ĐỊA LÝ TẢ AO ĐỊA ĐẠO DIỄN CA

1.                              
Địa lý Tả Ao (120 câu)
ĐỊA
LÝ TẢ AO ĐỊA ĐẠO DIỄN CA

Mục lục:

LỜI NÓI ĐẦU

TỰA

TIỂU SỬ CỤ TẢ AO

CHƯƠNG THỨ NHẤT: ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ HỌC KHOA ĐỊA LÝ

CHƯƠNG THỨ HAI: TẦM LONG MẠCH

CHƯƠNG THỨ BA: HUYỆT TRƯỜNG CHƯƠNG

THỨ TƯ: CHỨNG ỨNG CẦN THIẾT

CHƯƠNG THỨ NĂM: PHÂN BIỆT

CHƯƠNG THỨ SÁU: CÁC CHỨNG KHÁC THÊM TÔN QUÝ CHO CUỘC ĐẤT

CHƯƠNG THỨ BẢY: PHƯỚC DUYÊN CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ĐẤT

CHƯƠNG THỨ TÁM: NÓI VỀ LÝ KHÍ

CHƯƠNG THỨ CHÍN: KẾT LUẬN PHẦN PHỤ KHẢO

LỜI NÓI ĐẦU

Khoa Địa lý của Trung Hoa xưa kia, là khoa phối hợp thuyết âm dương, ngũ hành
với sự quan sát cách thế, hình thể của các mạch đất cùng lối đi của sông ngòi,
suối, lạch mà tìm ra nơi có chứa tụ khí mạch của đất, dùng nơi đó làm đất kết.
Họ quan niệm rằng nơi có đất kết, có thể chôn xương người chết nên nếu là kết
âm phầm và có thể làm nhà, đình chùa, lập doanh trại, thị trấn, đô thị lên trên
nếu là đất kết dương cơ, để người sống được hưởng sự thịnh vượng phát đạt do tú
khí của vùng đất có đất kết đó.
Khoa Địa lý có từ lâu, sự lợi ích của đất kết đã được ông cha chúng ta tin
tưởng và cả chúng ta cũng có nhiều người công nhận là đúng sử sách có ghi chép
nhiều sự kiện chứng tỏ là khoa Địa lý có một giá trị nào ảnh hưởng đến đời sống
con người.
Câu ca dao: “Sống về mồ về mã chứ không ai sống về cả bát cơm” đã chứng minh sự
quan trọng của khoa Địa lý với con người Việt Nam.
Khoa địa lý, có một huyền thoại vàng son như vậy, tiếc thay đến nay đã gần như
thất truyền, vì phép Địa lý (tài liệu photo mờ) và man thư làm cho sai lạc đi
nhiều. Lý do sự tàn tạ sa sút của khoa này trước tiên là người xưa thấy phép để
đất có thể làm thay đổi được hạnh phúc của cả một dòng họ thì cho là quý và giữ
bí truyền. Theo truyền thuyết khi xưa bên Tàu có một số dòng họ nắm khoa Địa lý
chính tông, giữ bí truyền, mỗi đời chỉ một hay hai người được biết bí pháp đó.
Việc bí truyền khoa Địa lý chính tông, cũng như các khoa bí truyền khác ở Á
Đông làm cho khoa đó mỗi ngày một mai một đi, do sự thất truyền hay sự ngu tối
của truyền nhân. Trong khi đó thì những kiến thức không có căn bản vững chắc về
khoa đó lại được một số người đem thêu dệt cho văn vẻ một cách bừa bãi để làm
tài liệu cho những người tò mò và hiếu kỳ. Khoa Địa lý bị công phá và triệt
tiêu do hai lý do trên cả ngàn năm liên tiếp nên ngày nay, một số lớn sách và
thầy địa lý không còn có giá trị như xưa, kể cả những sách và thầy từ nước
Trung Hoa qua.
Ở Việt Nam, còn sót lại một thiểu số thấy giỏi vì khổ công cân nhắc sau định
rút kinh nghiệm về khoa này gần một đời người mới nhận ra thế nào là Địa lý
chính tông và thế nào là man thư, đều có cùng một nhận định:
“Chỉ có sách Địa lý của cụ Tả Ao là giản dị và đúng nhất. Nhưng tiếc thay sách
này thất truyền từ lâu”. Căn cứ vào một số ít khẩu truyền về khoa Địa lý của cụ
Tả Ao còn sót lại các cụ thấy chính xác, dễ học, dễ hiểu. So sánh nó với một số
sách Địa lý rắc rối, mông lung của Trung Hoa đưa qua, các cụ khuyên: “Ngày nay
muốn học Địa lý cho giỏi trước tiên phải kiếm cho được sách của cụ Tả Ao để có
số vốn chính tông căn bản, rồi thực hành cho vững chắc, nhiên hậu mới có thể
xem các sách địa lý của Trung Hoa mà bổ túc thêm, mới có kết quả.
Từ năm 1946, tác giả, nhân những cuộc ngao du nhiều tỉnh từ Thượng Du đến Trung
Châu Bắc Việt, có gặp một số thầy địa lý Tàu và Việt Nam, sẵn tính tò mò nên có
tìm hiểu ít nhiều về khoa đó.
Tác giả thấy sự hiểu biết về khoa địa lý của mình rất hạn hẹp nên lưu ý nên tìm
sách địa lý Tả Ao để bổ túc thêm. Việc cố công tìm kiếm luôn mấy chục năm chỉ
thểm cho tác giả vài câu khẩu truyền Địa Lý Tả Ao và sự nuối tiếc sự thất truyền
của bộ sách quý giá đó.
Một sự tình cờ may mắn và ngoài ước muốn, cách đây trên hai năm tác giả một lần
gặp được 3 bộ sách Địa lý quý giá nhất của Việt Nam là:
1. bộ Địa đạo diễn ca Tả Ao (120 câu văn vần)
2. bộ Dã Đàm Tả Ao (Văn xuôi)
3. bộ Bí Thư Đại Toàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán)
Sau khi nghiên cứu kỹ ba bộ sách trên dưới sự hết lòng chỉ bảo của một số các
vị cao nhân về khoa Địa lý, tác giả mới hiểu thế nào về khoa địa lý chính tông.
Nó thật khác hẳn những phép mà các sách địa lý hiện nay trình bày.
Sách Địa lý Tả Ao chính tông nói thẳng đến phần gốc, phần căn bản, làm sao cho
người học nó mau tìm đến Long chân huyệt đích trong khi các sách của Trung Hoa
bán trên thị trường lại nói nhiều đến cái ngọn và bôi vẽ cho rắc rối khó hiểm
thêm lên.
Trong 3 quyển sách quý nêu trên thì quyển Địa Đạo Diễn Ca là dễ xem nhất vì nó
chỉ có 120 câu thơ nôm nhẹ nhàng như ca dao. Tuy 120 câu thơ này mới xem giản
dị, xong viết do một vị Thánh địa lý Việt Nam, nên sức hàm chứa của nó cũng
phải có 1 giá trị đặc biệt nào cần phát huy cho hết dụng ý.
Do đó, để lưu lại một cổ thư giá trị để người học nó đỡ mất thì giờ tìm hiểu,
nên tác giả cố công diễn giải 120 câu thơ này với dụng ý trình bày như sau:
 Không thêu dệt thêm những gì xa lạ.
 Phát huy cho hết cái chân hàm
súc của nó. Cách trình bày như thế có
thể không vừa ý những vị quá giỏi về khoa này hay những vị bị ảnh huởng của
loại sách “Địa lý mê hồn trận” của Trung Hoa hiện đang bán trên thị trường.
Tuy nhiên với mớ kiến thức đơn giản và chân thực của phần diễn giải 120 câu thơ
nôm của Địa Đạo diễn ca Tả Ao này, chắc chắn trước tiên thỏa tính tò mò của
người muốn tìm hiểu khoa học bí truyền khó hiểu xưa nay, sau nữa, số vốn sơ
đẳng này dù ít ỏi đi nữa, cũng là cái kim chỉ nam chắc chắn cho những vị nào
muốn khảo cứu sâu rộng hơn.
Riêng về hình vẽ chúng tôi, cũng trình bày một đường lối như phần diễn tải, là
trong chân đích, dù thô sơ, hơn là chi tiết khó hiểu.
Với mới kiến thức địa lý cỏn con nhưng đích thực này, những vị tin tưởng khoa
Địa lý cũng có một số vốn hiểu biết đủ để phân biệt thầy hay thầy dở. Nói đến
thầy Đia lý chúng tôi cũng nêu lên đây mối tương quan giữa thầy Địa lý và người
xin để đất, lấy một mẫu mực xưa kia, để các bạn có một căn bản mà linh động cho
sự việc ngày nay.
Thật ra, xưa nay, khoa Địa lý vẫn thuộc loại bí truyền. Nó có một ảnh hưởng lớn
lao đến sự thịnh suy của cả một dòng họ nên các thầy địa lý chân chính, có đạo
tâm, rất thận trọng khong dám ai xin cũng để cho đất lớn, một là sợ tổn âm đức
của mình, hai là sợ chính kẻ thiếu đức đó bị hại vì công danh tài lộc cao mà
đức mỏng.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ do Ân Tình Nghĩa Lụy tạo nên:
1. Ân: Thầy địa lý được họ cứu trong lúc hoạn nạn
2. Tình: Thầy đã sống chung với họ trong lúc hoạn nạn.
3. Nghĩa: Họ có đại nghĩa với xã hội hay với thầy.
4. Lụy: Thầy có nhờ vả họ nhiều lần về vật chất để làm ăn sinh sống.
Ân và nghĩa là nặng được thầy lưu tâm kiếm cho đất lớn. Có thể cho cả hai họ
nội ngoại, cho dòng giỏi sau này được đồng thịnh vượng.
Tình và lụy thì nhẹ hơn. Được thầy tùy duyên tùy phúc, có đất lớn cho lớn, có
đất nhỏ cho nhỏ. Người phúc vừa phải, nếu kính trọng thầy cũng có thể được đất
lớn, xong thầy luôn luôn ở bên cạnh khuyên nhủ chỉ bảo, cho họ tạo thêm đức, để
được hưởng đất đó. Vì vậy các cụ xưa lo tạo phúc trước khi kiếm đất kết. Câu:
Tiên tích Đức, hậu tầm Long là thế.
Kiếm báu mong đến tay kẻ chí sĩ anh hùng hào kiệt thì xưa nay những sách có tầm
quan trọng cũng mong đến tay người tài đức.
Chúng tôi phá bỏ đường lối giữ bí truyền sách quý thì chúng tôi cũng cầu mong
những vị nào đạt được chân lý của Địa lý, vì sách này cũng dè dặt cân nhắc
trước khi để đất. Nó như con dao sắc hai lưỡi, đúng thì hay vô cùng, xong nhầm
thì hại cũng không phải nhỏ.
Theo sự kinh nghiệm của các vị nghiên cứu loại sách có liên quan đến thiên cơ,
đến sự huyền vi của vũ trụ như sách này thì người càng có đạo, càng có tâm,
càng vô tư, vô vị lợi, học nó càng mau đạt được chân lý.

  1. TỰA

    Của Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ giải nhất văn chương Tỉnh Việt Văn Đoàn 1960 –
    1961. Ông Cao Trung có nhã ý nhờ tôi để tựa quyển “Dẫn Giải Địa Lý Tả Ao”
    của ông.
    Nhẽ ra, ông phải nhờ những nhà địa lý chuyên môn đề tựa cuốn sách này mới
    phải, nhưng ông lại muốn nhờ tôi, vì xưa nay ông vốn dành cho tôi một tấm
    thịnh tình, nên tôi cũng nhận lời, là vì muốn lấy thịnh tình mà đền đáp
    lại.
    Nơi đây, tôi không muốn nêu lên những vấn đề nan giải như khoa địa lý đúng
    hay sai, còn hợp thời hay không còn hợp thời. Bàn cãi về những vấn đề ấy
    ngày nay, theo thiển ý tôi, vừa quá muộn, vừa quá sớm.
    Quá muộn, vì mấy nghìn năm nay, khoa địa lý đã có một tầm ảnh hưởng quan
    trọng, sâu xa vào trong đời sống dân gian Việt Nam, và không may ai phủ nhận
    giá trị nó.
    Quá sớm, vì khoa học hiện thời cũng chưa đủ khả năng, đủ thẩm quyền để
    quyết đoán về giá trị của khoa địa lý. Biết đâu trong tương lại, với sự
    tiến triển của khoa học, khoa địa lý lại chẳng được sùng thượng trên hoàn
    võ như khoa địa lý lại chẳng được sùng thượng trên hoàn võ như khoa châm
    cứu hiện nay.
    Sở dĩ tôi nhận đề tựa sách này là vì thấy tác giả tha thiết với những vấn
    đề có liên quan mật thiết với nền văn hóa cổ truyền đông phương chịu lặn
    lội tìm tòi học hỏi, sưu tầm kỳ thư, bảo điển.
    Nhờ sự tha thiết tìm cầu ấy, mà ông đã tìm ra được cuốn “Địa đạo diễn ca”
    của cụ Tả Ao.
    Khoa địa lý, trước mắt thế nhân, vốn là một khoa học bí truyền, khó học,
    khó biết. Thế mà cụ Tả Ao chỉ tóm lại trong có 120 câu thơ, vừa lục bát,
    vừa song thất lục bát, với một lối hành văn bình dân, giản dị. Thực là một
    kỳ công.
    Tuy nhiên, hiểu được 120 câu thơ không phải dễ.
    Giúp ta hiểu tập Địa Đạo Diễn Ca của cụ Tả Ao chính là công trình của ông
    Cao Trung.
    Sau nhiều năm suy tư và nghiên cứu, tác giả đã dùng phương pháp khoa học
    để trình bày, phân tích, giải thích, các lời lẽ trong quyển Địa Đạo Diễn
    Ca một cách sống động.
    Ông lại có những sơ đồ để trình bày về các thế đất cát một cách hết sức
    giản dị, mạch lạc.
    Chúng ta chỉ cần để một ít giờ là có thể đọc hết quyển sách và có thể thâu
    lượng được nhiều kiến thức.
    Tóm lại, tôi muốn viết mấy hàng để giới thiệu với độc giả một ký thư, đó
    là quyển Địa Đạo Diễn Ca của cụ Tả Ao, và một công trình biên khảo giá trị
    của tác giả Cao Trung.
    Chúc tác giả thâu lượm được nhiều thành quả tốt đẹp trên con đường sưu
    tầm, khảo cứu, và ước mong quyển sách này gặp được sự hoan nghênh của các
    vị độc giả.
    Sài gòn ngày 7/7/1969
    Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ chuyết đề

    TIỂU SỬ CỤ TẢ AO

    Cụ Tả Ao được tôn là Thánh Địa Lý Tả Ao là người Việt Nam thứ nhất học
    được khoa Địa lý Chính Tông ở Trung Quốc, và là thầy Địa lý giỏi nhất Việt
    Nam xưa kia. Tên cụ là Nguyễn Đức Huyên người làng Tả Ao Huyện Nghi Xuân,
    tỉnh Hà Tĩnh (Trung Việt).
    Cụ sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh. Nhà nghèo, cha mất từ hồi còn nhỏ, mẹ
    lòa. Cụ có một anh cũng nghèo, là người con có hiếu, thấy mẹ mù lòa lúc
    nào cũng buồn, luôn luôn cầu mong, tìm được thầy thuốc hay, chữa cho mẹ
    khỏi.
    May thay gần nơi cụ ở có một thầy thuốc người Tàu chữa mắt rất giỏi. Nhiều
    người đau mắt đã lâu, mà sau một thời gian được thầy đó chữa trị, lại
    trông được.
    Có thầy hay nhưng chữa chạy rất tốn kém và nhà cụ nghèo không thể theo
    đuổi được việc thuốc thang. Cụ bèn nhất quyết xin phép mẹ đến giúp việc
    cho thầy chữa mắt này để học nghề và tìm cách chữa cho mẹ.
    Sau hai năm kiên trì làm việc để chờ thầy truyền nghề. Cụ được vị thầy
    thuốc này nhận xét là người có cơ trí, đức hạnh nên truyền cho ít phép
    chữa bí truyền. Tuy chưa phải là hoàn toàn giỏi, nhưng liệu sức có thể
    chữa cho mẹ. Sau một thời gian chữa cho mẹ được khỏi lòa, cụ trở lại chỗ
    thầy cũ tiếp tục học nghề chữa mắt và sau đó cụ theo thầy chữa mắt về Tàu
    tiếp tục học nghề và giúp đỡ thầy.
    Khi ông thầy già yếu, thấy cụ quán xuyến được mọi khách hàng cho mình,
    liền đem nốt kinh nghiệm bí truyền dạy cụ.
    Gần đó có một thầy địa lý chính tông nhà giàu bị đau mắt không nhìn thấy
    gì, nhờ cụ chữa và hứa nếu chữa khỏi sẽ hậu tạ riêng cụ 50 lạng vàng. Sau
    khi chữa khỏi mắt cho thầy Địa lý, cụ không nhận tiền và chỉ năn nỉ xin
    dạy cho cụ khoa Địa lý.
    Vì ơn nghĩa nên thầy Địa lý dạy cụ Tả Ao khoa Địa lý chính tông của mình.
    Sau nhiều năm thành tài, cụ xin về nước, Thầy Địa lý muốn thử sự hiểu biết
    của cụ, bèn làm một trăm mô hình đất kết trên một bãi cát, dưới mỗi huyệt
    kết có yểm một đồng tiền, rồi đưa cụ 100 cây kim, bảo ra điểm huyệt.
    Cụ đã cắm được 99 cây kim vào 99 lỗ đồng tiền và một cây vào mép lỗ đồng
    tiền thứ 100.
    Cây kim mép lỗ đồng tiền thứ 100 này là một kiểu đất quá lớn rất nhiều
    hình thể khó khăn, ẩn áo.
    Thầy Địa lý chính tông thấy vậy than rằng: “Nghề Địa lý chính tông của ta
    đã được người Việt Nam
    học hết rồi.
    Cụ từ tạ thầy về nước tiếp tục chữa mắt làm phúc. Cụ từ chối rất nhiều việc
    để đất. Cụ chỉ làm những việc để đất rất hạn chế trong những trường hợp
    đặc biệt mà thôi, tuy vậy danh làm địa lý của cụ cũng nổi và được tôn là
    Thánh Địa lý.
    Người ta không gọi tên thực của cụ nữa mà chỉ gọi là cụ Tả Ao (tên làng Tả
    Ao của cụ ở huyện Nghi Xuân)
    Hình như cụ Tả Ao không truyền nghề cho ai, xong có để lại cho đời sau 2
    bộ sách Địa lý quý giá:
    1. Bộ Địa Đạo Diễn Ca có 120 câu văn vần, tức bộ này.
    2. Bộ Dã Đàm Tả Ao bằng văn xuôi (chúng tôi sẽ cho xuất bản sau)
    Sách Địa lý của cụ phát xuất từ môn Địa lý chính tông nên đi từ căn bản
    lên phần chi tiết. Phần căn bản chú trọng tìm cho thấy Long chân Huyệt
    đích. Phần chi tiết nói cho thêm những điều phụ vào điều căn bản. Đi từ
    gốc đến ngọn bao giờ cũng ít lầm hơn đi từ chi tiết trở lại gốc; vì vậy sách
    Địa lý của cụ được các cụ xưa kia cho là quý giá nhất.

  1. NGUYÊN VĂN ĐỊA ĐẠO DIỄN CA CỦA
    CỤ TẢ AO

    1. Mấy lời để truyền hậu thế
    2. Ai học địa lý theo học Tả Ao
    3. Một là hay học càng cao
    4. Hai là cố ý, cứ lời phương ngôn
    5. Ba là học thuộc Dã Đàm
    6. Bốn là mở sách La Bàn cho thông
    7. Chẳng qua ra đến ngoài đồng
    8. Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường.
    9. Mạch có mạch âm, mạch dương.
    10. Mạch nhược, mạch cường, mạch tử, mạch sinh
    11. Sơn cước mạch đi rành rành.
    12. Bình dương mạch lần, nhân tình không thông.
    13. Có mạch qua ao, qua sông
    14. Qua đầm, qua núi, qua đồng, qua non.
    15. Lại có mạch phát ngôi dương
    16. Nhìn xem cho tường, ấy mạch làm sao?
    17. Mạch thô đi chẳng khép vào
    18. Vốn đi một chiều ấy mạch phát dương
    19. Ba mươi sáu mạch cho tường
    20. Trước là cứ sách, sau y lời truyền.
    21. Ruộng cao uốn xuống thì mạch táng trên.
    22. Ruộng thấp uốn lên thì mạch táng dưới.
    23. Bình dương mạch chẳng nề châm gối
    24. Hề chính long thì tả hữu chiều lai.
    25. Đâu có chính long thì có sơn thủy gối kề
    26. Nhưng trên sơn cước non cao
    27. Cường long thô mạch, thế nào mới hay?
    28. Tìm nơi mạch nhược long gầy.
    29. Nhất thời oa huyệt, nhi thời tàng phong
    30. Đất có cát địa chân long.
    31. Táng cho phải phép anh hùng giàu sang
    32. Nọ như dưới đất bình dương.
    33. Mạch thính giác điền xem tưởng mới hay
    34. Bình dương lấy nước làm thầy
    35. Thứ nhất khai khẩu thứ nhì ngũ long
    36. Thứ ba mạch thắt cổ bồng.
    37. Thứ tư sơn chỉ hồi long càng tài
    38. Muốn cho con cháu tam khôi
    39. Phương Nam
    có bút phương Đoài có nghiên.
    40. Muốn cho con cháu Trạng Nguyên.
    41. Thời tìm bút lập hai bên sắp bày
    42. Nhất là Tân, Tốn mới hay
    43. Bính, Đinh, Đoài, Cấn sắp bày đột lên.
    44. Bút lập là bút Trạng Nguyên.
    45. Bút thích giác điền là bút thám hoa
    46. Nhìn xem cho kỹ sẽ là đất hay.
    47. Khuyên ai học làm thầy Địa lý
    48. Trước phải đọc sách, sau là lượng cao.
    49. Dù ai khôn khéo thế nào
    50. Học mà chẳng xét ấy là vô tông
    51. Thắt cỏ bồng phồng ra huyệt kết.
    52. Xem cho biết Mộc tiết Kim loan.
    53. Mộc tiết văn đỗ Trạng Nguyên.
    54. Kim loan võ được tước quyền Quận Công.
    55. Con Mộc vốn ở phương đông.
    56. Con Kim vốn nó về dòng phương tây.
    57. Xem cho biết nó mới hay
    58. Táng cho phải phép thực dày vinh hoa.
    59. Thắt cuông cà phi ra mới kết.
    60. Xem cho biết huyệt cát huyệt hung.
    61. Huyệt cát nước tụ vào lòng.
    62. Đôi bên Long, Hổ uốn vòng chiều lai
    63. Huyệt hung Minh Đường bất khai
    64. Sơn tà thủy Sạ hướng ngoài tà thiên.
    65. Táng xuống kính sảng bất yên
    66. Con cháu thường thường phát bệnh ốm đau.
    67. Muốn cho con cháu sống lâu.
    68. Tìm nơi Huyền Vũ đằng sau cao dày.
    69. Long Hổ bằng như chân tay
    70. Chẳng có Tả, Hữu bằng ngay chẳng lành.
    71. Kìa như đất có ngũ tinh.
    72. Nhận xem cho biết tương sinh loan hoàn.
    73. Muốn cho con cháu nên quan
    74. Thì tìm Thiên Mã phương Nam đứng chầu.
    75. Muốn cho kế thế công hầu
    76. Thì tìm cờ trống dàn chầu hai bên.
    77. Ngũ tinh cách tú chiều nguyên
    78. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa bốn bên loan hoàn.
    79. Thổ tinh kết huyệt trung ương.
    80. Ấy đất sinh Thánh sinh Vương đời đời.
    81. Thiên sơn vạn thủy chiều lai
    82. Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh
    83. Nhị thập bát tú thiên tinh.
    84. Tại thiên chiếu huyệt rành rành chẳng sai.
    85. Ngôi Đế Vượng mặc Trời chẳng dám.
    86. Huyệt công khanh chẳng kiếm ai cho.
    87. Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ
    88. Thấy thì làm chớ để lưu tâm.
    89. Trên sơn cước xa xăm cũng táng.
    90. Dưới bình dương nửa tháng cũng đi
    91. Minh sinh, ám tử vô di.
    92. Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn.
    93. Quả nhiên huyệt chính long chân
    94. Tiêu sa, nạp thủy chớ lầm một ly
    95.Táng chi phúc lý tuy chi.
    96. Trâm anh bất tuyệt thư thi gia truyền.
    97. Muốn cho con trưởng phát tiên.
    98. Thì tìm long nội đất liền quá cung.
    99. Thanh long liên châu cao phong.
    100. Kim tinh, thổ phụ, phát dòng trưởng nam.
    101. Con gái về bên hổ sơn
    102. Hổ cao thì phát, sơn bàn cho thông.
    103. Phản hổ con gái lộn chồng.
    104. Phản long trai nó ra lòng bất nhân.
    105. Vô long như người vô chân.
    106. Vô hồ như đứa ở trần không tay.
    107. Trong Long – Hổ lấy làm thầy trước.
    108. Sau sẽ tìm thấy chỗ huyệt chôn.
    109. Nước chẳng tụ được kể chi.
    110. Kiếm ăn cũng khá xong thì lại không.
    111. Con trai thì ở bất trung.
    112. Con gái thất tiết chả dùng cả hai.
    113. Thấy đâu Long Hổ chiều lai.
    114. Minh Đường thủy tụ huyệt tài mới hay.
    115. Tiền quan, hậu quỷ sắp bầy.
    116. Án dày muốn thấp, chiều dày phải cao.
    117. Xem huyệt nào làm cho phải phép.
    118. Chớ đào sâu mà thiệt như không.
    119. Kìa ai Địa lý vô tông.
    120. Chẳng cứ đúng phép cũng dòng vô tư.
    TẢ AO

CHƯƠNG
THỨ NHẤT: ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ HỌC KHOA ĐỊA LÝ

1. Mấy lời để truyền hậu thế
2. Ai học địa lý theo học Tả Ao
3. Một là hay học càng cao
4. Hai là cố ý, cứ lời phương ngôn
5. Ba là học thuộc Dã Đàm
6. Bốn là mở sách La Bàn cho thông
7. Chẳng qua ra đến ngoài đồng
8. Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường.
Theo cụ Tả Ao thì muốn học cho giỏi khoa Địa lý phải học 4 cách: Một là phải
luôn luôn học hỏi cho mỗi ngày một tiến thêm lên:
(3)Một là hay học càng cao
Hai là phải suy ngẫm cho kỹ những lời lẽ giản dị của Địa Đạo Diễn Ca này. Mới
nghe nó nhẹ nhàng như ca dao, phương ngôn xong hàm chứa rất nhiều căn bản của
khoa Địa lý:
(4)Hai là có ý cứ lời phương ngôn
Ba là sau khi hiểu kỹ những cơ bản về phép Tầm Long ở 120 câu Địa Đạo Diễn Ca
này thì học đến quyển Dã Đàm Địa Lý Tả Ao để phép điểm huyệt được giỏi:
(5)Ba là học thuộc Dã Đàm
Bốn là phải biết dùng La bàn cho giỏi:
(6)Bốn là mở sách la bàn cho thông
La bàn là cái địa bàn của các thầy địa lý, cái nhỏ gọi là Tróc Long và lớn là
La Kinh hay la bàn.
Địa bàn này hình tròn như cái đĩa, chính giữa có một kim chỉ nam và xung quanh
có vẽ nhiều vòng, mỗi vòng chia ra làm nhiều ô. Trong vòng có ghi chữ và mỗi
vòng dùng vào công việc khác nhau. Người mới học chỉ cần dùng 3 vòng là:
 Vòng thiên bàn
 Vòng địa bàn

 Vòng nhân bàn

Sau học giỏi có thể dùng (tài liệu photo mờ)
Vòng giữa là nhân bàn, dùng vào việc tiêu sa để xem sa nào tốt, sa nào xấu.
Cả 3 vòng đều được chia ra làm 24 ô, thì mỗi ô có 15 độ, vì một vòng tròn là
360 độ.
Các chữ trong 3 vòng đều giống nhau nó chỉ khác nhau ở chỗ nếu lấy vòng trong
cùng, vòng địa bàn làm đích thì vòng thiên bàn lệch sang bên phải nửa ô và vòng
nhân bàn lệch sang trái nửa ô.
Những chữ đề trong 24 vòng đó thì:
– Chính Đông trùng vào chữ Mão.
– Chính Tây trùng vào chữ Dậu.
– Chính Nam trùng vào chữ Ngọ.
– Chính Bắc trùng vào chữ Tý.
Nếu kể theo chiều kim đồng hồ quay (chiều thuận) từ Mão trở đi ta có 24 chữ như
sau:
– Mão Ất Thìn Tốn Tỵ Bính Ngọ Đinh Mùi Khôn Thân.
– Canh Dậu Tân Tuất Càn Hợi Nhâm Tý Quý Sửu Cấn Dần Giáp.
Nếu phân làm tám hướng thì:
1. Đông có Giáp Ất Mão
2. Đông Nam
có Thìn Tốn Tỵ
3. Nam
có Bính Ngọ Đinh
4. Tây Nam
có Mùi Khôn Thân
5. Tây có Canh Dậu Tân
6. Tây Bắc có Tuất Càn Hợi
7. Bắc có Nhâm Tý Quý
8. Đông Bắc có Sửu Cấn Dần.
Nếu phân tích 24 hướng này ta lại thấy có :
– 12 hướng thuộc địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu,
Tuất, Hợi.
– 8 hướng thuộc Thập can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
– 4 hướng thuộc bát quái là: Càn, Khôn, Cấn, Tốn.
Rồi cụ Tả Ao nhấn mạnh về sự quan trọng của thực hành Tầm long trong khoa địa
lý:
7. Chẳng qua ra đến ngoài đồng
8. Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường.
Những người học được sách địa lý chính tông cũng đã là hay lắm rồi.
Tuy nhiên học ở sách mới là học lý thuyết mà không thực hành bổ túc thì lý
thuyết đó cũng không đạt được kết quả cụ thể.
Trong khoa học Địa lý người ta chia ra làm hai phần là Loan đẩu và lý khí.
Loan đẩu là phép tầm long hay nói cho rõ hơn là phép tìm xem ở đâu có huyệt
tràng (chỗ có huyệt kết). Phép này nặng về thực hành.
Lý khí là phép quyết định ảnh hưởng kết quả của huyệt kết; Văn, võ, phú, quý,
thọ, cao hay thấp, chóng hay chậm. Phép này nặng về lý thuyết hơn phép Loan
Đẩu.
Trong khoa địa lý phép Tầm long là căn bản vì nó là phép thực hành đi tìm long
mạch ở ngoài đồng. Tầm long là phép xem hình thể đất đai lồi lõm, đốn khởi mà
tìm làm sao cho tới huyệt tràng là nơi có đất kết. Không phải chỉ xem sách xong
ra ngoài đồng là biết Tầm long ngay. Thực ra sách chỉ có thể cho ta một số yếu
tố cần thiết. Muốn giỏi phải thực hành đi tìm long mạch ở ngoài đồng, ngoài
trời một thời gian lâu nữa mới thấu hiểu được.
(7) Chẳng qua ra đến ngoài đồng
Địa lý là một khoa học cũng như cách khoa học khác, mà việc thấu hiểu một khoa
học nào cho kỹ lưỡng không ngoài phép phân tích và tổng hợp.
Ngay học Tầm Long ở ngoài đồng cũng thế, trước tiên ta phải biết phân tích rồi
sẽ tổng hợp sau. Việc Tầm long ta phải biết phân tích đâu là đại cuộc, đâu là
tiểu cuộc, thế nào là Thái Tổ Sơn, Thiếu Tổ Sơn, Long đi như thế nào, nước
chảy, làm sao. Chỗ nào long nhập thủ, đâu là huyệt tràng, huyền vũ, thanh long,
bạch hổ, án, sa, minh đường, thủy khẩu. Thế long sinh hay tử, cường hay nhược
v.v…
Cũng nên định nghĩa những danh từ địa lý này để dễ phân tích.
Đại cuộc là đại thế của đất bên trong có nhiều tiễn cuộc.
Thái tổ sơn: Thái Tổ Sơn của tất cả các cuộc đất trên thế giới là núi Hy Mã Lạp
Sơn. Từ Thái Tổ Sơn phân chia ra làm các Tổ Sơn hoặc Thiếu Tổ Sơn ở các nơi
khác.
Chính những Thiếu Tổ Sơn này dẫn mạch vào huyệt kết.
Long mạch: Long mạch là mạch đất chạy trên mặt đất trong có khí mạch (cũng như
cành cây trong có nhựa cây). Long có thể đi cao như những dãy đồi núi và cũng
có thể đi rất thấp, nó là những thớ ruộng có khi chỉ cao độ 4 phân tay.
Nước: Nước từ long chảy ra lại chạy theo nuôi dưỡng và hộ vệ long. Những chỗ có
nước tụ có khi là minh đường và có khi chỉ là hộ tống thủy (nước dẫn long).
Long nhập thủ: long mạch cho chạy băng qua rừng núi, đồng bằng đến chỗ nào nhập
thủ là kết huyệt ở đó.
Huyệt tràng: Là một khu chỗ ấy là huyệt kết.
Huyền vũ: Thế đất đàng sau huyệt trường trước khi đến huyệt trường
Thanh long: Thớ đất ở bên trái huyệt mọc ra ôm chầu vào huyệt.
Bạch hổ: Thớ đất ở bên phải huyệt mọc ra ôm chầu vào huyệt.
Án: Đất nổi lên trước mặt huyệt, hộ dỡ cho huyệt. Án với huyệt như bàn giấy
trước mặt người ngồi.
Sa: là các gò đống, chứng ứng nổi lên, hiện ra, xung quanh huyệt (kể cả trước
lẫn sau huyệt). Sa là nói chung: bút, bảng, chiêng, trống, voi, ngựa, kiếm,
ấn…
Thủy khẩu: Nơi nước đến Minh Đường và nơi nước từ Minh Đường đi.
Minh đường: Nước tụ trước huyệt để nuôi dưỡng khí mạch của huyệt kết.
Long sinh: Long mạch sống động, trông nó bò ngoằn ngoèo, quay đầu, vẫy đuôi như
con thú, con rắn sống, đang bò.
Long tử: Long mạch nằm ngay đơ, đuồn đuỗn như con lươn, con cá chết.
Long cường: Long mạch nổi lên to lớn, đứng hùng vĩ ngạo nghễ.
Long nhược: Long mạch nhỏ nhắn, dài sắc thái thư thả, ung dung.
Phân tích ra chi tiết thì như thế, nhưng nếu hiểu thấu đáo rồi mà tổng hợp lại
thì rất giản dị. Cái gì có nước là thủy và cái gì có thớ đất là long. Long đi
mạch đi theo, long chỉ khí mạch tụ lại.
Do đó cụ Tả Ao đã tổng hợp tất cả các chi tiết mà ta cần biết về phép học Tầm
Long ở ngoài đồng vào một câu:
(8) Tỏ mạch tỏ nước tỏ lòng mới tường.
Nom đất thì khó biết long đi cách nào. Nên phải mượn nước theo chiều nước chảy
từ cao đến thấp thì biết thế long đi. Nếu nước hai bên dừng lại mà gặp nhau thì
biết long đình. Mà long đình thì khí chỉ tụ lại đó mà kết huyệt.

1.                              
CHƯƠNG THỨ HAI: TẦM LONG MẠCH

9. Mạch có mạch âm, mạch dương.
10. Mạch nhược, mạch cường, mạch tử, mạch sinh
11. Sơn cước mạch đi rành rành.
12. Bình dương mạch lần, nhân tình không thông.
13. Có mạch qua ao, qua sông
14. Qua đầm, qua núi, qua đồng, qua non.
15. Lại có mạch phát ngôi dương
16. Nhìn xem cho tường, ấy mạch làm sao?
17. Mạch thô đi chẳng khép vào
18. Vốn đi một chiều ấy mạch phát dương
19. Ba mươi sáu mạch cho tường
20. Trước là cứ sách, sau y lời truyền.
Chương trên cụ Tả Ao mở đầu phép Tầm long cho ta bằng phương pháp phân tích và
tổng hợp. Phân tích thì đi đến chi tiết còn tổng hợp thì thu các chi tiết về
hai chữ nước và long mạch. Đến đây cụ Tả Ao bắt đầu dạy ta phép nhận xét các
loại long mạch.
1. Trước tiên và dễ nhất là ta phải phân biệt long mạch hay mạch ra làm hai
loại khác nhau là mạch dương và mạch âm.
(9) Mạch có mạch âm, mạch dương.
Mạch ở dưới đồng bằng phần nhiều đi thấp, được gọi là mạch dương.
Còn ở trên sơn cước đi theo các núi đồi cao lớn được gọi là mạch âm.
2. Những mạch âm và mạch dương đó lại được phân chia theo hình thể trạng thái
hùng vĩ hoặc thanh nhã linh động hoặc ngay đơ ra làm 4 yếu tố:
– Mạch cường
– Mạch sinh
– Mạch tử
– Mạch nhược
1. Thế mạch hùng vĩ cao to lớn, thủy đầu được gọi là mạch cường.
2. Thế mạch thanh nhã, nhọn dài được gọi là mạch nhược.
3. Thế mạch đi như con thú quay đầu vẫy đuôi, linh động gọi là mạch sinh.
4. Thế mạch đi đuồn đuỗn ngay đơ, như con cá chết gọi là mạch tử.
Bốn mạch trên gồm vào câu:
(10) Mạch nhược, mạch cường, mạch tử, mạch sinh
3. Trên sơn cước hay dưới bình dương cũng đều có mạch nhược, mạch cường, mạch
tử, mạch sinh, tuy nhiên trên sơn cước vì mạch cao lớn hơn hơn trông rõ hơn,
còn dưới bình dương mạch đi thấp hơn, nên khó xem hơn. Nhiều mạch bình dương
chỉ cao độ 4 phân tay, gần như là lẫn xuống bãi, lại càng khó xem hơn nữa.
(11) Sơn cước mạch đi rành rành.
(12) Bình dương mạch lần, nhân tình không thông.
Những mạch không những chỉ chạy trên sơn cước hay đồng bằng mà nó còn có thể
chạy qua ao, qua sông, qua núi, lặn xuống dưới bãi, rồi đến quãng thật xa, mới
nổi lên đi nữa. Lại có cả những mạch lặn xuống đầm hay xuống biển, hay qua bên
kia biển hoặc đầm, rồi lại nổi lên đi nữa.
(13) Có mạch qua ao qua sông
(14) Qua đầm, qua núi, qua đồng, qua non
4. Với loại mạch đang đi lặn, xuống một quãng xa mới nổi lên đi nữa, đã làm cho
những người tưởng lầm cho là long đến độ là hết không đi nữa (long chỉ) vội tìm
huyệt. Nhất là qua mạch chạy đến chỗ có nước, lặn xuống rồi qua bên kia, đi
nữa, lại càng làm cho nhiều người tưởng lầm hơn vì nó hội đủ điều kiện cần
thiết cho một đất kết, là Long đình khí chỉ và thủy tụ.
Tuy nhiên với con mắt nhà phong thủy, có căn bản vững chắc, vẫn không lầm được.
Bởi vì một đất kết thì long đình, khí chỉ, thủy tụ chỉ là điều cần chứ chưa
phải là điều đủ.
Thật ra một kiểu đất kết phải hội đủ nhiều điều kiện nữa, như phải có long, hổ,
án, chẩm quân bình phương chính: rồi nơi huyệt trường phải khai huyệt như: Oa,
kiềm, nhũ, đột (oa có oa đứng và oa nằm). Đó mới là nói về mạch còn về nước thì
một khi long còn đi nước hay phân ra, rồi khi đến huyệt kết, thủy lại phải hợp
lại tại Minh đường của huyệt mới đúng. Có khi chỗ nước tụ thành đầm, ao, hồ làm
ta cứ tưởng là minh đường của huyệt lớn. Nhưng có khi, trái lại, nó chỉ có
huyệt nhỏ hay không có huyệt. Chỗ nước tụ đó chỉ là cái đại dịch thủy của một
đại cán long. Ta gọi nó là hộ tống thủy.
Lấy gì mà biết nó là hộ tống thủy?
Khi nào bên cạnh một cái đại cán long (cành lớn của long) có đầm ao, hồ mà ở đó
lại phát ra nhiều suối, lạch hay sông ngòi, đi nhiều chiều khác nhau, thì nó
chỉ là hộ tống thủy. Cái khác là minh đường thì các ngọn nước chảy về, còn hộ
tống thủy thì nước từ đó chảy đi nhiều đường. Ta càng chắc là hộ tống thủy nữa,
khi ở bên kia chỗ thủy tụ lại bật lên gò, đống, thớ đất cao, rồi hai bên có
phân thủy, chia ra hai dòng để chảy giáp bên thân long.
5. Đã biết phân biệt mạch sơn cước và mạch bình dương bằng cách mạch sơn cước
thì cao lớn và mạch bình dương thì thấp khó thấy, nhưng chúng ta cũng phải biết
phân biệt:
– Mạch dương cơ và
– Mạch âm phần.
Thật vậy, những ngôi đất kết có ngôi chỉ phát về âm phần (để mả) lại có ngôi
đất chỉ phát về dương cơ (làm nhà). Đất phát âm phần, lợi cho sự chôn xương
xuống đất và đất phát dương cơ, lợi cho sự làm nhà lê trên Đất dương cơ nhỏ,
dùng làm nhà; còn to rộng lợi cho làm doanh trại, rộng nữa lợi cho làm thị
trấn, đô thị hoặc kinh đô.
Muốn biết giá trị của đất dương cơ ta hãy minh chứng một sự kiện lịch sử, liên
quan đến nó:
Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra thì sau đó, nhà Đinh và Tiền Lê trở về
trước, những Triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên
Quốc Sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm Kinh đô. Đó là Thăng Long hay Hà
Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, rời Kinh Đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được 8
đời: và sau đó nhà Trần và Hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm Kinh Đô,
nên bền vững lâu dài hơn.
Ta hãy lại quay về Tả Ao. Cụ Tả Ao nói có hai loại đất kết: một loại cho để
xương người chết, và một loại cho người sống ở, bằng hai câu:
(15) Lại có mạch phát ngôi dương
(16) Nhìn xem cho tường ấy mạch làm sao
Giờ ta xem thế nào mà biết là mạch phát dương (hay dương cơ):
(17) Mạch thô đi chẳng khép vào
(18) Vốn đi một chiều ấy mạch phát dương
Như vậy mạch phát dương là mạch khi nhập thủ không thắt nhỏ lại rồi mới phình
ra như mạch nhập thủ của âm phần. Trái lại mạch phát dương cơ trông thô hơn, cứ
thế đi đến đất kết.
6. Nguyên về mạch từ khúc 1 đến khúc 5 kể trên, cụ Tả Ao đã cho ta biết nhiều
thứ long mạch.
– Khúc 1 ta thấy nói đến mạch âm và mạch dương.
– Khúc 2 nói về mạch cường, mạch nhược, mạch sinh, mạch tử.
– Khúc 3 cũng nói về mạch sơn cước và mạch bình dương.
– Khúc 4 nói về mạch băng qua núi, non, đầm, ao, sông.
– Khúc 5 nói về mạch phát dương cơ và mạch phát âm phần.
Đến đây cộng tất cả các loại mạch đã kể ra có tới 15 loại khác nhau. Nhưng cụ
Tả Ao lại nói là phân tích cho kỹ về mạch thì có đến 36 loại, mà người địa lý
cần biết
(19) Ba mươi sáu mạch cho tường
(20) Trước là cứ phép sau y lời truyền.
Nói như vậy mà cụ không dạy thêm nữa; vậy ta hãy tìm ở các sách địa lý khác
thêm một số mạch, để bổ túc. Chúng ta kiếm thêm:
– Mạch phong yêu: Mạch nhỏ diu như lưng ong (trước thắt nhỏ sau phình ra to).
– Mạch hạc tất: Hạc tất là gối hạc. Loại mạch này hai đầu nhỏ giữa to, như gối
con hạc.
– Mạch mã tích: Mạch chạy như vết chân ngựa; lúc lồi lên, lúc chìm xuống. Phần
nhiều mạch này hay đưa đến huyệt kết oa đứng.
– Mạch băng hồng: Mạch qua sông, qua ruộng qua bể: đó là loại mạch chạy đến đây
thì đình chỉ, nhưng chưa đầy đủ chứng ứng một huyệt kết, mà bên kia sông, đồng
lầy lại bật lên gò đống đất cao, rồi 2 bên có phân thủy chia ra hai dòng để
chảy giáp thân long.
Mạch qua đằng: Mạch đi vằn vèo như giây đưa, giây bí, giây bầu: có thể quay
sang bên tả kết, quay sang bên hữu kết; có thể quay về kết; có thể đến long
đình khí chỉ kết. Mạch qua đằng là loại mạch quý vì có nhiều sinh khí nhất.
– Mạch trực: Long mạch đi thẳng, loại mạch này khi kết huyệt nếu có: nghịch sa
hồi án.
– Mạch nghịch: Long đang đi quay ngược lại, rồi kết huyệt.
– Mạch thuận: Long đi theo thế đại câu long, đại giang, đại hải. Còn đất nhỏ
thì thuận theo: tiểu giang, tiểu hải. Ví dụ một đại cán long đang đi, mọc ra
một tiểu cán long hay tiểu chỉ long, rồi ra kết huyệt.
– Mạch hoành: Mạch đang đi quay ngang, rồi vào huyệt kết.
– Mạch hồi: Mạch đang đi, quay lại thiếu tổ sơn như hình lưỡi câu móc, hồi cố
lại. Ví dụ: Hợi long kéo đến Tốn, rồi cố tổ; Khôn Long kéo đến Cấn, rồi cố tổ,
muốn biết huyệt thật thì phải hiểu thêm:
– Trực kỵ: Trực long phải có triều tôn án và triều tôn thủy.
– Đảo kỵ: Nghịch long phải có quỷ biến vì quan thuận.
– Thuận kỵ: Thuận long phải có hậu quỷ dày.
– Hoành kỵ: Thuận long phải có nhiều sa thác lạc hay nhiều long hổ che chở xung
quanh mới gọi là chướng kết (đất hoành sơn của nhà Nguyễn Gia Long). Hoành long
có chướng kết mới quý còn không còn là bình thường và ngắn đời thôi.
– Nghịch kỵ: Hồi long phải có thái tổ hay thiếu tổ cao dày làm án (án cao ở gần
hồi long cũng không bức không có hại; trái lại còn dễ sinh hiếu tử trung thần).
Về phép phân tích các loại long cho dễ hiểu, cụ Tả Ao nói là có 36 mạch khác
nhau; tuy nhiên thật ra còn có thể nhiều hơn hay ít hơn, tùy theo thế cách và
tên gọi cho dễ nhận ra. Cho đến đây chúng ta đã có đủ những phân tích long cần
thiết, để cho người đi tầm long để tìm thấy huyệtCHƯƠNG THỨ BA: HUYỆT TRƯỜNG

(21) Ruộng cao uốn xuống, thì mạch táng trên.
(22) Ruộng thấp uốn lên, thì mạch táng dưới.
(23) Bình dương, mạch chẳng nề chầm gối
(24) Hễ chính long thì tả hữu chiêu lai
(25) Đâu có chính long, thì có sơn thủy gối kề
(26) Nhưng trên sơn cước, non cao
(27) Cường long thô mạch, thế nào mới hay;
(28) Tìm nơi mạch nhược, long gầy
(29) Nhất thời oa huyệt, nhị thời tàng phong
(30) Đất có cát địa chân long.
(31) Táng cho phải phép anh hùng giàu sang
(32) Nọ như dưới đất bình dương
(33) Mạch thính giác điền, xem tường mới hay
(34) Bình dương lấy nước làm thầy
(35) Thứ nhất khai khẩu thứ nhì nhũ long
(36) Thứ ba mạch thắt cổ bồng
(37) Thứ tư sơn chỉ, hồi long càng tài
Trên kia cụ Tả Ao giảng về phép phân tích các loại long để đi theo nó tìm cho
lời huyệt tràng, là vùng đất, trong đó có huyệt kết.
Tới đây cụ đưa ta đến huyệt tràng và giảng tiếp:
(21) Ruộng cao uốn xuống, thì mạch táng trên.
(22) Ruộng thấp uốn lên, thì mạch táng dưới.
Là nếu từ chỗ ruộng cao, đã có long hổ ôm chầu vào huyệt tràng, ở chỗ cao mới
cân đối.
Còn mạch nhập huyệt nằm dưới thấp, từ từ cao lên thì táng vào nơi cao vừa. Tiếp
theo cụ nói đến phạm vi kết huyệt của loại mạch bình dương.
(23) Bình dương mạch chẳng nề chầm gối
(24) Hề chính long thì tả hữu chiều lai
Là mạch bình dương, tuy hay ẩn tàng, không lộ như mạch sơn cước nên khó kiếm
hơn. Nhưng mạch bình dương lại có đặc điểm để điểm huyệt, là hễ gặp chính long
là có tả thanh long, hữu bạch hổ chiếu về và không nệ thiếu gò nổi bật lên ở
sau huyệt làm chẩm. Có càng hay mà không có cũng được vì ruộng đằng sau cao
cũng là chẩm rồi.
Được như vậy chỉ cần lập hướng đúng là được, rất ít khi xảy ra sát như đất sơn
cước.
Và tới đây cụ nói luôn đến mạch sơn cước:
Mạch bình dương thường lành hơn mạch sơn cước nên các thầy địa lý giỏi ưa kiếm
mạch bình dương. Còn mạch sơn cước có núi cao ngạo nghễ hay phát võ anh hùng
cường liệt, đa sát. Sát cho dòng họ người được đất và vì phát võ cách nhiều,
nên nếu là đất lớn thì sự thành công của con cháu người được đất gây nên thảm
sát cho thiên hạ mã.
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô”.
Ta đã thấy vua Quang Trung sau khi được ngôi đất ở sơn cước (Tây Sơn An Khê) đã
đánh giết 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị và Sầm Nghi Đống. Đó là sát hay.
Sát giở như Lý Tự Thành đời vua Sùng Trinh nhà Mãn Thanh, sau khi được đất sơn
cước làm loan đánh về tới Kinh đô gây cho dân gian chết chóc vô kể.
Đất sơn cước, lắm hung nhiều sát, xong thấy rõ ràng nên các thầy địa lý non
thường thích làm. Đất sơn cước nhiều sát khi nếu không tìm được tới long chân huyệt
đích thì có hại.
Tuy nhiên khó thì khó thật mà nếu biết phép chính tông địa lý làm cho công phu
cũng có thể giảm thiểu được sự sung sát, do đó cụ Tả Ao có nói:
(26) Nhưng trên sơn cước non cao
(27) Cường long thô mạch thế nào mới hay
Có nghĩa là đất sơn cước có non cao hùng vĩ, cường long, mạch thô phải để như
thế nào mới tránh được hung sát.
Cụ chỉ cho ta cách để như thế nào dưới đây
(28) Tìm nơi mạch nhược long gầy
Câu này là cả một bi pháp vẽ phép để đất trên sơn cước mà rất ít sách địa lý
của Tần và ta chịu nói đến. Nó có nghĩa :
Đất sơn cước cường mạnh hay sinh nhân đa sát nếu muốn tránh phải kiếm thứ long
nào sau khi rời núi non chạy xuống đồng, còn chạy ngang dọc cho bớt hung hăng,
cường mạnh, đến khi long dịu rồi mới vào huyệt. Hình đảng của long đó, khi dịu
rồi, trông gầy và nhược. Đó là châu long của đất sơn cước, Kiếm được huyệt ở
chỗ đó sẽ sinh nhân hùng hậu, quân tử, không hung sát.
Sau khi nói rõ hai đặc tính của huyệt sơn cước và bình dương rồi cụ Tả Ao tiếp
theo về hình dáng cho kết huyệt. Phải chi hình dáng của chỗ kết huyệt thì mới
dễ để mả. Cũng nên nói thêm rằng đại cuộc đất dù lớn mấy trăm mẫu huyệt tràng
dù rộng cả nghìn thước nhưng chỗ huyệt kết nhỏ bằng cái chiếu mà thôi. Như vậy
nên phải chỉ rõ hình tích của chỗ có huyệt kết để dễ kiếm:
Sau khi theo long tìm đến huyệt tràng rồi nếu ta tìm tại nơi huyệt tràng chỗ
nào có dấu hiệu oa, kiềm, nhũ đột thì ta phải nghĩ chổ đó là chỗ có huyệt kết
của cuộc đất. Thế nào là Oa, Kiềm, Nhũ, Đột?
Oa: là khai oa khum khum giống như gọng vó.
Cụ Tả Ao gọi nôm na là: “Khum khum gọng vó chẳng nó thì ai”
Kiềm: Cụ Tả Ao gọi là:
“Thè lè lưỡi trai chẳng ai thì nó”
Nhũ; Hai bên có long, hổ cao, ở giữa thò ra như quả bí, quả bầu.
Cụ Tả Ao gọi là:
Thắt cuống cà sa đít nhện”
Cuống cà nhỏ và thấp, hai bên long hổ cao bằng huyệt trường hay cao bằng mặt
người ngồi ở huyệt.
Oa biến thể: Huyệt hình tam giác, hai bên long hổ duỗi ra thăng bằng và hơi cao
hơn huyệt như chữ nhân (Nó là oa biến thành tam giác)
Oa đứng: là chung quanh cao giữa thấp có thể hoặc tròn hoặc hình bầu dục, hoặc
hình chữ điền, chữ nhật (ở chỗ long đình khí chỉ).
Chi tiết chỗ đất kết ở sơn cước đề đặt xương người xuống cho thu được khí mạch
là hình oa, hình kiềm, hình nhũ, hình đột và hình oa biến thể hay oa đứng như
kể ở trên, xong nói về huyệt tàng phong hơn cả ở sơn cước thì huyệt khai oa,
kiềm vốn là tàng phong rồi.
(29) Nhất là oa huyệt nhị thời tàng phong
Câu trên có nghĩa là oa kiềm đã có tàng phong sẵn rồi rất tốt vì oa huyệt có
gọng vó cao hơn huyệt che gió cho huyệt, kiềm cũng thế. Tuy nhiên người oa kiềm
ra còn có thể kết huyệt nhũ, đột nữa. Nhũ, đột cũng cần phải có long hổ cao
thăng bằng với huyệt trường để che gió cho huyệt. Một huyệt kết mà không tàng
phong dễ sinh ra tội (yểu hoặc bệnh tật).
Nói tiếp về đất sơn cước Đất này đã khó táng lại hiềm ít thủy tụ nên nhiều đất
kết anh hùng mà vẫn nghèo. Tuy nhiên cụ Tả Ao có nói là nếu kiếm được chân
long:
(30) Đất có cát địa chân long.
(31) Táng cho phải phép anh hùng giàu sang
Tiếp theo cụ Tả Ao lại đề cập thêm nữa về loại huyệt bình dương.
(32) Nọ như dưới đất bình dương
(33) Mạch thích giác điền xem tường mới hay
(34) Bình dương lấy nước làm thầy
Ba câu trên có nghĩa là huyệt bình dương tuy ít sát hơn huyệt sơn cước, tuy
nhiên đất bình dương cao thấp không chênh lệch lắm nên khó xem hơn. Mà khó xem
nhất là loại mạch thích giác điền: đó là các thớ của long mạch đi bằng những
góc ruộng. Các cụ sợ nhất những mạch ruộng có mũi nhọn đâm vào huyệt hay những
góc ao quay mũi nhọn về huyệt.
“Ruộng như mũi dao, ao như thước thợ”.
Con người Tả Ao phóng khoáng sau khi căn dặn những gì quan trọng nguy hiểm khó
khăn của huyệt cho con cháu biết mà phòng bị khi dễ huyệt, thì bản tính dễ dãi
yêu đời cố hữu lại trở về với cụ, rồi cụ giảng tiếp theo:
(34) Bình dương lấy nước làm thầy
Để nhắc nhở lại cho ta biết là mạch sơn cước lấy tàng phong làm quan trọng thì
mạch bình dương lại lấy Minh đường làm chính, hễ có nước mà có sơn thủy gối kề
có tả hữu chiều lai là hay có huyệt: để vào không ăn nhiều cũng ăn ít chứ ít
khi bị sát nặng như đất sơn cước.
Rồi cụ tiếp tục kể lể để nhắc lại những gì quan trọng:
(35) Thứ nhất khai khẩu, thứ nhì ngũ long
(36) Thứ ba mạch thắt cổ bồng
(37) Thứ tư sơn chỉ, hồi long càng tài
Câu 35 có nghĩa huyệt kết phải khai khẩu nghĩa là phải là oa, kiềm hay nhũ, đột
(Đại cương sơn cước thì oa kiềm và bình dương thì nhũ đột).
Câu 36 có nghĩa là khi long chạy đến huyệt kết trước khi nhập thủ đất phải thắt
lại như cổ bồng thì mới chắc.
Nửa câu 37 có nghĩa là đất có huyệt thì sơn phải chỉ mạch đến đó không tiếp tục
đi nữa mới kết được. Và tiếp theo nửa câu sau của câu 37 (Hồi long càng tài) có
nghĩa là trong các huyệt kết thì hồi long có tổ là quý nhất vì nó mau phát, mau
ăn hơn loại huyệt kết: Hoành long trực long v.v…
Những chữ thứ nhất, thứ hai, thứ ba và thứ tư ở câu 35, 36, 37 không phải là
thứ tự tốt xấu và chỉ là kể để 4 thứ quan trọng nhấn thêm để ta xem huyệt mà
thôi.

(38) Muốn cho con cháu Tam Khôi
(39) Phương Nam
có bút phương Đoài có nghiên

  1. CHƯƠNG THỨ TƯ: CHỨNG ỨNG CẦN
    THIẾT

    (38) Muốn cho con cháu Tam Khôi
    (39) Phương Nam có bút phương Đoài có nghiên
    (40) Muốn cho con cháu Trạng Nguyên
    (41) Thời tìm bút lập hai bên sắp bày
    (42) Nhất là: Tân, Tốn mới hay
    (43) Bính, Đinh, Đoài, Cấn sắp bày đột lên
    (44) Bút lập là bút trạng nguyên
    (45) Bút thích Giác Điền là bút thám hoa
    (46) Muốn xem cho kỹ sẽ là đất hay
    (47) Khuyên ai học làm thầy địa lý
    (48) Trước phải đọc sách sau là lượng cao
    (49) Dù ai khôn khéo thế nào
    (50) Học mà chẳng xét ấy là vô tông
    Sau khi chỉ phép Tầm Long cho ta biết cách theo dõi long mạch để tìm đến
    huyệt tràng. Và sau đó từ huyệt tràng tìm ra huyệt kết, đến đoạn này cụ Tả
    Ao đề cập đến một số chứng ứng cần thiết:
    (38) Muốn cho con cháu Tam Khôi
    (39) Phương Nam có bút phương Đoài có nghiên
    (40) Muốn cho con cháu Trạng Nguyên
    (41) Thời tìm bút lập hai bên sắp bày
    Có nghĩa là muốn phát về Văn thì tìm huyệt nào mà phía Nam của huyệt có
    cây bút hoặc phía Tây (Đoài) của huyệt có gò đống tượng hình cái Nghiên Và
    muốn cho con cháu đỗ cao, đỗ đầu tất cả các kỳ thi phải tìm cây bút đứng
    (đứng chứ không phải nằm) sắp bày hai bên trước mặt huyệt.
    Tưởng cũng nên giải nghĩa cho rộng hơn nghĩa tóm tắt ở trên:
    Ngày xưa các cụ ta chỉ có một đường ra làm quan, để mở mặt với đời, báo
    hiếu cho cha mẹ, giúp dân nước là “thi đỗ rồi ra làm quan”.
    Việc thi cử chia ra làm 4 thời kỳ.
    1. Thi khảo hạch: thi khảo hạch xem có đủ sức đi thi không.
    2. Thi hương: Sau khi đủ sức đi thi rồi thì kỳ thi bắt đầu được thi là thi
    Hương. Thi Hương chọn đến Cử Nhân, Tú Tài gồm vài tỉnh gần nhau đến thi.
    ĐẤT PHÁT TRẠNG NGUYÊN
    (40) Muốn cho con cháu Trạng nguyên
    (41) Thì tìm bút lập đôi bên sắp bày
    (42) Nhất là Tân Tốn mới hay
    (43) Bính, Đinh, Đoài, Cấn sắp bày đột lên.

    3. Thi hội: Sau khi đậu thi Hương những ai đậu cử nhân mới được vào thi
    hội tại Kinh Đô, lấy đến Tiến sĩ, Phó bảng.
    4. Thi Đình: Ai thi hội có điểm cao mới được vào thi Đình tại sân rồng nhà
    vua. Thi Đình lấy đến trạng nguyên là nhất (từ đời Gia Long trở đi bỏ
    không lấy trạng nguyên nữa).
    Bởi lề lối thi cử xưa kia như thế nên cụ Tả Ao nói là ai muốn con cháu học
    giỏi để thi đỗ luôn, cả ba khoa (tam khôi): Thi chọn kiểu đất phương Nam
    huyệt có cây bút, phương Tây (Đoài) của huyệt có cái Nghiên
    Giải thích:
    1. Bút là trái núi đứng nhọn đầu hay dãy đất nằm đầu nhọn ôm chầu về
    huyệt.
    2. Nghiên là gò đống hay mảnh ruộng con hình vuông, chữ nhật. Cũng có thể
    có nghiên hình tròn và bán nguyệt.
    3. Có 2 loại bút cụ Tả Ao nói ở đây là bút nằm và bút đứng. Bút nằm là bút
    giác điền và bút đứng là bút lập. Bút lập còn gọi là bút kinh thiên nghĩa
    là bút chống Trời.
    Trên kia có nói kỳ thi sau cùng ở sân rồng nhà vua mà ai đỗ đầu kỳ này sẽ
    là Trạng Nguyên thứ là bãng Nhỡn.
    Vậy đỗ Trạng Nguyên trước tiên là phải đỗ Tam Khôi rồi kỳ sau cùng thi
    Đình lại đỗ đầu. Muốn cho con cháu học giỏi thông minh như vậy phải tìm
    kiểu đất có sắp bày bút lập ở hai bên, đằng trước huyệt; nhưng không phải
    hướng nào có bút lập cũng giỏi giang như vậy.
    Dưới đây cụ Tả Ao chỉ cho ta biết hướng nào có bút lập mới tốt:
    (42) Nhất là Tân Tốn mới hay
    (43) Bính Đinh Đoài Cấn sắp bày đột lên
    Theo câu (42) – (43) thì bút tốt nhất ở hướng Tân và hướng Tốn. Sau nữa
    đến bút ở hướng: Bính, Đinh, Đoài hoặc Cấn. Và cụ cũng giải nghĩa bút lập
    tốt hơn bút giác điều bằng ý nghĩa có bút lập có thể đỗ đến Trạng Nguyên
    còn bút giác điền tốt cũng chỉ đỗ đến Thám Hoa mà thôi.

1.                              
ĐẤT PHÁT THÁM HOA

(44) Bút lập là bút trạng nguyên
(45) Bút thích giác điên là bút thám hoa
(46) Nhìn xem cho kỹ sẽ là đất hay
Khoa địa lý có người gọi là địa ý có nghĩa là không thể căn cứ vào một mẫu mực
nào mà theo đó đi tìm được đất. Các cuộc đất đều khác nhau, khác về chứng ứng
chầu về huyệt cùng cách thế của huyệt tràng. Vì vậy nên phải suy tư cân nhắc
làm sao để mà vào đúng huyệt chỉ lớn bằng cái chiếu mới hy vọng có đất kết, mới
thành công. Cổ nhân đã có câu:
“Mạch đi muôn vạn dặm nghìn
Chung quy huyệt kết chỉ tìm chiếu con”
Là thế.
Cụ Tả Ao khuyên ai học địa lý trước tiên là phải đọc sách sau là phải ước lượng
cho cao. Muốn ước lượng cho cao người học địa lý trước phải học được chính tông
sau phải thực hành rất nhiều ở ngoài đồng và phải thông minh mới ước lượng đúng
được, mới tìm ra cái “chiếu con” trong một đại cuộc đất đi cả muôn nghìn vạn
dặm:
(47) Khuyên ai học làm thầy địa lý
(48) Trước phải đọc sách sau là lượng cao
(49) Dù ai khôn khéo thế nào
(50) Học mà chẳng xét ấy là vô tông
Cả 4 câu cụ Tả Ao nhấn mạnh về 2 điểm: 2 câu trên nói là phải lượng cho cao và
2 câu dưới nói là phải nhận xét cho đúng.
Muốn lượng cao và xét đúng không phải là dễ. Đọc sách địa lý cho kỹ để ước
lượng cho rành mà còn phải thông hiểu cả dịch lý học túc âm dương học hay lưỡng
nghi học để suy xét, bổ túc thêm cho khoa địa lý. Nơi đây ta thử lấy âm dương
làm căn bản để ước lượng suy ngẫm một cuộc đất, tìm sự quân bình cho mọi chi
tiết kỹ thuật của khoa địa lý:
– Trước tiên đất bình dương phẳng là dương, thì gò đống nổi cao hơn là âm và
đất sơn cước nhiều đồi núi là âm thì thung lũng bãi của nó là dương. Đất sơn
cước cường dũng nên chọn huyệt ở chỗ mạch nhỏ long gầy; nơi bình dương thấp
phẳng phải chọn nơi cao làm huyệt (khởi đột). Như thế mới là âm dương cân đối.
– Rồi đến tay long là dương phát ngành trưởng và con trai thì tay Hổ là âm
(phát ngaàh thứ hay con gái, Long Hổ phải tương nhượng nhau, Long là anh phải
dài hơn Hổ là em. Long dài hơn nên cần nhọn đầu thì Hổ ngắn hơn cần thủy đầu,
hay tròn đầu.
– Sau đến núi (sơn) chủ tĩnh là âm thì nước (thủy) chủ đội là dương. Khi đến
huyệt kết phải có sơn thủy giao lại âm dương giao hội, nghĩa là núi chủ tĩnh
đến đó phải quay đầu vẫy đuôi như động và nước chủ động đến huyệt kết thì phải
lưu luyến nữa muốn ở nữa muốn đi, tụ lại trước huyệt rồi mới chảy đi.
– Núi và nước một động vật tĩnh đi song song như vợ với chồng che chở nâng đỡ
hộ vệ nhau. Nước từ khe núi, từ mạch trong núi chảy ra ngoài thì nước lại theo
núi mà nuôi dưỡng cho khí mạch của núi, cho núi đỡ khô.
Long mạch đi có vẻ Âm thì chuyển dương mới vào huyệt. Trái lại Long mạch đi
đang Dương thì nhập thủ huyệt trường phải âm.
Trên đây mới nói sơ về lý âm dương. Ngoài lý âm dương ta còn phải chú trọng đến
ngũ hành nữa. Thấy hình tròn ta gọi là kim, dài là mộc, nhọn là hỏa, vuông là
thổ là như sóng gợn là thủy.
Ngay đến phương hướng cũng có âm dương ngũ hành khác nhau:
Hướng : Hợi, Nhâm, Tý, Quý là thủy.
Hướng : Sửu, Cấn là thổ
Hướng : Dần, Giáp, Mão là mộc
Hướng : Thìn là thổ
Hướng : Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh là hỏa
Hướng : Mùi, Khôn là thổ
Hướng : Thân, Canh, Dậu, Tân là kim.
Hướng : Tuất là thổ
Hướng : Càn là kim
Trên là hướng còn phương cũng có ngũ hành:
Hành mộc : Ở phương Đông
Hành kim : Ở phương Tây
Hành hỏa : Ở phương Nam
Hành thủy : Ở phương Bắc
Hành thổ : Ở Trung ương
Do đó cụ Tả Ao nói là: Học chẳng xét cũng là vô tông ở câu 50 có nghĩa là học
mà không biết suy xét cho cặn kẽ không phải là địa lý chính tông, không có gốc
căn bản.
ĐẤT HÌNH MỘC (DÀI) PHÁT VĂN

CHƯƠNG THỨ NĂM: PHÂN BIỆT

A. ĐẤT PHÁT VĂN HAY VÕ
B. HUYỆT CÁT HAY HUNG

A. Đất phát văn hay võ
(51) Thắt cổ bồng phồng ra huyệt kết
(52) Xem cho biết mộc tiết kim loan
(53) Mộc tiết văn đỗ trạng nguyên
(54) Kim loan võ được tước quyền quận công
(55) Con mộc vốn ở phương Đông
(56) Con kim vốn nó về dòng phương Tây
(57) Xem cho biết nó mới hay
(58) Táng cho phải phép thực dày vinh hoa.
Đoạn này cụ Tả Ao giảng về hình dáng, đất có huyệt kết, và ảnh hưởng của nó như
thế nào?
Một đất có huyệt kết thường cần có đặc điểm là phải thắt cổ bồng rồi phình ra,
mới chắc ăn. Ý này ở trên cụ đã nói rồi, xong là quan trọng, nên cụ lại nhắc
lại lần thứ hai:
(51) Thắt cổ bồng phồng ra huyệt kết
rồi cụ đề cập đến hình của chỗ đất kết và ảnh hưởng của nó:
(52) Xem cho biết mộc tiết kim loan
(53) Mộc tiết văn đỗ trạng nguyên
(54) Kim loan võ được tước quyền quận công
Một đất sinh nhân thế nào, đầu tiên phải biết đất đó thuộc về văn hay võ. Văn
cao nhất là Trạng nguyên, Tể tướng rồi xuống thấp dần cho đến Thư ký. Về võ cao
nhất là Quận công. Nguyên Soái rồi xuống dần cho đến lính trơn. Trước khi biết
giá trị của đất đó làm đến chức vụ gì ta phải biết nó về loại văn hay võ đã.
Nếu phát văn thì thường đất hình dài, mà dài là hình mộc và nếu là võ thì
thường đất là hình tròn, mà tròn là hình kim: Phân biệt phát văn hay võ trước,
rồi coi cho đủ chi tiết có thể đoán được văn cao đến bậc nào, và võ lớn tới mức
nào, trong văn ban hoặc võ ban. Trường hợp đất vừa dài vừa tròn ta có thể cho
là phát cả văn lẫn võ.
ĐẤT HÌNH KIM (TRÒN) PHÁT VÕ

Tuy nhiên cụ nói là mộc tiết chứ không phải mộc và kim loan chứ không phải kim.
Mộc tiết là cái mắt của gỗ kim loan là cái cốt của bánh xe.
Câu “xem cho biết mộc tiết kim loan” ta phải hiểu mộc tiết kim loan là nhũ đột
và oa kiềm.
Phát võ, phát phú thì xung quanh có nhiều con kim triều củng. Phát văn thì xung
quanh có nhiều con mộc con hỏa triều củng.
Mộc phát văn, kim phát võ, ta cứ lấy đó làm chính và cũng lấy đó mà thừa trừ
cân nhắc suy xét cả đại cuộc đất thì sẽ có thể biết rõ được đất phát như thế
nào, càng chi tiết được nhiều càng chính xác. Muốn giải đoán ta phải biết nhiều
về lý khí. Phạm vi quyển này chỉ nặng về loan đầu. Đến quyển Dã Đàm Tả Ao chúng
tôi cho xuất bản kế tiếp sẽ nói nhiều về lý khí hơn.
Những chứng ứng chầu về huyệt cũng có ảnh hưởng. Nếu là chứng ứng hình mộc thì
phương Đông hành mộc là vượng (theo ngũ hành) và tròn là hình kim thời phương
tây hành kim là vượng.
Các thầy địa lý hay bát hình để làm tôn vẻ đẹp cho cuộc đất gọi là con Phượng,
con Lân, con Rùa, con Chim, con Hổ, con Voi nhưng cũng không ngoài sự kết huyệt
phải có oa, kiềm, nhũ, đột, khí long đình khí chỉ. Dù có những con đó mà không
có long đình khí chỉ thì cũng không kết. Nếu muốn gọi con gì cũng được xong căn
bản ngũ hành là điều ta cần nhớ cho kỹ.
– Con Mộc hình dài và phương Đông thuộc Mộc.
– Con Kim hình tròn và phương Tây thuộc Kim.
– Con Hỏa hình dài nhọn và phương Nam thuộc Hỏa.
– Con Thủy hình sóng gợn và phương Bắc thuộc Thủy.
– Con Thổ hình vuông và trung ương thuộc Thổ.
Xem những hình thể đất và chứng ứng hình gì (con Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và
xem phương hướng chúng đóng để biết sinh vượng hay tử, tù hưu rồi táng cho phải
phép thì dòng dõi sau này được vinh hoa phú quý.
Cụ Tả Ao đã tóm ý trên vào 4 câu:
(55) Con Mộc vốn ở phương Đông
(56) Con Kim vốn nó về dòng phương Tây
(57) Xem cho biết nó mới hay
(58) Táng cho phải phép thực dày vinh hoa
Ấy thế là những hình đắc vị
Tuy nhiên ngũ hành mới là phụ thuộc, đúng phương vị càng hay, không đúng cũng
không sao. Miễn là huyệt kết đúng phép huyệt trường có oa, kiềm, nhũ, đột là
được.
Kiếm được đất kết oa, kiềm, nhũ, đột rồi tránh được cái xấu của sa và thủy cũng
là quý hóa rồi.

B. Huyệt cát hay huyệt hung
(59) Thắt cuống cà phì ra mới kết
(60) Xem cho biết huyệt cát huyệt hung
(61) Huyệt cát nước tụ vào lòng
(62) Đôi bên long hổ uốn vòng chiều lai
(63) Huyệt hung minh đường bất khai
(64) Sơn tà thủy xạ hướng ngoài tà thiên
(65) Táng xuống kinh sàng bất yên
(66) Con cháu thường thường phát bệnh ốm đau
(67) Muốn cho con cháu sống lâu
(68) Tìm nơi Huyền Vũ đằng sau cao dày
(69) Long Hổ bằng như chân tay
(70) Chẳng có tả hữu bằng ngay chẳng lành
Phần này cụ Tả Ao ấn định huyệt tốt, huyệt xấu vào hai loại: Huyệt cát và huyệt
hung. Trước khi nói đến hai loại huyệt này cụ lại cẩn thận chắc chắn, nhắc lại
lần thứ ba một ý nữa:
(59) Thắt cuống cà phì ra mới kết
Để con cháu xem lại có phải là đất kết không đã, rồi mới đi vào phần chi tiết
tìm hiểu một huyệt cát hay huyệt hung. Cụ phải nhắc lại như vậy vì lý do:
Nếu không phải đất có huyệt kết, thì phân tích huyệt cát huyệt hung làm gì cho
mất thời gian. Bây giờ cụ mới giảng chỗ có huyệt kết đó: Cát hay hung.
(60) Xem cho biết huyệt cát huyệt hung
61) Huyệt cát nước tụ vào lòng
(62) Đôi bên long hổ uốn vòng chiều lai
(63) Huyệt hung minh đường bất khai
(64) Sơn tà thủy xạ hướng ngoài tà thiên
Một đất kết có rồi ta phải xem nó là đất kết cát hay hung.
Huyệt hung thì Minh đường không tụ nước và sơn thủy xấu. Sơn thủy xấu là:
(64) Sơn tà, thủy xạ, hương ngoài tà thiên Sơn là sơn không chính.
Sơn là các sa như bút (giải nhọn) bảng (hình chữ nhật) ấn (hình vuông) ngựa,
voi, trâu, lân, hổ (hình thú) v.v…
Những chứng ứng này không chầu vào huyệt, chiều cao không cân đối (gần thì
ngang huyệt, càng xa càng cao hơn) đều là sơn là (không chính) không quân bình,
phương chính. Sơn xấu làm cho huyệt kết thành kết hung.
Thủy xạ: Thủy xạ là các ngọn nước đáng nhẽ phải bao nhiêu (chạy khuất khúc)
chầu về huyệt thì đâm thẳng vào huyệt hay giữa Minh đường như phóng mũi nhọn
của nó vào huyệt hay vào giữa minh đường. Nước như thế là thủy xạ, thủy như thế
là thủy xấu làm cho huyệt kết thành kết hung.
Hướng ngoài tả thiên: là sơn hay thủy đáng nhẽ chầu vào huyệt thì lại quay lưng
lại huyệt và chầu ra ngoài (hướng ngoài). Các sa méo mó lệch lạc siêu vẹo lở
đứt. Sơn thủy hướng ngoài tả thiên cũng làm cho huyệt kết trở lên huyệt hung.
Không những sa (sơn) và thủy (ngọn nước) “hướng ngoài tả thiên” là xấu, mà
chính ngay Minh đường hướng ngoài tả thiên là loại minh đường nghiêng lệch đổ
nước ra ngoài chứ không thu nước vào trước huyệt. Minh Đường mà nghiêng lệch
thì con cháu sẽ có tâm địa tà dâm, bất chính.
Ta lại tóm tắt huyệt cát huyệt hung qua Minh đường, Long hổ, Huyền vũ một lần
nữa vì nó quan trọng:
Minh đường ảnh hưởng đến sự giàu nghèo và sự thông minh hay ngu đần của con
cháu, còn Long Hổ thì tay Long ảnh hưởng đến con trai hay ngành trưởng và tay
Hổ ảnh hưởng đến con gái hay ngành thứ.
Một huyệt tốt (huyệt cát) trước tiên và cần thiết nhất là:
Minh Đường phải có nước tụ và hai bên Long Hổ phải ôm chầu về huyệt.
Huyệt hung thì Minh Đường không có nước (Minh Đường bất khai) con cháu sẽ
nghèo. Minh Đường phải quanh năm có nước, con cháu mới giàu được.
Nói qua Minh Đường rồi nay nói đến Long Hổ: Long Hổ phải ôm chầu vào huyệt mới
tốt. Tay Long và tay Hổ không tay nào được ngoảnh ra ngoài.
Để mã vào chỗ đất có huyệt hung thì có thể có báo hiệu ngay bằng cách trong nhà
thấy đau yếu tang thương.
(65) Táng xuống kinh sảng bất yên
(66) Con cháu thường thường phát bệnh ốm đau
Táng phải huyệt hung thì khi đất chưa kết đã xảy ra tang thương bệnh tật cho
con cháu, trong nhà trong họ, nhiều người cho là đất kết phải sát trước mới
phát sau. Sự thực thì tại gặp huyệt hung và tiêu sa nạp thủy không giỏi mà ra.
Nói về huyệt cát huyệt hung ta cần phải chú trọng đến Huyền vũ nữa. Huyền vũ là
chỗ long mạch dẫn vào huyệt kết. Nó là nơi rót khí mạch vào huyệt. Nơi Huyền Vũ
mà cao dày thì con cháu mới được thọ, mới sống lâu. Huyền Vũ mỏng và thấp con
cháu kém thọ thì dù có học giỏi cũng không ra gì.
(67) Muốn cho con cháu sống lâu
(68) Tìm nơi Huyền Vũ đằng sau cao dày
(69) Long Hổ bằng như chân tay
(70) Chẳng có tả hữu bằng ngay chẳng lành.
Tay Long tay Hổ của huyệt cũng như tay phải tay trái của người. Nó không được
đứt đoạn, khuyết hãm mà còn cần phải bằng ngay cao ngang huyệt tràng để che gió
cho huyệt thì mới không có hại (gọi là tàng phong).
Một đất kết ở giữa thì đằng sau có Huyền Vũ. Hai bên có Long Hổ, đằng trước có
Án mới đủ quân bình phương chính mà ở đây cụ Tả Ao không đề cập Án, vậy phải
nói thêm cho đủ.
Án ở trước huyệt như cái bàn giấy trước mặt người ngồi. Án họ huyệt ở đằng
trước cũng như chấm ở đằng sau. Long Hổ ở hai bên. Như vậy, Án cũng phải có
“tinh” với huyệt. Muốn thế án phải ôm chầu vào huyệt. Rất kỵ Án có mũi nhọn đâm
hoặc phản lưng vào huyệt.
Cụ Tả Ao không nói Án xong có nói đên Sa (Sơn) Án cũng là một loại sa nhưng can
hệ hơn các Sa khác. Án là thứ sa chính.
ĐẤT PHÁT QUAN

(73) Muốn cho con cháu nên quan
(74) Thì tìm Thiên Mã Phương Nam
(Ngọ) đứng chầu

  1. CHƯƠNG THỨ SÁU: CÁC CHỨNG KHÁC
    THÊM TÔN QUÝ CHO CUỘC ĐẤT

    (71) Kìa như đất có ngũ tinh
    (72) Nhận xem cho biết tương sinh loan hoàn
    (73) Muốn cho con cháu nên quan
    (74) Thì tìm Thiên mã phương nam đứng chầu
    (75) Muốn cho kế thế công hầu
    (76) Thì tìm chiêng trống dàn chầu hai bên
    (77) Ngũ tinh cách tù chiếu nguyên
    (78) Kim, Mộc, Thủy, Hỏa bốn bên loan hoàn
    (79) Thổ tinh kết huyệt trung ương
    (80) Ất đất sinh thánh sinh vương đời đời
    (81) Thiên sơn vạn thủy chiều lai
    (82) Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh
    (83) Nhị thập bát tú thiên tinh
    (84) Tại thiên chiếu huyệt rành rành chẳng sai
    Phần này cụ Tả Ao bàn rộng về phép tương sinh của ngũ hành với khoa địa lý
    và nói đến những chứng ứng tôn thêm vẻ quý cho huyệt:
    Trước tiên cụ nói đến ngũ hành
    (71) Kìa như đất có ngũ tinh
    (72) Nhận xem cho biết tương sinh loan hoàn
    Có nghĩa là muốn suy xét rộng ngoài lẽ âm dương đã nói ở trên ta phải nắm
    vững thêm ngũ hành. Tâấ cả các hình thể của đất, trước nhất là phải chú
    trọng đến năm hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
    1. Hình tròn là kim tinh hay con Kim
    2. Hình dài là mộc tinh hay con Mộc
    3. Hình vuông là thổ tinh hay con Thổ
    4. Hình nhọn là hỏa tinh hay con Hỏa
    5. Hình sóng gợn là thủy tinh hay con Thủy.
    Những con này có thể đứng hay nằm. Nếu là đồi cao thì đứng và dãy đất thấp
    thì nằm, đứng phải nhìn theo trực diện của người đứng ở huyệt kết và nằm
    phải nhìn theo bình diện của người ở trên cao giữa hình đất đó nhìn xuống.

    Ngoài các loại chứng ứng cần thiết như: Kiếm, ấn, bút, nghiên lại còn
    những chứng ứng tôn thêm vẻ quý cho kiểu đất như: Ngựa, voi, rồng, lân,
    trâu, chiêng, trống, cờ, đình, đài v.v… Những chứng ứng này hoặc đóng ở
    bên tay Long, tay hổ hoặc trước án hoặc ở thủy khẩu cũng được
    Càng nhiều chứng ứng càng rộng bao la càng có la thành bao bọc nhiều tầng
    càng lớn càng quý. Cụ Tả Ao lấy một ví dụ chứng ứng là con ngựa (thiên
    mã).
    (73) Muốn cho con cháu nên quan
    (74) Thì tìm thiên mã phương nam đứng chầu
    Thiên mã ở Tử Vi thuộc hỏa là hỏa tinh, và phương Nam cũng thuộc hỏa nên
    Thiên mã được chính vị là vượng nên có ảnh hưởng tốt cho huyệt kết.
    Cụ lấy chứng ứng là nhiều tầng chiêng trống cờ bảng, thì lớn hơn nữa:
    (75) Muốn cho kế thế công hầu
    (76) Thì tìm cờ trống dàn chầu hai bên
    Dưới đây cụ Tả Ao đề cập đến kiểu đất quý nhất để làm ví dụ:
    (77) Ngũ tinh cách tú chiều nguyên
    (78) Kim, Mộc, Thủy, Hỏa bốn bên loan hoàn.
    (79) Thổ tinh kết huyệt trung ương
    (80) Ất đất sinh thánh sinh vương đời đời
    (81) Thiên sơn vạn thủy chiều lai
    (82) Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh
    (83) Nhị thập bát tú thiên tinh
    (84) Tại thiên chiếu huyệt rành rành chẳng sai
    Kiểu đất quý ở câu 77 đến 84 trên đây không sinh Thánh cũng sinh vương, có
    những đặc biệt như sau:
    Giữa thổ tinh kết huyệt, phía đông có con Mộc, phía tây có con Kim, phía
    Nam có con Hỏa và phía Bắc có con Thủy.
    2. Nếu lớn thì phải có nhiều ngọn nước và nhiều núi chầu về:
    (81) Thiên sơn vạn thủy chiều lai
    3. Các chứng ứng chầu về đều nằm đúng vị trí chính vị của nó theo ngũ
    hành:
    (82) Can Chi bát quái trong ngoài tôn nghinh
    Để ứng về tử vi tòa trên trời có 28 vị sao chầu về:
    (83) Nhị thập bát tú thiên tinh
    (84) Tại thiên chiếu huyệt rành rành chẳng sai
    Cách quý như trên, sinh được Thánh Vượng, rất khó kiếm nhưng được một phần
    của cách đó cũng khá lắm rồi.
    ĐẤT PHÁT CÔNG HẦU

    (75) Muốn cho kế thế công hầu
    (76) Thì tìm chiêng trống giàn chầu hai bên
    ĐẤT PHÁT ĐẾ VƯƠNG
    (77) Ngũ tinh cách tù chiếu nguyên
    (78) Kim, Mộc, Thủy, Hỏa bốn bên loan hoàn
    (79) Thổ tinh kết huyệt trung ương
    (80) Ất đất sinh thánh sinh vương đời đời
    (81) Thiên sơn vạn thủy chiều lai
    (82) Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh

  1. CHƯƠNG THỨ BẢY: PHƯỚC DUYÊN
    CỦA NGƯỜI ĐƯỢC ĐẤT

    (85) Ngôi đế vương mặt trời chẳng giám
    (86) Huyệt công khanh không kiếm ai cho
    (87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ
    (88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm
    (89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng
    (90) Dưới bình dương nửa tháng cũng đi
    (91) Minh sinh ám tử vô di
    (92) Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn
    (93) Quả nhiên huyệt chính long chân
    (94) Tiêu sa nạp thủy chớ lầm một ly
    (95) Táng thôi phúc lý tuy chi
    (96) Trâm anh bất tuyệt thư thi gia truyền
    Những kiểu đất quá lớn sinh được Thánh Vương đã đành không dám nghĩ đến, mà
    ngay những kiểu đất Đế vương những người ít đức cũng nên làm ngơ để đó cho
    Trời sắp đặt.
    (85) Ngôi đế vương mặt trời chẳng dám
    Tuy nhiên ngôi Công hầu, Khanh, Tướng không phải là không có; những vị
    phúc đức có thể hy vọng lắm. Ngay những người phúc đức vừa phải nếu được
    ngôi đất Công hầu, Khanh, Tướng mà biết tu thân tạo đức thì chỉ gặp gian
    truân trắc trở một thời gian đầu rồi sau cũng được hưởng đất đó.
    (86) Huyệt công khanh không kiếm ai cho
    Ở những tay Long Hổ, Án. Sa những ngôi đất Đế Vương có rất nhiều đất kết
    Công hầu, Khanh, Tướng. Nó là kiểu bảng của kiểu chính.
    (87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ
    (88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm
    (89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng
    (90) Dưới bình dương nửa tháng cũng đi
    Hoa là phần tinh túy của cây do nhựa cây tạo ra thì đất có tú khí ở bên
    trong cũng có thể tụ kết ở đâu để hiện ra huyệt kết: Oa, Kiềm, Nhũ, Đột,
    những huyệt kết này là tinh hoa của đất hay là hoa địa của đất hay là hoa
    địa của đất.
    Đất khai hoa là kiểu đất kết, nếu thấy thì nên làm tùy duyên, tùy đức, cho
    những ai có duyên có đức.
    (87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ
    (88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm
    Đã làm thì có ngại gì xa xăm mệt nhọc, ngại gì sơn cước hay bình dương:
    (89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng
    (90) Dưới bình dương nửa tháng cũng đi
    Kiếm được đất tốt rồi muốn để mả phải điểm huyệt. Điểm huyệt là kiếm chỗ
    nào tụ khí ở huyệt tràng mà chôn xương người chết xuống đó.
    Khi điểm huyệt phải phân kim làm sao thu được cái sáng, cái sinh của Sa
    lẫn Thủy và tiêu được khí xấu khí ác của sa, thủy đi. Làm như vậy gọi là:
    thu minh sinh, phóng ám tử. Những sách địa lý viết tiếp của chúng tôi sẽ
    nói đến phân kim
    (91) Minh sinh ám tử vô di
    Việc phân kim, tức thu minh sinh phòng ám tử rất khó khăn nhọc nhằn, vì
    phải cân nhắc cho thật kỹ. Càng kỹ càng tốt, cần chỉ làm một lần xong tác
    phẩm đó chứ không thể để mả xuống rồi thấy sai lại đào lên làm hai.
    (92) Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn
    Nếu có huyệt tốt mà tiên sa nạp thủy rất đúng không lầm lẫn gì cả thì:
    (93) Quả nhiên huyệt chính long chân
    (94) Tiêu sa nạp thủy chớ lầm một ly
    Và sau khi táng xong ta phải mừng là phúc nhà đã giúp cho được đất có một
    phần và nhờ sự tận tâm của thầy địa lý một phần nửa. Bởi vì được đất rồi
    dù gia thế trước kia có hèn kém cũng có thể trở nên trâm anh, thế phiệt,
    con cháu gần xa đều được hưởng. Đất phát văn thì làm quan văn, đất phát võ
    thì hiển đạt về võ nghiệp và đất phát phú thì giầu có đời đời.
    (95) Táng thôi phúc lý tuy chi
    (96) Trâm anh thế phiệt thư thi gia truyền
    Trong truyện Kiều, Nguyễn Du nói nhà Kim Trong được đất phát văn như sau:
    Nền phú quý bậc tài danh
    Văn chương nếp đất thông minh tính trời
    Phong tư tài mạo tuyệt vời
    Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa
    Việc để đất quan trọng là như thế, cho nên những ai muốn có đất tốt cho
    ông cha, chớ nên coi thường, muốn kiếm một ngôi đất lớn không phải là dễ.
    Trước tiên phải kiếm thầy giỏi; sau nữa thầy địa lý phải kỳ công kiếm đất
    rồi điểm huyệt, phân kim cho thật chu đáo, mới có hy vọng. Vì vậy thiếu
    chi người xin để đất mà đã mấy người được toại nguyện
    Một thầy địa lý có khi phải dụng công học hỏi, nghiên cứu cả đời người
    cũng chưa chắc đã làm toàn vẹn được, nếu họ không phải là học được phép
    địa lý chính tông.
    Thầy chính tông hiện nay rất khó kiếm nhưng địa đạo diễn ca của cụ Tả Ao
    mà chúng tôi trình bày đây đều được các cụ giỏi địa lý công nhận là căn
    bản chính tông địa lý. Chúng ta chỉ cần phát huy cho biết dụng ý của nó
    cũng là lợi ích lắm rồi.

  1. CHƯƠNG THỨ TÁM: NÓI VỀ LÝ KHÍ

    (97) Muốn cho con trưởng phát tiên
    (98) Thì tìm long nội đất liền quá cung
    (99) Thanh long liên châu cao phong
    100) Kim tinh thổ phụ phát dòng trưởng nam
    (101) Con gái về bên hổ sơn
    (102) Hổ cao thì phát sơn bàn cho thông
    (103) Phản hổ con gái lộn chồng
    (104) Phản long trai nó ra lòng bất nhân
    (105) Vô long như người vô chân
    (106) Vô hổ như đứa ở trần không tay
    (107) Trông long hổ lấy làm thầy trước
    (108) Sau sẽ tìm lấy chỗ huyệt chôn
    (109) Nước chẳng tụ đường kể chi
    (110) Kiếm ăn cũng khá xong thì lại không
    (111) Con trai thì ở bất trung
    (112) Con gái thất tiết chả dùng cả hai
    Phần này Cụ Tả Ao đề cập đến lý khí: Cái thế Long đi ở Việt Nam hay tạo ra
    những kiểu đất “Trưởng bại thứ thành”, nghĩa là con trưởng hèn kém nghèo
    khó và con thứ lại giàu sang quyền quý. Nhiều người để đất muốn xin thầy
    kiếm cho ngôi đất nàng ngành Trưởng lên
    Cụ Tả Ao chỉ cho biết phép tìm đất cho con Trưởng phát, dưới đây:
    (97) Muốn cho con trưởng phát tiên
    (98) Thì tìm long nội đất liền quá cung
    Có nghĩa là muốn cho con trưởng phát trước thì nên tìm kiểu đất mà tay
    Long ở bên trong cùng tức là Long Nội nhiều kiểu đất có nhiều tầng Long hổ
    dài ra ôm vòng tới trước Án, hay tay Long có đoạn cuối nổi lên như cái gò
    làm án. Được kiểu đất như vậy con Trưởng sẽ phát trước con thứ.
    Trên kia là cách để đất cho con trưởng phát, hưởng trước nhưng nếu muốn
    con trưởng phát lớn thì phải kén đất:
    (99) Thanh long liên châu cao phong
    (100) Kim tinh thổ phụ phát dòng trưởng nam
    Đó là ở kiểu đất trên tay Long nổi lên những ụ cao tròn liền nhau (liên
    châu cao phong)
    Trên tay Long có gò cao tròn (kim) hay vuông (thổ) cũng đều tốt.
    Còn nói đến con gái và con thứ phải nói đến tay Hổ.
    (101) Con gái về bên hổ sơn
    (102) Hổ cao thì phát sơn bàn cho thông
    Hổ sơn là tay hổ của huyệt. Nó là tay phải của huyệt ôm vòng vào trước
    huyệt. Tay hổ có ụ cao thì tốt. Long càng
    dài nhọn thì hổ càng cao, thủy đầu càng tốt. Trên tay Hổ có khúc nào cao
    lên đúng vị trí cần thiết, ứng vào người gái trưởng, gái thứ, gái út thì
    người con gái đó sẽ phát.
    Ở hướng Tốn con gái trưởng phát.
    Hướng Ly con gái thứ phát
    Hướng Đoài con gái út phát.
    Câu “Hổ cao thì phát” đã nói rồi còn câu “Sơn bàn cho thông” ta phải hiểu
    rằng cụ Tả Ao khuyên ta nên hiểu và biết cắt nghĩa cho thông hình dáng của
    núi gò đống. Tất cả gọi là sơn bàn của cuộc đất.
    Tay Long và tay Hổ còn phải luôn luôn ôm chầu về huyệt. Nếu tay Long Hổ mà
    quay ra (phản Long hay phản Hổ) hoặc phá nhau, đâm vào nhau (Long Hổ kình
    quyền) thì rất xấu. Cụ Tả Ao cắt nghĩa ở câu:
    (103) Phản hổ con gái lộn chồng
    (104) Phản long trai nó ra lòng bất nhân
    Đất phản Hổ thì con gái không được đoan chính hay đường chồng con rất xấu,
    nếu không thì con gái cũng bị tai nạn hình thương, còn đất phản Long thì
    con trai lông bông, vô tình với gia đình và xã hội hoặc bất nhân bạc ác
    hay bị khắc hại.
    – Phản long phản hổ ta đã bàn rồi. Thế mà Long Hổ nhiều khi còn xảy ra
    trường hợp đặc biệt khác nữa: như kiểu đất thiếu một tay Long hay thiếu
    một tay Hổ.
    (105) Vô long như người vô chân
    (106) Vô hổ như đứa ở trần không tay
    Thật vậy, trong một kiểu đất đủ kết mà thiếu một tay Long hay một tay Hổ
    trong nó lệch lạc khó coi làm sao. Khi nhìn nó ta có cảm tưởng như nhìn
    một người thiếu một tay hay thiếu một chân.
    Đây là loại đất đặc biệt, vô Long vô Hổ thì có tội, nhưng thay vào tay
    Long tay Hổ, khiếm khuyết đó, mà có một dòng nước hay ngoại Long, ngoại Hổ
    hổ khuyết thì cũng có thể có đất to. Tuy nhiên đất này đôi khi trong nhà
    trong dòng họ vẫn có người tội lỗi, bệnh tật kinh niên. Như thế là họ gánh
    cái xấu cho những người khác. Họ là người đáng thương của dòng họ nào có
    kiểu đất vô Long hoặc vô Hổ.
    Long hổ không cân đối ta cũng nên bàn thêm là:
    Đất có tay Long dài thì vượng về âm phần
    Đất có tay Hổ dài thì vượng về dương cơ
    Long Hổ là con cháu của nhà được đất kết nên phải cho là quan trọng. Do đó
    khi được đất kết rồi, trước khi điểm huyệt, phân kim phải cân nhắc lại sơn
    bàn về Long Hổ cho kỹ
    (107) Trông Long hổ lấy làm thầy trước
    (108) Sau sẽ tìm lấy chỗ huyệt chôn
    Phần linh tinh sau cùng này cụ Tả Ao nhấn lại và thêm ý kiến cho những gì
    quan trọng mà cụ đã nói qua ở trên. Sau khi nhấn thêm về Long Hổ rồi cụ
    lại đề cập đến Minh Đường một lần nữa.
    (109) Nước chẳng tụ đường kể chi
    (110) Kiếm ăn cũng khá xong thì lại không
    (111) Con trai thì ở bất trung
    (112) Con gái thất tiết chả dùng cả hai
    Có nghĩa là Minh đường cần nhất là phải có thủy tụ thì mới có tiền, mới
    giàu có được. Nếu Minh đường mà không có nước thì có làm mà không hưởng.
    (109) Nước chẳng tụ đường kể chi
    (110) Kiếm ăn cũng khá xong thì lại không Về phẩm của nước thì khi
    Minh đường có nước trong sẽ tốt hơn Minh đường nước đục.
    Minh đường rộng lớn quanh năm tụ thủy mà lại trong đẹp như mặt gương là
    loại Minh đường quý.
    Con cái nhà đó sẽ học giỏi thông minh
    Trái lại lòng Minh đường lệch lạc nghiêng chênh không tụ nước thì ứng vào
    trai bất trung, gái thất tiết:
    (111) Con trai thì ở bất trung
    (112) Con gái thất tiết chả dùng cả hai
    Cũng bàn thêm về nội Minh đường và ngoại Minh đường cho đầy đủ hơn.
    Ta đã biết trước huyệt có Án chiều về. Vậy cứ lấy Án gần huyệt làm đích
    phán ra nội Minh đường và ngoại minh đường.
    Nội Minh đường là loại Minh đường nằm trước huyệt sau Án gần nhất. Còn
    ngoại Minh đường là những chỗ nước tụ ở ngoài Án đó. Có nội, ngoại minh
    đường thì cũng có thể có nội án và ngoại án.
    Cần nhất là nội Minh đường phải có nước. Còn ngoại Minh Đường càng có
    nhiều càng tốt, có ít cũng không sao.
    Đất to có ba Minh đường trở lên và không dưới ba tầng Long Hổ

  1. CHƯƠNG THỨ CHÍN: KẾT LUẬN

    (113) Thấy đâu Long Hổ chiều lai
    (114) Minh đường thủy tụ huyệt tài mới hay
    (115) Tiền quan, hậu quỷ sắp bày
    (116) Án dày muốn thấp, chiều dày phải cao
    (117) Xem huyệt nào làm cho phải phép
    (118) Chớ đào xâu mà thiệt như không
    (119) Kìa ai địa lý vô tông
    (120) Chẳng cứ đúng phép cũng dòng vô sư
    Tới đây là phần kết luận Phần này có 8 câu thì 4 câu đầu ôn lại đại cương
    một huyệt kết và 4 câu dưới là kết luận của quyển Địa Đạo Diễn Ca này.
    Trong 4 câu đầu cụ Tả Ao nói: Sau khi Tầm Long thấy huyệt kết rồi, phải
    xem có Thanh Long bên trái và Bạch Hổ bên phải chầu vào huyệt:
    (113) Thấy đâu Long hổ chiều lai
    Rồi trước huyệt phải có Minh Đường có nước tụ ở đó.
    (114) Minh đường thủy tụ huyệt tài mới hay
    Trước và sau huyệt phải có tiền quan hậu quỷ nghinh, tống Tiền quan ở
    trước huyệt thì nghinh đón và hậu quỷ ở sau huyệt thì hộ tống.
    Quan quỷ là các chứng ứng nổi lên ở trước và sau huyệt để thêm tôn quý, nó
    là các sơn có nhiều hình thể khác nhau giống hình gì thì gọi là hình đó
    như bút, kiếm, ấn, voi, ngựa, chiêng, trống v.v…. ở trước và sau huyệt.
    (115) Tiền quan hậu quỷ sắp bày
    Ba câu 113 – 114 – 115 là tóm tắt những điều quan trọng cho một huyệt kết.
    Cụ Tả Ao đã tả nó một cách nôm na hơn như sau:
    Hai bên ruộng đỗ, dưới có lỗ cấy chiêm
    Đôi bên lưỡi liềm qua lại
    Có nghĩa là người tầm long theo mạch đất, xuôi theo chiều nước chảy (hay
    xuôi theo chiều ruộng cao xuống chiều ruộng thấp) mà lần mò cho tới nơi
    đất kết (nơi long đình khí chỉ) nếu thấy chỗ đó có ruộng cấy Chiêm mà hai
    bên có ruộng trồng màu như ngô, khoai, đỗ:
    “Bên trên ruộng đỗ, dưới có lỗ cấy chiêm”
    Lại nhìn 2 bên ruộng đỗ nếu là 2 tay long hổ thì nó phải ôm chầu vào huyệt
    trông như hai cái lưỡi liềm qua lại:
    Đôi bên luỡi liềm qua lại
    Thì chỗ đó dễ có đất kết vì lỗ cấy chiêm là minh đường và ruộng đổ ruộng
    màu ở hai bên là long hổ.
    Trên là sự cân đối về bề mặt và chiều cao thấp của một của một kiểu đất
    kết cũng cần phải có một thứ tự hữu lý như sau:
    Bao nhiêu những gò đống, chứng ứng gần huyệt như Án phải cao bằng từ mặt
    đến rốn người ngồi ở huyệt.
    Còn chứng ứng ở xa thì phải theo thứ tự càng xa càng cao:
    (116) Án dày muốn thấp chiều dày phải cao
    Có nghĩa là Án so sánh với Chiều thì án phải thấp hơn chiều, chiều là gò
    đống ở xa chầu về và án là gò đống ở trước huyệt chầu về.
    Còn 4 câu chót thì hai câu trên cụ Tả Ao nhắn nhủ ta phải cẩn thận về việc
    đào huyệt:
    (117) Xem huyệt nào đào cho phải phép
    (118) Chớ đào sâu mà thiệt như không
    Một huyệt đào nông quá thì lâu mới quán khí, mà đào sâu quá thì khí mach
    đi mất, có huyệt kết cũng như không.
    Thật ra huyệt đào nông sâu phải cân nhắc theo chiều cao của Minh đường,
    Án, Long hổ, nước âm mạch và giao thổ mới đúng.
    Tuy nhiên nếu lấy giao thổ làm đích thì cũng không mấy khí hỏng. Giao thổ
    là giữa lớp đất thứ hai và thứ ba (nếu lớp đất trên cùng là do lá, bụi,
    lâu năm phủ lên).
    Ta đã biết đào nông thì lâu kết và đào sâu quá thì mất cả, vậy nên nhằm
    chiều nông hơn nhằm chiều sâu.
    Tất cả những gì đã trình từ câu thứ nhất đến câu 118 với sự bổ túc của
    soạn giả có thể giúp các bạn ưa khoa này nắm được một số yếu lý căn bản
    của khoa Địa lý, mà tùy thuộc về loại địa lý chính tông. Với số vốn quý
    giá dùng làm tài liệu để học thêm các sách địa lý cũng có thể phân biệt
    điều đúng điều sai. Khoa địa lý gần như thất truyền phép chính tông nên
    các cụ gặp man thư hay man ngôn rất nhiều. Có man thư và man ngôn tất
    nhiên phải có man sư là loại thầy Địa lý không phải chính tông. Họ không
    giúp ích được cho người để đất mà còn nhiều khi gây tai hại cho dòng họ
    nhờ thầy để đất nữa.
    Loại thầy được truyền nghề không phải chính tông cụ Tả Ao gọi là “vô
    tông”.
    Còn loại thầy địa lý tự học lấy dù có một vài khí đúng phép xong không
    được toàn vẹn thì cụ Tả Ao gọi họ là “vô sư”.
    Do đó cụ Tả Ao phê bình như trên ở câu cuối cùng:
    (119) Kìa ai địa lý “vô tông”.
    (120) Chẳng cứ đúng phép cũng dòng “vô sư”
    Và cũng vì sợ khoa Địa lý trở nên tàn tạ vì những man thư nên tác giả cố
    gắng trình bày, chỉ trình bày những gì là chính tông. Những gì viết ở
    quyển này đã được các nhà Địa lý chính tông và tài giỏi cân nhắc sửa chữa
    nhiều lần. Những chi tiết nào mơ hồ hay có thể đưa đến sự sai nhầm thì dù
    có hay mấy chúng tôi cũng không để ở quyển Địa Lý nhập môn này. Ngày nay
    kiếm được thầy địa chính tông để học khoa địa lý thật khó nhưng sách địa
    lý này có thể bảo đảm là chính tông, có thể dùng xác định được sự đúng sai
    của các sách địa lý khác.
    Hiểu đến đây, các bạn đã có tạm đủ ý thức căn bản địa lý của người mới
    học. Cần theo lời cụ Tả Ao ở câu “chẳng qua ra đến ngoài đồng, tỏ mạch tỏ
    nước tỏ lông mới tường” mà tập thực hành tầm long tróc mạch ở ngoài trời,
    ngoài đồng để cho quen việc tìm ra huyệt tràng và huyệt kết. Mới đầu chưa
    cần dùng đến la kinh mà chỉ cần cái tróc long có kim chỉ nam ở giữa và 3
    vòng thiên bàn, nhân bàn, địa bàn ở ngoài là đủ. Các bạn có thể tự làm lấy
    một cái tróc long bằng cách dùng một cái kim chỉ nam đặt vào giữa một
    miếng cát tông vẽ 3 vòng tròn.
    Tại 3 vòng tròn, mỗi vòng chia làm 24 ô đều nhau (nên nhớ chia ô ở vòng
    ngoài cùng và vòng giữa, chênh lệch nửa ô (7 độ rưỡi) với vòng trong cùng
    và ghi 24 chữ: Mão, Ất, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn – Thân,
    Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp (ghi
    theo thứ tự chiều kim đồng hồ quay (chiều thuận) vào 24 ô như chỉ dẫn ở
    câu “bốn là mở sách la bàn cho thông” trang 22, là các bạn đã tạm có cái
    tróc long rồi. Chúng tôi thấy có người vẽ ngay lên mặt kính của kim chỉ
    nam 24 ô làm vòng địa bàn còn thiên bàn và nhân bàn họ dùng giữa ô của địa
    bàn làm đích cũng tạm dùng được. Trước tiên các bạn kiếm những mả xây lớn
    (nghi là kết) ở giữa đồng mang tróc long lại coi thử. Sau các bạn thấy đất
    nào có vẻ long hổ, minh đường thì lại tìm cho quen. Sau nữa đến giai đoạn
    tự ý theo long mạch đi tìm đất kết.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *