CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 14

MUÔN
MA HỜI SỜ SOẠN DẮT NHAU ĐI .


Tôi mở chủ đề này sẽ lượm lặt về những huyền thoại về nền
văn hóa Chăm pa đã mất. Và cũng mong mem nào ở miền trung cùng cố gắng thu thập
tài liệu và chia sẻ lên đây.

Miền
trung nơi mà xưa kia là thủ đô của người Chăm pa rải dài từ Đà Nẵng cho đến Bình
thuận. Chả biết vô tình hay hữu ý mà bây giờ dự báo thời tiết trên VTV luôn gộp
lại 1 dải từ Đà Nẵng đến Bình Thuận như vố tình nhắc lại 1 thời vang bóng của 1
vương quốc mà vết tích để lại không phải là nhỏ. Những tháp Chàm lững lững chỉ
vào trời xanh tồn tại qua bao cuộc bể dâu của đât nước và ghi dấu ấn vào nền văn
hóa nhận loại qua chứng chỉ UNESCO như là bằng chứng công nhận 1 nền văn minh
rực rỡ của Châu Á bị biến mất

Huyền lực
của 1 nền văn hóa bị biến mất vẫn tồn tại trong dân gian qua những truyền
thuyết, huyền thoại và thậm chí ghi dấu ấn phi vật thể lên rất nhiều thứ theo
thời gian. Ví như bút danh Chế Lan Viên của nhà thơ Phan Ngọc Hoan được hình
thành qua những cảm nhận hoài niệm về 1 nền văn hóa Chăm Pa tại Bình Định. Có lẽ
Chế Lan Viên đã ngoại cảm được huyền lực Chăm Pa đến nỗi ông lấy bút danh họ Chế
( Tưởng nhớ về  Chế Bồng Nga, hay Che Bonguar, (tên thật là Po Binasor hay Po
Bhinethuor) là niên hiệu của vị vua thuộc vương triều thứ 12 của nhà nước Chiêm
Thành. Trong thời kỳ ông cầm quyền, nhà nước Chiêm Thành rất hùng mạnh, từng đem
quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Không rõ ngày tháng năm sinh cũng
như ngày tháng mất của ông, chỉ biết rằng ông bị giết năm 1390 khi đang đem quân
tấn công Thăng Long lần thứ 4.) và viết những vần thơ ngoại cảm
:

Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả
ngọn,

Muôn Ma Hời sờ soạng dắt
nhau đi.

Những rừng thẳm bóng
chiều lan hỗn độn,

Lừng hương
đưa, rộn rã tiếng từ quy.

Tôi vốn
dĩ là người miền trung, sống cạnh những tháp Chàm. Tôi cũng bị ám ảnh rất nhiều
từ câu thơ

Muôn ma Hời sờ soạn dắt nhau
đi

Vậy ma Hời là ma gì, xin trích tư
liệu nghiên cứu của Nguyễn Trọng:

Ma
Hời là hồn ma của ai?

Trước khi tìm
hiểu về Ma Hời mà rất ít sử liệu đề cập tới, chúng tôi muốn nói về từ ngữ Hời
bởi đâu mà ra. Theo ông Nguyễn văn Huy, một nhà nghiên cứu công phu về Chiêm
Thành thì từ ngữ Hời xuất phát từ ngôn ngữ Chàm: “Danh xưng Hời rất ít được nhắc
đến, người ta chỉ thấy chữ này xuất hiện một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn năm
1937, của Chế Lan Viên. Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H’roi hay Ho Roi),
tên của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ( Chế Lan Viên sinh quán tại Bình Định). Người Hời
thực ra cũng là người Champa, vì trước kia là thần dân của vương quốc Chiêm
Thành di cư đi tận lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn ở đấy, họ vẫn còn
giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của người Chàm đồng bằng trong những
sinh hoạt thường nhật”.

Trong cuốn
“Linh Địa Trà Kiệu”, ông Lê Công Đắc, sinh quán tại đây, đã viết nhiều về Ma Hời
và Thành Hời. Ma Hời ở đây, như đã nói ở trên, là Ma Chàm. Còn Thành Hời tức là
thành Trà Kiệu, tiếng Chàm là Sinhapura, đế đô của vương quốc Chàm trong nhiều
thế kỷ, cho đến giữa thế kỷ VIII thì dời về Ninh Thuận, rồi Quảng Nam, và sau
cùng là Trà Bàn Vijaya ở Bình Định. Trà Bàn là nói toàn vùng tỉnh Bình Định ngày
nay, còn Đồ Bàn là kinh đô, nói theo tài liệu của một vài nhà khảo cổ ngoại
quốc.

Năm 1471, kinh đô Đồ Bàn bị thất
bại và tàn phá khi vua Lê Thánh Tôn đem quân chinh phạt Chiêm Thành, theo bài
của ông Nguyễn Đức Hiệp ngày 4/12/04 phổ biến trên Internet. Theo ông này thì
nhà vua đã dùng chính sách phá huỷ văn hóa để tiêu diệt dân tộc Chiêm Thành và
năng lực tinh thần nước Chàm: đền đài, cung điện, tháp, bia ký, tư liệu phản ảnh
đặc trưng của văn hoá Chàm đều bị phá huỷ, quân nhân và nghệ nhân bị tàn sát hay
bị bắt đi. Có tài liệu khác lại nói rằng vua Lê Thánh Tông đã đem một đoàn
thuyền và lục quân hùng mạnh đánh Vijaya. Sau khi chiếm được, nhà vua Lê Thánh
Tông ra lệnh phá huỷ thành Đồ Bàn, giết hơn bốn chục ngàn quân Chàm và bắt đưa
về Thăng Long hơn ba chục ngàn tù binh, trong đó có nhiều cung nữ biết ca hát và
nhảy múa. Thời điểm này chưa phải là ngày vương quốc Chiêm Thành bị tiêu diệt
hoàn toàn, biến mất trên lãnh thổ duyên hải miền Trung. Những cuộc nổi dậy và
đánh phá lẻ tẻ của vương quốc Chàm bị thu hẹp còn kéo dài cho mãi tới năm 1692
thì Chúa Nguyễn đã đại thắng, đổi tên nước Chiêm Thành là Trấn Thuận Thành, gồm
có Phan Rang, Phố Hải và Phan Rí. Trấn ngày xưa rộng như một tỉnh bây
giờ.

Người viết sẽ có bài nói về ảnh hưởng nhạc Chiêm Thành đối
với các điệu Nam Ai, Nam Bình của xứ Huế. Mảnh đất sông Hương núi Ngự này, đổi
bằng giá của mối tình Huyền Trân Công chúa và Trần Khắc Chung, lúc nào cũng u
buồn lai láng, như tiếng cầu kinh của nàng công chúa góa chồng, ngày đêm niệm
Phật, mong cho chóng đến ngày thoát khỏi cõi đời trần tục tái ngộ cùng người yêu
trong mộng…

Còn chuyện Ma Hời và
Thành Hời thì sao? Người viết có phỏng vấn một vài đồng bào lớn tuổi gốc Trà
Kiệu định cư ở Hoa Kỳ thì họ đều nói rằng chuyện Ma Hời đã được các cụ ngày xưa
kể lại nghe như một chuyện cổ tích. Còn chính họ chưa bao giờ gặp Ma Hời hay bị
Ma Hời quấy phá hay đe dọa. Nhưng theo tác giả cuốn Linh Địa Trà Kiệu, chuyện về
Ma Hời có thật và xem ra ghê gớm, rùng rợn lắm! 

Ma Hời là những hồn người Chiêm Thành hiện về để nhìn lại
thành xưa lối cũ, nhìn lại những cung điện và tháp cao do họ và tổ tiên của họ
xây cất, để lại muôn đời về sau. Những tháp này được xây bằng đất nung, không
phải bằng đá cho nên không kiên cố và tồn tại lâu dài với thời gian và qua bao
nhiêu cuộc chiến tương tàn, đẫm máu.

Câu chuyện thứ nhất :

Không hợp tác với mày vì mày là kẻ đào mồ mả người
ta.

Xung quang làng tôi sinh sống
không những có hệ thống Tháp Chàm mà còn có rất nhiều mộ Chàm. Hình dáng các
ngôi mô này là giống như cái mai rù lù lù 1 đống đen sì vì rong rêu qua thời
gian. Kích thước khung của mộ bề ngang khoảng 2m, bề dài khoảng 3,5m, bề cao
khoảng 0,8m được làm bằng hợp chất Ô dước. Hợp chất này hiện tại dân làng tôi có
biết công thức của nó đó là hỗn hợp của Vôi, Mật mía đường và các loại lá cây
giã nát pha trộn vào. Trong đó lá cây chành rành là chủ
yếu. 

Dù trải qua hàng trăm năm nhưng
các mộ này không hề sứt mẻ theo thời gian chỉ có rêu phong làm cho nó đen sì sì
thôi và rất cứng, cứng như là đá. Vào khoảng những năm thập kỷ 80 thế kỷ trước
lúc mà người dân đói khổ quá chứ trước đó không ai dám rờ vào các mộ này. Vì đói
người ta sẵn sàng đục đá phá rừng để kiếm miếng ăn thì kiêng nể chi những cái mộ
Chàm vô chủ mà lại nghe lời đồn đãi có vàng. Thế là đám thanh niên chúng tôi tụ
tập lại và bàn bạc ra quyết định đào các mộ ấy tìm vàng. Tại sao chỉ có thanh
niên, vì chỉ có chúng tôi mới ngông cuồng, phiêu lưu máu nóng và vô đạo đức tức
thời chứ người già thì lúc nào cũng nghiêng mình kính cẩn trước Tháp và Mộ Chàm
vì những gì họ đã chứng kiến là quá đủ để họ sợ 1 huyền lực từ nền Văn minh biến
mất này. Rải rác quanh làng chúng tôi có khoảng vài chục ngôi mộ Chàm. Sau 1
thời gian bàn bạc kín và chuẩn bị sẵn đồ nghề cuốc xẻng búa đục…Và chúng tôi
quyết định ra tay. Lịch trình hoạch đình  rõ ràng, chỉ hàng động buổi tối có
trăng vì ban ngày sợ các bô lão ra ngăn cản, đào buổi tối và khi kết thúc 1 buổi
đào thì lấp trả lại và ngụy trang y như cũ như chưa có gì xảy ra.
 


Ngôi mộ thứ nhất: 2 cái chết rụng rời
.

Theo lịch trình được phân công
thì buổi chiều hôm ấy 3 cậu đươc phân công đi tiền trạm, tập kết dụng cụ đào,
điều nghiên hình dáng để đào như thế nào và sẽ ngụy trang như thế nào. Ra tới
nơi thì quái lạ, cái mộ ấy chần dần bao lâu nay trẻ chăn bò trèo lên trèo xuống
thậm chí chơi cầu tuột mà có thấy gì đâu. Mà bây giờ bỗng nhiên lại thấy 1 cặp
rắn đen sì to bằng cổ chân đầu có mồng lòng vòng quanh mộ. Thời ấy không có
phong trào bắt rắn nhậu như bây giờ nên trong nhóm có 2 cậu lấy cây quơ quào
chọi đất đá hù dọa cho cặp rắn bỏ đi. Cậu còn lại vì dát nên đứng cách xa. Cặp
rắn rồi cũng bỏ đi và mọi thứ cũng chuẩn bị xong. Tất cả cùng về nhà cơm nước và
chuẩn bị cho 1 buổi tối đào trộm mộ. Nhóm chúng tôi khoảng 10 người, mạnh thằng
nào thằng ấy cơm tối xong và tụ họp lại theo 1 địa điểm hẹn trước với lòng háo
hức vừa phiêu lieu vừa cảm giác mạnh của kẻ trộm, cảm giác sợ sệt về những huyền
bí mộ Chàm…Nhưng chờ mãi chẳng thấy 2 thằng lúc chiều đi tiền trạm ra điểm hẹn.
Quá lâu, quá trễ chúng tôi cho người về nhà hắn tìm. Vô tới sân nhà nhà thì vẫn
thấy nhà bình thường mọi người đang tụ tập giữa sân nhà dưới ánh trăng sau bữa
cơm tối cười đùa vui vẻ sau 1 ngày làm đồng cực nhọc. 

Dạ, Bác ơi cho con tìm thằng A ạ, nó có nhà không
Bác

Ờ nó nằm trong nhà nè
con

Nó ngủ hả Bác, sao mà ngủ sớm
thế

Ừ, hông biết nó làm sao, chiều về
lúc dọn cơm ra thì nó kêu mệt không muốn ăn và đi nằm trước. Chắc nó mệt muốn
ngủ đó con, vào mà kêu nó dậy

Ở quê,
người ta không có tài sản gì quí giá nên người trong làng có thể ra vổ nhà bất
kỳ ai đó 1 cách thoải mài mà không sợ mất mát hay gán ghép tội trộm cắp
gì. 

Thế là cái chết của 2 cậu đuổi rắn
giống như nhau, cùng 1 thời điểm. Và bí mật chỉ có nhóm thanh niên chúng tôi
biết…

Rụng rời tất cả. Và kế hoạch đào
mộ được hoãn vô thời hạn cho đến 1 ngày….

Khám phá thung lũng huyền thoại

Núi Chúa, ngọn núi được xem là kỳ bí nhất Quảng Nam, đang
lưu giữ những câu chuyện hoang đường trong tâm trí người dân vùng tây Quế Sơn và
thượng nguồn sông Thu Bồn. Những dấu tích văn hóa độc đáo khu vực này đã từng
manh nha trong một tour leo núi mạo hiểm của những du khách quốc
tế… 

Có thể xem núi Chúa là một ngọn
núi kỳ bí nhất của vùng đất Quảng Nam. Theo tín ngưỡng của người Chăm xưa, núi
Chúa hay còn gọi Hòn Đền (Kasula) là đỉnh núi thiêng tượng trưng cho đấng tối
cao Shiva- vị thần sáng tạo và hủy diệt. Sông Thu Bồn là sông Mẹ Ganga tượng
trưng cho sông thiêng gắn liền với tín ngưỡng của những nền văn minh lúa
nước.

Âm dương giao hòa, cảnh sắc gợi
mở cho những liên tưởng độc đáo chung quanh đời sống của con người ở xứ sở này.
Những ngày nắng đẹp, từ dưới thung lũng Mỹ Sơn, nơi có khu đền tháp lộng lẫy
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới nhìn lên dỉnh trông như một
chiếc mỏ của chim đại bàng khắc họa khắc họa vào trời xanh uy nghi hoành tráng.
Nhưng lạ lùng thay, từ thung lũng Tây Viên bên kia núi Chúa thuộc vùng  Trung
Lộc của huyện Quế Sơn nhìn lên, đỉnh núi Chúa tròn đều đặn như một bầu sữa mẹ.
Một ngọn núi, đứng ở những góc nhìn khác nhau sẽ có những dáng vẻ khác nhau như
các góc cạnh phức tạp trong tính cách và đời sống tâm hồn của con người đất
này.

Thuở thiếu thời chăn trâu cắt cỏ
ban đêm trong thung lũng sau ngọn  Hòn Đền, thỉnh thoảng chàng mục đồng bắt gặp
những ánh sao băng không phải màu xanh ánh chớp mà là màu máu xẹt từ đỉnh núi
này đến đỉnh núi Cà Tang. Người lớn trong làng thường cấm trẻ con “quở” đến ánh
lửa này. Trong tâm tưởng của họ, đó là lúc ông Ông đi thăm bà. Núi Ông chính là
núi Chúa, núi Bà là núi Cà Tang nằm cách nhau chừng 10 cây số theo đường chim
bay ở hai hướng Đông- Tây nối nhau tạo thành thung lũng Trung
Lộc.

Một vùng đất nhỏ nhưng có số phận
kỳ lạ nhất trong lịch sử xứ Quảng Nam đã từng được khâm sứ Jean Baille nhắc đến
trong cuốn sách Souvenir d’ Annam từ cuối thế kỷ XIX gắn liền với những người
anh hùng thảo dã đứng lên chống Pháp trong phong trào Nghĩa Hội. Trí tưởng tượng
của con người sống trong thung lũng huyền bí này quả là phong phú khi dựng lên
câu chuyện tình yêu thiêng liêng giữa hai …ngọn núi trong những đêm trời quang
mây tạnh, hay xuân thu nhị kỳ có nắng đẹp mây lành tình tứ.

Người làng Tây Viên bên kia núi Chúa còn gọi tên ngọn núi
này là núi Aán. Đây không phải là một câu chuyện huyền thoại hay hoang đường
 bởi yếu tố thật, đáng tin cậy mà các nhà nghiến cứu hoặc điền dã hay thám hiểm
(rất ít ở Việt Nam) phải lưu tâm. Những người thợ rừng lâu năm cả quyết rằng đã
tận mắt nhìn thấy trên một vách đá dựng đứng, cao 30 mét ở gần đỉnh núi Chúa có
một dấu ấn son đỏ chót hình tròn ở giữa là hình vuông tồn tại từ bao đời nay
trước nắng dội mưa dầm. Không biết bằng cách nào, người xưa, ai đó đã khắc biểu
tượng Âm- Dương, linga-yoni được cách điệu vào vách đá dựng ngược đến mức con
người không thể dùng phương tiện nào trèo lên được. Một vòng tròn bên ngoài bao
bọc một hình vuông cũng chính là biểu tượng của tổ chức UNESCO hiện
nay!


Logo của Unesco


Dưới chân núi
Chúa, cuối làng Tây Viên có hai vũng nước nóng quanh năm sôi sùng sục, tương
truyền gọi là vũng Ông và vũng Bà. Vũng Ông nhỏ nhưng sôi nhiều hơn vũng Bà rộng
và nhiệt độ thấp hơn chút ít. Tây Viên nay thuộc xã Quế Lộc huyện Quế Sơn là đại
bản doanh của căn cứ Tân Tỉnh của Nguyễn Duy Hiệu lập nên thời chống Pháp với ý
chí “thay trời hành đạo” nhưng mưu sự bất thành. Đó cũng chính là quê hương của
cụ Nguyễn Đình Hiến trong “tam hùng” của xứ Quảng. Nằm sau lưng Khu di tích Chăm
Mỹ Sơn, thung lũng huyền thoại này có thể là hậu cứ của vương quốc Chămpa trước
kia với nhiều dấu tích còn lại như những ngôi mộ cổ bằng đá bên triền núi Cà
Tang cùng một vài ngôi tháp nhỏ đã đổ nát và hoang phế. Những năm 40 của thế kỷ
trước, trung niên thi sĩ Bùi Giáng trốn đời lên ngụ ở đất này để làm chàng Tô Vũ
chăn dê.

Nếu các bạn muốn một lần thử
làm Tô Vũ ở nơi “ đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi” thơ mộng và huyền hoặc này
thì có thể vượt con đường độc đạo qua đèo Le hoặc xuống thuyền từ phố cổ Hội An
để lên mạn ngược Thu Bồn. Tuy nhiên, leo núi Hòn Đền đầy mạo hiểm và hấp dẫn để
đến đấy thật thú vị hơn! Khách du lịch Việt Nam chưa ai hề có ý tưởng đấy trong
khi nhóm đua thuyền buồm quốc tế đến Việt Nam đã từng có ý định thực hiện hồi
tháng 7-2005 vừa qua. Tuy nhiên, giờ cuối, có sự trục trặc gì đó về thời gian
nên tour vượt Hòn Đền phải hoãn lại.

Sau khi cái chết của 2 người bạn đã làm cho nhóm chúng tôi
mặc cảm tội lỗi không thể tưởng tượng nỗi. Và cái sợ bị trừng phạt tiếp theo làm
cho nhóm chúng tôi mất ăn mất ngủ, ám ảnh dằn vặt, nhất là cậu thứ 3 cùng đi
tiền tạm hôm đó. Cậu ấy nghĩ rằng sớm muộn gì cũng đến lượt cậu. Chúng tôi sợ
đến mức có đi đâu ra ngoài đồng ruộng cũng né tránh không dám đi gần các Tháp
Chàm và các mộ Chàm. Nhưng tuyệt nhiên không dám hé lộ điều gì cho người lớn
trong làng biết

Thế rồi thời gian trôi
qua cũng được gần 2 năm sau khi 2 người bạn chúng tôi mất. Nỗi sợ hãi cũng vơi
dần. Nhóm chúng tôi cũng tản mác, bỏ quê đi xa xứ làm ăn cũng gần phân nửa,
trong đó có những người vì không chịu nổi nỗi sợ mà bỏ quê ra
đi.

Bỗng một hôm cả làng chúng tôi xôn
xao về 1 đoàn người lạ, lạ từ cách ăn mặc, tiếng nói, cử chỉ…vào làng chúng tôi
dò hỏi ( sau này tôi mới biết đó là người Chăm)  các khu mộ ấy. Lập tức nhóm
chúng tôi xung phong dẫn đường và không quên theo dõi sát sao mọi cử chỉ hành
động của họ. Vừa đi tìm các ngôi mộ, họ vừa trải tấm bản đồ vẽ trên vải cũ mèm
nhàu nát theo năm tháng và trao đổi với nhau bằng Tiếng Chăm nên chúng tôi không
biết gì cả. Nhưng nhìn trên bản đồ, các ký hiệu chúng tôi cũng không hiểu gì,
ngoại trừ các chỉ điểm về các mộ là chúng tôi hiểu vì địa hình chúng tôi nắm rõ
trong lòng bàn tay

Cơn khát vàng của
chúng tôi lần nữa lại ập đến, cứ y như là tài sản khổng lồ của mình đang sắp mất
vào tay nhóm người Chăm này. Chúng tôi lo lắng thật sự, lo lắng như người sắp
mất của và cảm giác rằng nhóm người Chăm đang đến để ăn cắp. Nhưng lạ thay, sau
khi chỉ chọ hết tất cả các mộ, họ vẫn không làm gì cả đến các mộ ấy thậm chí
cũng không thèm bước lại gần mộ đến tầm 1m, mà họ chỉ quan tâm vào cái bản đồ,
tụm năm tụm ba họ bàn tán suy tư thậm chí là cãi lộn với nhau. Họ dò xét được 2
ngày, lục lạo từ lùm tre bụi rậm mà kg hề đào bới 1 cái gì, cuối cùng rồi họ
cũng ra đi mà không lấy được thứ gì. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm vì dù sao họ
cũng không có lấy cái gì cả. Sau khi họ đi, cả làng tôi không ngớt bàn tán xôn
xao về vụ này, Vàng, Vàng và Vàng từ ông đang cày ruộng cho đến bà bán rau ngoài
chợ tất cả cùng 1 chủ đề. Khoảng 10 ngày sau, ở làng kế bên chúng tôi có 1 ông
thầy Pháp (chuyên chữa trị tà ma cho dân xung quanh để kiếm cơm thôi chứ cũng
chẳng giàu có gì vì vào thời buổi ấy tất cả cùng nghèo cùng ăn cơm độn với lá
khoai ngòai vườn luộc chấm muối ) qua làng chúng tôi rủ rê mọi
người: 

Đào Vàng

Đào tất cả các cái mộ ấy đề lấy vàng. Vàng tấn ở dưới đó
đó…

Đào vàng, đào vàng. Điệp khúc ấy
được nhắc đi nhắc lại trên miệng mỗi người và cả dân làng tôi từ ban đầu sợ sệt,
tò mò sau đó sôi nổi lên vì thầy Phát tuyên bố:

Ăn thua gì mấy con ma hời này, tui búng ngón tay nó chạy hết
ráo. An tâm đi mấy người bỏ sức ra đào để tui lo vụ kia cho. Nếu chết thì tui
chết trước chớ, có gì đâu mà lo…


thật tình là dân quê có khác, họ thật thà nông cạn cộng với cái đói khổ làm họ
mờ cả mắt mà tin lời thầy Pháp. Suy nghĩ của họ không vượt được cái đọt chuối
sau vườn. Họ không hề đặt dấu hỏi là Thầy Pháp chết trước rồi họ chết sau hay
thầy Pháp chỉ chết có 1 mình còn họ không sao khi quyết định đào mộ
Chăm

Bàn tán khoảng 1 tuần thì trong
làng tôi chia làm 2 phe: Một bên quyết định đào, một bên ra sức ngằn cản. Mà
nhóm chúng tôi lại đứng về phe thứ 2, và dù rất muốn đưa ra bằng chứng để ngăn
cản nhưng chúng tôi không đủ can đảm để nói

( Tại sao dân tình ở tôi lại ám ảnh về Vàng của người Chăm
đến thế, vì đã có rất nhièu người vô tình nhặt được vàng và có nhiều huyền thoại
về vàng chăm tôi sẽ kể ở các bài sau)

Thế rồi việc gì đến phải đến. Dẫn đầu là thầy Pháp, theo sau
khoảng 15 người lực lưỡng với mâm lễ và dụng cụ đào tiến ra mộ
Chăm

Sau 1 hồi khua nhang lẩm bẩm đủ
thứ, mọi người bắt đầu đào. Mọi việc diễn ra rất suông sẻ, nhưng vì mộ cứng quá
họ đục đẽo đâu mất 3 ngày 3 đêm mới phá được. Khi đào xuống dưới thì chẳng có gì
ngoài những lớp vôi và than hoạt tính, đào hết lớp vôi và than thì gặp đất
nguyên thổ và vẫn không cò gì. Cái cảm giác hồ hởi ban đầu mất dần và thay vào
đó là hụt hẫng và mệt mỏi, họ phải chia ca đào cả đêm vì sợ nghỉ đêm nhỡ có nhóm
nào tới đào lượm mất thành quả của họ.Sau khi kết thúc 1 ngôi mộ không có gì,
cũng giống như dò vé số khi trật cái giải 7 giải sáu, năm …lần lượt thì người dò
lại càng hy vọng mình sẽ vào giải đặc biệt. Họ bàn luận tiếp tục đào cái thứ 2
sau khi nghỉ ngơi vài ngày và họ ra về.

Nhóm chúng tôi cũng lien tục tụ tập bàn tán và theo dõi sát
sao tiến trình đào mộ. Chúng tôi thầm khen cha thầy Pháp này cao tay thật. Nhưng
ngờ đâu trong vòng 2 ngày nghỉ thì được tin Thầy Pháp đã ra đi bán muối sau 1
bữa cơm chiều bỏ ăn. Cả dân làng tôi hoảng loạn, nhất là những người tham gia
đào mộ, vơ con khóc như ri cứ như chuẩn bị tiễn biệt chồng con của họ ra đi tiếp
theo. Lúc đó nhóm phản đối được mặt dạy đời:

Thấy chưa, đồ tham lam

Thằng thầy Pháp nó nói nó chết trước chứ có nói tụi bay
không chết đâu…

Các bô lão thì
:

Thất đức thất đức. Động trời động
trời. Cả cái làng này xưa giờ ăn ở hiền lành sao mà sinh ra cái đám đi phá mồ
phá mả người ta như thế này không biết. Chết toi cả cái làng này
rồi

Và bắt đầu một cuộc chạy đua ra mộ
chăm mà cúng, thơi thì họ vái lạy đủ tứ phương, rầm rập suốt ngày. Có bà vợ còn
mua thức ăn ngon về cho chồng ăn vì ảnh không còn biết sống đến ngày
nào…

Nhưng cuối cùng thì tất cả đều
sống khỏe, bây giờ gặp lại nhắc những chuyện cũ thì vừa sợ vừa bắt cười. Những
người trải qua cảm giác sắp chết trở về thì sống hiền lành hẳn ra và các bà vợ
thì bẽn lẽn khi hỏi vào lúc đó mua đồ ăn ngon về cho ảnh ăn vậy tối có tranh thủ
không…Và nhóm chúng tôi đến lúc đó mới dám công bố ra sự thật về cái chết của 2
cậu bạn. Cả làng lại được 1 phen chưởi bới cho bõ tức vì chúng nó biết mà nó
không nói

Còn về các ngôi mô chăm vẫn
còn và lâu lâu lại có nhóm người Chăm đến tìm, trải tấm bản đồ ra chỉ chỉ chỏ
chỏ rồi về. Tuyệt nhiên dân làng tôi không thèm quan tâm đến họ
nữa…

Và tại sao tôi mở đầu câu chuyện
này bằng cái câu : Tao không hợp tác với mày vì mày là kẻ đào mồ phá mả người
ta

Vào năm 2001 tôi và người
bạn thân người Hoa dự định mở công ty chung để làm ăn. Mọi việc bàn tính đến nơi
đến chốn và sắp chuẩn bị tiến hành thì nhân trong lúc trà dư tửu hậu với nó, tôi
cũng kể cho nó nghe về chuyện này. Thế là, 1 cách nghiêm túc nó từ chối hẳn với
1 câu phán xanh dờn như vậy.


HUYỀN THOẠI VỀ KHO
BÁU CHĂM Ở THÁP CỔ BÌNH ĐỊNH .



Vương quốc
Chămpa (192-1822) đã sáng tạo ra một nền văn hóa độc đáo, mang đậm sắc thái
riêng biệt. Đến nay, tỉnh Bình Định đã phát hiện khoảng 117 cổ vật thời Chămpa
và 414 sản phẩm làm bằng gốm cổ thuộc nhiều giai đoạn khác nhau. Đáng chú ý là
kỹ thuật xây dựng tháp Chàm – một trong những đề tài được đưa ra khảo luận khoa
học… 


Bí ẩn của tháp Chàm .

Theo Viện Khảo cổ học Việt Nam, di tích văn hóa Chăm được
phân bổ đều khắp trên dải đất các tỉnh duyên hải miền Trung, từ vĩ tuyến 11 đến
18, từ Quảng Bình vào đến Bình Thuận. ở Tây nguyên, các di tích Chăm cũng xuất
hiện rải rác ở các địa phương như: Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Lâm Đồng. Bình
Định xưa kia từng là kinh đô của Vương quốc Chăm, hiện ở đây vẫn còn lưu lại 14
ngôi tháp cổ. Những cuộc khai quật tự phát của cư dân đã tìm thấy nhiều di vật
cổ có giá trị như buồng cau, lá trầu, những vật thờ cúng bằng vàng… nằm sâu
dưới lòng đất từ cả ngàn năm nay. Bình Định thuộc vùng Vijava từ thế kỷ X đến
XV, từng là kinh đô của Chămpa (1000-1471). Cùng với thành Chà Bàn, hàng loạt
công trình tôn giáo cũng đã được xây dựng ở đây. Khác với di tích Chăm ở Quảng
Nam rất tập trung, các di tích ở Bình Định lại được xây dựng rải rác khắp nơi.
Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh: Bánh ít, Dương Long,
Hưng Thạnh, Cánh Tiên, Phú Lốc, Phú Thiện, Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra, còn
có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, An Thành, Uất Trì và hàng loạt tác phẩm
điêu khắc – những phế tích của tháp Chàm như giếng cổ hình vuông, rắn Naga, trụ
văn bia, tượng thần điểu Garuđa, phù điêu Lăng Ông, tượng tu sĩ, khu mộ cổ…
đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng
chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải,
thành phố Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong khi canh tác đã phát hiện bức tượng
chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là
chùa Phật Lồi. ở Quy Nhơn, hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Chăm
tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Vương quốc Chămpa từ thời hoàng kim đến lúc suy
vong đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi tháp cổ với những kiểu kiến trúc,
chạm trổ độc đáo, bí hiểm. Ở khu vực duyên hải miền Trung hiện có trên 19 khu
tháp với hơn 40 ngôi tháp cổ lớn nhỏ. 



Và con tàu gặp
nạn… 

Ch. Lemire đã mô tả các
tháp cổ Chămpa phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm Les Tours kiames de la
Province de Binh Dinh như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng
bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị
lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta
đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc
(người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu
ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che
vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng
Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu
Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu
nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và
đá…”. 

Bức màn bí mật bao quanh số
phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả
những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên
tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp). Đến tháng 10.1995, sau hơn 30 năm
mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều
hãng tàu biển…, R. Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu
Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R. Stenout, Mêkông là một
con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này
không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ XX, do còn hạn
chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương – Pháp là một hành trình dài, mất nhiều
ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một
cung điện di động trên mặt biển. Chuyến đi định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906
chở theo 180 sĩ quan, thủy thủ, 66 hành khách cùng hàng tấn cổ vật bằng vàng và
một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc
tàu Scorbio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorbio là con tàu mà Stenout
sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thỏi vàng có trong
khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có
thật. 

Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi
định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh
hải mà tàu Mêkông bị đắm đã nổ ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho
báu trên tàu Mêkông đành dừng lại… kho báu mà tàu Mêkông có nhiệm vụ đưa về
Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijava từ Quảng Nam đến Bình Thuận và
chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Vương quốc
Chămpa. 


Những thỏi vàng ròng biến mất .

Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm
tháp gồm hai chiếc nằm ở thành phố Quy Nhơn, có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng
ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu
châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người
Chăm cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn
một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể
lý giải rằng, đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ
vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù
điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng,
người Chăm sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một
lớp sơn đặc chế. Kho báu Chămpa được các nhà khoa học Pháp nhắc đến từ khá lâu.
Kho báu cuối cùng – nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chămpa đã được
đề cập trong tác phẩm Un royaume disparu – Les Chams et leur art – 1923 (Pháp).
Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Chămpa có thể đúng như các công trình nghiên
cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với
việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Chàm cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định
rằng: Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân
loại. 


Ngàn năm còn một chút này… 

Tháp Đôi được xây dựng vào cuối thế kỷ XII còn được gọi là
tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được Nhà nước xếp vào danh mục
những di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được các nhà nghiên cứu xếp
vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Chămpa. So với các ngọn tháp
khác trong vùng, Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có.
Thế nhưng, đến nay các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra lý do của sự khác thường
này. 

Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng
ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo” để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long. Ngày xưa
người Pháp gọi đây là Tháp Ngà, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp
Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 m. Các hệ thống cửa phần
lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy, nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại,
chúng ta liên tưởng đến những nghệ nhân Chăm đã từng dày công sáng tạo một nền
văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào
khoảng nửa sau thế kỷ XII. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ Văn hóa xếp hạng
cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi, tháp Dương Long là tháp
Cánh Tiên và tháp Bánh ít. Tháp Cánh Tiên được người Chăm xây dựng ngay ở trung
tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Theo tài liệu của người Pháp, tháp Cánh Tiên còn được gọi là Tháp Đồng, nhưng vì
sao có tên gọi này thì vẫn chưa xác định được. Tháp cao khoảng 20 m, trông xa
giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh.
Tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có
nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi tháp cổ một dáng vẻ độc đáo. Khác với tháp
Cánh Tiên, cụm tháp Bánh ít có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp
Bánh ít bởi vì khi đứng từ xa nhìn lại, cụm tháp giống như những chiếc bánh ít
lá gai – một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung.
Người Pháp gọi đây là Tháp Bạc. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận
xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 20 km. 4 ngôi
tháp cổ này đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị
thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần
bí của người Chăm cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước
Hòa (Tuy Phước). Người dân ở đây kể lại rằng, thôn Bình Lâm là nơi có những cư
dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này.
Trong hệ thống tháp Chàm Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên
đại sớm nhất. Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện ở xã Bình Nghi (Tây
Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995, ngọn tháp này đã được Nhà nước xếp hạng di
tích. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Chàm khác ở Bình Định, ngọn
tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của
ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng
cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc. Người Pháp đặt tên là Tháp Vàng.
Phú Lốc nằm giáp ranh giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một
quả đồi cao 76 m so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy
nhiên, nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một
công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng,
hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ
do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp Hòn Chuông ở huyện Phù Cát. Ngôi
tháp cổ này cùng nhiều tháp Chàm khác đang đòi hỏi có sự trùng
tu. 

Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với
tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản
vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Chàm
mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những
nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng ở đó còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều
huyền thoại lý thú cần được làm sáng tỏ. 

Nguồn:Tạp chí hoạt động khoa học

Như bài trên tôi đã nói Vàng người Chăm lúc hiện lúc ẩn. Như
thế vẫn chưa là gì so với những chuyện tôi kể ra đây

Vàng của người Chăm có nhiều hình dạng. Nhưng loại vàng mà
người ta gặp được khi đào đất thì chỉ là Vàng hình dáng các loại đồ vật, trái
cây, vàng lá chứ tuyệt nhiên không bao giờ gặp được loại Vàng có hình dáng thú.
Vàng hình dáng thú bao gồm : bầy Trâu, bầy Ngựa, Bầy gà ( mẹ và con). Không có
hình của Bò và Lợn.

Điều đặc biệt là
Vàng loại này ban đêm tối trăng thường hay xuất hiện dưới dạng vật thể sống. Ví
dụ người ta thấy được bầy ngựa Vàng vừa đi vừa hú hí, tiếng vó ngựa len keng, Gà
mẹ dắt đàn con đi với đầy đủ âm thanh chim chíp như 1 bầy gà sống thật sự. Các
đốm vàng chớp sáng và di chuyển trong đêm. Theo truyền thuyết kể rằng khi chôn
vàng Người Chăm đã chôn luôn người sống đồng trinh theo để canh giữ, chăn
giắt. 

Hiện tượng này dân làng tôi quá
rành, rất thường hay gặp và điều đó trở nên hết sức bình thường. Ngay nhà tôi
cũng có 1 bầy gà vàng ban đêm hay xuất hiện khu vực gần giếng nước, trong dòng
tộc tôi cũng có 2 người được gà Vàng. Gà mẹ to tầm ngón chân cái, 1 bầy trên 10
con gà con to tầm ngón tay cái ( số lượng kg đều nhau).Có lẽ từ lâu đời dân làng
tôi đã biết cách săn bắt loại Vàng này. Bạn không chạy theo rượt bắt nó được dù
là có đông người. Kinh nghiệm là nếu thấy nó vào khu vực vườn nhà mình thì mình
cứ bình tĩnh vào lấy nhang đốt khấn cầu xin . Nếu như số mình được thì tự ắt nó
chạy lại trước mặt mình và hiện nguyên hình, mình cứ việc lượm mà thôi. Cũng có
vài người được nhưng không biết giữ, ôm bầy gà cất vào tủ sáng dậy nó chạy mất
tiêu. Ấy là sau khi được, phải lập tức bắt bếp lửa lên cho nó vào mà rang lên
cho thật nóng sau đó đem ra đập dập cho mất hình dạng thì mới giữ lại
được.

Theo kinh nghiệm dân làng tôi thì
mức độ độc tính của Vàng ngựa là cao nhất sau đó đến Trâu và cuối là Gà. Được
Vàng bầy ngựa mà không biết cách cúng kiếng làm từ thiện thì ra đi vài ba mạng
người trong gia đình như chơi. Làng tôi cũng có 1 người được 1 bầy Ngựa nhưng vì
sợ dân làng bà con biết xin tiền nên ém nhẹm. Không cúng kiếng, từ thiện gì cả,
thế là bà Vợ ra đi tích tắc, các đứa con sau khi lập gia đình thì tàn tạ, điên
khùng và chết rất thảm. Nói chung khi được Vàng Chăm thì phải từ thiện khoảng 1
nữa số Vàng thì mới mong được an toàn

Hiện tại Làng tôi vẫn còn 4 bầy gà xuất hiện, 1 con ngựa độc
đi lang thang, 1 cặp Trâu nhưng cặp Trâu này luôn có người theo chăn dắt vì còn
nghe được người chăn hát đồng dao như sau:

Mong cho hết tháng hết ngày

Trâu này dắt lại
trao tay họ Đoàn.

Cặp Trâu này chỉ xuất
hiện vào những đêm tối trời mưa nhiều.

Nhà Ngoại tôi là họ Đoàn, nhưng thấy Vàng Trâu và Ngựa thì
thật chẳng ai tham.

Tôi vốn là người mê
cây Mai Vàng từ hối còn bé. Tôi đi lang thang khắp nơi để mua mai về trồng. Tình
cờ cũng gặp được 1 anh Bạn cùng sở thích cách nhà tôi khoảng 7km. Cả 2 đi lang
thang tìm mua mai và cũng lắm câu chuyện bà tám với nhau trong đó cũng có đề tài
Vàng Chăm. Quả thật những chuyện tôi kể trên đây không ăn thua gì với anh ta vì
làng anh ta nằm ngay trên khu “Đô Thị” Chăm ngày xưa thì phải, bây giờ dân làng
xây nhà, đào giếng gặp phải rất nhiều vết tích xây dựng cũ của Chàm. Gà Vàng
Trâu Vàng Ngựa Vàng biết đi ban đêm là điều bình thường, anh ta còn bảo trong
vườn nhà anh ta còn có 1 tấm phản ngựa bằng Vàng biết bay vào ban đêm nhưng
không tài nào săn nó được…


LỜI NGUYỀN TRÊN CÁC
KHO BÁU CHĂM (1)
 



Tượng sư tử hiện
đang trưng bày trước cổng Bảo tàng tổng hợp Bình Định. Đẹp thế này mà bảo vệ rất
lỏng lẻo, mỗi khi đi ngang qua đây ta lại thót ruột nhè nhẹ vì sợ nó bị kẻ trộm
rinh mất.

Những tượng cổ, kho vàng, báu
vật của dân tộc Chăm luôn luôn là mơ ước của những người săn lùng cổ vật. Cơn
sốt săn tìm báu vật, vàng Chăm đã bắt đầu từ mấy thế kỷ trước, đặc biệt là trên
vùng kinh đô Vijaya (tức Bình Định ngày nay) và hạ nhiệt từ rất lâu, nhưng dứt
hẳn thì chưa bao giờ. Chúng âm ỉ mãi cho đến nay với những huyền thoại hư ảo
nhưng hấp dẫn.

Theo nhiều tư liệu khoa
học, lịch sử thì người Pháp chính là những người đầu tiên phát hiện và đánh giá
tầm vóc của văn hóa Chăm. Cũng chính họ là những người đầu tiên săn tìm, khai
quật, vét cạn những cổ vật Chăm quý giá.

Năm 1886 gần 80 tấn đá chạm, phù điêu, tượng cổ các loại…
đã được các chuyên gia Pháp gom lại từ Tháp Bánh Ít (tức Tháp Bạc theo cách gọi
của người Pháp) để chuyển về Bảo tàng Lyon bằng tàu Mekong dưới sự giám sát của
Tiến sĩ Maurice.

Trên đường vận chuyển, đến Hồng Hải, không rõ vì lý do gì
con tàu này bị đắm. Những thổ dân Somalia nghĩ rằng đây là con tàu chở vàng bạc
châu báu nhưng họ đã thất vọng khi những chiếc hòm vớt được chỉ có đá và đá…
Sau này người ta không sao tìm lại được những thùng cổ vậy ấy và một bí mật bao
trùm lên con tàu Mekong bởi hồ sơ con tàu, danh sách hàng hóa cũng bị thất lạc.
[ít lâu sau khi phóng sự này đăng trên Thế giới Mới, có người cung cấp cho mình
thông tin về con tàu này, đổi lại là mình copy dù người ta hai cuốn sách ở Thư
viện Bình Định. Sở dĩ có việc này là vì những cuốn sách được bảo vệ rất kỹ. Mình
“phô” được là vì có quan hệ riêng, và trước đó có tặng cho Thư viện phó bản môt
cuốn sách mà thư viện tìm đã lâu mà không thấy]. 



Phù điêu tượng nũ thần Mahisamandhi – niên đại thế kỷ
XII. Hiện vật này đã được tỉnh Bình Định đề nghị công nhận là bảo vật quốc gia.
Năm 2005 nó đã được Nhà nước Việt Nam cho Bảo tàng Dân tộc học Vương quốc Bỉ
mượn để trưng bày. Riêng chi phí để mua bảo hiểm của nó không thông thôi đã là
50.000 USD.

Bên cạnh các mà khoa học,
ngày ấy có nhiều người khác đã biết đến các gọi là Kho báu Chămpa. Những kho báu
này càng trở nên hấp dẫn khi nhiều học giả trong đó có ông De Lagreé đã công bố
những khám phá trong đó có những đoạn mô tả đại loại – ở khu vực đền Tháp Chămpa
người ta đặt nhiều tượng kim loại, tượng đá dát vàng, bên trong tháp có nhiều
vật quý, tượng nhỏ, phù điêu bằng vàng, bạc….

Nhiều năm sau đó do tình hình xã hội Việt Nam chưa ổn định,
những năm tháng chiến tranh liên miên không cho phép người ta đi sâu tìm hiểu
những bí mật còn chôn giấu trong lòng đất. Tuy vậy, những gì đã phơi ra dưới ánh
mặt trời cũng đủ làm các nhà khoa học thán phục văn hóa Chăm, trình độ văn minh
của dân tộc này.

Jeanne Leuba, một học
giả Pháp chuyên nghiên cứu lịch sử, văn hóa Chămpa đã viết: “Một trong số rất
nhiều những chủng tộc bí hiểm ở phương Đông cho đến ngày nay vẫn còn rất ít
người biết đến, một trong những chủng tộc lý thú nhất mà nguồn gốc chính thức
của họ vượt khỏi sự hiểu biết hiện nay của chúng ta, một dân tộc mà sự phát
triển qua một thời đại đã bị xáo trộn bởi các dân tộc lớn, một dân tộc mà cho
ngày nay chúng ta đang nghiên cứu các di tích…. Đó là dân tộc “Chăm” (Một quốc
gia bị diệt vong). Cùng với những đánh giá trang trọng như vậy, các nhà nghiên
cứu cũng không quên đưa ra nhận định gây nhiều hệ lụy cho các thế hệ sau này –
Chămpa một quốc gia rất giàu có!

Sau
ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, cơn sốt đi tìm kho báu Chăm
hay như một cách gọi khác là đi tìm vàng Hời lại bộc phát, lần này do chính hậu
duệ của dân tộc Chămpa tiến hành.

Quãng
những năm 1976-1978 ở Quy Nhơn xuất hiện vô số người Chăm ngồi bốc mạch bán
thuốc dọc các đường phố Lê Hồng Phong, Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu… Những
người này dần dần di chuyển địa bàn hoạt động về những vùng in đậm dấu ấn văn
hóa Chăm như An Nhơn, Hoài Nhơn, Tuy Phước, Hoài Ân… Anh Nhị – cán bộ UBND
huyện Hoài Ân kể: “Từ xa xưa ở vùng này đã tồn tại những truyền thuyết về vàng
Hời. Trên thực tế người ta cũng đã nhặt được khá nhiều đồ dùng bằng vàng, bạc,
nhiều thứ trong số này sau đó được xác nhận là của người Hời (tức người Chăm).
Thỉnh thoảng sau mùa lụt, những người sống ở ven bờ sông Kim Sơn (con sông được
mệnh danh là con sông Vàng do có nhiều vàng sa khoáng) thường nhặt được một số
mảnh vỡ của bát đĩa, bình đựng …. bằng vàng bạc và cả bằng gốm đất. Chính tôi
cũng đã chứng kiến cảnh những người Chăm đi tìm mộ tổ tiên như họ nói, cảnh họ
cúng tế, đào bới một cách bí mật và biến mất đột ngột như kiểu họ xuất
hiện….”.

Hoài Ân là vùng trung du có
nhiều di chỉ văn hóa Chăm đến nay vẫn còn lưu danh Mả Lỏi, Mả Bà Cóc…, rất có
thể những mảnh vỡ ấy là do nước lũ xói lở cuốn trôi đi từ các di chỉ như vậy.
Ông D ở Ân Tín, một người xác nhận là đã từng cầm trong tay nhiều buồng cau, lá
trầu, con cóc bằng bạc và đồng (không có cái nào bằng vàng) kể rằng: “Nhiều
người đã tìm cách đào bới các ngôi mộ cổ, những nơi nghi có chôn giấu báu vật
nhưng tôi chưa nghe ai nói đã tìm thấy vàng. Riêng đồ bạc, đồ đồng như tôi thì
có khá nhiều. Tuy thế, không hiểu sao khi giữ những vật ấy tôi bị đau ốm liên
miên, mãi đến lúc nghe lời người ta mách – vứt trả những thứ ấy xuống sông, tôi
mới khỏi bệnh. Thật bí hiểm!”

 Tương tự như Hoài Ân, ở
vùng suối vàng thuộc Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, nhiều người già
xác nhận với chúng tôi rằng đã có nhiều người nhặt được chén vàng, đĩa vàng bên
bờ suối này, nhưng những thứ thu lượm được ở đây chẳng thấm tháp gì so với kho
báu ở Hố Giang.

Hố Giang là một dãy núi
chứa nhiều huyền thoại về… kho báu trong đó đáng lưu ý nhất là tảng đá chữ. Đó
là một tảng đá cao khoảng 2m3 dài gần 5 m trên mặt có những dòng chữ Sankrit
mang ý nghĩa bí mật của người Chăm. Tân – người dẫn đường, đưa tôi đến bên tảng
đá chữ chứa nhiều bí ẩn ấy và cho biết: Cách đây chừng vài tháng, ông X, một tay
chuyên rà phế liệu kim loại đã đào được một pho tượng Chăm đúc bằng kim loại màu
vàng, nghe đây đã bán được với giá 200 triệu đồng. Có rất nhiều nhóm rà phế liệu
sau đó đã quần nát vùng này nhưng được gì hay không chưa nghe ai tiết lộ, riêng
dân địa phương người ta rất ngại vì tương truyền rằng kho báu Hố Giang đã bị đè
lên bởi một lời nguyền độc địa của người Hời bí hiểm.

Lịch sử còn ghi rằng vào khoảng thế kỷ XII-XIII, Vương quốc
Chămpa phải đối phó với cuộc chiến tranh kéo dài suốt trăm năm với những người
Khơme phương Nam, cùng với việc phải dời đô sang bờ Bắc của một nhánh sông Côn,
một phần kho báu của vương quốc đã được chuyển về chôn giấu rải rác ở khu vực
rừng núi cách xa kinh đô Vijaya mà ngày nay có thể thuộc địa bàn các huyện Hoài
Ân, Hoài Nhơn.

Đến năm 1282, trong âm
mưu tiêu diệt nước Đại Việt, Toa Đô – một viên tướng của đế quốc Nguyên Mông đã
chỉ huy một cánh quân theo đường thủy tấn công vào Chămpa, nhằm tạo gọng kìm thứ
hai kẹp chặt lấy Đại Việt. Vua Chăm và triều đình đã bỏ trống kinh đô Vijaya,
chạy lên vùng Hoài Nhơn ngày nay để cố thủ. Nhiều sử sách còn ghi lại rằng Toa
Đô đã chiếm một kinh đô trống rỗng, kho tàng đã được sơ tán từ rất sớm. Người
Chăm vốn e ngại sự hung hãn của đế quốc Nguyên Mông nên sau chiến tranh vẫn cất
giấu một phần kho báu ở xa kinh đô, phòng khi lỡ vận. Sự thật lịch sử cũng như
việc phát hiện những mẫu nhỏ của những vật dụng bằng vàng đã chứng minh được
phần nào cho luận cứ kể trên.


LỜI NGUYỀN TRÊN CÁC
KHO BÁU CHĂM (2)



Tháng 4.1997 nghe
tin có người rà được một khối lượng lớn vàng bạc của huyện Phù Cát (Bình Định)
lập tức chúng tôi tìm hiểu và được Thế Hà, một đồng nghiệp ở Đài Truyền thanh
huyện cho biết: “Ngày 5.4.1997 anh Trần Văn An – người ở xã Cát Tân khi rà sắt
để tìm phế liệu tại thôn Hưng Mỹ thuộc xã Cát Hưng đã phát hiện một hũ bằng đồng
chứa nhiều đổ cổ (chén đĩa bằng vàng và bạc)… reo mừng vì sự giàu có bất ngờ
An đã ôm chiếc hũ chạy đi mất. Những người đang làm cỏ mía quanh đó vội ùa lại
và hợp sức khoét rộng cái hố, đào sâu hơn và vận may đã mỉm cười với họ. Ở độ
sâu hơn 1,5m nhóm người này đã tìm thấy một hũ lớn bằng sành bên trong chứa
nhiều vật dụng bằng vàng như bình đựng, đĩa, tô chén, một số khác trông như đồ
trang sức với khối lượng ước tính khoảng 3kg. Những người này đã dùng rựa để
chia đều số vàng này ra. Những gì mà ông An và nhóm người kia khai quật được nếu
tính theo giá trị của vàng ước được 400 triệu đồng. Nhận được tin Công an Phù
Cát đã tìm cách thu hồi, nhưng kết quả chỉ được 1 hũ, 6 bình đựng, 9 đĩa và vẻn
vẹn có 5 lạng vàng…”

 Sự kiện này đã
gieo vào những người chuyên rà tìm phế liệu giấc mộng tìm thấy kho báu của người
Hời. Nhưng cứ như một trò cút bắt bí hiểm, hàng trăm nhóm với nhiều máy dò tìm
kim loại chia nhau rà nát những cánh rừng, đồng ruộng, ven sông… nhưng “vàng
Hời” vẫn im lặng không chịu lên tiếng. Khi nhiều nhóm chán nản bỏ cuộc thì cuối
tháng 10.1997 ông Lê Văn An (trú ở thôn Phú Thọ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn) cùng
một người đàn ông tên Liêm gốc gác ở Thanh Hóa đã gây chấn động khi khai quật
được một số lượng lớn cổ vật bằng vàng.

Nơi mà hai ông tìm được “kho báu” nằm trên núi Hòn Gà (xã
Bình Thành, huyện Tây Sơn). Số lượng cổ vật tìm thấy theo ông An gồm: 5 pho
tượng cổ cao khoảng 35cm, đường kính thân tượng khoảng 5cm, 4 tượng khác cao
khoảng 30cm, đường kính thân tượng khoảng 4cm, 4 lục bình có kích thước lớn hơn
một chút, điều đặc biệt là toàn bộ số cổ vật này đều được chế tác bằng vàng
ròng. Hai ông An- Liêm đã bán số cổ vật khai quật được cho một người lạ mặt
trước khi cơ quan an ninh, các nhà nghiên cứu khoa học, bảo tàng kịp can thiệp.
Theo lời ông H, một chuyên gia đồ cổ mà chúng tôi đã tới tham vấn thì người mua
được số đồ cổ ấy đã trúng một cái giá rất hời – khoảng hơn 1 tỷ
đồng. 

 Trước khi cơn sốt vàng Hời trở
lại, những người chuyên đi rà sắt phế liệu coi đây là nghề chính của mình, việc
rà được vài chục ký được coi là trúng mánh. Mọi việc trở nên khác hẳn khi rải
rác đây đó trên địa bàn tỉnh Bình Định một vài nhóm thay vì tìm thấy sắt phế
liệu đã gặp vàng, đồ cổ. Biết tôi đang tìm những thông tin mới xung quanh những
chuyện kho báu của người Hời, Hải – một người bạn thuở thiếu thời đã tiết lộ:
“Thật ra những người đi tìm sắt phế liệu chỉ là những kẻ gặp may mà thôi, xác
suất gặp được cổ vật của họ rất thấp. Cách đây chừng 4 năm ở tỉnh Bình Định đã
có khoảng 5 nhóm người lẳng lặng săn tìm cổ vật Chăm dưới danh nghĩa là đào cây
dại trên núi, đồi để làm bonsai, cây kiểng thế. Họ đã xới tung nhiều đồi núi ở
Tuy Phước, An Nhơn, Hoài Ân…

Thời ấy
máy dò tìm kim loại không được phổ biến như bây giờ, những tay săn đồ cổ vì vậy
phải dựa vào thư tịch cổ, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học mà họ
sưu tầm được. Tớ đã được một nhóm như vậy thu nạp, nhóm này quần miết ở khu rừng
ở gần Tháp Bánh Ít, vùng Đồi Bạt lân cận và khi có điều kiện cũng không quên xoi
thử một vài hố ở gần chân tháp. Những tay đầu lĩnh có đạt được mục đích hay
không thì tớ không được biết nhưng chắc chắn họ đã thu được ít nhiều đồ cổ. Chỉ
đến khi xảy ra một vài tai nạn trong việc đào tìm cổ vật, cùng với lúc câu
chuyện về những lời nguyền có vẻ như đang trở thành sự thật thì nhóm này tự rã
đám. Vàng bạc thì không chắc chứ đồ cổ thì chắn chắn có rất nhiều bởi Thập Tháp
Di Đà Tự là ngôi chùa vốn được xây trên khu đất ngày xưa đã từng tồn tại 10 ngôi
tháp Chăm mà người ta đã phá đi mất để lấy vật liệu làm chùa. Cổ vật chắc vẫn
còn nhiều, chỉ có điều chúng nằm rất sâu trong lòng đất mà thôi. Mới đây một số
người đã dùng máy rà kim loại để tìm vàng ở vùng Tháp Cánh Tiên (An Nhơn) nghe
đâu khi gần đạt kết quả thì bị công an giải tỏa, các chuyên gia của Bảo tàng
Bình Định đã tiếp tục công việc và thu được khá nhiều hiện
vật….”

Sở dĩ những cuộc săn lùng kho
báu Chăm không bị lụi tàn như những cuộc săn lùng tương tự ở Bình Thuận, Đồng
Nai những năm trước, hoặc như cuộc săn lùng kho báu của Vua Hàm Nghi mới được
một số báo đài nói đến gần đây là vì khác với chúng, kho báu Chăm không chỉ có
huyền thoại mà thỉnh thoảng còn hé ra một vài “ví dụ” thực tế có sức hấp dẫn,
quyến rũ lớn. Mặt khác Chămpa là một quốc gia có thật, tư liệu lịch sử, khảo cổ
về nó cũng nhiều hơn hẳn. Tuy nhiên sẽ vô cùng thiếu sót nếu chúng tôi không nói
đến hậu quả thảm khốc, những hệ lụy đau lòng mà những người theo đuổi giấc mộng
vàng Hời đã gặp phải.

Ngày 29.11.1996
nhóm thanh niên gồm 4 người là Trần Văn Đông, Võ Văn Ngọc, Cao Thành Trọng,
Huỳnh Công Báu tổ chức đào “phế liệu” ở thôn Hội An, xã Ân Thạnh, Hoài Ân. Nhóm
này đã rà được một quả đạn pháo 81 ly và Trọng, Ngọc, Báu đã chết ngay tại chỗ
khi tìm cách…đập quả đạn ra để lấy thuốc nổ. Đông- người may mắn thoát chết kể
lại- lúc mới cào ra lớp đồng bên ngoài vỏ đạn đứa nào cũng tưởng là vàng, khi
phát hiện đó là đạn pháo cả nhóm mới bàn rằng sẽ bán quả đạn này đi để lấy tiền
tổ chức rà tiếp biết đâu sẽ gặp may. Ai ngờ… 

Nhưng đây vẫn chưa phải là kết cục thảm khốc nhất, ngày
18.01.1997 tại cơ sở buôn bán phế liệu kim loại của mình, ông Nguyễn Thanh Phong
(An Nhơn – Bình Định) đã thuê anh Sang một người chuyên rà phế liệu cưa quả bom
500 ký. Bom nổ, vợ và 2 con ông Phong, anh Sang và một người bán kem gần đó đã
tan xác, máu của những kẻ xấu số nhuộm đỏ cả rặng me tây cách đó khá xa. Ông
Phong may mắn thoát chết do không có mặt ở nơi cưa bom, nhưng 4 cái chết bị thảm
kia đã giáng vào ông một đòn chí mạng.

Những nhóm rà phế liệu là dân An Nhơn đang hoạt động rải rác
khắp nơi trong tỉnh vội vã trở về do quá kinh hãi! Câu chuyện đáng cười ra nước
mắt nhất lại sảy ta ở huyện An Lão, một nhóm 3 người đi rà chung với nhau khi
vừa thấy ánh vàng hấp dẫn lóe lên trong hố, cả 3 đã xông vào “dần” nhau một trận
chí tử, hai người yếu hơn đã thua cuộc, người chiến thắng – kẻ khỏe nhất đã xông
lại đào tiếp để sở hữu riêng kho báu đã trọng thương, bị mất một cánh tay, một
bàn chân vì kho báu phát nổ bởi đó là một quả đạn M79.

Người ta bảo đó là kết quả của những lời nguyền trên kho báu
Chăm và hy vọng điều đó sẽ cảnh tỉnh những ai có giấc mộng giàu xổi từ những di
chỉ văn hóa Chăm chứa đầy những mối hiểm nguy. Nhưng không, cơn sốt cổ vật thậm
chí còn làm dấy lên một nỗi buồn mà sau này tôi đã gọi là Nỗi buồn cổ vật Việt
Nam, gọi như thế một phần còn vì sự thờ ơ của những người giữ trọng trách trong
tay

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *