhất, nói chung nhấn mạnh yêu cầu địa thế
bằng phẳng, Minh đường rộng rãi, trước sau có thủy bao bọc, thủy khẩu cách nhà
không quá xa. Kiến trúc cảnh vật xung quanh cũng rất quan trọng. Tốt nhất là bên
trái nhà ở có dòng chảy, bên phải có đường đi, đằng trước có ao, sau lưng có gò
cao, gọi là đất “Tứ thần tương ứng”. Nhà ở không nên nằm ngay giao lộ, năm cạnh
quan nha hầm hố, câu, nhà lao, không nên ở chỗ cây cỏ không thể mọc nổi, không
nên có giếng nước ở ngay trước cổng … Nhà ở tại các quần thể kiến trúc, như
thôn trấn, thành phố, thì điều kiện tự nhiên chi phối căn nhà là phụ; chủ yếu
phải xem xét mối tương quan hài hòa với cảnh vật kiến trúc xung quanh, đồng thời
so sánh Sa, Thuỷ. Ca nói: “Vạn ngõa lân lan thị tỉnh trung, cao liên tầng tích
thị lai long” (Dương trạch tập thành; quyển 1), lại nói : “Nhất tầng nhai cù vi
nhất tầng thủy, nhất tầng tường ngõa vi nhất tầng sa. Môn tiền nhai đạo tức thị
Minh đường, đối diện thất vũ tức vi án sơn”. (mỗi đường phố coi như một dòng
nước chảy, mỗi bức tường là một lớp Sa, Đường phố trước cửa tức là Minh đường
đối diện phía trước ngôi nhà tức là Án sơn) (Dương trạch hội tâm tập ). Nghĩa là
các mái nhà liên tiếp nhau tức là Long, căn cứ vào các đường hẻm để luận khí,
còn đường phố là thủy đạo vậy. Qui định về hình dáng nhà ở cũng rất phức tạp,
không dưới một trăm điều, chỉ nêu ví dụ vài điều, như hình 198. Hình dáng bên
trong của nhà ởchủ yếu là vị trí, dạng thức, độ cao thấp của các vật kiến trúc
trong nhà, ví dụ qui định cột phòng chính phải dùng số 9, cột sảnh dùng số 7,
cứa dùng số chẵn. Thuật Phong thủy cho rằng mở cửa phía tây là “bạch hổ há mồm”
thì không cát. Cối giã gạo không được nằm cùng một hàng với lai long. Bên ngoài
cổng không được xây dựng thêm phòng ốc; bên trên cổng không được xây dựng lầu.
Trong nhà không nên có phòng ốc hình chữ Đinh, không nên có đường đi xuyên tâm.
Phương vị mở cửa, độ cao thấp của phòng ốc chủ yếu căn cứ vào phương vị Cửu tinh
rnà xác định. Việc bố trí giếng nước, chuồng gia súc, nhà vệ sinh, nhà bếp cũng
vậy. Qui định về hình dáng bên trong nhà ở cũng rất phức tạp, không dưới một
trăm điều, chi nêu ví dụ vài điều, như hình 199. Phần lập luận trong Thuật Phong
thủy liên quan đến hình dáng nhà ở có một bộ phận là sự tích lũy và đúc kết kinh
nghiệm lâu dài, ví dụ nhà ở không nên hẹp theo chiều nam bắc. dài theo chiêu
đông tây. không nên bốn phía là đường lớn không năm trên sống núi, chỗ cửa
gió…Có một bộ phận mang tính chất mê tín, còn lại thì liên quan đến tập quán
truyền thống dân tộc và quan niệm thẩm mỹ.
Tam yếu lục sự : Hình
dáng nhà. Tổng kết những nhân tố quan trọng liên quan đến xây dựng nhà ở của
Phong thủy dương trạch. Tam yếu gồm : chủ, môn, táo, tức là mệnh của chủ nhà
phối họp với ngôi nhà, hướng mở cổng và cửa. vị trí của bếp. Lục sự gồm : môn
(cồng cửa), táo (bếp), tỉnh (giếng nước), lộ (lối đi), xí (nhà xí), cối giã gạo,
những vị trí nên hoặc kỵ của các nhân tố đó. Tĩnh trạch : Hình dáng bên trong
của nhà ở. Chỉ nhà ở chỉ có 1 dãy hay 1 phòng. Vì số dãy, phòng ít, nên phương
vị của cửu tinh ngũ hành về cơ bản là cố định, không cần thay đổi vị trí, độ cao
thấp của vật bài trí khi cửu tinh thay đổi.
Động trạch : Hình dáng bên
trong của nhà ở. Chỉ nhà ở có từ 2 – 5 dãy hoặc phòng. Vì số dãy, số phòng
nhiều, nên cửu tinh ngũ hành sẽ biến đổi có qui luật theo dãy phòng và phương vị
cổng, phương vị và độ cao thấp của vật bài trí trong nhà cũng thay đổi tùy theo
sự biến động của cửu tinh ngũ hành.
Bát trạch : Dựa theo phương
vị Toạ, Hướng cùng phương vị mở cửa của nhà ở, chia thành bát quái, cả thảy có 8
loại, gồm : Càn trạch, Ly trạch, Đoài trạch, Khảm trạch, Cấn trạch, Tốn trạch,
Khôn trạch, Chấn trạch, Cửu tinh sẽ biến động có qui luật theo sự khác nhau của
mỗi loại nhà tại phương vị sở tại, từ đó có thể phán đoán lành dữ, chỉ dẫn xây
dựng, sửa chữa. Thuộc tính bát quái của nhà ở là cố định, phương vị của Tọa
Hướng và cửa cũng theo đó mà xác định, nhưng do có thể đặt cửa ở hai bên trái
phải của bốn quẻ Ngẫu : Càn, Khảm, Tốn, Cấn , nên nhà ở thực ra có tới 12 Toạ
hướng và cửa khác nhau, đó là: Tọa nam Hướng bắc cửa Khảm, Tọa bắc Hướng nam cửa
Ly, Tọa đông hướng tây cửa Đoài, Tọa tây Hướng đông cửa Chấn, Tọa nam Hướng bắc
cửa Càn, Tọa đông Hương tây cửa Càn, Tọa bắc Hướng nam cửa Khôn, Tọa đông Hướng
tây cửa Khôn, Tọa nam Hướng bắc cửa Cấn, Tọa tây Phương đông cửa Cấn, Tọa bắc
Hướng nam cửa Chấn, Tọa tây Hướng đông cửa Chấn.
Đông tứ trạch : Đem
bát trạch phân làm 2 nhóm, Chấn trạch, Tốn trạch, Khảm trạch và Ly trạch là Đông
tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam
nguyên), nếu nằm ở bốn cung Chấn, Tốn, Khảm, Ly thì nên sống ở ngôi nhà Đông tứ
trạch.
Tây tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Càn
trạch, Khôn trạch, Cấn trạch, Đoài trạch là Tây tứ trạch. Đối chiếu xem cung
mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung
Càn, Khôn, Cấn, Đoài thì nên sống ở ngôi nhà Tây tứ trạch.
Khảm trạch : Một trong
bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở chính
hướng bắc Khảm, thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu
tinh của Khảm trạch theo chiều thuận lần lượt là Khảm (Phúc đức), Ngũ quỉ (đông
bắc )- Thiên ất ( chính đông ), Sinh khí (đông nam), Diên niên (chính nam),
Tuyệt mệnh (tây nam), Hoạ hại (chính tây), Lục sát (tây bắc ). Cửu tinh xuyên
cung bên trong trạch này tinh từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp
đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên
ngoài nhà ở thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa,
bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; Ở phương hung tinh thì nên làm
phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. ..Xem mục đông tứ
trạch.
Ly
trạch :
Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hướng
nam, mở cửa ở chính phương nam Ly, thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch.
Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Ly trạch theo chiều thuận lần lượt là Ly (Phúc
đức), lục sát (tây nam), Ngũ quỷ (chính tây), Tuyệt mệnh (tây bắc), Diên niên
(chính bắc), Hoạ hại (đông bắc), Sinh khí ( chính đông), Thiên ất (đông nam).
Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà
hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quì, Diên niên. Bất kể bên
trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao,
nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung
tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà
xí…
Chấn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ
trạch. Chỉ ngôi nhà tọa tây hướng đông, mở cửa ở chính hướng đông Chấn, thích
hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Chấn trạch
theo chiều thuận lần lượt là Chấn (Phúc đức), Diên niên (đông nam), Sinh khí (
chính nam), Hoạ hại (tây nam), Tuyệt mệnh (chính tây), Ngũ quỉ (tây bắc), Thiên
ất (chính bắc), Lục sát (đông bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính
từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh
khí, Ngũ quỉ, Thiên ất. Bất kể trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương bị cát
tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí giường ngủ, giếng nước,
chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà
bếp, cối giã gạo, nhà xí . .
Tốn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch.
Tốn trạch do toạ hưởng khác nhau mà chia làm hai; một là ngôi nhà tọa tây phương
đông, mở cửa ở hướng đông nam Tốn: hai là ngôi nhà toạ bắc hướng nam và mở cửa ở
hướng đông nam Tốn; thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp
Cửu tinh của Tốn trạch theo chiều thuận lần lượt là Tốn (Phúc đức), Thiên Ất (
chính nam), Ngũ quỉ (tây nam), lục sát ( chính tây), Hoạ hại (tây bắc), Sinh khí
(chính bắc), Tuyệt mệnh ( đông bắc), Diên niên ( chính bắc ). Cửu tinh xuyên
cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp
đến Diên niên, Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ bắc
hướng nam mở cửa hướng Tốn thì sắp xếp Cửu tinh cung giống như nhà toạ tây hướng
đông, lần lượt tính từ ngăn thứ nhất là Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí,
Ngũ quỉ . Bất kể toạ tây hay toạ bắc, bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở
phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ,
giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ,
nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí…
Càn trạch : Một trong
bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Càn trạch do toạ hướng khác nhau nên chia làm 2;
một là ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Càn tây bắc, và hai là ngôi
nhà toạ đông phương tây cũng mở cửa ở hướng Càn tây bắc; thích hợp với người
thuộc Tây tứ trạch. Nhà toạ nam hướng bắc thì phương vị sắp xếp Cửu tinh của Càn
trạch theo chiều thuận làn lượt là Càn (Phúc đức), Lục sát ( chính bắc), Thiên
ất ( đông bắc), Ngũ quỉ ( chính đông), Hoạ hại ( đông nam), Tuyệt mệnh ( chính
nam), Diên niên ( tây nam), Sinh khí ( chính tây ). Cửu tinh xuyên cung bên
trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục
sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ đông hướng tây mở cửa hướng
Càn thì Cửu tinh sắp xếp cũng giống như ngôi nhà toạ nam hướng bắc mở cửa hướng
Càn, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong là Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên
niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài loại nhà này thì ở phương vị cát
tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa bố trí phòng ngủ, giếng nước,
chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà
bếp, cối giã gạo, nhà xí. . .
Đoài trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch.
Chỉ ngôi nhà tọa đông hướng tây, mở cửa ở hướng chính tây Đoài thích hợp với
người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của trạch theo chiều thuận
lần lượt là Đoài (Phúc đức), Sinh khí (tây bắc), Hoạ hại (chính bắc), Diên niên
( đông bắc), Tuyệt mệnh ( chính đông): Lục sát (đông nam), Ngũ quỷ (chính nam),
Thiên ất ( tây nam ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ bản cung
(Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỹ,
Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát
tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước,
chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà
bếp, cối giã gạo, nhà xí .. .
Khôn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch.
Khôn trạch do tọa hướng khác nhau nên chia làm hai loại; một là ngôi nhà tọa
đông hướng tây, mở cửa hướng Khôn tây nam, và hai là nhà tọa bắc hướng nam, mở
cửa ở hướng Khôn tây nam, thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp
xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ đóng hướng tây, mở cửa hướng Khôn tây nam theo
chiều thuận lần lượt là Khôn (Phúc đức), Thiên ất (chính tây), Diên niên ( tây
bắc), Tuyệt mệnh ( chính bắc), Sinh khí ( đông bắc), Hoạ hại ( chính đông), Ngũ
quỹ ( đông nam ), Lục sát (chính nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này
tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Thiên ất, Diên niên,
Lục sát. Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất. Nhà tọa bắc hướng nam mở cửa hướng Khôn
tây nam cũng sắp xếp Cửu tinh giống như nhà tọa đóng hướng tây nói trên, còn Cửu
tinh xuyên cung bên trong tính từ dãy hoặc ngăn thứ nhất lần lượt là Lục sát,
Sinh khí, Ngũ quỷ Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài
hai loại nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng
cửa, bố trí phòng nghỉ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên
làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà
xí…
Cấn
trạch
: Một trong bát trạch . Thuộc Tây tứ trạch. Cấn trạch chia ra hai
loại, một là nha toạ tây phương đông mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, hai la ngôi
nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thích hợp với người thuộc
Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ tày hướng đông, mở cửa
ở hướng Cấn, Dần sơn, đông bắc, theo chiều thuận lần lượt là Cấn (Phúc đức). Lục
sát ( chính đông), Tuyệt mệnh (đông nam), Hoạ hại (chính nam), Sinh khí ( tây
nam), Diên niên ( chính tây). Thiên ất (tây bắc), Ngũ quỉ ( chính bắc). Cửu tinh
xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất,
tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngu quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Nhà tọa nam
hướng bắc , mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thì sắp xếp Cửu tinh cũng giống như nhà
tọa tây hướng đông, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, còn Cửu tinh xuyên cung bên
trong tính từ ngăn thứ nhất lần lượt là Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát,
Sinh khí.
Bất kể bên trong hoặc bên ngoài thì hai loại nhà này ở
phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ,
giếng nước: chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ,
nên bố trí nhà bếp, cói giã gạo, nhà xí… Đặc thù của Cấân trạch là ở Cấn là
Quỉ môn, mở cửa không tốt; chỉ nên mở cửa ở Dần sơn, Sửu sơn là hai bên phải
trái của Cấn son, chứ không thể ở chính Cấn sơn.
Chu địa : Địa hình bên ngoài
nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, gọi là Chu địa . Còn có tên khác
là đất Địa tàng. Quân tử cư trú ở đây tốt, chủ phú quí liên tục. Tiểu nhân mà cư
trú ở đất này thì hung. Câu ca nói : “Trung ương chính diện tứ diện cao, tu cái
trung trạch phúc hữu dư. Ngưu dương lục súc đa hưng vượng, gia đạo cao quí xuất
anh hào”. (Dương trạch thập thư).
Hàn địa : Địa hình bên
ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở rìa phía bắc cao, rìa phía nam thấp, gọi là Hàn địa .
Còn có tên là đất Trạch tàng. Cư trú ở đây cực tốt.
Tề địa : Địa hình bên
ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông có lưu thủy thì gọi là Tề địa. Cư trú ở
đây tốt.
Ngụy địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía
nam có lưu thủy thi gọi là Ngụy địa. Cư trú ở đây tốt.
Cung địa : Địa hình
bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, lại có vũng nước. Cư
trú ở đây tốt.
Lương thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở
bằng phẳng, không lồi lõm hoặc ở giữa hơi lồi lên một chút thì gọi là Lương thổ.
Cư trú ở đây tốt.
Tấn thổ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở
trước thấp sau cao thì gọi là Tấn thổ. Cư trú ở đây tốt.
Lỗ thổ: Địa hình bên
ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông thấp, phía tây cao, thì gọi là Lỗ thổ.
Con trai cả sống ở đất này thì hưng vượng, phú quí anh hào. Nếu địa thế âm trạch
mà phía đông thấp, phía tây cao, thì lại không Tốt.
Tề thổ: Địa hình bên
ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước cao sau thấp thì gọi là Tề thổ. Cư trú ở đây
không tốt
Vệ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn
phía cao, ở giữa thấp thì gọi là Vệ thổ. Cư trú ở đây không tốt
Tú thần tương ứng: Địa
hình bên ngoài nhà ở. Phàm phía đông nhà có dòng chảy là Thanh long, phía tây
nhà có đường đi là Bạch hổ, phía nam có ao hồ là Chu tước, phía bắc có gò đống
là Huyền vũ. Có đủ 4 thủ đó gọi là cách tứ thần tương ứng, là đất đại cát đại
quí. Cư trú ở đây cực tốt
Huyền vũ thú: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía sau
(phía bắc) nhà ở có gò đống hoặc công trình kiến trúc cao thì gọi là Huyền vũ
thủ ( Huyền vũ trấn giữ). Cư trú ở đây đại cát
Chu tước môn : Địa
hình bên ngoài nhà ở. Phía trước (phía nam) nhà ở địa thế trải rộng ra gọi là
Chu tước môn. Cư trú ở đây đại cát.
Tứ phương vị : Địa
hình bên ngoài nha ở. Bốn phía nhà ở bị các con đường bao vây, gọi là đất Tứ
phương vị. Cư trú ở đây rất xấu. Câu ca nói : “Tứ diện giao đạo chủ hung tàn,
họa khởi nhân gia bất khả đương, nhược bất tôn tài tai họa tử, đầu hà tự vẫn
tỉnh trung vong” (đường vây bốn phía chủ hung tàn, tai họa ập đến người ta kho
bề chống đỡ, nếu không tốn tiền thì cũng chết người, nhảy xuống sông xuống giếng
mà tự vẫn) (Dương trạch thập thư).
Huyết bàn chiếu kinh :
Địa hình bên ngoài nhà ở. Phong thủy dương trạch lấy phía trước nhà ở có ao hồ
hình vuông là “Huyết bàn chiếu kính”. Cư trú ở đây rất xấu. Có thuyết nói rằng
phàm phía trước nhà mà có đào ao hồ mới thì đều là Huyết bàn chiếu kính, không
tốt. Câu ca nói : “Nhược hữu thử đường đương diện tiền, đại đại lao tật bất thậm
ngôn. Nhất đường tiện đoạn nhất nhân táng, hà sủng bất dữ ngoại nhân truyền”
(nếu nhà có ao vuông ở ngay phía trước, thì đời nọ tiếp đời kia bị bệnh lao, mỗi
ao làm chết một mạng người).
Tây ích trạch : Địa hình bên ngoài nhà ở. Tức là làm
thêm phòng ốc vào phía tây ngôi nhà cũ. Phong tục cổ của người Trung Quốc cho
rằng Tây ích trạch là không tốt.
Phong tục này có từ thời Xuân thu Chiến quốc, rất thịnh hành
vào đời Hán, là một trong điều đại kỵ. Sách Phong tục không giải thích : “Phong
tục coi phía tây là cao nhất, làm thêm phòng ốc ở phía đó sẽ hại cho chủ nhà,
nên mới có sự cấm ky đó”. Có thuyết nói Đông ích trạch (làm thêm phòng ốc vào
phía đông nhà cũ) cũng không tốt.
Xung hạng : Địa hình
bên ngoài nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính của nhà ở bị đường hẻm đâm thẳng vào.
Cư trú ở đây không tốt. Phong thủy dương trạch coi đường hẻm là thủy đạo (dòng
nước ), Xung hạng chẳng khác gì bị dòng chảy xối, bắn thẳng vào, cho nên phải
tránh. Cách né tránh là làm cổng chếch đi hoặc dùng bùa trấn
áp.
Chúng
để sát
: Địa hình bên ngoài nhà ở . Ch ỉ ngôi nhà nằêm trái ngược với hướng
của các công trình xây dựng xung quanh. Không tốt. Thuật Phong thuỷ mượn cách
này để nhấn mạnh tính nhất trí, hài hòa của cả quần thể kiến
trúc.
Địa
đài
: Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ khoảng đất trống đằng trước nhà, tức
Minh đường. Yêu cầu Địa đài của nhà này không được cao hơn Địa đài của hai nhà
bên phải bên trái: nếu hói thấp mọt chút nhưng đừng trũng thì
tốt.
Đột
khuy
: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm một trong 4 phía nhà có chỗ vết lõm
vào hoặc lồi ra thì gọi là Đột khuyết. Cổ nhân mê tín cho rằng nếu phần lõm vào
dài không quá 2/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Khuyết, hung (xấu); nếu lồi ra
không quá 1/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Đột, cát (tốt). Song nếu Đột (lồi
ra) ở hai hướng đông bắc và tây bắc thì cát biến thành hung. Ngoài ra, đột tuy
là cát, Khuyết tuy là hung, nhưng còn phải xem năm sinh của chủ nhà phối với
phương vị Cửu tinh, có thể cát biến thành đại cát, hung biến thành đại hung tại
phương vị có đột khuyết.
Kiều lương : Địa hình bên ngoài nhà ở. Nói chung Thuật Phong
thủy nghiêm cấm làm cầu ở 4 phía nhà ở, vì cho rằng bốn phía có cầu là bị bắn
thẳng, ở nhà đó con cháu sẽ khiếp nhược, gia sản lụn bại. Hung. Câu ca nói :
“Nhất kiều cao giá trạch sảnh tiền, tả hữu tương đồng hậu diệc nhiên, bất xuất
tam niên tịnh ngũ tái, gia tư đãng tận mại điền viên” (Dương trạch thập thư)
(trước nhà hai bên nhà mà có một chiếc cầu thì chỉ trong vòng ba năm gia sản sẽ
khánh kiệt phải bán cả ruộng vườn). Nếu nhà ở bên cạnh cầu thì phải trấn yểm
thường dùng bia đá dựng ngay trước cầu. Một thuyết khác nói rằng nếu quanh nhà
có cầu, thì cân phân biệt cầu ở phương nào, phương suy hay phương vượng; phương
suy mà có cầu thì hung, phương vượng mà có cầu thì cát. Nếu Chu tước (phía nam)
có cầu, không kỵ; nếu Thanh long (phía đông) có cầu, gia đình bình an. Đối với
làng xóm, thị trấn, có khi người ta sử dụng cầu ở thủy khẩu để phong toả sinh
khí, ngăn chặn gió thổi, là một yếu tố quan trọng của Phong thủy nơi đó. Phong
thủy âm trạch thì không coi trọng lắm sự hiện diện hay không của những cây
cầu.
Văn bút
tháp : Kiến trục hình tháp. Vì hình dáng giống cây bút, lại cĩ quan hệ tới sự đỗ
đạt, nên có tên gọi đó. Còn gọi là “Văn phong tháp”. Thuật Phong thủy cho rằng,
nếu một thành phố hoặc thôn trấn nào đó mà việc văn chương khoa cử yếu kém, thì
tại 4 phương vị là Giáp sơn (chính đông thiên bắc), Tốn sơn (đông nam), Bính sơn
(chính nam thiên đông), Đinh sơn (chính nam thiên tây ) nên chọn mảnh đất tốt mà
xây Văn bút tháp. Bất kể địa thế nơi ấy thế nào, tháp đều phải cao hơn mọi công
trình kiến trúc khác, thì sẽ có những người đỗ cao. Có khi người ta đắp đất đá
làm hòn giả sơn, cũng được gọi là Văn bút phong, Văn bút sơn.
Ngũ hư ngũ thục : Địa hình
bên trong nhà ở. Chỉ 5 trạng thái cát hung của kết cấu bên trong nhà ở. Thuật
Phong thủy coi 5 điều sau là “Ngũ hư “: nhà lớn mà ít người cư trú, cổng lớn mà
nhà nhỏ, tường rào không trọn vẹn, giếng và bếp bố trí sai phương vị, nhà rất
lớn mà ít phòng ốc; 5 điều sau là “ngũ thực” : nhà nhỏ mà đông người, nhà lớn mà
cổng cửa nhỏ, tường rào hoàn chỉnh, nhà nhỏ nhưng nhiều gia súc, nước ở phía
trước và phía sau nhà chảy về phía đông nam. Ngũ hư làm cho nghèo hèn, còn Ngũ
thực làm cho người ta phú quí. Thực ra đó là khuynh hướng xây dựng những ngôi
nhà cỡ vừa và nhỏ, đồng thời khuyên người ta chú ý hoàn thiện kết cấu không gian
bên trong nhà ở. 
Xuyên cung cửu tinh : Địa
hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định tình trạng cát hung của các ngăn hoặc
dãy phòng, để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà ở. Tuy mang tên Cửu tinh (9
sao), nhưng thực ra chỉ sử dụng 5 sao là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất,
Diên niên, tương ứng với ngũ hành hỏa, thổ, kim, thủy, mộc, sắp xếp theo trật tự
thuận cố định, không thay đổi, trong đó Lục sát, Ngũ quỉ là hung tinh, dãy hoặc
ngăn phòng ốc nào có hai sao đó thì nên làm nhỏ, thấp, con ba sao Sinh khí,
Thiên ất, Diên niên là cát tinh, phòng ốc nào có 3 sao ấy thì nên làm cao rộng.
Phương pháp sắp xếp cụ thể phải kết hợpvới phương vị Bát trạch cửu tinh. Trước
tiên, xem cửa chính của ngôi nhà mở về hướng nào, là sao nào, lấy sao ấy làm đại
diện cho ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất, sau đó lần lượt 4 sao kia theo trật tự
cố định, thì có thể biết ngăn nào là sao gì. Ví dụ, ngôi nhà toạ đông hướng tây,
mở cửa về hướng Khôn tây nam, chính giữa phương mở của, tức phương chính tây, là
sao Thiên ất; vậy Thiên ất là ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất nên làm cao, rộng.
Trong trật tự cố định, Thiên ất ở vị trí thứ tư tiếp sau nó là sao Diên niên.
Vậy Diên niên là người thứ hai, phòng này cũng nên cao rộng. Tiếp sau Diên niên
sẽ trở lại từ đầu, là sao lục sát, ngăn thứ ba, với sao này, phòng nên thấp nhỏ.
Ngăn thứ tư là sao Sinh khí, phòng này nên cao to. Ngăn thứ năm là Ngũ quỉ, nên
thấp nhỏ. Ngăn thứ sau lại là Thiên ất nên làm cao to. Ví dụ khác, ngôi nhà tọa
tây hướng đông, mở cửa hàng Cấn. Chính giữa phương mở cửa tức đông bắc là sao
Lục sát, thì lấy Lục sát làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên
ất, Diên niên, Lục sát.
Nếu ngôi nhà mở cửa ở phương vị Tứ chính, thì ngăn thứ nhất
là Hán cung Phúc đức phòng ốc nên làm cao to hoặc vừa phải. Ngăn thứ hai là Lục
sát, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Ví dụ, ngôi nhà toạ nam
hướng bắc, mở cửa tại phương Khảm chính bắc, thì Khảm là Bản cung Phúc đức, lấy
đó làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, là dãy thứ hai, Sinh khí là dãy thứ ba;
Ngũ quỷ là dãy thứ tư; Thiên ất là dãy thứ năm, Diên niên là dãy thứ sáu. Bất kể
nhà nào, nếu cửa của dãy thứ nhất mở ra phía ngoài, thì từ dãy thứ hai tính là
Lục sát, mà không tính đến Cửu tinh theo phương vị tứ chính nữa. Xuyên cung Cửu
tinh gặp sao Sinh khí (Tham lang, Mộc) cư ở Trung cung, còn gọi là Cát tinh
đương hung, phòng ốc không nên cao to, là một trường hợp ngoại lệ. Phương vị sắp
xếp Bát trạch cửu tinh hữu quan, xin xem thêm các mục Bát
trạch.
Tài
lộ phân phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định cát hung của từng
ngăn (hoặc dãy) phòng ốc trong một toà nhà. Căn cứ Đại du niên biến hào pháp và
tam nguyên pháp có thể tính toán cung Phúc đức của chủ nhà nằm ở đâu và từng
người nên ở loại nhà nào; nhưng trong cùng một toà nhà, cỏ rất nhiều nhân khẩu,
già trẻ, trai gái, mệnh rất khác nhau. Cho nên Phong thủy dương trạch lại có
phép Tài lộ phân phòng để giải quyết tình trạng đó. Phép này tính Cửu tinh cho
từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc , theo toạ hướng và phương mở cửa của chúng. Trình
tự sắp xếp Cửu tinh có thể biết nhờ phép Đại du niên biến hào pháp. Ví dụ, nhà
toạ nam hướng bắc, cửa Khảm, chủ nhà là người thuộc Đông tứ trạch. Trong nhà đó
ngăn thứ nhất mở cửa Khảm, thích hợp cho người thuộc Đông tứ trạch cư trú. Ngăn
thứ hai được ngăn cách bằng tường vách, mở cửa Đoài (chính tây) , ắt thành nhà
toạ đông hướng tây, cửa Đoài, là Tây tứ trạch, thích hợp cho người nào mạng
thuộc Tây tứ trạch cư trú. Trình tự sắp xếp Cửu tinh của ngăn này giống như ở
ngôi nhà toạ đông hướng tây mở cửa Đoài, ở phương vị cát tinh nên làm phòng ốc
cao to, còn ở phương vị hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, người chủ nên ở
phương vị cát tinh. Lại còn phải chú ý kết hợp phương vị cát hung tinh từng ngăn
(hoặc dãy) trong nhà với toàn bộ toà nhà; nếu phương vị cát tinh của một ngăn
trùng với cát tinh của cả tòa nhà, thì đương nhiên là đã tốt càng thêm tốt;
ngược lại, nếu hung tinh của ngăn ấy cũng là hung tinh của cả toà nhà, thì đã
xấu càng thêm xấu; nếu cát tinh lẫn lộn với hung tinh, thì nên làm phòng thấp
nhỏ hoặc vừa phải, tùy tình hình cụ thể mà xác định. Trong một nhà, vợ chồng
không nên ở hai dãy khác nhau, nếu cung Phúc đức khác nhau, thì lấy của chồng
làm chính. Thuyết tài lộ phân phòng nhằm chứng minh một đại gia đình có thể đoàn
tụ ở một nơi.
Khai môn : Địa hình bên
trong nhà ở. Xác định phương vị, ngày giờ tu sửa hoặc làm và kích thước của cổng
và cửa các phòng của ngôi nhà là một nội dung quan trọng của phong thủy dương
trạch. Thuật Phong thủy cho rằng người sống trong nhà bị cách biệt với sinh khí,
phải dựa hoàn toàn vào sự thông thoáng khí, nên Khai môn rất quan trọng. Câu Ca
nói: “Ninh dữ nhân gia tạo thập phần, bất dữ nhân gia tu nhất môn” (Thà làm cho
người ta mười cái mộ còn dễ hơn sửa một cái cửa) (Dương trạch thập thư). Trình
tự Khai môn cụ thể như sau : trước hết, xác định phương vị Bát trạch. Thường lấy
phương vị cung Phúc đức của chủ nhà hoặc phương cát tinh làm phương vị Khai môn,
nếu nhầm lẫn thì rất xấu. Trước cổng không nên có Sa, Thuỷ xối thẳng vào, không
nên là đường gập ghềnh nguy hiểm, không nên có cây khô, đền miếu, không nên đối
diện hoàn toàn với cổng nhà khác, không nên bị đường hẻm đâm thẳng tới. Trên
cổng không được xây lầu, chủ bất lợi cho chủ nhà. Cổng lớn và cửa từng dãy, từng
ngăn trong nhà không được nằm trên một đường thẳng, để sinh khí khỏi bị tiết
thóat đi mất. Thứ nữa, tu tạo cổng cửa phải chọn ngày lành tháng tốt, mùa xuân
không được Khai môn ở Phía đông, mùa hạ ở phía nam, mùa thu ở phía tây, mùa đông
ở phía bắc. Làm cổng, cửa kỵ các sao như Cửu lương, Đại hao, Tiểu hao, Khưu công
sát, cộng cả thảy hơn 10 điều cấm kỵ. Lại có Môn quang pháp tính toán ngày lành
hợp thì tốt, không hợp mà làm thì xấu. Thứ ba kích thước của cổng, cửa phải theo
qui định, không được tùy tiện. Nội dung luận thuật của Phong thủy dương trạch về
Khai môn có phần phù hợp yêu cầu bảo đảm ánh sáng và sự thoáng khí, là có giá
trị. Còn qui định kích thước tỉ mỉ là mang tính chất mê
tín.
Khí khẩu : Địa hình
trên trong nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính. Thuật Phong thuỷ cho rằng ngôi nhà
tiếp nhận khí ở cổng, cửa, giống như người hít thở bằng miệng, nên gọi là khí
khẩu. Yêu cầu kiến tạo ở phương vị cát tinh để đón khí tránh
hung.
Phúc đức môn : Địa hình bên trong nhà ở. Thuật Phong
thủy qui định rằng phàm là chùa chiền (của Phật giáo) tọa ở 7 phương vị là Khảm
(chính bắc), Cấn (đông bắc), Chấn (chính đông), Tốn (đông nam), Ly (chính nam),
Khôn ( tây nam), Đoài ( chính tây), đều có thể mở cổng cửa ở chính giữa. Duy tọa
ở phương vị Càn (tây bắc) thì không được Khai môn ở Thìn, Tốn, Ty sơn, tức ở
chính hướng đông nam đối diện; mà phải thiên sang ất sơn, như thế gọi là Phúc
đức môn, đại cát.
Thanh long môn : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ ngôi
nhà tọa bắc hương nam mở cổng hoặc cửa ở phương vị đông nam (vị trí Tốn), gọi là
Thanh long môn, cực tốt. Theo thuyết Bát trạch, toạ bắc hướng nam có 3 loại nhà,
một toạ bắc hướng nam Ly môn, hai, toạ bắc hướng nam Tốn môn, ba, toạ bắc hướng
nam Khôn môn. Hai loại đầu thi vị trí Tốn chính là cát tinh Thiên ất, Phúc đức;
còn loại thủ ba vị trí Tốn là sao Ngũ quỉ, rất xấu.
Nội lộ : Địa hình bên
trong nhà ở. Chỉ lối đi trong nhà. Trong nhà có một cưa thì chỉ có một lối đi.
Yêu cầu lối đi trong nhà không được xuyên thăng từ cổng vào đến cuối
cùng.
Ngoại lộ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ các con
đường bên ngoài không nên đâm thẳng vào cổng không nên vây quanh tứ phía hoặc
kèm hai bên.
Hỏa yên : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc.
Thuật Phong thủy cho rằng khói lửa là vật không lành, cho nên nhà bếp nên bố trí
ở phương vị có hung tinh trong nhà để hun khói hung thần sát khí. Nếu đặt ở
phương vị cát tinh, thì sẽ làm ô uế thần phúc sinh khí, cực hung. Câu ca nói :
“Càn Bính Cấn ất vị hỏa yên, Khôn Đoài Quý thượng thị căn nguyên, Chấn Tốn hỏa
yên Canh thượng thị, Khảm Ly Giáp thượng bất hư truyền” (Dương trạch thập thư ),
nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính sơn, Cấn trạch thì bếp ở ất
sơn; Khôn trạch và Đoài trạch thì bếp ở Qúy sơn; Chấn trạch và Tốn trạch thì bếp
ở Canh sơn; Khảm trạch và Ly trạch thì bếp ở Giáp sơn, đều là phương vị hung
tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phương vị cát tinh. Có thuyết nói Hoả
yên là hương hỏa từ đường, hướng coi đó là Phục vị Phúc đức, đều là dị thuyết về
Phong thủy dương trạch, không đáng tin.
Hóa lộ : Địa hình bên
trong nhà ở. Chỉ bếp núc, tức Hỏa yên. Câu ca nói : “Càn trạch toạ Bính Chấn toạ
Canh, Đoài trạch Qúy vị Tốn trạch Tân. Khảm trạch toạ Giáp Ly tu Ất, Cấn trạch
tọa ất Khôn trạch Nhâm” ( Dương trạch thập thư) nghĩa là đối với Càn trạch thì
bố trí bếp ở Bính sơn. Chấn trạch thì bếp ở Canh sơn; Đoài trạch thì bếp ở Quý
sơn, Tốn trạch thì bếp ở Tân sơn, Khảm trạch thì bếp ở Giáp sơn; Ly trạch thì
bếp ở Ất Sơn. Cấn trạch thì bếp ở Ất sơn. Khôn trạch thì bếp ở Nhâm sơn, đều là
phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phương vị cát tinh.
Thuyết này câu ca hơi khác so với Hỏa yên.
Phóng thủy : Địa hình
bên trong nhà ở. Chỉ việc xả nước của nhà ở. Phong thủy dương trạch rất coi
trọng Phóng thủy. Lôi xả nước có qui định hết sức nghiêm ngặt, theo nguyên tắc
chung là dương sơn thì xả dương, âm sơn thì xả âm. Nghĩa là nước của phương vị
dương sơn phải chảy ra từ dương sơn, mà nước của phương vị âm sơn thì phải chảy
ra từ âm sơn. Trong 24 sơn, thì Càn, giáp, khôn, ất, tý, qúy, thân, thìn, nhâm,
dần, ngọ, tuất là dương sơn, còn Cấn, bính, tốn, tân, dậu, đinh, tỵ, sửu, canh,
hợi, mão, mùi là âm sơn. Cưả xả nước lại chỉ được ở phương vị Thiên can, cái gọi
là “Phóng thủy chỉ tòng thiên thượng khứ” (Dương trạch thập thư ). Từ dương sơn
chảy ra dương thủy, chủ phú quí tột bậc. Từ âm sơn chảy ra âm thủy, chủ có nhiều
con cháu. Nêu lẫn lộn âm dương, tai họa sẽ dồn dập. Phóng thủy còn phải liên
quan tới phương vị Cửu tinh. Phương vị Tham lang, Văn Khúc, Vũ khúc, thủy chảy
đến thì đại cát, thủy chảy đi thì hung. Phương vị Cự môn, Phụ bật, thủy đến và
đi đều cát. Phương vị Lộc tồn, Liêm trinh, Phá quân, thủy nên chảy đi, không nên
chảy đến. Thủy chảy đến hoặc chảy đi trên phương vị Cửu tinh sẽ có ảnh hưởng
không giống nhau tới chủ nhà. Ví dụ thủy Tham lang chảy đến thì chủ con trưởng
hưng vượng, thủy Cự môn chảy tới, thì con thứ phát triển; thủy Lộc tồn chảy đến,
chủ trong nhà sẽ có quả phụ; thủy Văn khúc chảy đến, chủ con thứ bị suy kém.
Phóng thủy ngoài việc phải theo qui định về phương vị chảy đến và chảy đi, còn
có những điều nên hoặc không nên, chẳng hạn kỵ chảy thẳng, xuyên ngang, phân
nhánh hình chữ Bát; kỵ chảy ngầm bên dưới phòng ốc, tối kỵ chảy xuyên qua cổng.
Nên chảy vòng, men bên cạnh. Tốt nhất là uốn lượn ngoằn ngoèo mà chảy đi. Phóng
thủy (xả nước, thoát nước) là yếu tố tất nhiên phải suy tính khi xây dựng nhà ở.
Thuật Phong thủy đề ra hàng loạt yêu cầu hoàn chỉnh về mặt này, có nhiều điều
đáng tiếp nhận, chẳng hạn cống thoát nước không nên chảy xuyên qua sân, không
nên chảy qua dưới lòng nhà, không để trong nhà qua mức ẩm thấp, nhưng về mặt
phương vị cát hung thì mang màu sắc mê tín.
Thủy phá Thiên tâm:
Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước trong nhà chảy xuyên thẳng hoặc
tràn ngang qua nhà, hung. Nếu xuyên thẳng qua nhà còn gọi là “Bão thương
sát”.
Bão
thương sát :
Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước trong nhà chảy
xuyên thẳng qua giữa nhà; còn gọi là “Thủy phá Thiên tâm”, hung. Xả nước xéo qua
nhà cũng gọi là Bão thương sát. Hung.
Khốn tự : Địa hình bên
trong nhà ở. Phàm làm nhà mà xây tường rào vày xung quanh trước, sau đó mới xây
phòng ốc, gọi là “khốn tự”, vì giống hình chữ “Khốn”. Chủ nhà này sẽ không thể
phát đạt, hưng vượng nổi.
Đình táng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà đã làm
xong, lại làm thêm một phòng ốc nhỏ ở phía sau, gọi là Đình táng, không tốt. Ai
sống trong căn phòng làm thêm ấ thì đại hung.
Long đốn trạch : Địa
hình bên trong nhà ở. Sau phòng ở làm nhà kho, gọi là Long đốn trạch. Vì phía
sau nhà là Lai long, nên có tên như vậy.
Xuyên tâm sát : Địa
hình bên trong nhà ở. Phàm lối đi bên trong hoặc đường đi bên ngoài đâm thẳng
vào cổng nhà thì gọi là Xuyên tâm sát.
Qui đầu : Địa hình bên
trong nhà ở. Phàm nhà tọa bắc hướng nam mà làm thêm phòng ốc ở phía trước, gọi
là Qui đầu, vì giống con rùa thò đầu ra. Được giải thích là nhà đó sẽ bị hao tài
tốn của.
Thanh long đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ nhà ở
có phòng ốc phía bắc, phía đông, mà không có phòng phía tây, gọi là Thanh long
đầu; ngược lại thì gọi là Bạch hổ đầu. Bạch hổ đầu Câu ca nói : “Thử ốc danh vi
Thanh long đầu, tất chủ trưởng phòng y thực sầu. Tại gia cô quả chủ trưởng bại,
xuất khứ bất hồi không ỷ lâu” (nhà kiểu Thanh long đầu thì con trưởng suy bại,
nghèo khổ). “Thử ốc danh vi Bạch hổ đầu, tất chủ tiểu phòng y thực sầu. Ấu nam
cô quả tất tổn bại, tiện kiến nguyên nhân tại lí đầu” (nhà kiểu Bạch hổ đầu thì
con thứ suy bại, nghèo khổ) ( Dương trạch thập thư ).
Thanh long phệ đầu tháp vĩ :
Địa hình bên trong nhà ở. Căn phòng phía đông mà đầu nam nối với một phòng nhỏ,
gọi là .”Thanh long phệ đầu”, đầu bắc nối với một phòng nhỏ, gọi là “Thanh long
tháp vĩ”. Câu ca nói: “Thanh long tháp vĩ cộng phệ đầu, nhất niên lục độ trưởng
tử sầu, tiền tài phá tán nhân tật bệnh, thời thời ương quái chí môn đầu” (ở nhà
kiểu Thanh long co đầu rụt đuôi thì con trưởng trong một năm sáu lần gặp chuyện
buồn, như hao tài tốn của, bệnh tật, tai ương dồn dập) (Dương trạch thập thu ).
Ngoài ra, nếu trong nhà mà phòng phía bắc, phòng phía tây, phòng phía nam nối
với một phòng nhỏ, thì gọi là Huyền vũ phệ đầu tháp vĩ, Bạch hồ phệ đầu tháp vĩ,
Chu tước phệ đầu tháp vĩ, đều là những kiểu không lành, cần giỡ bỏ hoặc trấn
yểm.
Đằng
xà cử đầu
: Địa hình bên trong nhà ở. Tại gốc đông bắc của nhà ở xây thêm
một phòng nhỏ, gọi là Đằng xà cử đầu. Câu ca nói : ” Đằng xà cử kỳ đầu, cư gia
đa hữu ưu, lục súc gia tài tan, tật bệnh sự bất hưu” (Ở nhà kiểu Đằng xà ngóc
đầu thì gặp nhiều chuyện lo buồn như hao tài tốn của, bệnh tật liên miên, gia
súc chết) (Dương trạch thập thư).
Tả hữu tích xạ : Địa
hình bên trong nhà ở. Góc nhọn của nóc phòng chính chĩa thẳng sang phòng phía
đông và phòng phía tây ở hai bên phải trái thì gọi là Tả hữu tích xạ. Câu ca nói
: “Oác tích xạ tả phòng, trưởng tử mệnh tiêu vong. Oác tích xạ hữu phòng, ấu tử
chủ li hương, nhược hoàn tề lai xạ, xạ đắc lãng đãng quang” (Phòng phía đông chủ
con trưởng, phòng phía tây chủ con út. Góc nhọn nóc nhà chĩa sang phòng bên trái
thì con trưởng chết trước, chĩa sang phòng bên phải thì con út phải rời bỏ quê
hương) (Dương trạch thập thư)
Trùng âm phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà chỉ có
phòng phía nam hoặc phòng phía tây mà không có phòng phía bắc, phía đông, thì
gọi là Trùng âm phòng. Câu ca nói : ” âm thịnh dương suy tối bất cường, nữ nhân
hưng vượng nhi bất trưởng. Đạo tặc quan sự đô vô số, tuyệt liễu hậu đại thiểu
nhi lang” (Âm thịnh dương suy thì nữ mạnh, nam yếu, ở nhà này sẽ gặp kiện tụng,
trộm cướp và không có con trai nối dõi) (Dương trạch thập thư)
Cô dương phòng : Địa
hình bên trong nhà ở. Nhà chỉ có phòng phía bắc gọi là Cô dương phòng. Câu ca
nói : “Chỉ hữu nhất bắc phòng, nam vượng nữ tao ương, tiền tài chủ phá tán, niên
niên hữu bất tường” ( Nhà chỉ có phòng phía bắc, thì nam vượng, nữ gặp tai ương,
hao tài tốn của, năm nào cũng có tai họa) (Dương trạch thập
thư).
Giang thi phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Bất kể
phòng nào, phàm ở giữa cao lớn mà hai bên phòng xép thấp nhỏ, thì gọi là Giang
thi phòng ( Phòng gánh xác chết). Câu ca nói : “Xung thiên lạc địa lưỡng đầu đê,
tam niên lưỡng độ tổn nam nữ. Hựu chủ giang thi tịnh ngoại tử, thái tuế đương
môn vô cải di” ( Nhà kiểu Gánh xác chết thì ba năm gặp hai cái tang, một nam một
nữ) (Dương trạch thập thư)
Đơn nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ơû đầu phía
đông của căn phòng phía bắc làm thêm một phòng xép thì gọi là Đơn nhĩ phòng. Câu
ca nói : “Đường ốc đông đầu tiếp tiểu phòng, trạch trung tiểu khẩu tu tao ương,
tam niên lưỡng độ ứng nan miễn, nhân khẩu lục súc hữu tổn thương” ( Nhà kiểu Đơn
nhĩ phòng thì dễ bị tai họa, ba năm hai lần bị tổn hại về người và gia súc)
(Dương trạch thập thư).
Song nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở cả hai
đầu của căn phòng phía bắc đều làm thêm phòng xép, thì gọi là Song nhĩ phòng.
Câu ca nói : “Bắc phòng lưỡng đầu đô hữu phòng, trạch trung lão thiếu thường
bệnh ương, ám phong huyết khí tịnh hoàng thũng, hạch thấu sinh phong chủ ôn
hoàng” (Ở nhà kiểu Song nhi phòng thì già trẻ đều dễ bị các loại bệnh như ho
lao, phù thũng…) (Dương trạch thập thư).
Tiểu tự phòng : Địa
hình bên trong nhà ở. Đằng trước nhà lại xây một phòng chính chắn ngang, gọi là
Tiểu tự phòng. Câu ca nói : ” Mạc cái Tiểu tự phòng, dương nhân hữu tai ương.
Nhân khẩu đa hữu bệnh, nhất niên lưỡng độ vong” (chớ nên làm nhà kiểu chữ Tiểu
mà nam giới bị bệnh, một năm có hai người chết) (Dương trạch thập
thư).
Thủy tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở hai bên
phòng chính lại có phòng, gọi là Thúy tự phòng. Câu ca nói : “Mạc cái Thủy tự
phòng, âm nhân hữu tai thương, đa phục cổ độc tử, nhất niên lưỡng độ vong ( chớ
nên làm nhà kiểu chữ Thủy mà nữ giơi bị bệnh cổ trướng, một năm có hai người
chết ) ( Dương trạch thập thư).
Vương tụ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Từ phòng
chính nhô ra hai bên đông tây hai phòng như hình chữ Vương, gọi là Vương tự
phòng. Câu ca nói : “Mạc cái Vương tự phòng, gia trương tất tai ương, thũng khí
tịnh cước tật, âm nhân tất tổn thương” ( chớ nên làm nhà kiểu chữ Vương mà gia
trưởng bị tai ương, bệnh phù thũng, phù chân, nữ giới bị tổn thương) ( Dương
trạch thập thư).
Lộ cốt phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Khi làm nhà
để lộ ra các đầu keo bằng gỗ ở mái hiên, gọi là Lộ cốt phòng. Câu ca nói :
“Nhưọc cái Lộ cột phòng, lão gia bệnh trước sàng, sổ niên tần tần khổ, bất miễn
mại điền trang” (chớ nên làm nhà kiểu lộ xương mà người già sẽ ốm liệt giường
mấy năm, phải bán sạch ruộng vườn ) (Dương trạch thập thư).
Trạch thần : Thần cai
quản nhà ở. Có thuyết lấy thần thổ địa làm Trạch thần, có thuyết lấy ông Táo làm
Trạch thần.
Chủng thụ thuyết : Qui định của Thuật Phong thủy về
việc trồng cây. Nhin chung có thể chia ra hai loại, khung cảnh lớn và khung cảnh
nhỏ. Trong khung cảnh lớn, để bảo vệ cây cối là chính, Thuật Phong thủy cho rằng
cây co là da và lông của Long, mà lai long là mạch máu sở tại của nhà ở và mộ
phần, chặt cây ắt Long bị tổn thương. Hơn nữa, cây mọc ở phương vị tốt, chặt cây
tức là trừ bỏ điều lành ; cây mọc ở phương vị hung, chặt cây tức là kích động sự
hung hãn. Do đó nghiêm cấm chặt cây. Có khi chủ trương trồng cây một cách có chủ
đích, ví dụ nếu hậu sơn Lai long và Sa hai bên tả hữu thưa thớt cây cỏ, thì có
thể dùng sức người trồng cây cho khói thưa thớt. Bờ thủy khẩu và trên núi cũng
có thể trồng cây để bảo đảm tính kín đáo của thủy khẩu.
Trong khung cảnh nhỏ, chủ yếu
trong phạm vi nhà ở, thì có nhiều thuyết phức tạp, trồng cây ở vị trí nào phải
theo qui định rất nghiêm ngặt. Chẳng hạn, ở phía đông trồng cây hạnh, chủ nhà sẽ
say mê tửu sắc, toàn gia ly tán, hung. Tại phía bắc có cây mận, phía tây có cây
đào, thì người nhà ấy dâm tà, hung. Bốn phía quanh nhà đều có hoa hồng, thì chủ
nhà nát rượu, hung. Còn trồng đào, liễu ở phía đông, cây du, cây quất ở phía
tây, cây mai cây táo ở phía nam, cây hạnh cây thị ở phía bắc, thì cát. Trước cửa
giữa trồng hoè, ba đời phú quí; sau nhà có cây du, ma quỉ chẳng dám bén mảng.
Tùng, trúc cũng là những thứ cây lành. Câu ca nói : “Thanh tùng úc úc trúc y y,
khí sắc quang dung hảo trú cơ” ( tùng xanh trúc vàng từng khóm làm đẹp cảnh sắc
nhà cửa) ( Dương trạch thập thư). Nếu địa hình làm nhà trái qui tắc, dẫn tới
hung họa, cũng có thể trồng cây để biến hung thành cát. Thuật Phong thủy rất coi
trọng cây cối ở trước cổng. Qui định rằng trước cổng không được cò cây lớn,
không được có một cây độc nhất, không được có cây rỗng ruột, không được có cây
cành sứt sẹo, không được trồng bụi mây song … Thuyết trồng cây trong Thuật
Phong thủy tuy có yếu tố mê tín, song cũng có tính khoa học của
nó.
Biện
thổ pháp
: Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt
xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định làm nhà, ta đào một cái hố vuông,
mỗi chiều 1 thước 2 tấc, độ sâu cũng vậy. Đất đào lên đem đập vụn, sàng qua, rồi
đổ xuống hố, lấp đầy thì thôi, không được nén. Sáng sớm hôm sau ra đó quan sát,
nếu thấy đất trong hố lồi lên, chứng tỏ sinh khí dồi dào, làm nhà rất tốt; nếu
thấy hố lõm xuống, chứng tỏ sinh khí suy kiệt, làm nhà ắt là hung. Biện thổ pháp
giống như Xứng thổ pháp, là phương pháp khảo sát xác định chất đất thời cổ cua
Trung Quốc.
Xứng thổ pháp : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử
dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định
làm nhà, ta lấy một cục đất vuông, mỗi chiều 1 tấc. Đem cân lên, nếu nặng 9 lạng
là đất tốt, nặng 5 – 7 lạng là đất tốt vừa, nên làm nhà; còn chỉ nặng 4 lạng trở
xuống là đất dữ, không nên làm nhà. Hoặc đào đất, đập nát, dùng đấu mà đong rồi
cân. Nếu mỗi đấu cân nặng 10 cân là rất tốt, nặng 8 – 9 cân là tốt vừa, nặng 7
cân cũng tốt. Phương pháp này là sự tổng kết kinh nghiệm lâu đời mà có, xác định
độ bền của nền đất xây dựng khá chính xác.
Thổ sắc : Phương pháp
mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt xấu. Người ta quan sát màu
sắc của đất nơi đào mộ hoặc làm nhà, chia ra 5 loại màu : đỏ, vàng, trắng, xanh,
đen. Ba màu đỏ, vàng, trắng là tốt nhất, màu xanh kém hơn, xấu nhất là màu
đen.
Tục
khí
: Tức là tiếp tục sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng nhà ở sau một thời
gian sẽ hết sinh khí, cần được tiếp tục bồi bổ sinh khí. Cũng có phân biệt Bát
trạch mà qui định thời hạn khác nhau. Ví dụ, Càn trạch sau 40 năm hết sinh khí ,
Khôn trạch sau 50 năm… Khi đó phải Tục khí (hoặc Hoán khí, nghĩa là dùng gạch
mới, đất mới tu tạo nhà ở).
CHỌN LỰA VÀ TRẤN YỂM
Mệnh chủ : Chủ nhân
của ngôi nhà. Cổ nhân cho rằng nam sinh của mỗi người khác nhau, nên cung mệnh
sở thuộc cũng khác nhau. Phong thủy dương trạch yêu cầu căn cứ cung mệnh của chủ
nhà mà tính toán thuộc tính của ngôi nhà để xác định phương vị lành dữ và ngày
khởi công, nên gọi là Mệnh chủ. Mệnh chủ có phân biệt nam nữ.
Đông tứ mệnh : Thuật
Phong thuỷ cho rằng, phàm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4 quẻ Chấn, Tốn, Khảm,
Ly, thì là người sinh Đông tứ vị, thuộc Đông tứ mệnh. Theo lý luận Phong thủy
dương trạch, người sinh Đông tứ mệnh chỉ có thể ở tại Đông tứ trạch, ví dụ đối
với người Khảm mệnh trong Đông tứ trạch, Phúc đức tại Kham, thì nhà toạ bắc
hướng nam là cực tốt, nhà toạ nam hướng bắc là rất tốt, nhà toạ tây hướng đông
cũng tốt, còn toạ đông hướng tây thì hung. Cũng có thể áp dụng phương pháp Tài
lộ phân phòng. Phòng ngủ ở phòng phía nam dãy đông là cực tốt, ở phòng phía đông
dãy nam là rất tốt, ở phòng phía bắc dãy giữa cũng tốt. Cổng nếu mở ở phương
đông nam Tốn sơn, tỵ sơn, thìn sơn, là cực tốt; tại phương chính bắc Khảm sơn sẽ
là cổng Phúc đức, rất tốt; tại phương chính nam Ly sơn cũng tốt. Giếng nước nếu
ở phương vị đông nam thìn sơn, ty sơn thì đại cát. Bếp nên đặt ở phương đông
bắc, Giáp sơn, Dần sơn. Cối giã gạo nên đặt ở phương đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn
và phương chính tây Đoài sơn. Chuồng gia súc nếu bố trí ở phương đông nam thì
đại cát. Phong thủy (thoát nước) nên bố trí tại Giáp sơn, ất sơn. Mệnh Chấn,
mệnh Ly, mệnh Tốn qui định còn phức tạp hơn. Thực ra đều có qui luật phải theo,
đó là căn cứ trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phương vị cát tinh thì bố trí
tọa hướng, mở cổng của, làm phòng ngủ, giếng nước, chuông gia súc, còn ở phương
vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo.
Tây tứ mệnh : Thuật
Phong thủy cho rằng, phạm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4 quẻ Càn, Khôn, Cấn,
Đoài, thì là người sinh Tây tứ vị, thuộc Tây tứ mệnh. Theo lý luận Phong thuỷ
dương trạch , người sinh thuộc Tây tứ mệnh chỉ có thể ở tại Tây tứ trạch, ví dụ
Càn mệnh lấy cung Càn làm cung Phúc đức, thì ở ngôi nhà toạ bắc hướng nam Khôn
môn, hoặc ngôi nhà toạ nam hướng bắc Càn môn là rất tốt, ở ngôi nhà toạ đông
hướng tây Càn môn, Khôn môn, Đoài môn cũng tốt, nhà toạ nam hướng bắc phong Cấn
Sửu sơn. toạ tây hướng đông phương Cấn Dần sơn cũng tốt. Cổng nhà nên mở ở
phương Tây bắc Càn sơn, Hợi sơn, Tuất sơn; ở phương tây nam Khôn sơn, Mùi sơn,
Thân sơn, thì rất tốt. Cổng ở phương chính tây Tân sơn, đông bắc Dần sơn, Sửu
sơn, cũng tốt. Nhưng không được ở chính cấn sơn vì đó là Qui môn. Phòng ngủ thì
lấy lầu trên phòng phía tây là tốt nhất; cũng có thể ở phòng phía bắc dãy tây,
dãy đông, phòng phía nam dãy tây. Giếng nước, chuồng gia súc mà đặt ở phương
chính tây thì đại cát. Bếp ở phương nam Bính sơn, cối giã gạo ở phương chính
đông, đông nam là đại cát Phóng thủy (thoát nước) ở phương đông Giáp sơn, Ất
Sơn, phương bắc Nhâm sơn, Qúy sơn là đại cát. Khôn mệnh, Cấn mệnh, Đoài mệnh
cũng theo nguyên tắc tương tự đó là căn cử trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở
phương vị cát tinh thì bố trí toạ hướng, mở cổng cửa, làm phòng ngủ, giếng nước,
chuồng gia súc; còn ở phương vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã
gạo.
Phúc
đức : Còn gọi là cung Phúc đức. Chỉ nơi ký gửi năm mệnh của chu nhà, phương vị
của nó dùng Bát quái thay thế. Ví dụ, nếu Phúc đức của một người chủ nhà nào đó
là Càn, ắt người đó thuộc Tây tứ vị, nên ở Tây tứ trạch, mở cổng ở vị trí Càn
(tây bắc). nếu Phúc đức của một người chủ nhà nào đó là Chấn, ắt người đó thuộc
Đông tứ vị, nên ở Đông tứ trạch, mở cổng ở vị trí Chấn ( chính đông). Muốn biết
cung Phúc đức ở quẻ nào, có thể dùng Tam nguyên pháp mà tính. Biết nó ở quẻ nào
rồi, thì dùng Đại du niên biến hào pháp sẽ tính ra tình trạng lành dữ của 8
phương vị (Tứ chính và Tứ ngung).
Du niên biến trạch pháp :
phương pháp tính lành dữ năm làm nhà căn cứ tuổi của chủ nhà. Cần phối hợp với
Tam nguyên pháp, Cửu cung kiến trạch pháp, Đại du niên biến hào pháp. Cách tính
như sau. Nam nữ đều khởi tính từ Đoài là 10 tuổi, nam thì đến Ly 20 tuổi, đến
Chấn 30 tuổi đến Khảm 40 tuổi. đến Càn 41 tuổi, đến Đoài 42 tuổi. Theo Tam
nguyên pháp, nữ sinh năm Bính Ngọ, trung nguyên, thì cung Phúc đức nằm ở quẻ
Cấn. Theo Cửu cung kiến trạch pháp, định cung Sinh của người này là Chấn; rồi
theo Đại du niên biến hào pháp tính ra các phương vị sắp xếp Cửu tinh cho Chấn
trạch như sau : Phúc đức ( Chấn), Diên niên (Tốn), Sinh khí (Ly), Hoạ hại ( Khôn
), Tuyệt mệnh ( Đoài ), Ngũ quỉ ( Càn ), Thiên ất ( Khảm ), Lục sát ( Cấn ). Đã
biết Du niên của người ấy ở Đoài, vị trí đó là Tuyệt mệnh, thì năm Đinh Hợi 42
tuổi tuyệt đối không được làm nhà, đại hung.
Theo Du niên biến trạch pháp,
sẽ biến được tình trạng cát hung Cửu tinh diên niên của chủ nhà như sau. Biến
được Thiên ất, chỉ trong một năm nhà ấy có người đỗ cao; biến được Sinh khí, chủ
nhân khâu và gia súc tăng nhiều, phú quí liên tục; biến được Diên niên, chủ
trong vòng 180 ngày có tin vui, hỉ sự; biến được Phúc đức (Phục vị), chủ người
nhà đi xa trở về đoàn tụ. Đó là 4 cát tinh, gặp chúng thì nên khởi công tu tạo
nhà ở. Câu
ca nói : “Sinh khí Diên niên kiêm Phục vị, Thiên ất tứ lộ
hảo hưng công” ( Dương trạch thực thư). Biến được Lục sát, chủ người nhà bị chết
trong vòng một năm có tai họa lớn; biến được Ngũ quỉ, thì trong vòng 200 ngày sẽ
có tang; biến được Tuyệt mệnh, chủ hai năm sau, con trai giữa sẽ bị chết; biến
được Hoạ hại, hao tài tốn của. Đó là 4 hung tinh, gặp chúng thì không nên động
thổ làm nhà
Cứu cung biến trạch pháp : phương pháp tính cung Định sinh
căn cứ vào nơi ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Cần kết hợp với Tam nguyên
pháp. Trình tự cụ thể như sau. Theo Tam nguyên pháp mà tính ra xem cung phúc đức
của chủ nhà nằm ở quẻ nào; tiếp đó theo hình bàn tay Dã mã khiêu động đồ mà khởi
tính số 1 từ cung ấy, bấ kể nam nữ, theo chiều nghịch lùi lại 5 cung, tức là
cung Định Sinh. Ví dụ, chủ nhà là nam, sinh năm Canh Tý, thượng nguyên. Theo Tam
nguyên pháp, tính ra cung Phúc đức (bản cung) nằm ở Khảm, lùi ngược lại là Ly,
lùi tiếp 5 cung đến 5 trung là vị trí Ngọ, nam giới thì 5 cung ky gửi tại Khôn,
ta biết cung Định Sinh của anh ta là Khôn. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm
Giáp Tuất, hạ nguyên. Dùng Tam nguyên pháp tính ra Bản cung nằm tại Ly, lùi lại
sau Ly là Cấn, từ Cấn lùi trên ngón tay 5 cung là Tốn, ắt ta biết cung Định Sinh
của người này là Tốn. Sau khi biết cung Định Sinh, có thể dùng phương vị Bát
trạch cửu tinh cùng Du niên biến trạch pháp mà tính được Du niên sở tại, tử đó
sẽ biết cát hung của việc khởi công tu tạo nhà ở.
Hành niên hiên trạch pháp :
Phương pháp mê tín lấy hành niên của chủ nhà để tính cát hung cho việc làm nhà.
Đem 12 thần phối với 12 địa chi, qui định rằng năm Tý là Thần hậu, năm Dần là
Công tào, năm Ngọ là Thắng Quang, năm Thân là Truyền Tống; 4 năm đó gọi chung là
năm Đại thông, tu tạo nhà ở sẽ đại lợi. Năm Hợi là Đăng Minh, năm Sửu là Đại
Cát, năm Mùi là Tiểu Cát Ba năm này gọi chung là năm Tiểu thông, nên tu tạo nhà
ở. Năm Mão là Thái Xung, năm Dậu là Tòng Khôi, năm Ty là Thái ất; ba năm này là
năm tiểu hung, không nên tu tạo nhà ở. Năm Thìn là Thiên Canh, năm Tuất là Hà
Khôi, hai năm này đại hung, làm nhà sẽ gặp tai hoạ. Câu ca nói : ” Tý Ngọ Dần
Thân vi Đại thông, Tiểu thông Sửu Hợi Mùi Đăng Minh, Thái ất Mão Dậu bất kham
tạo, Thìn Tuất Thiên Canh vị đại hung (Dương trạch thập thu ). Đã biết cát hung
12 năm, sẽ phân ra nam nữ để tính hành niên của chủ nhân để định lành dữ. Đầu
tiên giở xem bảng Lục thập Giáp tý. Từ năm Giáp tý trở xuống 10 năm là tuần giáp
tý, từ năm Giáp tuất trỏ xuống 10 năm là tuần Giáp tuất, tương tự là tuần giáp
thân, tuân Giáp ngọ, tuần Giáp thìn, tuần Giáp dần. Mệnh nam, người sinh vào
tuần Giáp tý, 1 tuổi khởi tính từ Bính dần, 11 tuổi là Bính tý, 21 tuổi là Bính
tuất, 31 tuổi là Bính thân, 41 tuổi là Bính ngọ, 51 tuổi là Bính thìn, 61 tuổi
là bính dần. Người sinh vào tuần giáp tuất 1 tuổi khởi bính tý, 11 tuổi là Bính
tuất. Người sinh vào tuần Giáp thân 1 tuổi khởi Bính tuất, 11 tuổi là Bính thân.
Người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ. Người
sinh vào tuần giáp thìn, 1 tuổi khởi Bính ngọ, 1 1 tuổi là Bính thìn. Người sinh
vào tuần Giáp dần, 1 tuổi khởi Bính thìn, 11 tuổi là Bính dần. Mệnh nữ thì người
sinh vào tuần Giáp ty, 1 tuổi khởi Nhâm thân, 11 tuppri là Nhâm tuất 21 tuổi là
Nhâm tý, 31 tuổi là Nhâm dần, 41 tuổi là Nhâm thìn, 4l tuổi là Nhâm ngọ, 5l tuổi
là Nhâm thân. Người sinh vào tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là
Nhâm tý; người sinh vào tuần Giáp thân, 1 tuổi khỏi Nhâm tý, 11 tuổi là Nhâm
dần; người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Nhâm dần, 11 tuổi là Nhâm thìn;
người sinh vào tuần Giáp thìn 1 tuổi khỏi Nhâm thìn, 11 tuổi là Nhâm ngọ; người
sinh vào tuần Giáp dần 1 tuổi khởi Nhâm ngọ, 1 1 tuổi là Nhâm thân. Khi tính
toán, cần chú ý đối vơi nam , theo chiều ngang tính nghịch, theo cột dọc tính
thuận, còn đối với nữ, theo chiều ngang tính thuận, theo cột dọc tính nghịch.
Tức la nam tính từ phải sang trái theo chiều ngang hết hàng ngang thì chuyển
xuống dưới 1 hàng; nữ thì tính từ trái sang phải theo chiều ngang, đến cuối thì
chuyển lên 1 hàng. Vi dụ, chủ nha là nam, sinh năm Tân Sửu, đến nam Mậu Tuất là
58 tuổi ( tuổi mụ). Tân Sửu thuộc tuần Giáp Ngọ, 1 tuổi khởi tính từ Bính thân,
11 tuổi là Bính ngọ, 21 tuổi là Bính thân, 3l tuổi là Bính dần, 41 tuổi là Bính
tý, 51 tuổi là Bính tuất, theo chiều ngang lùi lại là ất Dậu 52 tuổi, Giáp thân
53 tuổi, theo cột dọc tính thuận, chuyển xuống 1 hàng là Qúy mão 54 tuổi, Nhâm
dần 55 tuổi, tân sửu 56 tuổi, Canh tý 57 tuổi đến Kỷ hợi 58 tuổi. Thuận với hành
niên của chủ nhà tài lợi, Hợi là Đăng Minh, là năm Tiểu thông, có thể làm nhà,
vậy thì biết rằng năm ông này 58 tuổi mà làm nhà thì tốt. Ví dụ khác, chủ nhà là
nữ, sinh năm Đinh sửu, đến năm Tân dậu là 45 tuổi (tuổi mụ). Đinh sửu thuộc tuần
Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý , 21 tuổi là Nhâm dần, 31
tuổi là Nhâm thìn, 41 tuổi là Nhâm ngọ, chiều ngang tính thuận đến Qúy mùi 42
tuổi, cột dọc tinh nghịch, chuyển lên 1 hàng là Giáp tý, 43 tuổi, tiếp đến ất
sửu 44 tuổi, Bính dần 45 tuổi, thuận với hành niên của bà này tại Dần, Dần là
Công Tào, là năm Đại thông, làm nhà thì đại lợi. Vậy ta biết bà này mà làm nhà
vào năm 45 tuổi thì rất tốt.
Mệnh tiền ngũ thần pháp : phương pháp tính năm làm nhà cát
hung căn cứ năm sinh của chủ nhà và Thái tuế sở tại Ngũ thần tức là đem 10 thiên
can chia ra 5 nhóm, mỗi nhóm 1 thần, cộng là 5 thần, cát hung khác nhau. Giáp,
ất là Thanh Long; Bính, Đinh là Minh Hỷ; Mậu, Kỷ là Thương Khố; ba thần ấy là
thần hành. Thương khố chủ lúa thóc đầy kho. Minh hỷ chủ hỉ sự dồn dập. Thanh
long chủ đại phú đại quí, đều nên tu tạo nhà ở. Nhâm, Qúy là Đạo tặc, chủ chuốc
họa trộm cướp, hao tài tốn của. Canh, Tân là Bạch hổ, chủ tai họa, tang tóc; đó
là 2 hung thần, xung phạm thì đại hung, không nên tu tạo nhà cửa. Đem 5 thần
trên phối với năm sinh của chủ nhà, tức là Mệnh tiền ngũ thần. Người sinh năm Tý
ngũ thần ở Tỵ. Người sinh năm Sửu ngũ thần ở Ngọ. Người sinh năm Dần ngũ thần ở
Mùi. Người sinh năm Mão ngũ thần ở Thân. Người sinh năm Thìn ngũ thần ở Dậu.
Người sinh năm Tỵ ngũ thần ở Tuất. Người sinh năm Ngọ ngũ thần ở Hợi. Người sinh
năm Mùi ngũ thần ở Tý. Người sinh năm Thân ngũ thần ở Sửu. Người sinh năm Dậu
ngũ thần ở Dần. Người sinh năm Tuất ngũ thần ở Mão. Người sinh năm Hợi ngũ thần
ở Thìn. Khi tính cụ thể thì phối hợp với Thái tuế sở tại và phép “Ngũ hổ độn”.
Thái tuế sở tại : năm Giáp tý tại Tý, năm ất sửu tại Sửu, năm Bính dần tại Dần,
các năm khác cứ thế mà suy. Khẩu quyết “Ngũ hổ độn” là : Giáp, Kỷ chi niên Bính
tác thủ, ất Canh chi tuế Mậu vi đầu, Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng, Đinh Nhâm
chi vị thuận hành lưu, Mậu Quý chi tuế hà phương khởi, Giáp dần chi thang hảo
suy cầu” (Dương trạch thập thư). Nghĩa là năm Giáp, năm Kỷ thì khởi tính từ Bính
dần; năm ất, Canh khỏi từ Mậu dần, năm Bính, tân khởi từ Canh dần; năm Đinh,
Nhâm khởi từ Nhâm dần; năm Mậu Qúy khởi từ Giáp dần. Lại tham chiếu bảng Lục
thập Giáp tý để biết Mệnh tiền ngũ thần sở tại của chủ nhà. Ví dụ, một người
sinh năm Ngọ muốn biết năm Mậu Tuất tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là
Mậu Tuất. Theo Ngũ hổ độn, năm Mậu, Qúy khởi Giáp dần, ở bảng Lục thập giáp tý
ta hướng sang bên phải thuận đến Qúy hợi. Người sinh năm Ngọ, ngũ thần tại Hợi,
cho nên phải đếm từ Giáp dần trở đi, tới năm Hợi thì dừng. Qúy là Đạo Tặc, vậy
Mệnh tiền ngũ thần năm mậu Tuất của ông tuổi Ngọ nói trên là Đạo Tặc, không nên
tu tạo nhà cửa. Ví dụ khác, người sinh năm Tuất muốn biết năm ất sửu tu tạo nhà
ở lành dữ thế nào. Thái tuế là ất Sửu. Theo Ngũ hổ độn, năm ất, Canh khởi Mậu
dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta hướng sang bên phải thuận đến năm Mão. Người
sinh năm Tuất thì ngũ thần ở Mão. Mậu, Kỷ là Thương Khố, chủ tiền của đầy kho,
vậy người ấy làm nhà vào năm ất Sửu thì đại lợi.
Định tinh : Tức sao Doanh
Thất, còn gọi là sao Doanh, một trong Nhị thập bát tú (28 sao). Phong tục thời
xưa lấy phương vị sao Định sở tại để khởi công động thổ cho rằng đó là lành.
Phương vị sao Định trong 12 tháng không giống nhau, tháng Giêng nhìn thấy nó ở
Thìn, tháng hai nhìn thấy nó ở Mão, tháng ba nhìn thấy nó ở Dần, tháng tư nhìn
thấy nó ở Sửu, tháng năm nhìn thấy nó ở Tý, tháng sáu nhìn thấy nó ở Hợi, tháng
bảy nhìn thấy nó ở Tuất, tháng tám nhìn thấy nó ở Dậu, tháng chín nhìn thấy nó ở
Thân, tháng mười nhìn thấy nó ở Mùi, tháng 11 nhìn thấy nó ở Ngọ, tháng Chạp
nhìn thấy nó ở Tỵ. Phương vị sở tại của sao Định cùng phương vị hai sơn tả hữu
là có lợi cho việc khởi công động thổ. Ví dụ, tháng Giêng thấy sao Định ở Thìn,
thì tại 3 phương vị Tốn sơn, Thìn sơn, ất sơn đều có thể động thổ; tháng hai
thấy nó ở Mão, thì tại ba phương vị ất sơn, Mão sơn, Giáp sơn đều có thể đọng
thổ. Tiếp theo các tháng khác cứ theo đó mà suy.
Thần sát xuất du nhật : Chỉ
các ngày mà Thái tuế cùng các Thần sát khác rời vị trí sở tại đi tuần du 5
phương. Trừ phương vị mà các thần Sát đến tuần du, các phương còn lại đều có thể
khởi công động thổ. Ví dụ nếu các thần đi tuần ở trung ương, thì bốn phương còn
lại không hề bị cấm kỵ. Các thần đi tuần lấy Thái tuế làm đầu, trong 5 ngày giáp
tý, ất sửu, bính dần, đinh mão mậu thìn đi tuần ở phương đông, trong 7 ngày kỷ
tỵ, canh ngọ, tân mùi, nhâm thân, qúy dậu, giáp tuất, ất hợi thì các thần trở về
vị trí cũ; trong 5 ngày bính tý, đinh sửu, mậu dần, kỷ mão, canh thìn đi tuần ở
phương nam, trong 7 ngày tân ty, nhâm ngọ, qúy mùi, giáp thân, ất dậu, bính
tuất, đinh hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày mậu tý, kỷ sửu, canh
dần, tân mão, nhâm thìn các thần đi tuần ở trung ương, trong 7 ngày quý tỵ, giáp
ngọ, ất mùi, bính thân, đinh dậu, mậu tuất, kỷ hợi thì các thần trở về vị trí cũ
; trong 5 ngày canh tý, tân sửu, nhâm dần, quý mão, giáp thìn các thần đi tuần ở
phương tây, trong 7 ngày ất tỵ, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, kỷ dậu, canh tuất,
tân hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày nhâm tý, quý sửu, giáp dần,
ất mão, bính thìn các thần đi tuần ở phương bắc, trong 7 ngày đinh tỵ, mậu ngọ,
kỷ mùi, canh thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi thì các thần trở về vị trí cũ; cứ
thế mà xoay vòng mãi mãi.
Môn quang tinh : Sao Môn Quang theo Phong thủy dương trạch
là những ngày trong tháng mà có sao này chiếu rọi thì tốt lành đối với việc đặt
cửa, làm cửa và mở cửa. Có 2 cách tính sao Môn Quang. Một, theo khẩu quyết :
“Thiêm thiêm tiêu tạc dạ vũ lâm ly vũ quá trường sa mãn động đình đao tại giang
hồ lưu bất tận đắc trừng thanh xứ thị trùng thanh” ( tổng cộng 30 chữ, những chữ
nào có bộ “Chấm thủy” tức là ngày có sao Môn Quang, như các chữ thiêm, tiêu,
lâm, ly, sa, mãn, động, giang, hồ, lưu, trừng, thanh, là ngày lành, còn lại là
ngày dữ. Tháng nào đủ thì dùng câu đó, tháng thiếu (có 29 ngày) thì bỏ chữ thứ
ba, chữ “Tiêu”; tháng đủ hay tháng thiếu thì đều đếm từ ngày mồng 1 trở đi theo
chiều thuận. Ví dụ, ngày 20 tháng đủ, đếm gặp chữ “Lưu” là lành; ngày 20 tháng
thiếu, bỏ chủ thứ ba, nên đếm ngày ấy gặp chữ “Bất” là hung. Cách thứ hai, dựa
vào ký hiệu sắp xếp cố định để tìm sao Mơn Quang
Tháng đủ 30 ngày thì tính
ngược từ phía sau lên phía trước; tháng thiếu chỉ có 29 ngày, thì tính thuận từ
trước ra sau, gặp ký hiệu O là ngày lành, gặp hai ký hiệu H và X là ngày hung (
X thì hại cho gia súc, H thì hại cho người). Ví dụ, ngày 21 tháng đủ, tính từ
sau ngược lên trước, gặp ký hiệu H, là hung. Tháng thiếu, ngày 21, đếm thuận từ
trước ra sau, cũng gặp ký hiệu H là hung.
Bốc nhật : Bói để biết ngày
giờ lành dữ. Cũng chỉ việc chọn ngày tốt để chôn cất, làm nhà hoặc chuyển nhà.
Thuật Phong thủy cho rằng việc chôn cất, dựng nhà, chuyển chỗ ở nếu không chọn
năm, thang, ngày, giờ tốt, đất tốt thì sẽ hóa thành hung; cho nên rất coi trọng
Bốc nhập Sách Duyệt vi tháo đường bút ký của Kỷ Vân đời Thanh có chép : “Nhà họ
Mã nọ trong nhà bỗng nhiên xuất hiện những điều quái gở, khó tin, bèn “Bốc
nhật”chuyển chỗ ở thì mọi việc trở lại yên lành”.
Phù trấn pháp : Phương pháp mê tín ma nghìn xưa sử dụng bùa chú và các vật
đặc định khác để trấn yểm nhà cửa, mộ phần hoặc công trình kiến trúc khác, đồng
thời tiến hành nghi thức tương ứng đặng giải trừ điều dữ. Tục này có nguồn gốc
rất sớm, thới kỳ Tiên Tần đã xuất hiện các hoạt động trấn yểm như người ta thấy
về sau. Thời kỳ Hán Đường bùa chú thịnh hành khắp nơi với những hình thức vô
cùng phức tạp. Phép trấn yểm liên quan đến âm dương trạch chủ yếu là viết, vẽ
bùa, cử hành nghi thức nhất định, rồi đốt, treo hoặc chôn sâu lá bùa để ngăn
chặn nhưng điều chẳng lành. Đồng thời tục chôn đá cũng rất thịnh hành, mà nội
dung bao hàm từ việc bảo đảm sự bình yên cho ngôi nhà, đến việc đề phòng chuột
cắn quần áo, nội dung trấn yểm trong Thuật Phong thủy cũng rất đa dạng, bao hàm
đủ thứ ăn mặc, ở, đi lại, chủ yếu nhằm ngăn chặn các hiện tượng quái gở, bằng
các hình thức như vẽ bùa, chôn đá, trát bùn đất, khắc gỗ làm tượng. . phép trấn
yểm của Thuật Phong thủy, bùa chú của Dạo giáo sử dụng các biến thể Giáp cốt
văn, Kim văn cùng phù hiệu vô ý nghía tạo nên, mang màu sắc kỳ bí là nhám an ủi
tinh thần người khác. Tục chôn đá có liên quan đến sự sùng bái đá thời cổ. Có
bùa chú sử dụng dược liệu, cũng có công dụng trừ tà chữa bệnh nhất định . Tuy
nhiên, những nghi thức và vật phẩm đặc định chứng tỏ màu sắc thần bí quá rõ rệt
của phép trấn yểm.
Tam giáo cứu trạch thần phù: Một trong các phép trấn yểm. Cổ
nhân cho rằng phàm gia quyến thân thích gặp nhiều tai ương là vì khi làm nhà gặp
phải hung tinh cao lớn, cần làm nhà khác. Nếu không làm nhà khác, thì phải cấp
tốc sử dụng “Tam giáo cứu trạch thần phù”, gồm 8 lá bìa, dùng bút bằng gỗ hồng
đào mà viết vẽ, rồi đem dán ở 8 phương, vài tháng sau tai họa sẽ bớt
dần.
Trấn
lão trạch họa hoạn bát chỉ pháp
: Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho
rằng phạm nhà làm đã lâu năm, sinh khí sắp kiệt, người và tiền của đều tổn
thương. Cần lấy 5 thăng đất ở phương vị Bản cung Phúc đức của chú nhà, 5 thăng
đất ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức trộn với bùn nước chảy về phía đông mà
trát lên phương vị Thái tuế của ngôi nhà ấy. Tiếp đó dùng bút mực son vẽ bùa mà
yểm. Mỗi trạch trong Bát trạch có số năm nhất định. Ví dụ càn trạch 40 năm là
hết sinh khí; Khôn trạch thì 50 năm; nếu không làm nhà thác thì phải trấn yểm
như trên.
Trấn trạch trung yêu tà pháp : Một trong các phép
trấn yểm. Chủ ngăn chặn yêu tà trong nhà. Dùng bút mực son vẽ bài vị Phong Đô
đại đế để thờ, tiếp đó dùng thanh bùa bằng gỗ bách dài 1 thước hai tấc mà trấn
yểm trong nhà.
Trấn phòng ốc tụ hướng pháp : Một trong các phép trấn
yểm. Cổ nhân cho rằng đây là cách trân yểm để giải trừ hiện tượng phòng ốc tự
dưng vô cớ phát ra âm thanh kỳ dị Dùng Bạch Chi, phèn trắng và một hòn đá xanh
nặng 60 cân, Chu Sa 1 tiền, Hùng Hoàng 1 tiền rưỡi, cọng cỏ 7 cái, lấy đất và
nước ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức, mỗi thứ 1 thăng, hoà với bùn mà trát lên
chỗ có âm thanh lạ.
Trấn thủy tinh pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ
nhân cho rằng nếu người ta đào giếng không ở phương vị tốt, thì sẽ gặp hung họa.
Khi đó phải dùng hai phiến gỗ bách dài 1 thước rưỡi, dùng bút mực son vẽ hai tấm
bùa “Ngũ phương thần chú” đính ở miệng giếng. Lại thả một hòn đá và 1 thăng ngũ
cốc vào trong giếng, miệng niệm chú câu sau 7 lần : “Thần giếng năm phương, hãy
ở yên chỗ mình”.
Trấn lân cư động thổ xung phạm pháp Một trong các phép trấn
yểm. Cổ nhân cho rằng phàm bốn phía quanh nhà mình mà người ta động thổ làm nhà
sẽ đều xung phạm nhà mình, là hung. Phải lấy 3 phiến gỗ dai 3 thước 6 tấc hoặc 1
thước 2 tấc, dùng bút mực son vẽ ba tấm bùa rồi treo ở giữa nhà
mình.
Mộ
huyệt phù : Một trong các phép trấn yểm. Chuyên dùng ở huyệt mộ. Lấy 4 phiến gỗ
đào dài 1 thước, vẽ và viết trên đó như rồi cắm ở 4 góc mộ huyệt, để giải trừ
hiện tượng nhà cửa không yên, tiền tài hao tán.
Giải thổ : Tức cúng Thổ thần
để giải trừ hung họa. Thời trước, sau khi ngôi nhà được làm xong, chủ nhà phải
làm lê cúng tạ ơn Thổ thần, vì động thổ làm nhà e xúc phạm đến quỉ thần tứ
phương. Thường là dùng đất nặn tượng quỉ thần, mời thày cúng tới làm lễ, niệm
chú.
Thạch thu đường : Một trong các phép trấn yểm. Khi
cổng nhà mình đối diện với đường hẻm, cầu, thì dùng tấm bia đa, trên khắc ba chủ
“Thạch thủ đường” hoặc năm chữ “Hoàng đế thạch thủ đương” chôn ngay trước cổng
để trấn yểâm. Có nhiều thuyết nói về nguồn gốc phong tục này. Có thuyết nói nó
xuất hiện từ thời Hoàng đế đánh nhau với Si Vưu; có thuyết nói nó bắt nguồn từ
thời Tây Chu, có thuyết bảo từ thời Ngũ đại Văn tự nhắc đến “Thạch thủ đương”
sớm nhất là trong sạch Cấp tựu chương của Sử Du đời Hán. Nhan Sư Cổ đời Đường
chú giải: “Thạch là họ, thủ đương là mượn tên gọi mà thôi; ý nói là không có gì
địch nổi”. Phong thủy dương trạch dùng “Thạch thủ đong” để trấn yểm khi có đường
hầm hoặc cây cầu đâm thẳng vào phía cổng nha. Đa cần được khắc vào 10 ngày sau
giết Đông chí, là các ngày Giáp thìn, Bính thìn, mậu thìn, canh thìn, nhâm thìn,
giáp dần, bính dần, mậu dần, canh dần, nhâm dần, tức là vào “các ngày Long
(thìn), Hổ (dần). Bia làm xong đêm Trừ tịch dùng ba miếng thịt sống ma cúng, rồi
vào giờ Dần thì đem cắm ở cổng.
Sơn trấn hải : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà bị
đường hẻm đâm thẳng vào, thì dùng một tấm bia đá có khắc ba chữ “Sơn trấn hải”
cắm ở trước cổng để trấn áp điều xấu. Tương tự “Thạch thủ dương”, song không
được phổ biến rộng rãi bằng.


NHÂN VẬT VÀ ĐIỂN
TỊCH


Sủ Lý Tử: (300 trước
CN). Tên là Tật, em trai của Tân Huệ Vương, từng nhiều lần đem quân Tần đi chinh
phạt các nước Triệum Ngụy, Sở; được phong tước Nghiêm Quân. Khi Tần Vũ Vương lên
ngôi ông làm Tả thừa tướng.
Là một người túc trí đa mưu,
biệt hiệu “Trí Nang” (túi khôn). Sắp chết đa chọn trước cho mình mộ huyệt ở phía
nam Vị Thuỷ và nói : “Trăm năm sau, sẽ có cung tiến từ bên mộ của ta”. Đến đời
Hán hưng thịnh, ngươi ta đã xây dựng cung Trường Lạc ở phía đông ngôi mộ và cung
Vị Ương ở phía tây ngôi mộ, kho vũ khí thì ở ngay chỗ ngôi mộ. Việc này không
đáng tin lắm, nhưng các nhà phong thủy dựa vào đó coi Sù Lí Tử là nhà địa lý nổi
danh đầu tiên.
Thanh Ô tiên sinh : Tức Thanh Ô Tử, người đời Hán. Có
thuyết nói ông là người thời Hoàng đế. Tương truyền tinh thông Thuật Phong thủy.
Hiện có Thanh Ô tiên sinh táng kinh, 1 quyển, nghi là do người thời Tấn – Đường
mạo danh viết ra. Lại có Cựu đường thư Kinh tịch chí chép Thanh Ô Tử, 3 quyển,
đã thất lạc.
Quản Lộ : ( năm 207 – 256 ), tự Công Minh, người nước Ngụy,
ở Bình Nguyên (nay là tây nam huyện Bình Nguyên, tỉnh Sơn đông). Nổi tiếng thần
đồng. Từng được thái thú Thanh Hà tên là Hoa khen có tài văn chương, lại được
thứ sử Ký châu cho giữ chức Văn học tòng sự, sau đỗ tú tài, làm quan đến chức
Thiếu phủ thừa. Quản Lộ tinh thông Chu Dịch, bói toán, Phong thủy, đoán gì đúng
nấy. Từng qua chỗ mộ Vô Khưu Kiệm, tựa gốc cây buồn bã nói “Cây cối rậm rạp như
rừng, nhưng vô hình chẳng thể sống lâu; bia mộ tuy đẹp, nhưng không có mặt sau
để giữ. Huyền vũ rụt đầu, Thương long không chân, Bạch hổ ngậm xác, Chu tước
than khóc, 4 cái nguy đều có cả, đó là cái họa giết cả họ” (Tam quốc chí, quyển
29. Đây là thuyết Tứ linh của Thuật Phong thủy được thể hiện lần đầu bằng văn
tự.
Hiện còn
sách Quán thị địa lý chí mông, 1 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh.
Xem thêm mục Quán thị đều lý chi mông).
Quách Phác : ( năm 276
– 324), tự Cảnh Thuần, người cuối thời Tây Tấn, huyện Văn Hỷ, Hà Đông (nay là
huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây), tránh loạn đến Giang Đông, lúc đầu được Thái thú
thành Tuyên cho làm Tham quân, sau làm Trước tác tá lang, rồi mượn cớ mẹ mất mà
từ chức. Sau lại được Vương Đôn ban chức Ký thết tham quân, nhưng vì không theo
Đôn mưu phản nên bị Đôn giết. Quách Phác thuở nhỏ yêu thích kinh thuật thơ phú
nổi danh một thời, sau theo Quách Công học Dịch lý, địa lý, thiên văn, bói toán
, được Quách Công tặng Thanh nang thư. Từng chọn đất mai táng cho mẹ ở bãi sông,
người ta báo sao lại chôn dưới nước, ông nói rồi nơi đây sẽ thành đất khô. Quả
nhiên về sau nơi đó được cát bồi thành nương dâu. Lại từng chọn mộ cho người
khác. Tấn Minh đế từng tới xem, hỏi chủ nhân vì sao chôn ở đất “Long giác”, dễ
thành tai họa cả họ bị giết. Chủ nhân đáp rằng Quách Phác bảo táng ở tai rồng
thì sẽ được nhà vua hỏi tới. Huyền thoại này e của người đời Đường, khó tin.
Hiện có sách Táng thư còn gọi là Táng kinh. 1 quyển, đề của Quách Phác, có lẽ do
người đời Đường mạo danh viết nên.
Tiêu Cát : Tự Văn Hưu,
người Lan Lăng (nay là tây bắc thành phố Thường Châu, tỉnh Giang Tô), cháu của
Lương Vũ Đế. Nhà Lương diệt vong, ông vào Bắc Ngụy làm Nghi đồng. Sau khi nhà
Tùy thống nhất, ông làm quan đến chức Thượng nghi đồng, Thái thường; Tùy Dạng Đế
lên ngôi, phong ông chức Phủ thiếu khanh. Chết khi đang làm quan. Tiêu Cát là
người uyên bác, tinh thông âm dương, thuật đoán mệnh , Thuật Phong thủy. Nhân
Thái tử ở Đông cung hay thấy ma quỉ, ông đã lập đàn thần trấn yểm. Lại chọn mộ
cho Văn Đế hoàng hậu. Trước tác về phong thủy có Trạch kinh, ý quyển, Táng kinh
6 quyển ; nay đều thất truyền. Song trong trước tác của các nhà phong thuỷ đời
sau thường dẫn lời của Tiêu Cát.
Thư Xước : Người Đông Dương (nay thuộc tỉnh Chiết
Giang), đời nhà Tùy. Giỏi thuật số địa lý. Tể tướng Dương Cung Nhân muốn dời mộ
tổ, bèn mời năm sáu ông thày nổi tiếng trong nước tới, lấy đất ở 4 góc ngôi mộ,
mỗi góc 1 đấu, vẽ địa hình ngôi mộ rồi bỏ vào phong bì dán kín lại, đoạn đưa đất
ra cho các thày phán. Duy chỉ có Thư Xước nói rằng đất ấy có phúc và miêu tả
hình thế giống hệt như thực địa. Thiên hạ nhân đó tôn ông là thánh phong thủy.
Đây là một ví dụ điển hình về phép nhìn đạt biết phong thủy thời cổ
.
Lã Tài
:
( 665 ), ngươi đời Đường, ở Thanh Bình, Bác Châu ( nay là huyện Liêu, tỉnh
Sơn Đông). Giỏi âm dương, thiên văn, phương thuật, địa lý, âm luật học. Thời
Trinh Quán vào cung Huyền Văn, làm Lụy thiên thái thường bác sĩ, Thái thường
thừa. Từng được triều vào triều san định sách âm dương để ban hành cho thiên hạ.
Còn làm “Phương vực đồ”. Các trước tác phần lớn nay đã thất truyền. Hiện còn Tự
trạch kinh , Tự táng thư, Tự trạch kinh chuyện bàn về cách phối ngũ tính với ngũ
hành để xác định cát hung của nhà ở và huyệt mộ. Táng táng thư thì nói đại ý
rằng Táng thư có đến 120 nhà, với đủ thứ thuyết cát hung, cấm kỵ. Song thời
thượng cổ chôn cất có ai chọn lựa gì năm tháng ngày giờ chẳng ai tin chuyện lành
dữ, cũng không phân biệt họ tên, tước vị, quan chức. Như vậy táng thư chỉ làm
bại hoại phong tục, làm những chuyện vô bổ. Lã Tây là người đầu tiên thời cổ đi
sâu vào Thuật Phong thủy mà phê phán các yếu tố mê tín.
Lý Thuần Phong : ( năm
602 – 670), người đời Đường ở đất Ung, Kỳ châu ( nay là phía nam huyện Phụng
Tường tỉnh Thiểm tây). Đầu thời Trinh Quăn, từ chức Tướng sĩ lang vào thẳng Thái
sử cục, chế ra máy Hỗn thiên nghi, dần dần được thăng đến chức Thái sử lệnh.
Trước tác phong thuỷ có Trạch kinh, Aâm dương chính yếu, nay không rõ bao nhiêu
quyển, ngờ rằng do người đời sau mượn tên soạn nên.
Khâu Diên Hàn : Tự Dực
Chỉ, người đời Đường, ở đất Văn Hỷ ( nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây ). Thuở
nhỏ nổi tiếng về văn thơ. Truyền thuyết kể rằng Khâu từng du ngoạn Thái Sơn, gặp
thần trong hang đá. nhận “Hải giác kinh”, nhờ đó thông hiếu âm dương, phong
thủy.
Khoảng
năm Khai Nguyên ( 7 1 8 – 714 ) có chọn mộ cho viên tri huyện, có khí thiên tử
bốc lên trên mộ. Triều đình kỵ điều đó, sai phá bỏ mộ, đồng thời hạ chiếu bắt
giữ Khâu Diên Hàn, nhưng ông trốn được. Sau triều đình tha tội, Khâu đem dâng
Thiên cơ thư. Đường Huyền Tông phong làm Á đại phu và cất sách kia vào hộp ngọc.
Cuối đời Đường thì sách ấy bị Dương Quân Tùng, Tăng Cầu Kỷ lấy trộm. Trước tác
có Ngọc hàm kinh , 1 quyển, Hoàng nang đại quái quyết 1 quyển, Nội truyện thiên
hoàng biết cực trấn thế thần thư 3 quyển. Theo Địa lý chính tông, Khâu Diên Hàn
là đệ tử của Phạm Việt Phụng, mà Phạm Việt Phụng là cao túc của Dương Quân Tùng.
Dương là người thời Hi Tông, Khâu là người thời Cao Tông, như vậy là lẫn lộn về
thời gian, chứng tỏ truyền thuyết về sự việc và trước tác không đáng tin, là do
người đời sau tạo ra.
Dương Quân Tùng : Vốn tên là ích, tự Thúc Mậu, hiệu Cứu Bần,
người Đậu châu ( nay là phía nam huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông ) đời Đường.
Thời Hi Tông, ông làm Quốc sư, làm quan đến chức Kim tứ quang lộc đại phu, phụ
trách công việc địa lý của Linh Đài. Năm Quảng Minh ( năm 880 ), khi nghĩa quân
Hoàng Sào tiến đánh kinh đô, Dương Quân Tùng thửa cơ rối ren đã lấy trộm sách
Thiên cơ thư cất trong hộp ngọc của hoàng thất rồi trốn đến núi Côn Luân, sau
đến Kiền châu hành nghề địa lý phong thủy, sáng lập nên phai Giang Tây, được đời
sau tôn là tổ sư chính tông của Thuật Phong thủy. Học thuyết của ông lấy hình
pháp làm chính, chú trọng hình thế sông núi, phối hợp Long – Huyệt – Sa – Thủy,
chú trọng bám sát thực địa , mà ít dung phép suy lý. Về sau do học thuyết này
lấy hình pháp làm chỗ dựa, bởi vậy chủ yếu được áp dụng cho Phong thủy âm trạch,
mà ít cho phong thủy dương trạch. Trước tác có Hám Long Kinh 1 quyển , Nghi long
kinh 1 quyển, Táng pháp chế trượng còn gọi là Thập nhị trượng pháp 1 quyển,
Thanh nang áo ngữ 1 quyển, Thên ngọc kinh 1 quyển, Hắc nanh kinh, Tam thập lục
long. Nhưng việc và sách của ông không thấy chép trong sử truyện; duy Trực trai
thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn và Tống sử. Nghệ văn chí có chép 12 trước tác
đề là của Dương Cứu Bần soạn. Các chuyện về ông phần lớn la do các nhà phong
thủy lưu truyền.
Tăng Văn Siêm : Có khi viết la Tăng Văn Thuyên hoặc viết lầm
thành Tăng văn Địch . Người Ninh Đô (nay là tỉnh Giang tây) đời Đường. Cha là
Tăng cầu Kỷ đã cùng Dương Quân Tung lấy trộm Thiên cơ thư trong hộp ngọc của
hoàng thất mà chạy đến Giang Nam. Ông là đệ tử giỏi nhất của Dương Quân Tùng,
nổi tiếng không kém gì thầy; sau đem thuật học được truyền cho Trần Đoàn. Những
điều đó lẫn lộn về thời gian, không đáng tin. Trước tác có Thanh nang tự 1
quyển.

Phổ:
Tự là Lệnh Thông, người thời Ngũ Đại, Nam Dường; quê quán, lai lịch
không rõ. Có Linh thành tinh nghĩa, 2 quyển, thực ra la của người đời Minh mượn
tên soạn nên. Xem mục Linh thành tinh nghĩa.
Ngô Cảnh Loan : ( 1068
). Tự Trọng Tường, người Đức Hưng (nay là tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Tương
truyền cha ông là Ngô Khắc Thành từng theo học Trần Đoàn, được thầy truyền hết
nghề. Loan từ bé thông minh đĩnh ngộ, được cha truyền lại cái học của Trần Đoàn.
Năm Khánh Lịch thứ nhất ( năm 1041), triều đình hạ chiếu tuyển dụng các nhà âm
dương. Ngô Cảnh Loan được tiến cử vào kinh đô, ứng đối trôi chảy được giữ chức
Tư thiên giám chính. Sau do trái ý Tống Nhân Tông, bị hạ ngục. Nhân Tông
chết,
ông
được phóng thích, bèn gọt tóc giả điên, đi ẩn cư. Mất năm Trị Bình thứ nhất
(l068 ). Cái học của ông được truyền cho con gái, sau truyền cho Liêu Vũ. Trước
tác có Lý khí tâm ấn, Ngô Công giải nghĩa. Tiếp tục viết xong 2 cuốn sách cha
mình viết dở là Thiên ngọc kinh ngoại truyện, Tứ khố toàn cục
đồ.
Liêu
Vũ :
Tự Nghiêu Thuần, lại có tự là Vạn Bang, người Vu Đô ( nay là huyện Vu
Đô, tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Có thuyết nói lầm ông là người đời Đường. Thuở
nhỏ thông minh, 15 tuổi thông thuộc ngũ kinh, dân làng nhân đó đặt cho biệt hiệu
“Liêu Ngũ kinh”. Khoảng năm Kiến Viêm ( 1127 – 1 130 ) đi thi không đỗ. Ông được
truyền thụ cái học từ con gái của Ngô Cảnh Loan, tinh thông Thuật Phong thuỷ.
Sau ẩn cư ở núi Kim Tinh, do vậy có biệt hiệu “Kim Tinh sơn nhân”. Trong giới
phong thủy, nổi tiếng ngang với Dương Quân Tùng, Liêu Văn Xiêm, Lại Văn Tuấn
thành tên gọi gộp “Dương, Tăng, Liêu, Lại”. Trước tác có Cửu tinh huyệt pháp, 4
quyển, Biết cực kim kinh (không rõ mấy quyển, nghi là do người đời sau mạo danh
).
Thái
Nguyên Định : (năm l]35 – 1198) Tự Quý Thông, người Kiến Dương ( nay là tỉnh
Phúc Kiến ). Cha vốn là nhà Lý học, thuở nhó ông theo học cha mình, sau thành
học trò của Chu Hy, cùng Chu Hy biện luận ý nghĩa các kinh đến tận đêm khuya.
Học trò bốn phương đến học, nếu hỏi gì thì Chu Hy bao giờ cũng trao đổi trước
với Thái Nguyên Định . Khi Hàn Thái Trụ nêu việc “Cấm ngụy học” ông bị đày đi
Đạo châu. Đến Xuân Lăng, học trò theo học càng đông. Ông chết ở đó, sau khi chết
được truy tặng thụy hiệu Địch công lang, Văn Tiết. Trước tác rất nhiều, về phong
thủy có Phát vi luận 1 quyển, dùng học thuyết Nho gia giải thích lý luận phong
thủy. Xem thêm mục Phát vi luận.
Vương Cấp : Tự Triệu Khanh, còn có tự là Khổng
Chương, người thời Nam Tống. Tổ tiên vốn ở Biện Châu (nay là thành phố Khai
Phong, tỉnh Hà Nam ), sau di cư đến Cán châu (nay là tỉnh Giang Tây). Vương Cấp
chịu khó học hành, nhưng đi thi hai lần không đỗ, bèn bỏ nhà đi ngao du sơn
thủy. Sau ông yêu thích phong cảnh núi Long Tuyền mà định cư tại Tùng Nguyên (
nay là huyện Tùng Khê, tỉnh Phúc Kiến ). Ông đọc các sách phong thủy của Quản
Lộ, Quách Phác, nắm vững và vận dụng vào việc chọn huyệt mộ cho người ta, sao
cho con cháu họ quí hiển, thường thường linh nghiệm. Lập luận của ông coi trọng
lý pháp và các nguyên lý thuật số để định cát hung của phương vị tọa hướng, mà
coi nhẹ hình thế sông núi, nên ông trở thành nhân vật tiêu biểu cho trường phái
Phúc Kiến ( thiên về Lý pháp). Trước tác có Tam kinh và các ghi chép vấn đáp,
được môn nhân là Diệp Thúc Lượng biên soạn thành sách.
Lại Văn Tuấn : Tự Thái
Tố, hiệu Bố Y Tử, nên còn có tên Lãn Bố Y, người Xử châu (nay là huyện Lệ Thủy
tỉnh Chiết Giang) đời Tống. Có thuyết nói ông người Ninh Đô ( nay là tỉnh Giang
Tây) đời Đường là nhầm. Theo truyền ngôn của các nhà phong thủy, Lại Văn Tuấn là
con rể Tăng Văn Siêm, đệ tử đời thứ ba của Dương Quân Tùng. Làm quan đến chức
Kiến Dương lệnh, sau mê thuật phong thủy nên từ quan mà hành nghề địa lý. Hiện
nay một dải đất Quảng Đông có rất nhiều truyền thuyết về ông. Trước tác có Thiệu
Hưng đại địa bát kiềm, đã thất truyền. Chỉ còn Thôi quan thiên, 2
quyển.
Lưu Binh Trung : (năm 1216 – 1274). Thoạt đầu tên là
Khản, tự Trọng Hối. Tổ tiên vốn là người Thụy châu (nay ]à thành phố Hình Đài
tỉnh Hà Bắc ). Năm 17 tuổi làm Tiết độ sứ phủ lệnh sử Hình Đài, sau bỏ quan vào
rừng đi tu, đổi tên thành Tư Thông. Hốt Tất Liệt (Nguyên Thế tổ) triệu vào dinh
cùng bàn việc cơ mật, nên người ta gọi ông là “Thông thư ký”. Sau khi Hốt Tất
Liệt lên ngôi , liền phong cho ông chức Quang lộc đại phu, Thái bảo, Tham dự
trung thư tỉnh sự và ban cho cái tên Bỉnh Trung. Ông tham gia bàn tính nhiều kế
sách lớn trong thiên hạ. Ông tinh thông cái học âm dương địa lý, từng giám sát
việc xây dựng Thượng Đô (hiện ở Nội Mông) và Đại Đô (nay là thành Bắc Kinh ),
dùng Thuật Phong thuỷ để xác định qui mô hai Đô ấy. Cuối đời lại có hiệu Tàng
Xuân Tản Nhân, khi chết được truy phong tước Thường son vương, thụy Văn Chinh.
Trước tác có Ngọc Xích kinh 4 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh soạn
nên.
Lưu
Cơ :
(năm 1311 – 1875) Tự Bá ôn, người Thanh Điền ( nay là tỉnh Chiết Giang
) đời Minh. Đỗ tiến sĩ cuối đời Nguyên, bỏ quan đi ẩn cư. Sau phò tá Chu Nguyên
Chương dựng nước, giữ chức Khanh sử trung thừa, Thái sử lệnh, tước Thanh Yù bá.
Khi mất được phong thụy Văn Thành. Lưu Cơ tinh thông âm dương, thiên văn, thuật
số; người đời sau tạo các đồ thư thường mượn tên ông. Hiện còn Phệ can lộ đởm
kinh. Kham dư mạn hung cùng nhiều bản chú.
Cung trạch địa hình :
Tên sách. Không rõ tác giả. 20 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp
vào phái Hình pháp. Sửù ký khảo chứng nói sách này bàn về phương vị phong thủy”.
Hán chí viết : “Thuộc loại Hình pháp, bàn về hình thế 9 châu đề xây dựng nhà cửa
thành quách”. Đủ biết sách này là trước tác phong thủy sớm nhất chuyên bàn về
phong thủy dương trạch.
Kham du kim quí : Tên sách. Không rõ tác giả, 14
quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào loại ngũ hành. Sử ký khảo
chứng nói sách này bàn về “phương vị phong thủy”. Theo Sử ký. Nhập giả liệt
truyện, các nhà Kham dư (địa lý) từng tham khảo phần bàn về ngày lành cho việc
cưới vợ, thuộc về “Chiêm gia” (thày bói), đủ biết đây không chỉ là sách phong
thủy. Lai theo Luận hoành, Chu Lễ chú, Hoài Nam Tử, Thuyết văn giải tự, thì hai
chữ Kham dư là tên vị thần, có thuyết nói la tên gọi chung trời đất, không phù
hợp hoàn toàn với những gì phong thủy đề cập. Cho nên nghĩ rằng sách nay là sách
bói toán, trong đó có phần bàn về phong thủy.
Thanh Ô tiên sinh táng
kinh
: Tên sách. Trước đề là do Thanh Ô tiên sinh (Thanh Ô Tử) đời Thanh
soạn Kim thừa tướng Ngột Khâm Trắc chú, 1 quyển. Trong lời tựa viết: “Táng thư
của họ Quách thường dẫn “Kinh viết” chính là sách này vậy”. Khảo cứu văn của
Kinh viết trong Táng thư với Thanh ô tiên sinh táng thư, thì thấy có nhiều điểm
giống nhau, song cũng có chỗ khác nhau. Tứ khố toàn thư tổng mục viết : “Văn
sách này thiển cận, kinh với chú như của cùng một người viết ra, hẳn là người
đời sau mạo danh kinh vậy”. Khảo cứu các sách như Văn tuyển, Sơ học ký, Thái
bình ngự lãm có Sách Tướng chủng thư ( sách xem mộ) của Thanh Ô Tử thì nghi là
sách này. Sách Táng thư ~ của Quách Phác đời Đường thì mãi về sau này (mấy trăm
năm sau) mới xuất hiện, trong khi Tướng chủng thư thì đã sớm thất truyền cho nên
nghi là người đời sau mạo danh viết ra. Nội dung Táng kinh khá tỉ mỉ, chuyên bàn
về cát hung của hình thế sơn thủy, lại đưa ra những qui tắc thế nào là đất công
hầu, đất tể tướng, đất phú quí, đất văn sĩ mà không có lý luận kèm
theo.
Đồ
trạch thuật :
Tên sách. Tác giả là người thời Đông Hán, khuyết danh. Sách
này nay đã thất truyền, chỉ còn hai đoạn văn nói sơ qua về lành dữ trong cách
phối hợp ngũ tính ngũ hành nhà ở, thuộc loại văn tự sớm nhất về phong thủy còn
giữ được đến ngày nay.
Quán thị địa lý chỉ mông : Tên sách. Trước đề là của Quản Lộ
đời Tam Quốc nước Ngụy Soạn. Tổng cộng 100 thiên. Thực ra là sách của ngưđời đời
Minh viết ra. Chuyên ban về hình pháp âm trạch là chính, văn từ thanh nhã, chú
giải rõ ràng. Thuyết hình pháp đến đây đã hầu như hình thành quá nửa. Duy sách
trình bày thành 100 thiên là gò ép miễn cưỡng, rắc rối khó đọc.
Táng thư : Tên sách.
Còn gọi là Quách Phác táng thư, 1 quyển. Trước đề là do Quách Phác đời Tấn soạn;
nhưng sách này xuất hiện lần đầu trong Tống sử. Nghệ văn chí khảo sát nội dung,
thì sách này hẳn do người đời Đường viết, mạo danh Quách Phác. Sau khi sách ra
đời các nhà phong thủy thêm thắt vào, thành ra hơn 20 thiên. Thái Nguyên Định
đời Tống mới san định lại còn 8 thiên; Ngô Trứng san đinh lại còn 2 thiên nội,
ngoại tức bản hiện hành. Sách này nêu các thuyết, như thuyết Sinh khí, thuyết
Tam cát lục hung, thuyết Hình thế, thuyết Ngũ bất táng phát triển hoàn thiện
thuyết Tứ linh; đồng thời đề xuất định nghĩa Phong thủy, tôn định hệ thống lý
luận của Thuật Phong thủy, là tiêu chí hoàn toàn chín muồi của phong thủy âm
trạch, trở thành một trước tác lý luận rất quan trọng của học thuyết phong thủy.
Đời sau tôn sùng gọi là “Táng kinh”. Trong Táng thư có nhiều chỗ viết hai chữ
“Kinh nói”, đủ hiểu trước sách này từng có một bộ Táng kinh, sách nay chi la
tiếp tục phát triển học thuyết kia mà thôi.
Thanh nang Hải giác kinh
: Tên sách. Tên đầy đủ là Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh, trước
đề do Quách Phác đời Tấn tu chỉnh, đòng thời có lời tựa của Trương Sĩ Nguyên đời
Tống và Ngô Thiên Tước đời Minh, 4 quyển. Sách này nửa đầu nói về Lý khi, nửa
sau về Hình pháp, chuyên luận âm trạch, nội dung cực kỳ rắc rối. Tam ban đại
quái, Long huyệt sa thủy, nào ngũ tinh cửu tinh, chính thể biến thể, đều tập hợp
ở sách này. Có thiên chuyên bàn về huyệt pháp, lại được nhắc lại phía sau, văn
từ lúc nhã lúc thô, dưới chính văn có chú văn, không rõ của ai. Ngờ rằng sách
này là do người từ đời Minh trở đi mạo danh Quách Phác mà soạn
nên.
Trạch kinh : Tên sách. Thời Tùy Đường có rất nhiều
sách Trạch kinh lưu truyền, không dưới vài ba chục loại; theo người đời sau chép
lại, thì có Hoàng đế nhị trạch kinh, Địa điển trạch kinh, Tam nguyên trạch kinh,
Văn vương trạch kinh, Khổng tử trạch kinh, Thiên lão trạch kinh, Lưu căn trạch
kinh, Huyền nữ trạch kinh, Tư Mã Thiên sư trạch kinh, Hòai nam Tử trạch kinh,
Vương Vĩ trạch kinh, Tư tối trạch kinh, Lưu Tấn Bình trạch kinh, Lục thập tứ
quái trạch kinh. Hữu bàn long trạch kinh, Tả bàn long trạch kinh, Lý Thuần Phong
trạch kinh, Ngũ kinh trạch kinh, Lã Tài trạch kinh, Phi âm loạn phục trạch kinh,
Tử Hạ trạch kinh, Điêu Đàm trạch kinh, Huyền Ngộ trạch kinh, Ngũ Phi trạch kinh,
Bát Quái trạch kinh, Tiêu Cát trạch kinh .v.v… trong đó có một số là cùng một
sách mà đề tên khác nhau, nay đã không thể khảo cứu, vì hiện chỉ còn Hoàng đế
nhị trạch kinh, các sách khác đã thất truyền. Sự xuất hiện nhiều trạch kinh như
vậy chứng tỏ trước tác phong thủy rất thịnh hành vào đời Tùy
đường.
Hoàng đế trạch kinh : Tên sách. Còn gọi là Hoàng đế
Nhị trạch kinh. Không rõ người soạn. 2 quyển. Nhị trạch tức là dương trạch và âm
trạch. Sách chia ra 24 phương vị, khu biệt âm dương, qui định cát hung, xác định
hưu cữu. Điều cơ bản là âm dương tương đắc, phương vị không loạn. Không khảo sát
hình dạng cụ thể và địa hình xung quanh nhà ở, cho nên có học giả coi đây là
trước tác đại biểu cho trường phái Lý pháp trong phong thủy. Sách bàn nhiều về
việc chọn ngày có ảnh hưởng lớn tới việc chọn lựa ngày giờ của Thuật Phong thủy
đời sau. Tứ khố toàn thư cho rằng sách này “rất có nghĩa lý” lại viết rằng trong
Tổng sử có chép Tướng trạch kinh 1 quyển, chính quyển sách này. Nhưng khảo sát
văn hiến Đôn Hoàng, thấy đã có văn bản Hoàng đế trạch kinh đủ giết sạch đã được
lưu hành rộng rãi từ đời Đường, và hoàn toàn không phải là bản Tướng trạch kinh
chép trong Tống sứ. Nghệ văn chí.
Thập nhị trượng pháp :
Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Sách này chuyên bàn về
phép điểm huyệt căn cứ hình thể bối hướng của Lai long, sự thuận nghịch mạnh yếu
của khí mạch mà chia ra 12 loại huyệt pháp là : thuận trượng, nghịch trượng, túc
trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, cao trượng, một trượng, đối
trượng, tài trượng, phạm trượng, đốn trượng. Tiếp đó lại phân ra 17 loại trượng
kiêm như: thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm túc, thuận trượng kiêm
xuyết, thuận trượng kiêm xuyên, thuận trượng kiêm cao, thuận trượng kiêm đốn,
thuận trượng kiêm một, thuận trượng kiêm đối, thuận trượng kiêm tài, thuận
trượng kiêm phạm, nghịch trượng kiêm túc, nghịch trượng kiêm xuyết, nghịch
trượng kiêm khai, nghịch trượng kiêm xuyên, nghịch trượng kiêm cao.. Mỗi loại
đều có đồ hình, mỗi đồ hình có thuyết minh, căn cứ trượng pháp định huyệt có thể
tránh hung đón cát. Nguyên tắc chung là phân liệt từng li từng tấc để thụ khí.
Dương Quân Tùng lại có Táng pháp đảo trượng, thực ra là Thập nhị trượng pháp, mà
cuối sách kèm theo 1 thiên “24 sa táng pháp”‘ Thập nhị trượng pháp là trước tác
quan trọng của trường phái Hình pháp của Thuật phong thùy, có ảnh hưởng rất
lớn.
Nghi
long kinh :
Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc
Mộc đời Minh chú. Sách này gồm 3 thiên thượng, trung, hạ. Thiên thượng bàn về
Can long tìm chi, lấy “thủy khẩu quan cục” làm chính; thiên trung bàn về phép
tìm phần tận cùng của long, phép nhìn triều ứng trước sau, thiên hạ bàn về hình
thế kết huyệt. Cuối sách kèm theo “Nghi long thập vấn” đề giải thích những chỗ
khó. Là trước tác lý luận quan trọng, được lưu hành rộng rãi , của trường phái
Hình pháp trong Thuật Phong thủy. Sách Trưc trai thư lục giải đề của Trần Chấn
Tôn đời Tống co chép sách này, nhưng không nói ai là tác giả, nên Tứ khố tòan
thư tống mục viết : “Bản này không biết của ai”.
Hám long kinh : Tên
sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú.
Sách này chuyên luận về hình thế của sơn long mạch lạc, chia ra 9 sao : Cự môn,
Tham lang, Lộc tồn, Văn khúc, Vũ khúc, Liêm trinh, Phá quân, Hữu Bật để nhận
biết hình dạng sơn và phân biệt cát hung. Là trước tác tiêu biểu của trường phái
Hình pháp trong Thuật Phong thủy.
Thanh nang áo ngữ :
Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú.
Sách này chuyên bàn về hình thế sông núi phân ra âm dương thuận nghịch, cửu tinh
thất diệu để phân biệt cát hung quí tiện. Khảo sát sách Quận trai độc thư chí
của Triệu Hy Biền đời Tống có chép Thanh nang bản chỉ, 1 quyển, không đề người
soạn sách Trực trai thư lục giải đề có chép Diệu kim ca, Tam thập đồ tượng của
Dương Quân Tùng, 1 quyển; sách Thông chí. Nghệ văn lọc của Trịnh Tiêu lại có
chép Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Xiêm, 1 quyển không biết có
phải là sách này chăng. Bản này được lưu hành đồng thời với Thanh nang tự của
Tăng Văn Siêm.
Kim cương toàn bản hình pháp táng đồ quyết : Tên
sách. Tên đấy đủ là Dương Tái Thương tiên nhân Dương công Kim cương tòan bản
hình pháp táng đồ quyết, 1 quyển. Đầu sách có lời tựa, nói là của Dương Quân
Tùng, rằng “Long hung mà huyệt cát, vô tình mà có tình vậy, tuy có phúc nhưng
không lâu bền; còn long cát mà huyệt hung, có tình mà là vô tình vậy, tuy hung
nhưng lại có phúc”, cho nên sách bàn về cách dùng sức người cải tạo địa hình
Long cát mà huyệt hung, để tránh hung đón cát. Sách có 24 bản hình, 24 pháp
táng, kèm theo thuyết minh. Phàm Lai Long mà có tình, thì dù thuỷ thế nào, mạch
ra sao, Minh đường rộng hay hẹp, đều có thể dùng nhân công cải tạo làm cho huyệt
trở nên cát (lành ).
Thanh nang tự : Tên sách. Trước đề là do Tăng Văn
Siêm soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này lưu hành đồng thời với Thanh
nang áo ngữ của Dương Quân Tùng. Sách lấy ngũ hành phối hợp với 8 Can, khởi tính
Tràng sinh theo từng hành. Tiếp đó lấy hợi mão mùi làm mộc cục, dần ngọ tuất làm
hỏa cục, tỵ dậu sửu làm kim cục, thân tý thìn làm thủy cục, cứ thế diễn dinh,
cộng thành 48 cục, dương nghịch âm thuận, dùng để phán đoán cát hung của phương
vị thủy lưu toạ hướng. Thực ra là “Song sơn ngũ hành” đón sau. Tứ khố toàn thư
tổng mục cho rằng các sách đời sau như Ngô Công giáo tử thư, Ngọc xích kinh,
Trục chí nguyên chân đều là sự tiếp tục phát triển thuyết này mà thành, cho nên
Thanh nang tự là trước tác quan trọng của trường phái Lý pháp trong Thuật Phong
thủy là khởi đầu của sáng lập pháp . Song Tứ khố toàn thư tổng ngục lại nói Tăng
Văn Siêm là đệ tử của Dương Quân Tùng, nhân vật trung kiên tiêu biểu cho trường
phái Hình pháp, chứ không phải cho trường phái Lý pháp. Khảo cứu sách Thông chí.
Nghệ văn lược của Trịnh Tiêu thấy có chép Thanh nang tử ca, 1 quyển, của Tăng
Văn Xiêm và Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Siêm, 1 quyển: không
có Thanh nang tự nên sách này có lẽ do người đời sau soạn ra, mạo danh Tăng Văn
Siêm cho thêm vẻ kỳ bí.
Linh thành tinh nghĩa: Tên sách. Trước đề do Hà Phố
đời Nam đường soạn Lưu Cơ đời Minh chú. 2 quyển. Quyển thượng nói về hình thế
sơn thủy, biện Long định huyệt chủ theo thuyết Hình pháp. Quyển hạ bàn về thiên
tinh quái lệ, cát hung sinh khắc, để định huyệt lập hướng, lại theo thuyết Lý
pháp pha tạp hai phái Hình và Lý. Thuyết “nguyên vận” dùng trong sách nay vốn
xuất hiện từ đầu đời Minh nên chắc bằng sách nay hẳn phải do người đời Minh soạn
mới đúng.
Cửu tinh huyệt pháp : Tên sách. Trước đề do Liệu Vũ
đời Tống soạn, 4 quyển. Sách này chuyên nói lấy Cửu tinh phân biệt hình dạng
huyệt. Cửu tinh là Thái dương, Thái âm, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, Ao não,
Thiên Canh, Bình não, Song não; mỗi sao lại phân 9 thể : Chính thể (ngay ngắn),
Khai khẩu (há miệng), Huyền nhũ (treo vú), Cung cước (cong chân), Song tí (hai
cánh tay), Đơn cổ (một đùi), Trắc não (đầu), Một cốt (khung xương), Bình diện
(bằng phẳng). Mỗi thứ đều có đồ hình và thuyết minh. Là trước tác quan trọng cua
thuyết Hình pháp liên quan đến việc định huyệt. Sách còn nói nếu hình sơn không
đẹp có thể dùng sức người san lấp tăng giảm.
Phát vi luận : Tên
sách. Thái Nguyên Định đời Tống soạn. Nội dung chủ yếu nói về Địa đạo một âm một
dương, một cương một nhu, phàm sự động tĩnh, tụ tán, hợp phân, hướng bối, thư
hùng (đực cái), thuận nghịch, mạnh yếu, sinh tử, vi trước (nhỏ, rõ), phù trầm
(chìm nổi), sâu nông .. .của sơn thủy đều có thể từ đó mà phân biệt rõ ràng,
nghĩa là theo trường phái Hình pháp. Cuối sách có kèm một thiên nhan đề “Nguyên
cảm ứng” muốn dùng học thuyết Nho gia mà nghiên cứu và đề cao địa vị phong thủy.
Thái Nguyên Định là học trò Chu Hy, quan điểm của ông phản ánh thái độ Lý học
tán dương Thuật Phong thủy. Có thuyết nói sách này do Thái Thu Đường soạn. Thái
Thu Đường tức Thái Phát, hiệu Thu đường lão nhân, là cha của Thái Nguyên Định,
cũng tinh thông địa lý.
Thôi quan thiên : Tên sách. Lại văn Tuấn đời Tống
soạn. 2 quyển. Gồm 4 thiên Long, Huyệt, Sa, Thủy, mỗi thiên có ca quyết và chú
giải. Long thì lấy 24 sơn chia âm dương, lại phân ra tam cát lục tú, mà thay đổi
thụ huyệt. Huyệt thì lấy Long làm chủ, nhưng tùy theo khí mạch mà phân tả hữu.
Sa, Thủy thì lấy phương vị phán đoán cát hung theo cái lý sinh khắc chế hóa của
âm dương ngũ hành. Tuy nhiên có nhiều điều vô căn cứ ví dụ cho rằng Đoài Long
Thìn thủy chủ đời con có sẽ bị bệnh sâu răng, hư răng, bởi lẽ Thìn có kim sát,
Đoài là miệng lưỡi, răng lợi bị kim sát thì răng gãy, răng hư.
Ngọc xích kinh : Tên
sách. Trước đề Lưu Bỉnh Trung đời Nguyên soạn, Lưu Cơ đời Minh chú. 4 quyển.
Thực ra người soạn và người chú đều là cuối đời nhà Minh. Sách nói về các mạch
núi lớn trong thiên hạ, Côn Luân là tổ của vạn ngọn núi. Ngũ nhạc cùng Trương
Giang, Hoàng Hà phối với 24 sơn. Nói rằng toạ hướng Long, Huyệt cát hung lấy
thủy làm chính, không hề tính đến hình thế của sơn, cường điệu cát hung của thủy
khẩu, coi Giang Nam là địa hình chính tông. Tưởng Bình Giai nói rằng sách này
“sao chép cách phân chia Long thành thuận nghịch và Sa thành quí tiện của hai
nhà Dương, Lại; lập luận theo kiểu ức thuyết, nông cạn” (Địa lý biện
chính).
Kham dư mạn hưng : Tên sách. Trước đề do Lưu Cơ đời
Minh soạn. 1 quyển. Sách toàn dùng ca quyết thất ngôn tứ cú, tổng cộng 150 đề,
luận Long, Huyệt, Sa, Thủy lấy Hình pháp làm chính. Lời văn ý tứ sáng sủa, tuy
trước sau hay lặp lại, rất ít ví dụ.
Địa lý đại toàn : Tên
sách. Lý Quốc Mộc đời Minh soạn. 2 tập, 55 quyển. Tập hợp rất nhiều trước tác
phong thủy của Quách Phác, Khâu Diên Hàn, Dương Quân Tùng, Liêu Vũ, Thái Nguyên
Định, Lưu cơ, Tăng Văn Siêm, Lưu Bỉnh Trung, Lại Văn Tuấn, Ngô Khắc Thành, có
đến hơn 10 loại Kèm theo phụ đồ, phụ thuyết của Lý Quốc Mộc, chiêm đến một nửa
bộ sách Tập chuyên luận về Hình pháp, tập 2 luận về Lý pháp. Tuy việc tuyển chọn
không tinh, nhưng phải nói là dày công.
Táng kinh dực : Tên
sách. Mậu Hy Ung đời Minh soạn. 1 quyển. Nửa sách này nói về Táng thư của Quách
Phác, phần giữa giải thích “Thập nhị trượng pháp” của Dương Quân Tùng; phần cuối
tạp giải Tam hợp, Bát tự, kèm theo “Nan giải 24 thiên”. Lấy Hình pháp làm chính.
Lời văn rõ ràng, tinh tế.
Thuỷ long kinh : Tên sách. Không rõ soạn giả, 5
quyển. Đầu sách có lời Tựa của Tưởng Bình Giai là người ở buổi giao thời Minh –
Thanh, viết năm “Hạ nguyên Quý Mão” (tức năm 1663), người Tùng Giang, Giang Tô,
một người tinh thông Thuật Phong thủy. Quyển 1 nói về đại thể Hành long kết
huyệt, chi long can long tương thửa; quyển 2 nói về chính thể và biến thể ngũ
tinh, thẩm biện cát hung; quyển 3 nói về cách cục của thủy – long; quyển 4 nói
về tượng thủy – long thác vật tỉ loại; quyển 5 nhan đề “Thân ngôn”. Trước sau
tuy có mâu thuẫn, nhưng thể lệ về cơ bản như của một tác giả, nên ngờ rằng sách
này là do Tưởng Bình Giai tham khảo các trước thuật liên quan mà soạn ra, chứ
không chỉ viết lời Tựa. Nội dung sách là vấn đề làm nhà xây mộ ở vùng đồng bằng
sông nước, nhiều hình vẽ mà ít lời văn, căn cứ hình dạng để định cát hung. Lại
kèm theo thuyết Sơn long, lấy Can thủy làm Hành long, Chi thủy làm Chi long, Can
Chi tương phối, nội ngoại hợp khí. Lại tạo Ngũ tinh thủy hình, Tinh tú thủy
hình, nhưng dựa vào hình để nhận biết cách, không nói đến Lý pháp; ca quyết thì
thô kệch vụng về.
Dương trạch thập thư : Tên sách. Không rõ soạn giả.
10 quyển. Cuối sách có lời Bạt, với câu “Vương Tử đã soạn xong Dương trạch thập
thư” chứng tỏ soạn giả họ Vương. Nội dung rất phức tạp, bao gồm những gì liên
quan đến lý luận, phương pháp của Phong thủy dương trạch. Sách có 10 thiên là :
Luận trạch ngoại hình, Luận phúc nguyên, Luận đại du niên, Luận xuyên cung cửu
tinh, luận huyền không trang quái quyết, Luận khai môn tu tạo môn, Luận phóng
thủy, Luận trạch nội hình, Luận tuyển trạch, Luận phù trấn. Do vậy có tên Dương
trạch thập thư.
Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh
soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân
Tùng .
Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh
soạn. 19 quyển. Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân
Tùng và Ngô Cảnh Loan, kèm với lời bình chú của soạn giả.Nguồn : Nguyên Vũ –
http://vanhoaphuongdong.com
Còn một số những Ðịnh nghĩa
khác ,nhưng dienbatn xin cùng các bạn đi tiếp vì sợ rằng bài viết trở thành cuốn
từ điển thì chán lắm.
Trong các Trường phái Phong
thủy hiện đang lưu hành truyền bá thì hiện nay nổi lên những Trường phái sau
:

1/Phái BÁT TRẠCH MINH CẢNH do Thái Kim Oanh chủ
xướng.
2/Phái DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU do Triệu Cửu Phong và sau này có
thêm cuốn Dương cơ chứng giải của tác giả Lộc Dã Phu.
3/Phái CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC
.Theo các sách cổ ghi chép lại thì Huyền Không Học ban ðầu do Quách Phác đời nhà
Tấn phát minh ra, sau được các nhà Phong Thuỷ Học như Dương Quân Tùng đời Ðường,
Tưởng Ðại Hồng đời Minh, cuối cùng là Thẩm Trúc Nhưng nhà Thanh hoàn thiện lại
toàn bộ học thuyết.
4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY.Hiện nay tại Việt nam có tác giả DƯ
QUANG CHÂU và nhiều người nữa đang phát triển rất mạnh ,đi kèm theo đó là Lý
thuyết về Năng lượng Sinh học.
5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.Trường phái này có từ rất xa
xưa,thường được truyền trong dân gian qua cách Gia truyền,bí mật.Ngày nay nhiều
chi phái Ðạo giáo đang thực hiện ðể giải phá những Long mạch bị trấn yểm,Khai mở
những Huyệt đạo ,dùng năng lượng của nó cứu dân độ
thế.

Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác ,nhưng dienbatn
chỉ xét đến những Trường phái nổi bật nhất hiện nay.Các Trường phái như :BÁT
TRẠCH MINH CẢNH,DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU,CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC,hiện nay có rất
nhiều tài liệu cho các bạn nghiên cứu và trên Diễn đàn cũng đã thảo luận rất
nhiều và tưõng đối đầy đủ.dienbatn chỉ xin điểm lại những nét chung nhất của ba
Trường phái này,và mong các bạn hiểu rằng ,cả ba trường phái trên ,thực chất chỉ
là một vấn đề ,nhìn từ những góc độ khác nhau của môn Phong thủy.Trọng tâm của
bài viết này ,muốn đưa các bạn đến với những gì hiện nay chưa phổ biến,chưa có
nhiều tư liệu,ngõ hầu giúp các bạn hiểu thêm về Phong thủy và có cách sử lý
chính xác những khiếm khuyết của ngôi nhà mình đang ở.Những tư liệu trong các
Trường phái CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY,dienbatn trong qua trình
đi Ta bà ,được các Cao nhân chỉ giáo,xin chép lại để hầu các bạn.Có những cái
thấy mới tin ,nhưng một người Thày của dienbatn dạy rằng :”PHÚC CHO NHỮNG AI
KHÔNG THẤY MÀ TIN “.Và các cụ có câu “LINH TẠI NGÃ -BẤT LINH TẠI NGÃ “.Có những
cái tưởng là vững chắc mà thật ra ,sẽ đổ lúc nào chẳng hay.dienbatn xin điểm lại
những Trường phái thông thường tạm gọi là những Trường phái HỮU VI : PHÁI BÁT
TRẠCH MINH CẢNH;DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU và DƯƠNG CƠ CHỨNG GIẢI;CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG
HỌC.Sau đó dienbatn đi tiếp vào những Trường phái tạm gọi là VÔ VI :CẢM XẠ PHONG
THỦY VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.Ðiều mong muốn của dienbatn là các bạn phải nhớ
câu này trước khi lên đường :”NHẤT BỔN TÁN VẠN THÙ -VẠN THÙ QUY NHẤT BỔN “.Ðó
chính là hai mặt của Âm -Dương đối lập cùng tồn tại trong mọi vật thể,trong Vũ
trụ.


B/ PHẦN PHONG THỦY HỮU
VI:


Trong phần này, dienbatn chỉ xin điểm lại những vấn đề chính
mà bất cứ người nào khi bước chân vào nghiên cứu Phong thủy cũng phải bước
qua.Phần này được tạm gọi là PHẦN PHONG THỦY HỮU VI vì nó có tính chất trực quan
hơn, gần gũi với người sử dụng hơn.Trong phần này,như đã trình bày ở các phần
trước,dienbatn coi
các Trường phái Phong thủy
đều có chung một nguồn gốc và đó chính là những mảnh bị tán lạc của một nền Văn
minh cổ đã bị diệt vong do bản tính xu cát tỵ hung của loài người cách đây
khoảng 7.000- 14.000.Vấn đề này dienbatn sẽ
trình bày kỹ khi có dịp.Có một bài thơ nói về vấn ðề này xin chia sẻ cùng các
bạn:

“Thiếu gì những kẻ
muốn xâm lăng,

Vũ khí hung tàn có thể
ngăn.

Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc
chiến,

Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn
băng.

Như Hải tinh trong Quốc bảo
mình,

Ðời nào cũng có bậc anh
minh.

Mỗi khi sông núi vang lời
gọi,

Là có Rồng thiêng biến hữu hình
“.

Cố
GS-TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG trong cuốn TÍCH HỢP ÐA VĂN HÓA ÐÔNG TÂY CHO MỘT CHIẾN
LƯỢC GIÁO DỤC TƯƠNG LAI cũng đã cảnh báo về cuộc chiến này.Trong cuộc chiến
tranh Tâm linh này,vũ khí nguyên tử chỉ là những trò chơi trẻ con và sự tàn phá
không chỉ tính là một vài Ðất nước mà là cả một nền Văn minh của Nhân loại.Cái
thuộc tính xu cát tỵ hung của con người, sẽ dần dần đẩy Văn minh Nhân loại vào
cuộc chiến tự hủy diệt và bắt đầu một nền Văn minh mới được thành lập dưới THỜI
ÐẠI DI LẶC THÁNH ÐỨC.
Con người có khả năng làm những điều tốt đẹp nhất cho đồng
loại và đồng thời cũng có thể làm những điều tồi tệ nhất mà không có một giới
hạn nào có thể cản ngăn.Ðó cũng chính là hai mặt Âm Dương đối lập nhưng cùng tồn
tại song song.Cứu cánh cho việc đó chính là công việc của các Tôn giáo đang thực
hiện là hướng con người vào CHÂN- THIỆN- MỸ.dienbatn xin được trình bày vấn đề
này khi có dịp thích hợp.
Trở lại vấn đề Phong thủy.Thực ra nói đến thuật Phong thủy
thực ra cũng chỉ là một bộ môn của nền Văn minh tối cổ đã bị hủy diệt do chính
con người.
Cái gốc của Phong thủy cũng như tất cả các vấn đề khác của
TRIẾT HỌC ÐÔNG PHƯƠNG như KINH DỊCH,Y THUẬT,TỬ VI LÝ SỐ,BÁT TỰ HÀ LẠC,THÁI
ẤT,ÐỘN GIÁP,TỬ BÌNH vv đều dựa trên cơ sở chặt chẽ của THUYẾT ÂM DƯƠNG- NGŨ
HÀNH.Ðây chính là một siêu công thức Vũ trụ,có thể lý giải những vấn đề từ vi mô
đến Vĩ mô và đồng thời có khả năng dự báo.Ðây cũng chính là công thức mơ ước của
các nhà Khoa học hiện đại.Tuy nhiên, đây cũng chính là công thức của Tâm
linh,của những chiều không gian khác.Thuyết ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH có thể lý giải
tuyệt vời những vấn đề của Khoa học hiện đại, nhưng Khoa học hiện đại không thể
lý giải những vấn đề về Tâm linh.Khoa học của Không gian ba chiều không thể lý
giải được những vấn ðề của Không gian nhiều hơn ba chiều;Nhưng Tri thức của
không gian nhiều hơn ba chiều lại có thể lý giải được những vấn đề của Không
gian ba chiều.Nói theo Toán học thì Không gian ba chiều nằm trong Tập của không
gian đa chiều.Cái tối ưu là sự kết hợp giữa Tâm linh và Khoa học sẽ làm cho con
người tiến rất mau vào biển tri thức ðã có sẵn.
Bây giờ ta trở lại những vấn
đề đơn giản hơn của những thuật Phong thủy cụ thể.
Trong Phong thủy,cái quan
trọng nhất vẫn là vấn đề trường Khí.Khí ở đây không phải là Không khí hay một
chất khí cụ thể nào cả.Ở nước ngoài người ta dịch Khí là SHA,hay Qi,tuy nhiên
cũng chưa gọi đúng bản chất của nó.Thực ra ,nói theo từ của Khoa học,KHÍ là một
dạng của Năng lượng,có vô số dạng thù hình khác nhau ,tùy theo điều kiện cụ
thể.Trong Phong thủy người ta nói :”Tụ là hình- Tán là Khí” hay “Nhất bổn tán
vạn thù- Vạn thù quy nhất bổn”. Ðó chính là những khái niệm về bản chất của
Khí.Theo Ðịnh luật bảo toàn năng lượng đã khái quát : “NĂNG LƯỢNG KHÔNG TỰ NHIÊN
SINH RA VÀ CŨNG KHÔNG TỰ NHIÊN MẤT ÐI,NĂNG LƯỢNG CHỈ BIẾN ÐỔI TỪ DẠNG NÀY SANG
DẠNG KHÁC”.Các dạng thù hình của Khí thật là muôn hình vạn trạng nhưng bản chất
của nó vẫn là dạng Năng lượng.Khí cũng không thoát khỏi quy luật của siêu công
thức ÂM DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Tức là Khí cũng có những tính chất âm dương – Ngũ hành
cụ thể cho từng dạng thù hình.Những tính chất này tùy theo tương sinh hay tương
khắc mà tác động lên các vật thể khác mà đem lại sự tốt hay xấu,thuận hay không
thuận cho sự vận động của những vật thể khác.Nhiệm vụ của thuật Phong thủy là
tìm ra điều kiện tối ưu cho cuộc sống của con người phù hợp với môi trường sống
của mình.Tất cả các Trường phái Phong thủy đều phải tuân theo quy luật
đó.

CHƯƠNG 1 / 

KHẢO QUA TRƯỜNG PHÁI BÁT TRẠCH
MINH CẢNH :
 

Thực ra Bát Trạch Minh Cảnh
cũng mới xuất hiện bằng văn bản trong vài chục năm gần đây . Tác giả là Thái Kim
Oanh . Không thấy nói rõ nguồn gốc tự ở đâu mà ra . Tuy nhiên đây là một phương
pháp khảo sát Phong Thủy tương đối thuận tiện và dễ xử dụng . Trong các tác phẩm
của Thái Kim Oanh có những cuốn như : Bát Tự Lữ Tài , Bát Môn Thần Khóa , Bác
Lãm Quần Thơ , Bát Trạch Minh Cảnh …
Các bạn mới bắt đầu học Phong
thủy có thể đi từ trường phái này . Trong Bát Trạch Minh Cảnh , người ta xét đến
mối quan hệ giữa tuổi chủ chủ nhà và hướng nhà . Để có thể tự lập cho mình các
hướng tốt xấu theo cung phi Bát trạch , các bạn dùng chương trình của Vietshare
rất thuận tiện .
 Đây là đường Link :
 http://tuvi.vietshar…ly/battrach.asp

Các bạn chỉ cần điền giới tính , năm sinh và hướng nhà chính
xác tới từng độ là có thể tự in cho mình những hướng tốt xấu để lựa chọn khi mua
nhà hay xây dựng nhà mới .
Có một cuốn sách điện tử dạng
pdf của Kép Nhật bên TUVILYSO cũng rất hay , các bạn có thể lấy về tham khảo .
Đây là đường link của cuốn sách đó : 

http://www.tuvilyso….
BatTrach.pdf

Dùng hai công cụ mà dienbatn
vừa dẫn , các bạn đã có thể tự coi nhà cho mình theo phái bát Trạch Minh Cảnh
rồi . Tuy nhiên , dienbatn cũng xin cảnh báo : Phái bát Trạch Minh Cảnh chỉ là
một phần nhỏ trong công việc khảo sát Phong thủy của Dương trạch . Muốn giởi
Phong thủy cần phải học tiếp những phần ở sau .
Trong phần Bát trạch Minh
Cảnh này , chúng ta cần lưu ý một số bước sau :
1/ Việc quan trong  khi đo
hướng nhà  :
 các bạn phải đo chính xác tới
từng độ một . Ví du Tọa Dậu – Hướng Mão – thuộc cung Chấn – Đông tứ cung . Chính
Mão là 90 độ . Từ tâm của đường chỉ hướng nhà , mỗi bên không quá 3 độ là còn
nằm trong cung này và được tính toán cho Tọa Dậu – Hướng Mão . Khi quá cung 3 độ
trở lên ( 87 93 độ ) tức là cung hướng Kiêm , các bạn phải tính toán theo hướng
Kiêm mới chính xác .
2/ Khi đặt La Kinh có vòng Phúc Đức xoay được thì khởi đầu
như sau : 
Tùy theo hướng cửa chính, sao Phước-đức của sơn được bày bố
ở vị trí sau đây:
1. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-bắc: sao Phước-đức
được bày bố ở sơn Thân.
2. Cửa chính của nhà quay về hướng Bắc: sao Phước-đức được
bày bố ở sơn Dần.
3. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-bắc: sao Phước-đức
được bày bố ở sơn Giáp.
4. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông: sao Phước-đức được
bày bố ở sơn Tỵ.
5. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-nam: sao Phước-đức
được bày bố ở sơn Tỵ.
6. Cửa chính của nhà quay về hướng Nam: sao Phước-đức được
bày bố ở sơn Thân.
7. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-nam: sao Phước-đức
được bày bố ở sơn Hợi.
8. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây: sao Phước-đức được
bày bố ở sơn Hợi.
Các sao kế tiếp được bày bố tiếp tục đến các sơn kế tiếp
theo đó cho đến hết vòng.

LA KINH VÀ VÒNG PHÚC ĐỨC.

1. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-bắc + Cửa chính của nhà quay về hướng Nam: : sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Thân.




2. Cửa chính của
nhà quay về hướng Bắc  : sao Phước-đức được bày bố ở sơn
Dần.




3. Cửa chính của
nhà quay về hướng Ðông-bắc: sao Phước-đức được bày bố ở sơn
Giáp.





4. Cửa chính của
nhà quay về hướng Ðông +
Cửa chính của nhà quay
về hướng Ðông-nam
 : sao Phước-đức được bày bố ở sơn Tỵ.





6. Cửa chính của
nhà quay về hướng Nam +
Cửa chính của nhà quay
về hướng Tây-bắc
: sao Phước-đức được bày bố ở
sơn Thân.




7. Cửa chính của
nhà quay về hướng Tây-nam +
Cửa chính của nhà
quay về hướng Tây
 : sao Phước-đức được bày bố ở sơn Hợi.




3/Tính chất của
vòng Phúc đức như sau : 


PHÚC ĐỨC : Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt. Sản xuất chăn
nuôi đều thịnh đạt , giàu sang, con cái hiển đạt.
ÔN HOÀNG : Đặt cửa vào sơn vị
này là xấu, bệnh tật làm ăn thua lổ, thị phi, quan sự bất lợi.
TẤN TÀI : Đặt cửa vào sơn vị
này là tốt ,tăng nhân khẩu, điền trạch thịnh đạt, lợi công danh, sản xuất thịnh
đạt.
TRƯỜNG
BỆNH : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, nhiều bệnh tật, con cái hư hỏng, làm ăn
thua lổ, thị phi,gia trưởng bị thủ túc bất nhân.
TỐ TỤNG : Đặt cửa vào sơn vị
này là xấu ,gia tài bị tranh chấp, tiểu nhân hãm hại, sản xuất chăn nuôi thua
thiệt, cuốc sống không yên ổn.
QUAN TƯỚC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, quan lộc tăng
tiến, tăng nhân khẩu, sản xuất chăn nuôi phát đạt.
QUAN QUÍ : Đặt cửa vào sơn vị
này là tốt, sinh quí tử, chức vị cao, điền trạch thịnh vượng, chăn nuôi kinh
doanh phát tài, giàu có.
TỰ ẢI : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,thiệt nhân khẩu,quan
sự bất lợi, nam ly hương, nữ tật bệnh, chăn nuôi thua thiệt.
VƯỢNG TRANG : Đặt cửa vào sơn
vị này là tốt, điền trang gia tăng, nhân khẩu thịnh đạt, sản xuất kinh doanh
phát đạt, Lợi cho chủ mệnh.
HƯNG PHƯỚC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt,trường thọ anh
khang thịnh vượng, trai gái thanh lịch, quan chức gia tăng, chăn nuôi thịnh
vượng, lợi cho con thứ.
PHÁP TRƯỜNG : Đặt cửa vào sơn vị này là rất xấu , đoản thọ,
kiện cáo tù đày, tha phương cầu thực.
ĐIÊN CUỒNG : Đặt cửa vào sơn
vị này là xấu , dâm loạn rượu chè, hao tổn tài sản, con caí bạo ngược, nhân khẩu
bất an.
KHẨU
THIỆT : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,bị vu oan giáng họa, con cái ngổ nghịch,
huynh đệ bất hoà, chăn nuôi thất bại.
VƯỢNG TÀM : Đặt cửa vào sơn
vị này là tốt, gia đạo nghiêm túc, điền sản thịnh vượng , tiền của nhiều, nhiều
con cháu, cần kiệm, chăn nuôi phát đạt.
TẤN ĐIỀN : Đặt cửa vào sơn vị
này là tốt, phúc lộc lâu dài, con cái hiền tài, tiền bạc, ruộng vườn sung
túc.
KHỐC
KHẤP : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia đình luôn bị tai hoạ, đoản thọ, nhiều
bệnh tật, tiền tài bị phá hại, chăn nuôi bất lợi.
CÔ QUẢ : Đặt cửa vào sơn vị
này là xấu , quả phụ, tha phương cầu thực, phá sản, chăn nuôi bất
lợi.
VINH
PHÚ : Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt, vượng nhân khẩu, gia đình vô tai hoạ,
phú quí vinh hoa, tôt nhứt cho người co mệnh hỏa.
THIẾU VONG : Đặt cửa vào sơn
vị này là xấu ,hại nhân khẩu, rượu chè, háo sắc, nhiều bệnh
tật.
XƯỚNG
DÂM : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,dâm loạn, nam nữ tửu sắc hại gia phong,
hoài thai, chăn nuôi bất lợi.
THÂN HÔN : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, vuợng nhân khẩu,
chăn nuôi thịnh vượng, buôn bán phát tài,lợi người mệnh hoả.
HOAN LẠC : Đặt cửa vào sơn vị
này là tốt, phát tài, vượng điền, chăn nuôi hưng thịnh, lợi cho người mạnh
Thuỷ.
TUYỆT
BẠI : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia tài phá bại, cha con không quan tâm
đến nhau.
VƯỢNG TÀI : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, kinh doanh buôn
bán phát tài, phú quí, con cái hiều thảo,lợi cho người mạng
hỏa.


4/TÍNH CHẤT CÁC SAO TRONG HỆ NHỊ THẬP BÁT
TÚ.


1. Sao Giác :Là Mộc tinh mang
tên con Giao ( Cá Sấu ) . Là một sao tốt, chủ về vinh hiển, đỗ đạt, gặp Quý
nhân, lơi cho việc hôn thú, con cái tốt lành. Kỵ mai táng và xây cất mộ
phần.
2. Sao Cang : Là Kim tinh, mang tên con Rồng. Là một sao
xấu, chủ mọi việc phải giữ mình, đừng làm liều. Ky hôn thú.
3. Sao Đê : Là Thổ tinh mang
tên con cầy hương. Là một sao xấu, chủ phải đề phòng mọi chuyện. Kỵ động thổ,
Kinh doanh, xuất hành.
4. Sao Phòng :Là sao Thái dương, mang tên con Thỏ. Là một
sao tốt, chủ về vượng tài sản, ruộng vườn, giầu sang,xây cất, cưới xin hài hòa
vui vẻ.
5.
Sao Tâm : Là sao Thái âm,mang tên con hổ. Là một sao xấu, chủ xấu về chung thủy,
hôn nhân bất lợi, kinh doanh thua lỗ, kiện tụng.
6. Sao Vĩ : Là hỏa tinh mang
tên con Hổ. Là một sao tốt, chủ tốt về làm nhà, giá thú, xuất ngoại, kinh doanh
đều tốt.Thăng quan, tiến chức, sự nghiệp hưng vượng.
7. Sao Cơ : Là Thủy tinh,
mang tên con Báo. Là một sao tốt, chủ tốt về sự nghiệp, tương lai sang sủa, nhà
cửa khang trang, giầu sang.
8. Sao Đẩu : Là Mộc tinh, mang tên con Giải. Là một sao tốt,
chủ hôn nhân, sinh đẻ tốt đẹp. Chăn nuôi, sản xuất tốt. Xây dựng nhà cử tốt
đẹp.
9. Sao
Ngưu : Là Kim tinh, mang tên con Trâu, là một sao xấu. Chủ tổn sức lực, tài sản,
cưới xin, kinh doanh bất lợi, sản xuất bất lợi, xa nhà phải thận
trọng.
10.
Sao Nữ : Là Thổ tinh, mang tên con dơi. Là một sao xấu, chủ xấu về bị mắc lừa,
bất lợi khi sinh đẻ, hao tốn tiền của,
11. Sao Hư : Là Nhật tinh
mang tên con chuột . Là một sao xấu về quan hệ vợ chồng.
12. Sao Nguy : Là Nguyệt tinh
mang tên con én. Là một sao xấu, kỵ xây cất nhà cửa, kinh doanh bất lợi, dễ bại
sản.
13. Sao
Thất : Là Hỏa tinh mang tên con lợn. Là một sao tốt, chủ về công danh , sự
nghiệp, buôn bán, kinh doanh, xây dựng đều cát lợi.
14. Sao Khuê : Là Mộc tinh
mang tên con sói. Sao Khuê nử a tốt nửa xấu. Tốt về quan hệ vợ chồng hòa thuận,
phúc lộc. Xấu về khai trương động thổ, an táng.
15. Sao Lâu : Là Kim tinh,
mang tên con chó. Là sao tốt, chủ về hôn thú, sinh đẻ, con cái tốt. Thăng quan
tiến chức , người của hưng thịnh.
16. Sao Vĩ : Là Thổ tinh ,
mang tên con chim trĩ. Là một sao tốt, chủ về Vinh hoa , phú quý, buôn bán , hôn
nhân, xây dựng đều cát lợi.
17. Sao Mão : Là Nhật tinh mang tên con gà. Là một sao xấu,
chủ về chăn nuôi, xây dựng đều xấu, hôn thú bất lợi,công danh trục
trặc.
18.
Sao Tất : Là Nguyệt tinh mang tên con quạ. Là một sao tốt, chủ về được mùa,chăn
nuôi phát đạt, nhà cửa khang trang, hôn nhân, sinh đẻ tốt đẹp.
19. Sao Chủy : Là Hỏa tinh,
mang tên con Khỉ. Là một sao xấu, chủ về kiện tụng, mất của, bất lợi cho công
danh.
20.
Sao sâm : Là Thủy tinh mang tên con vượn. Là một sao tốt, chủ về Vinh hoa phú
quý,mưu cầu sự nghiệp cát lợi, buôn bán phát tài, xây dựng tốt, an táng cát
lợi.
21. Sao
Tỉnh : Là Mộc tinh mang tên con hươu. Là một sao tốt, chủ về lợi cho việc thi
cử, công danh, trồng trọt, chăn nuôi được mùa, xây dựng nhà cửa, hôn nhân tốt
đẹp. Sao này kỵ an táng.
22. Sao Quỷ : Là Kim tinh, mang tên con dê. Là một sao xấu,
chủ về bất lợi cho việc xây cất nhà cửa, hôn nhân bất lợi. Riêng việc an táng
tốt.
23. Sao
Liễu : Là Thổ tinh mang tên con hoẵng, Là một sao xấu, chủ về hao tài tổn sức,
tai nạn, không được yên ổn.
24. Sao Tinh : Là Nhật tinh mang tên con ngựa. Là một sao
xấu, chủ xấu về quan hệ vợ chồng, hôn nhân. Riêng về xây dựng thì
tốt.
25. Sao
Trương : Là nguyệt tinh, mang tên con hươu. Là một sao xấu, chủ về xấu trong xây
dựng, tai nạn, quan hệ nam nữ .
26. Sao Dực : Là Hỏa tinh, mang tên con rắn. Là một sao tốt,
chủ về vượng tài lộc, con cháu giầu sang, xây dựng, hôn thú tốt
đẹp.
27. Sao
Chẩn : Là Thủy tinh, mang tên con giun. Là sao tốt, chủ về thăng quan tiến chức,
tăng tài lộc, kinh doanh phát tài, hôn nhân, an táng tốt đẹp.
28. Sao Bích : Là một sao tốt
.
Hai vòng
này được dùng khi xác định tốt xấu của các vị cửa : Chính Môn , Tả Thiên Môn ,
Hữu Thiên Môn .

5/ CÁCH ĐẶT BẾP THEO PHÁI
BÁT TRẠCH MINH CẢNH .


Phương Pháp đặt Bếp :
Bếp có 3 tiêu chí để xác định
:
• Hướng
Bếp : Phải quay về hướng tốt của Gia chủ.
• Vị trí đặt Bếp : Phải đặt
tại cung tốt của Gia chủ.
• Sơn (lưng ) của Bếp phải đốt về hướng xấu
chủ.
Khi đặt
bếp phải xem khi phân cung , bếp nằm tại cung nào của 24 Sơn và ta chọn VI TRÍ
đặt bếp vào 1 trong 24 cung tốt theo bài thơ sau .
Phép giải hung của bếp:Đây là
nguồn gốc nuôi dưỡng con người, bệnh tật cũng do ăn uống mà sinh ra. Do đó bếp
phải an theo hướng có sinh khí. Thiên Y hay Diên Niên, đó là 3 kiết phương, điều
tối kỵ là làm bếp ở hung phương như Ngũ quỷ và Lục sát. Nếu phạm vào cát hung
phương này thời hại người hại của, hay sinh bệnh hoạn. Muốn giải trừ hung họa,
thời dọn dẹp hết tro bụi trên bếp cũ, cúng nước sạch quét rửa cho sạch sẽ. Sau
đó đem tro bụi ra đổ ở sông hoặc hoặc ở vùng đồng trống. Mua những vật liệu mới
xây cất theo cát phương Thiên y như vậy có thể giải quyết được hung tai, điều
này rất ứng nghiệm, nếu bếp thuộc phương Mộc sẽ ứng nghiệm trong vòng 30 ngày,
bếp thuộc phương Thổ ứng trong vòng 50 ngày, bếp thuộc phương Kim, ứng nghiệm
trong vòng 40 ngày, bếp thuộc Hỏa ứng trong vòng 20 ngày, cuối cùng bếp thuộc
phương Thủy sẽ ứng trong vòng 60 ngày. Nếu chủ cũng được cát phương thời bệnh
mau khỏi, thêm con thêm của, và công danh hoạn lộ thường ứng trong vòng 3
năm.

Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp
cũ, vì e hung khí chưa tan, nên để nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại
mà vô hại. Riêng những vật dụng thường dùng như chén bát, đũa, muỗng… đều không
kỵ. Trái lại chỉ kỵ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi xa, đúng 5
ngày là lấy theo ý nghĩa phá Ngũ quỷ.


BÀI THƠ KHAI TÁO
MÔN LỆ AN ĐỒNG TÁO VỊ .


Táo nhập Càn cung thị diệt môn .
Nhâm – Hợi nhị vị tổn nhi tôn
.
Giáp – Dần
đắc tài , Thìn Mẹo phú .
Cấn – Ất thiêu hỏa tức tào ôn .
Tý – Quý – Khôn phương Gia
khốn khổ .
Sửu phương tổn súc , gia học ương .
Tỵ – Bính phát tài , Canh đại
phú .
Ngọ
phương vượng vị phú nhi tôn .
Tân – Dậu – Đinh phương đa tật bệnh .
Thân – Tốn – Mùi – Tuất trạch
hanh thông .
Tác Táo thiết kỵ dụng phấn Thổ .
Tàn chuyển – Cận Thủy thiết
an ninh .
Giải nghĩa .
Táo đặt vào cung Càn thì Gia
môn bị suy sụp .
Đặt vào 2 cung Nhâm – Hợi thì hại cho con cháu
.
Đặt vào 2
cung Giáp – Dần thì có tiền , Thìn – Mão thì giầu .
Cung Cấn , Cung Ất thì bị Ôn
dịch .
Ba
cung Tý – Quý – Khôn nhà bị khốn khổ .
Phương Sửu hại lục súc , nhà
gặp họa ương .
Hai Sơn Tỵ – Bính phát tài , Phương Canh đại phú
.
Phương Ngọ
là phương vượng , con cháu được giầu .
Tân – Dậu – Đinh ba phương
này nhiều bệnh tật .
Cung Thân – Tốn – Mùi – Tuất gia đạo được hanh thông
.
Làm bếp
rất kỵ đất dơ bẩn , dùng gạch mới hay đá ở mé nước rất tốt .Khi đặt bếp mới ta
có thể khấn theo thủ tục như sau :

Thỉnh ti mệnh Táo
quân

Bái thỉnh cửu thiên đông trù , ti mệnh táo quân
.
Nhất gia chi chủ , ngũ tự chi thần .
Từ hậu thiệt ư , bắc đẩu chi
trung .
Sát
thiện ác ư , đông trù chi nội .
Tứ phúc xá tội , di hung hóa cát .
An trấn âm dương , bảo hữu
gia đình .
Họa tai tất diệt , hà phúc tất tăng .
Hữu cầu tất ứng , vô cảm bất
thông .
Đại
bi đại nguyện . Đại thánh đại từ .
Cửu thiên đông trù . Ti mệnh
lô vương .
Nguyên hoàng định quốc . Hộ trạch thiên tôn
.
Cấp cấp
như luật lệnh .PHẬT THUYẾT :
TƯ MẠNG TÁO QUÂN CHƠN KINH

Tư Mạng Táo Quân Bửu Cáo
:

Nhất gia chi chủ , ngũ tự chi thần
.
Tư hậu thiệt ư , bắc đẩu chi trung . xét thiện ác ư đông trù
chi nội .
Tứ
phúc xá tội , di hung hóa cát . An trấn âm dương , bảo hựu gia
đường
Họa
tai tất diệt , hà phúc tất tăng . Hữu cầu tất ứng , vô cảm bất
thông
Đại bi
đại nguyện . Đại thánh đại từ .
Cửu thiên đông trù . Tư mệnh Táo Quân .Đế Quân Phật Táo ,
Nguyên hoàng định quốc . Hộ trạch thiên tôn .(1 lần )

NAM MÔ A DI ĐÀ
PHẬT.

TƯ MẠNG TÁO QUÂN CHƠN KINH.
TƯ MẠNG TÁO QUÂN. TÁNH TRƯƠNG
, HÚY ĐƠN , TỰ TỬ QUÁCH , BÁT NGOẠT , SƠ TAM NHỰT (vía mùng 3 tháng 8 âm lịch ),
THÁNH DIÊN THỊ NHỰT NGHI THIẾT TRAI CÚNG DƯ- TƯ MẠNG TÁO QUÂN. TÁNH TRƯƠNG , HÚY
ĐƠN , TỰ TỬ QUÁCH , BÁT NGOẠT , SƠ TAM ỜNG. THẬP NHỊ NGOẠT THẬP TỨ NHỰT TÝ THỜI
THƯỢNG TẤU THIÊN TÀO , NGHI TIÊN Ư NHỊ NGOẠT THẬP TAM NHỰT KIỀN THÀNH TRAI CÚNG
KỈNH TỐNG CHÍ , TAM THẬP NHỰT HỒI VỊ VỤ , NGHI CHÍ THÀNH NGHINH TIẾP TRAI CÚNG
TÁO THẦN . NẢI NHỨT GIA TƯ MẠNG CHI CHỦ CẢM ỨNG CHÍ LINH , MỖI NGOẠT THẬP TAM
NHỰT , TƯƠNG NHỨT GIA SỞ VỊ THIỆN ÁC , LỤC TẤU THIÊN TÀO HÀO BẤT ẨN QUÍ GIÁNG
TƯỜNG GIÁNG ƯƠNG , BÁO NHƯ ẢNH HƯỞNG , CẬN HỬU NAM NỮ ĐỘ HẢI PHẦN HƯƠNG ĐĂNG SƠN
ĐẢO MIẾU BẤT GIA TRI HỬU TÁO QUÂN TƯ MẠNG TỐI HIỂN TỐI LINH , NHI BẤT ÂN CẦN
KHÂM KỈNH , SỞ VỊ XÁ CẬN CẦU VIỄN , NHƯỢC NĂNG THÀNH TÂM KĨNG PHỤNG KINH HÀNH ,
THIỆN SỰ TẤT HỘ KIẾT KHÁNH , PHÀM NHƠN GIA KHẨU BẤT AN SỰ BẤT TOẠI Ý GIẢ VIỆC
NHƠN QUÁT QUA THIÊU CHỬ , HỬU ĐỘC TÁO QUÂN NHI BẤT TRI GIÁC , CẬN NGỘ CAO NHÂN
TRUYỀN THỌ TẠNG KINH , SỞ TẠI NGHI KỴ SỞ KHOẢN CƯ GIA TRIỀU TỊCH , PHẦN HƯƠNG
TÁO TIỀN THƯỜNG GIÁO HƯ HOÀNG ĐẠI ĐẠO , KIẾP KIẾP HÓA SANH , BIẾN HÓA THÀNH HÌNH
, MINH MINH DẠ DẠ , SANH SANH HÓA HÓA , THÁNH THÁNH HIỀN HIỀN , PHẬT PHẬT TIÊN
TIÊN , NHƠN NHƠN QUỶ QUỶ , HỬU TÀ HỬU XÍ , HỬU ÔN HỬU TINH , DỊCH LỆ LƯU HÀNH ,
TỬ SANH BỊNH KHỔ. CHUYỂN VIẾT THƯỢNG CỔ , HẠ CHÍ NHƠN GIAN , KIẾT HUNG THIỆN ÁC
, OAN HỒN TẠO TÁC , NHIỂM HOẠN THÂN TRUNG , TẬT BỊNH NAN THÔNG , TỨ THỜI HÀN
NHIỆT , PHONG KHÍ CHI HUYẾT , TÀ MA XÂM LĂNG , KẾT THÀNH OAN TRÁI , CỪU THÙ CHẤP
ĐỐI , NAM THƯƠNG YỂU TỬ , DỊCH LỆ ÔN HOÀNG , HÓA VI BÁ QUỈ , CHUYỂN VẬN THIÊN
ĐỊA , TRỪ TÀ QUI CHÁNH , CHUYỂN THẦN VI THÁNH , CHUYỂN PHẬT VI TIÊN , CHUYỂN
THIÊN VI ĐỊA , CHUYỂN SƠN VI THỦY , CHUYỂN ÔN VI QUỈ , CHUYỂN TÀ VI CHÁNH ,
CHUYỂN TỬ VI SANH , CHUYỂN HUNG VI KIẾT. TỐNG ÁC NGHINH TƯỜNG , TAM BÀNH LỤC TẶC
, HÓA VI THÁNH TIÊN ……
CHUYỂN THIÊN THIÊN ĐỘNG , CHUYỂN ĐỊA ĐỊA KINH , CHUYỂN NHỰT
NHỰT MINH , CHUYỂN NGUYỆT NGUYỆT HIỆN , CHUYỂN PHONG PHONG CHÍ , CHUYỂN VỎ VỎ
ĐÌNH , CHUYỂN SƠN SƠN TẨU , CHUYỂN LÔI LÔI OANH , CHUYỂN THỦY THỦY KIỆT , CHUYỂN
HẢI HẢI BÌNH , CHUYỂN PHẬT PHẬT HIỆN , CHUYỂN TƯỚNG TƯỚNG HÀNH , CHUYỂN BỊNH
BỊNH TẨU , CHUYỂN TẬT TẬT KHINH , TỨ CHI CỬU KHIẾU , BÁT MẠCH TAM TINH , NGỦ
TẠNG LỤC PHỦ , THÂN THỂ AN NINH , TẢ PHỤ HỬU BẬT , TIỀN TỐNG HẬU KHINH , VẬN
CHUYỂN THIÊN ĐỊA NHƠN VẠN VẬT HÓA SANH , TAM HOÀNG NHẤT LÝ , HỖN HIỆP ĐỒNG HÌNH
, TÀ MA BÔN TẨU , TÍN CHỦ AN NINH , PHẬT THUYẾT THỊ KINH VĨ GIA TRÌ , CHUYỂN VẠN
VẬT QUỶ DIỆT TÀ KINH , VẠN SANH HOAN DUYỆT ĐẠI CHÚNG MẪN CỤ TÍN THỌ PHỤNG HÀNH
ĐƯƠNG KIẾT TỊNH , SÓC , VỌNG MINH ĐĂNG MỖI NGOẠT TAM THẬP NHỰT , VÃNG KIỀN THIỀN
LỂ KÍNH TÁO THƯỢNG , THIẾT VẬT XAO QUA ĐẢO THIẾT CƯƠNG QUẾ THÔNG TÁN TÁO TIỀN
THIẾT VẬT CA KHỐC CHÚ MẠ , TÁO NỘI BẤT KHẢ PHẦN HÓA TỰ CHỈ VẬT DỈ UẾ SÀI KÊ MAO
THÚ CỐT , NHẬP TÁO VẬT VĨ , HÀI LÝ Y PHỤC HỒNG TÂM VẬT TÚC ĐẠP TÁO MÔN GIA PHỦ
TÁO THƯỢNG TẢO BẢ HƯỚNG TÁO VẬT THỰC NGƯU KHUYỂN NHỊ NHỤC TỰ NHIÊN THẦN AN GIA
VƯỢNG PHƯỚC TẬP TIÊU TAI HỶ. (tụng 3 LẦN )

Nghi thức cúng vào giờ Hợi
(22 giờ) các ngày : 7 , 13 , 23 , 24 âm lịch hàng tháng , lể vật gồm :3 chung
nước , 1 bình bông , trái cây , giấy vàng bạc cúng Táo Quân (có chử ĐỊNH PHÚC
TÁO QUÂN )

Thắp 7 ngọn đèn cầy để trên đĩa cúng nơi bếp và 7 ngọn đèn
cầy để trên dỉa cúng trên bàn thờ ông Táo theo hình sau đây
:

2 3

1 4 5 6 7

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *