Untitled Post

LUẬN
CAN CHI NGŨ HÀNH NẠP ÂM
Thiết tưởng người Việt Nam hầu như ai cũng biết Hành tuổi
của năm Mệnh mình sinh. Thế nhưng số người biết được 12 con vật, Can Chi và Nạp
Âm (tức Hành Mệnh) của tuổi mình do đâu mà có thì, toàn nước Việt Nam (luôn cả
những nhà chuyên môn nghiên cứu bói toán) có thể đếm được trên đầu ngón tay
hoặc ít hơn.
Tại sao vậy?
Điều nầy cũng không trách được vì những
sách vỡ quý báu của nước ta đã bị người Tàu mang đốt sạch còn đâu. Đến như cụ
Lê Quý Đôn là người tài ba lỗi lạc và cũng là một trong những vị Tổ của môn Tử
Vi ở nước ta mà còn truy nguyên chưa được lựa là hậu thế. Mặt khác, cũng có thể
là người Việt Nam
cho rằng việc ấy không quan trọng chăng?! Thiển nghĩ, biết được căn nguyên của
Can Chi và Hành Mệnh xuất phát từ đâu cũng là việc chẳng phải hoàn toàn vô bổ,
nên nhân dịp Tết Không Kiếp Minh Tâm xin chia xẻ để quý vị độc giả tham khảo
vậy.
Bắt đầu, xin tuần tự giải thích như sau:
Sách Chu Lễ nói về: “danh hiệu của 10
Nhật, danh hiệu của 12 Thời, danh hiệu của 12 Nguyệt, danh hiệu của 12 Tuế,
danh hiệu của 28 Tinh Tú” mà về sau Trịnh Huyền giải thích rằng: “Nhật bảo rằng
từ Giáp đến Quý; Thời bảo rằng từ Tí đến Hợi; tháng bảo rằng từ Châu đến Đồ;
Tuế bảo rằng từ Nhiếp Đề Cách đến Xích Phấn Nhược; Tinh Tú bảo rằng từ Giác đến
Chẩn”. Thời xưa người ta dùng đó để mà ghi chép năm tháng ngày giờ thành lịch.
Sách Nhĩ Nhã giải thích rộng thêm rằng:
“Nguyệt Dương (biệt danh của lịch xưa dùng 10 Can để ghi chép tháng), nguyệt
tại Giáp gọi là Tất, tại Ất gọi là Quất, tại Bính gọi là Tu, tại Đinh gọi là
Ngữ, tại Mậu gọi là Lệ, tại Kỷ gọi là Tắc (quy tắc), tại Canh gọi Trất, tại Tân
gọi là Tắc (bít, lấp), tại Nhâm gọi là Chung, tại Quý gọi là Cực. Nguyệt Danh
(biệt danh để ghi chép tháng trong nông lịch—vụ mùa) tháng Giêng là Châu, tháng
Hai là Như, tháng Ba là Mị, tháng Tư là Trừ, tháng năm là Niết, tháng Sáu là
Thả, tháng Bảy là Tương, tháng Tám là Tráng, tháng Chín là Nguyên tháng Mười là
Dương, tháng Mười Một là Cô, tháng Chạp là Đồ. Tuế Dương (biệt danh của lịch
xưa lấy 10 Can để ghi chép năm) Thái Tuế tại Giáp gọi là Phùng Át, tại Ất gọi
là Chiêu Mông, tại Bính gọi là Nhu Triệu, tại Đinh gọi là Cường Ngữ, tại Mậu
gọi là Trước Ung, tại Kỷ gọi là Đồ Duy, tại Canh gọi là Thương Chương, tại Tân
gọi là Trùng Quang, tại Nhâm gọi là Huyền, tại Quý gọi là Chiêu Dương. Tuế Danh
(biệt danh của lịch xưa lấy 12 Địa Chi phối với Thái Tuế để ghi năm) Thái Tuế
tại Dần gọi là Nhiếp Đề Cách, tại Mão gọi là Đơn Át, tại Thìn gọi là Chấp Từ,
tại Tỵ gọi là Đại Hoang Lạc, tại Ngọ gọi là Đơn Ưu Tường, tại Mùi gọi là Hiệp
Hiệp, tại Thân gọi là Quân Than, tại Dậu gọi là Tác Ngạc, tại Tuất gọi là Yên
Mậu, tại Hợi gọi là Đại Uyên Hiến, tại Tí gọi là Khốn Đôn, tại Sửu gọi là Xích
Phấn Nhược”.
Sách Thái Ung “Độc Đoán” nói rằng: “Can là
cán (thân) vậy, tên nó có mười ấy là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỹ Canh Tân Nhâm
Quý. Chi là cành nhánh vậy, tên nó có mười hai ấy là Tí Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ
Mùi Thân Dậu Tuất Hợi”.
Sách Lễ Ký “Nguyệt Lệnh” nói rằng: “Tháng
Xuân lấy Giáp Ất làm đại biểu; tháng Hạ lấy Bính Đinh; tháng Tứ Quý (3,6,9,12)
lấy Mậu Kỷ làm đại biểu; còn tháng Thu lấy Canh Tân; tháng Đông thì lấy Nhâm
Quý”.
Sách Sử Ký “Luật Thư” nói rằng: “Thất
chính 28 xá luật lịch trời vì thế thông khí của ngũ hành bát chính, trời vì thế
thành thục vạn vật. Xá nầy chỗ của nhật nguyệt trú. Xá nầy là khí thư dãn ra”.
Chỗ mà sách Sử Ký gọi Bát Chính là khí của
tám Tiết đem ứng với gió của tám phương. Gió của tám phương là: Bất Chu Phong,
Quảng Mạc Phong, Điều Phong, Minh Thứ Phong, Thanh Minh Phong, Cảnh Phong,
Lương Phong, và Xương Hạp Phong.
– Điều Phong đóng ở Đông Bắc, chủ xuất ra
vạn vật, hướng về Nam đến ở Tú Cơ. Ở mười hai luật là Thái Thốc, ở thời lệnh là
tháng Giêng, ở mười hai chi là Dần. Vạn vật tranh nhau nẫy mầm. Lại hướng Nam
đến ở Vĩ, ở Phòng. Vạn vật sinh sớm nay đã đến kỳ có hoa như vậy có thể xem
thấy được.
– Minh Thứ Phong đóng ở phương Đông. Ở
mười hai luật là Giáp Chung, ở thời lệnh là tháng Hai, ở mười Can là Giáp Ất, ở
mười hai chi là Mão. Thời đó vạn vật xuất ra hết tận, mười phần sum sê tươi
tốt. Minh Thứ Phong hướng Nam
đến ở Tú Đê, lại đến ở Tú Cang, Tú Giác. Ở mười hai luật là Cô Tẩy, ở thời lệnh
là tháng Ba, ở mười hai Chi là Thìn. Thời đó vạn vật bỏ cũ, theo mới, tươi
sáng, cao vút, rắn rỏi.
– Thanh Minh Phong đóng ở góc Đông Nam,
thúc đẩy vạn vật hướng Tây phát triển. Đầu tiên đến ở Chẩn của phương Tây, lại
đến ở Dực. Ở mười hai luật là Trọng Lữ, mười hai Chi là Tỵ. Thời đó vạn vật
vượng thịnh, lớn mạnh, Dương khí phát triển đạt đến cực điểm. Thanh Minh Phong
lại hướng Tây đến ở bảy sao của tú Tinh, Liễu. Ở mười hai luật là Nhuy Tân, ở
thời lệnh là tháng Năm. Thời đó vạn vật từ thịnh chuyển thành suy, Dương khí
trú xuống bên dưới.
– Cảnh Phong đóng ở Phương Nam. Ở
mười hai Chi là Ngọ, Mười Can là Bính Đinh. Âm Dương gi­ao nhau, Dương khí
giáng xuống, Âm khí thăng lên, vạn vật sắp thành thục.
– Lương Phong đóng ở góc Tây Nam,
chủ về đất. Ở mười hai luật là Lâm Chung, ở mười hai Chi là Mùi. Thời đó vạn
vật thành thục, giàu có, vị ngon. Hướng Bắc tiến đến Phạt, lại đến ở Sâm. Ở
mười hai luật là Di Tắc, ở thời lệnh là tháng Bảy, ở mười hai Chi là Thân. Thời
đó, Âm khí dần dần thịnh, mở đầu. Thân là giặc của vạn vật, lại lớn mạnh đến
Trọc, kế đến ở Lưu. Ở thời lệnh là tháng Tám, mười hai luật là Nam Lữ, mười hai
Chi là Dậu. Thời đó vạn vật đều tiếp xúc với đất chết, Dương khí càng suy, mở
đầu phục tàng.
– Xương Hạp Phong đóng ở phương Tây. Ở
mười Can là Canh Tân. Hướng Bắc đến ở Vị, lại đến ở Lâu, đạt tới Khuê. Ở mười
hai luật là Vô Sạ, ở thời lệnh là tháng Chín, ở mười hai Chi là Tuất. Thời đó
vạn vật tận diệt, thu tàng nhập vào khố, Âm khí vượng thịnh, Dương khí không
dư. Nhưng vạn vật theo Dương đến hết, lại thuận theo âm mà khởi, không hết hẳn,
không dừng hẳn, không đứng lại.
– Bất Chu Phong đóng ở Tây Bắc chủ sát
sinh, nhưng hướng về phương Đông hành tiến thì chủ mở đầu sinh khí. Nó hướng
Đông đến ở Tú Thất lại đến ở Tú Nguy (chủ đổ nát). Ở mười hai luật là Ứng
Chung. Ở thời lệnh là tháng Mười. Ở mười hai con là Hợi. Thời đó Dương khí đã
bắt đầu sinh nhưng lại là mười phần còn nhỏ yếu, không kham nổi dùng vào việc,
vì vậy nên vẫn còn phục tàng ở dưới.
– Quảng Mạc Phong đóng ở phương Bắc, hướng
Đông đến ở Hư, lại đến ở sao Vụ Nữ. Ở mười hai luật là Hoàng Chung, ở thời lệnh
là tháng Mười Một, ở mười hai Chi là Tí, ở mười Can là Nhâm Quý. Thời đó Dương
khí lớn lên, vạn vật nhận sự nuôi dưỡng ở dưới giống như tháng Mười hoài thai,
giáng sinh cũng có thể phán đoán được. Quảng Mạc Phong lại hướng Đông đến ở
Khiên Ngưu lại đến ở Kiến. Ở thời lệnh là tháng Chạp, ở mười hai luật là Đại
Lữ, ở mười hai Chi là Sửu. Thời đó vạn vật đã tự dưỡng thành hình, nhưng vẫn
còn chưa phá đất mà xuất ra.
Trên đây là nghĩa lý và nguyên lý mà người
ta cho rằng mười Thiên Can và mười hai Địa Chi từ đó lưu hành. Còn mười hai con
vật tượng của Tí là chuột, Sửu là trâu, Dần là cọp, Mão là mèo, Thìn là rồng,
Tỵ là rắn, Ngọ là Ngựa, Mùi là Dê, Thân là khỉ, Dậu là gà, Tuất là chó, Hợi là
heo, thì được giải thích như sau.
“Tinh Lịch Khảo Nguyên” nói rằng:
– Thuyết nói về 12 con vật Cầm Tinh đã có
từ rất lâu rồi, không rõ từ đâu lại (sự thật đến từ Tây Vực). Theo từ sự lưu
truyền chép lại ở Tí sử khảo xét vễ văn hiến, thì từ thời Xuân Thu Chiến Quốc
đã có thuyết nầy. Cho đến 28 tú phối với cầm tượng thì là từ Nguyên Minh về sau
mới có việc đó. Quan sát về việc chọn “tượng” đó, chẳng qua là nhân 12 con vật
cầm tinh mà khuếch rộng ra thôi. Tại sao mà biết được? Phép nầy lấy Tí Ngọ Mão
Dậu làm bốn trọng cung, mỗi cung quản ba tú, được 12 tú.
Như cung Tí là 3 tú Nữ Hư Nguy, tú Hư đóng
ở giữa vì vậy lấy chuột làm tượng của mình. Nữ là bức (con dơi), Nguy là yến
thì chọn nó tựa giống chuột đem phối vào.
Cung Mão là Đê Phòng Tâm, Đê là lạc (con
chồn), Tâm là hồ (cáo), Phong ở giữa là thỏ nên lấy thỏ làm tượng của mình
(nhưng Việt Nam
để mèo vì gần cọp vậy).
Cung Ngọ là Liễu Trinh Trương. Liễu là
chương (con hoẵng), Trương là lộc (hươu), Trinh ở giữa là ngựa nên lấy ngựa làm
tượng của mình.
Cung Dậu là Vị Mão Tất. Vị là con trĩ, Tất
là con quạ, Mão ở giữa là con gà nên lấy gà làm tượng của mình.
Qua đến 8 cung Dần Thân Tỵ Hợi, Thìn Tuất
Sửu Mùi thì mỗi cung quản 2 tú, mà lấy tú ở gần cung giữa làm chủ, đóng ở bên
thì chọn loài nào tương tự phối vào.
Như cung Thìn, Cang gần giữa cung vì vậy
lấy rồng làm tượng của mình. Giác đóng ở bên nó thì chọn Gi­ao (thuồng luồng)
là loại rồng đem phối vào.
Cung Dần, vĩ ở gần giữa cung vì vậy lấy hổ
làm tượng của mình. Cơ đóng ở bên nó thì chọn con báo là loài của hổ đem phối
vào.
Cung Sửu, Ngưu ở gần giữa cung vì vậy lấy
trâu làm tượng của mình. Đẩu ở bên nó thì chọn Hải là loại của trâu đem phối
vào.
Cung Hợi, Thất ở gần giữa cung vì vậy lấy
lợn làm tượng của mình, Bích đóng ở bên nó thì chọn Dữ là loài của lợn đem phối
vào.
Cung Tuất, Lâu ở gần giữa cung vì vậy lấy
cẩu làm tượng của mình, Khuê ở bên nó thì chọn lang (chó sói) là loài của chó
đem phối vào.
Cung Thân, Chủy ở gần giữa cung vì vậy lấy
hầu (con khỉ) làm tượng của mình, Sâm đóng ở bên nó thì chọn viên (con vượng)
là loài của khỉ đem phối vào.
Cung Mùi, Quỷ ở gần giữa cung vì vậy lấy
dê làm tượng của mình, Tỉnh đóng ở gần bên nó thì chọn ngạn là loại của dê đem
phối vào.
Cung Tị, Dực ở gần giữa cung vì vậy lấy xà
(rắn) làm tượng của mình, Chẩn đóng ở bên nó thì chọn dẫn (con giun đất) là
loài của rắn đem phối vào vậy”.
Theo “Tinh Lịch Khảo Nguyên” thì thuyết 12
con vật tượng trưng cho 12 Địa Chi (tuổi) thật là hết sức sáng tỏ vậy! Tuy
nhiên, đây chỉ là bước thứ hai, vì vẫn chưa giải quyết được Nạp Âm của tuổi,
tức là Ngũ Hành của 60 hoa Giáp. Tỷ như Giáp Tí là Hải Trung Kim, vì sao Giáp
là Mộc mà hợp với Tí là Thủy lại trở thành Hải Trung Kim?!
Nạp Âm là gì mà người Việt Nam ta
xưa nay vẫn xem là điều huyền bí không thể giải thích vậy nhỉ? Nạp Âm theo như
đại đa số cho rằng một Thiên Can mang một Hành, một Địa Chi mang một hành,
nhưng hai cái hợp lại thì trở thành một Hành khác. Thế nhưng hầu như từ xưa đến
nay không có sách Việt Nam
nào dám nhắc tới nguyên lý của sự hình thành Nạp Âm cả. Trong “Vân Đài Loại
Ngữ” cụ Lê Quý Đôn cũng chỉ dẫn được sách “Thụy Quế Đường Hạ Lục” là hết. May
thay, trong “Hiệp Kỷ Biện Phương Thư” lại thấy tra xét căn nguyên của Nạp Âm rõ
ràng mạch lạc làm sao. Nay xin chép lại nguyên văn để đọc giả cùng khảo cứu
vậy.
Thẩm Quát nói: “Nạp Âm lục thập Giáp Tí,
rất ít người biết nguyên lý của nó. Sự thực là phép của 60 luật lữ cung nhằm
làm cung pháp. Một luật hàm 5 âm, 12 luật tức nạp 60 âm. Phàm Dương ‘Khí’ bắt
đầu ở phương Đông mà đi về bên phải, Âm ‘Khí’ khởi từ phương Tây mà đi về bên
trái, Âm Dương đan xen nhau mà sinh biến hóa. Chỗ gọi là khí bắt đầu ở phương
Đông nầy là bốn mùa bắt đầu ở Mộc, đi về bên phải chuyển tới Hỏa, Hỏa chuyển
tới Thổ, Thổ chuyển tới ở Kim, Kim chuyển tới ở Thủy. Chỗ bảo rằng Âm bắt đầu ở
phương Tây nầy là Ngũ Âm bắt đầu ở Kim, chuyển xoay về bên trái tới Hỏa, Hỏa
chuyển tới Mộc, Mộc chuyển tới Thủy, Thủy chuyển tới Thổ (Nạp Âm với Nạp Giáp
của Dịch cùng một phương pháp, Càn nạp Giáp mà Khôn nạp Quý, bắt đầu ở Càn mà
chung hết ở Khôn. Nạp Âm bắt đầu ở Kim – Kim là Càn vậy, chung ở Thổ – Thổ là
Khôn vậy). Phương pháp cơ bản của Nạp Âm là cùng loại với ‘thú thê’ (lấy vợ)
cách tám sinh con. Thứ tự của Ngũ Hành Nạp Âm là trước trọng sau mạnh, mạnh rồi
mới đến quý. Tam nguyên của Độn Giáp đã ghi chép như thế vậy. Giáp Tí là trọng
của Kim (Thương của Hoàng Chung), lấy vợ cùng vị tức là Ất Sửu (Thương của Đại
Lữ cùng ngôi vị). Bảo rằng là loại của Giáp với Ất, Bính với Đinh. Ở dưới đều
phỏng theo thế. Cách tám sinh ra Nhâm Thân ở dưới là mạnh của Kim (Thương của
Di Tắc), cách tám đó là Đại Lữ sinh ra Di Tắc vậy. Ở dưới đều phỏng theo thế.
Nhâm Thân lấy vợ cùng một ngôi vị là Quý Dậu (Thương của Nam Lữ). Cách tám,
Canh Thìn sinh ra ở trên quý của Kim (Thương của Cô Tẩy), như thế tam nguyên
của Kim hết.
Nếu chỉ lấy thời Dương mà nói thì dựa vào
Độn Giáp chuyển thuận: trọng-​mạnh-​quý. Nếu kiêm nói về vợ thì nghịch chuyển :
mạnh-​trọng-​quý. Canh Thìn lấy vợ Tân Tỵ cùng ngôi vị (Thương của trọng lữ),
cách tám ở dưới sinh Mậu Tí, trọng của Hỏa (Chủy Kim của Hoàng Trung). Tam
nguyên hết thì đi về bên trái chuyển tới phương Nam, Hỏa Mậu Tí – Kỷ Sửu (Chủy
của Đại Lữ) sinh ra Bính Thân, mạnh của Hỏa (Chủy của Di Tắc) Bính Thân lấy vợ
Đinh Dậu (Chủy của Nam Lữ) sinh Giáp Thìn, quý của Hỏa (Chủy của Cô Tẩy), Giáp
Thìn lấy vợ Ất Tỵ (Chủy của Trọng Lữ) sinh Nhâm Tí, trọng của Mộc (Giác của
Hoàng Chung). Tam nguyên Hỏa hết thì đi về bên trái chuyển tới phương Đông Nam
– Mộc. Như đi về bên trái đến Đinh Tỵ là Cung của Trọng Lữ ngũ âm hết lần một.
Quay lại từ Giáp Ngọ, trọng của Kim, lấy vợ Ất Mùi, cách tám sinh Nhâm Dần.
Giống như phép của Giáp Tí thì hết ở Quý Hợi (gọi là Nhuy Tân lấy vợ Lâm Chung,
trên sinh ra loại của Thái Thốc). Tí đến Tỵ là Dương, vì vậy từ Hoàng Chung đến
Trọng Lữ, đều là hạ sinh. Từ Ngọ đến Hợi là Âm, vì vậy từ Lâm Chung đến Ứng
Chung đều thượng sinh”.
“Lãi Hải Tập” nói: “Cho nên vạn vật mới
sinh nở tất nguồn gốc ở “Khí”, khí tức Kim. Kim thụ khí, thuận hành thì là Thể
của Ngũ Hành, nghịch hành thì là Dụng của Ngũ Hành. Thuận hành là Thể của Ngũ
Hành, lấy tương sinh làm thứ tự vì vậy dựa theo thứ tự làm Kim Thủy Mộc Hỏa
Thổ. Nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành, đem phù trợ làm gốc. Như Kim nhân Hỏa
bắt đầu mà có thể thành hữu dụng, Hỏa tất bắt đầu từ Mộc mới có thể phát sinh,
Mộc không có Thủy tức không đước phong phú tốt tươi, Thủy hẳn thác gửi vào Thổ
mới có thể dừng mà tích giữ được thành sông nước, vì vậy thứ tự đó là Kim Hỏa
Mộc, Thủy Thổ. Cho nên Đại Náo (sau cuộc đại tạo) tạo ra Giáp Tí, tức lấy như
thế làm thứ tự của Nạp Âm Ngũ Hành. Đại để như vậy vì Kim có thể thu nhận tiếng
mà truyền bá khí ra. Phép nầy là: Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám sinh con, con
sinh cháu mà đi tiếp về sau, kế tục ngôi vị của nó ở đời tiếp. Như Giáp Tí là
Kim, Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám sinh Nhâm Thân là con. Nhâm lấy Quý làm vợ,
cách tám là Canh Thìn tức là cháu. Canh lấy Tân làm vợ, cách tám là Mậu Tí đời
Hỏa ngôi vị Kim. Thứ hai nói về Hỏa, Mậu kế tục nó về sau. Mậu lấy Kỷ làm vợ,
cách tám là Bính Thân, ấy là con vậy; Bính lấy Đinh làm vợ, cách tám là Giáp
Thìn, tức là cháu. Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám là Nhâm Tí, đó là ngôi vị đời
Mộc. Thứ ba gọi là Mộc, Nhâm kế tục đời nó. Nhâm lấy Quý làm vợ, cách tám làm
Canh Thân, ấy là con vậy. Canh lấy lấy vợ Tân, cách tám là Mậu Thìn, ấy là cháu
vậy. Mậu lấy vợ Kỷ cách tám là Bính Tí, đó là ngôi vị đời Thủy. Thứ tư gọi là
Thủy, Bính kế tục sau nó, Bính lấy vợ Đinh, cách tám là Giáp Thân, ấy là con
vậy. Giáp lấy vợ Ất, cách tám là Nhâm Thìn, ấy là cháu vậy. Nhâm lấy vợ Quý,
cách tám là Canh Tí, đó là ngôi vị đời Thổ. Thứ năm gọi là Thổ. Canh lấy vợ
Tân, cách tám là Mậu Thân, ấy là con vậy. Mậu lấy vợ Kỷ, cách tám là Bính Thìn,
ấy là cháu vậy. Bính lấy vợ Đinh, cách tám là Giáp Tí, đó là ngôi vị đời Kim
quay trở về. Giáp Ngọ, Ất Mùi khởi như phép trước. Đúng là vì vậy mới có thuyết
ngũ Tí quy Canh, Đạo gia lưu truyền chọn nghĩa nầy dùng để phối ngôi vị của ngũ
phương, tự số đầu Can Tí đến chữ Canh thì là số đó. Giáp Tí Kim, từ số Giáp đến
bảy thì gặp Canh, nên phương Tây Kim được thất (7) khí. Mậu Tí là Hỏa, từ Mậu
Tí đến ba số thì gặp Canh, nên phương Nam Hỏa được tam (3) khí. Nhâm Tí là Mộc,
từ Nhâm đến chín số thì gặp Canh, nên phương Đông Mộc được cửu khí. Bính tí là
Thủy, từ Bính đến năm số thì gặp Canh, nên phương Bắc Thủy được ngũ khí. Canh
Tí là Thổ, thì tự được một là nhất khí ở phương giữa. Ấy là ngũ Tí quy Canh.
Chính là biết Kim nầy thụ khí trước tiên, thuận hành thì là Thể của Ngũ Hành,
nếu nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành. Vì vậy 60 Giáp Tí Nạp Âm nầy, lấy làm
Dụng của vạn vật”.
“Khảo Nguyên” nói rằng: “Ngũ Hành thứ tự
lấy bắt đầu là khí, cuối cùng là hình thì ”Hồng Phạm“ là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim,
Thổ quả là vậy. Lấy làm thứ tự đem trải ra ở bốn mùa tương sinh, thì ‘Nguyệt
hội’ ở Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy quả là vậy. Đem chỉnh đốn trị lý Ngũ Tài (giống
như Ngũ Hành) tương khắc làm thứ tự thì ”Ngũ Mộ” là Thủy, Hỏa, Kim, Mộc,
Thổ quả là vậy. Nạp Âm Ngũ Hành bắt đầu Kim, thứ đến Hỏa, thứ đến Mộc, thứ đến
Thủy, thứ đến Thổ, đã không có gốc đầu – cuối của nó, lại không dùng sinh khắc,
vì vậy thuyết nầy chẳng biết nó ở đâu đến. Khảo sát rõ nghĩa của nó, đại để là
theo lời dạy của tổ tiên lấy ý của Dịch tượng, tức là lý của Tiên Thiên – Hậu
Thiên Bát Quái vậy.
Giáp Tí, Ất Sửu là Kim thượng nguyên; Nhâm
Thân, Quý Dậu là Kim trung nguyên; Canh Thìn, Tân Tỵ là Kim hạ nguyên, tức Tam
Nguyên thì đủ một vòng. Sau đó chuyển tới ở Mậu Tí, Kỷ Sửu là Hỏa thượng
nguyên; Bính Thân Đinh Dậu là Hỏa trung nguyên, Giáp Thìn Ất Tỵ là Hỏa hạ
nguyên. Từ đó về sau đều dựa vào thứ tự Kim, Hỏa, Mộc, Thủy, Thổ mà dùng nhạc
luật cùng ngôi vị với thú thê (lấy vợ), phép cách bát sinh con, cuối cùng đến
Đinh Tỵ mà nạp Âm tiểu thành vậy. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi là Kim thượng nguyên
khởi như phép trước, đến cuối cùng ở Đinh Hợi, mà nạp Âm đại thành vậy.
Theo 10 Can, 12 Chi đan xen nhau là 60,
năm âm (âm thanh), 12 luật nhân với nhau cũng là 60. Giáp Tí Kim, Ất Sửu cũng
là Kim, lấy vợ cùng ngôi vị vậy. Ất Sửu Kim mà Nhâm Thân lại là Kim, cách bát
sinh con vậy. Một lần đi tất cả Tam Nguyên mà sau chuyển sang đi tiếp, giống
như Xuân có ba tháng mạnh-​trọng-​quý mà sau chuyển sang Hạ vậy. Từ Giáp Tí đến
Đinh Tỵ mà Tam Nguyên Ngũ Hành được một vòng. Giống như Dịch đi ba vạch là tiểu
thành vậy. Từ Giáp Ngọ đến Đinh Hợi mà Tam Nguyên Ngũ Hành lại được một vòng
nữa, giống như Dịch đi sáu vạch là đại thành vậy. Cách lập phép đó đều ứng với
luật lữ”.
KHỞI SỐ NẠP ÂM
CAN CHI HỢP NGŨ HÀNH
Số của Nạp Âm: Giáp Kỷ, Tí Ngọ trị số là
9; Ất Canh, Sửu Mùi trị số là 8; Bính Tân, Dần Thân trị số là 7; Đinh nhâm, Mão
Dậu trị số là 6; Mậu Quý, Thìn Tuất trị số là 5; Tỵ Hợi trị số là 4. Điều nầy
trong “Vân Đài Loại Ngữ” thấy cụ Lê Quý Đôn có nhắc đến, nhưng không hề cho
biết trị số của nó do đâu mà có. Nay lại thấy “Hiệp Kỷ Biện Phương Thư” giải
thích hết sức rõ ràng nên xin chép lại nguyên văn để độc giả tham khảo.
“Lãi Hải Tập” nói: “Hoặc hỏi: Số của Tiên
Thiên duyên theo đâu mà khởi? Tạ đáp rằng: Số cực ở 9, từ 9 lui ngược lại dùng,
vì vậy Giáp Kỷ, Tí Ngọ 9; Ất Canh, Sửu Mùi 8; Bính Tân, Dần Thân 7; Đinh Nhâm,
Mão Dậu 6; Mậu Quý, Thìn Tuất 5; Thiên Can đã hết mà Địa Chi một mình còn thừa
ra Tỵ Hợi, lấy Tỵ Hợi được 4 là hết ở đó. Hơn nữa, Hợi là thiên môn, Tỵ là địa
hộ, ngôi vị của thuần Dương, là then chốt của việc đóng mở cho nên là mấu chốt
của Ngũ Hành”.
“Thụy Quế Đường Hạ Lục” nói rằng:
“Nạp Âm của 60 Giáp Tí lấy âm (thanh) của Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ mà sáng tỏ
vậy. 1-6 là Thủy, 2-7 là Hỏa, 3-8 là Mộc, 4-9 là Kim, 5-10 là Thổ. Như vậy
trong Ngũ Hành, duy Kim Mộc có Âm của tự nhiên, Thủy Hỏa, Thổ hẳn là mượng nhau
mà sau thành âm. Đại thể Thủy mượng Thổ, Hỏa mượn Thủy, Thổ mượn Hỏa, vì vậy âm
Kim 4-9, âm Mộc 3-8, âm Thủy 5-10, âm Hỏa 1-6, âm Thổ 2-7. (Như thế càng khó
luận bàn và xác định nên Mai Cốc Thành chê). Giáp Kỷ, Tí Sửu 9; Ất Canh, Sửu
Mùi 8; Bính Tân, Dần Thân 7; Đinh Nhâm, Mão Dậu 6; Mậu Quý, Thìn Tuất 5; Tỵ Hợi
4. Căn cứ như thế thì Giáp Tí Ất Sửu hợp lại thành 34 số, 4 là số của Kim vì
vậy Giáp Tí Ất sửu Nạp Âm là Kim. Mậu Thìn Kỷ Tỵ hợp số là 23, 3 là số của Mộc.
Canh Ngọ Tân Mùi hợp số là 32, 2 là số của Hỏa, Thổ mượn âm của Hỏa, vì vậy
Canh Ngọ, Tân Mùi Nạp Âm là Thổ. Giáp Thân Ất Dậu hợp số 30, 10 là Thổ, Thủy
mượn âm của Thổ, vì vậy là Thủy. Mậu Tí Kỷ Sửu hợp số 31, 1 là Thủy, Hỏa mượn
âm của Thủy, vì vậy là Hỏa. Phàm 60 Giáp Tí chẳng cái nào không như thế. Dó
chính là Nạp Âm 60 Giáp Tí từ đó lại”.
“Tinh Lịch Khảo Nguyên” nói: “Chỗ nói ở
trên là Dương Hùng luận ‘Thái Huyền’ thanh luật chỗ chép về số. Phàn hai Can,
hai chi hợp nhau, ngoài ra số được 49 là Kim được 16 là Hỏa, được 38 là Mộc,
được 50 là Thủy, được 27 là Thổ. Như Giáp Tí đều 9, được số 18; Ất Sửu đều được
số 16; hợp lại là 34, vì vậy là Kim. Nhâm 6 – Thân 7, được số 13; Quý 5 – Dậu 6
, được số 11; hợp lại được 24, vì vậy cũng là Kim. Ngoài ra theo số mà suy ra,
không trường hợp nào mà không như vậy. Nhưng chỗ phối 1 với 6, 2 với 7, các
hạng số với số của Hà Đồ không giống nhau. Nay theo số Đại Diễn là 50 chỉ dùng
49 lấy hợp số của hai Can, hai chi lại. Trong 49 giảm bớt đi, số thừa đủ 10 trở
đi dư 1, 6 là Thủy; dư 2, 7 là Hỏa; dư 3, 8 là Mộc; dư 4, 9 là Kim; dư 5,10 là
Thổ, đều dùng chỗ Ngũ Hành sinh làm Nạp Âm, như thế thì giống với Hà Đồ. Lại
như phép đếm cỏ thi dùng sách thừa để định cơ (lẻ) ngẫu (chẵn), như thế dùng số
thừa để định Ngũ Hành, lý đó đúng và hợp nhau vậy. Như Giáp là 9, Tí là 9; Ất
là 8, Sửu là 8, tổng cộng là 34, lấy 49 trừ cho 34 dư ra 15, bỏ 10 không dùng,
lấy 5 là Thổ mà Thổ sinh Kim, vì vậy đặt là Kim. Bính Dần, Đinh Mão hợp số là
26, lấy 49 trừ cho 26 dư ra 23, bỏ 20 không dùng, lấy 3 là Mộc mà Mộc sinh Hỏa,
vì vậy đặt là Hỏa. Mậu Thìn, Kỷ Tỵ hợp số là 23, lấy 49 trừ cho 23 dư ra 26, bỏ
20 không dùng, lấy 6 là Thủy mà Thủy sinh Mộc, vì vậy đặt là Mộc. Canh Ngọ, Tân
Mùi hợp số là 32, lấy 49 trừ đi cho 32 dư ra 17, bỏ 10 không dùng, lấy 7 là Hỏa
mà Hỏa sinh Thổ, vì vậy đặt là Thổ. Ngoài ra phỏng theo như thế”.
Theo Dương Hùng “Thái Huyền Kinh” nói
rằng: “Số 9 của Tí Ngọ, Sửu Mùi 8, Dần Thân 7, Mão Dậu 6, Thìn Tuất 5, Tỵ Hợi
4, vì vậy Luật 42, Lữ 36, gộp số của Luật Lữ hoặc Hoàn, hoặc Phủ, hễ là số của
78 là số của Hoàng Chung lập ở đó. Lấy nó làm độ, đều sinh Hoàng Chung”. Lại
nói rằng: “Số 9 của Giáp Kỷ, Ất Canh 8, Bính Tân 7, Đinh Nhâm 6, Mậu Quý 5. Thanh
sinh ở nhật, luật sinh ở thời. Thanh lấy tính chất, luật lấy hòa thanh, thanh
luật hợp với nhau mà bát âm sinh”. Tông phái trải qua nhiều đời đến nay, đến đó
là số của thiên nhiên. Nhìn lại chỗ Giáp Kỷ, Tí Ngọ tại sao lại lấy là 9; Ất
Canh, Sửu Mùi tại sao lại lấy là 8, thì hiếm có việc luận bình chính xác ở đó.
Nay xét Tí Ngọ này là chỗ Càn Chấn nạp vào; Sửu Mùi này là chỗ nạp vào của Khôn
Tốn; Dần Thân nầy là chỗ Khảm nạp vào; Mão Dậu nầy là chỗ Ly nạp vào; Thìn Tuất
nầy là chỗ Cấn nạp vào; Tỵ Hợi nầy là chỗ Đoài nạp vào. Số Dương cực ở 9, số Âm
cực ở 8, vì vậy Càn Khôn được vậy. Chấn Tốn trưởng mà thống quản ở phụ mẫu,
ngoài ra theo thứ tự trở xuống. Nhị Đại (cha mẹ), lục tử (6 con), thứ tự của
nam nữ trưởng thiếu (lớn, nhỏ). Trật tự như vậy không rối loạn thật không ai có
thể cưởng ép làm được. Nếu lấy thứ tự 10 ngày, thì lại tùy theo hóa khí thọ yểu
của số mà cũng không tạo tác một chút nào ở trong đó. Giáp Kỷ là Thổ, Thổ hết,
từ cổ xưa không bị hủy, tự tách rời ra là vi trần, rong chơi trống trải láng
giềng mà chất của nó vốn tại ở đó là rất thọ, vì vậy số là 9. Chỗ tiếp theo thì
là Kim, tuy hỏa rèn nung cũng có thời là khí tán ra của chất tro mà kiên cố là
vạn vật vương vậy. Ất Canh là Kim vậy, vì vậy tiếp theo Giáp Kỷ. Lại tiếp nữa
là Thủy. Gió nóng ban ngày mà Hỏa nung nấu cũng có thời khô cạn hết mà chẳng
bằng Kim, nó nhu nhược chuyển vận mới có thể thọ lâu dài mà chẳng bằng vật vậy.
Bính Tân Thủy vậy, vì vậy tiếp theo Ất Canh, lại tiếp theo nữa là Mộc. Trong
một năm tươi tốt hay héo rụng có trong định kỳ. Đinh Nhâm là Mộc vậy, vì vậy
tiếp theo Bính Tân, lại theo nữa thì là Hỏa. Khoảng một ngày một đêm hiển lộ ra
hay u ám cũng có định kỳ, Mậu Quý là Hỏa vậy, vì vậy tiếp theo là Đinh Nhâm.
Còn Giáp Kỷ Thổ sinh Ất Canh Kim, Kim sinh Bính Tân Thủy, Thủy sinh Đinh Nhâm
Mộc, Mộc sinh Mậu Quý Hỏa. Chồng chất mà xuống dưới. Lại là số tự nhiên như
vậy. Nhưng tại sao không có 10 và 1, 2, 3? Nói rằng số hết ở 9, 10 tức là 1
vậy. Ví bằng 1, 2, 3 chính là đại số của Thiên-​Địa-​Nhân, không được cố ý ký
gửi ở khoảng của một ngày, một thời. Còn nói 9-8-7-6-5-4, thì 1-2-3 ở tại gốc
của chúng. Vì vậy Hoàng Chung là 81, 12 thời chỉ được 78, mà Dương Tử nói rằng
số của Hoàng Chung lập ở đó. Đại để đã hư hàm ba số mà thành 81 vậy.
NGŨ HÀNH NGŨ ÂM
thuộc Thổ Giáp Tí-​Ất Sửu, Nhâm Thân-​Quý
Dậu,Canh Thìn-​Tân Tỵ
Cung
sinh Kim Giáp Ngọ-​Ất Mùi, Nhâm Dần-​Quý
Mão, Canh Tuất-​Tân Tỵ
thuộc Kim Bính Tí-​Đinh Sửu, Giáp Thân-​Ất
Dậu, Nhâm Thìn-​Quý Tỵ Thương
sinh Thủy Bính Ngọ-​Đinh Mùi, Giáp Dần-​Ất
Mão, Nhâm Tuất-​Quý Hợi
thuộc Mộc Mậu Tí-​Kỷ Sửu, Bính Thân-​Đinh
Dậu, Giáp Thìn-​Ất Tỵ
Giác
sinh Hỏa Mậu Ngọ-​Kỷ Mùi, Bính Dần-​Đinh
Mão, Giáp Tuất-​Ất Hợi
thuộc Hỏa Canh Tí-​Tân Sửu, Mậu Thân-​Kỷ
Dậu, Bính Thìn-​Đinh Tỵ
Chuỷ
sinh Thổ Canh Ngọ-​Tân Mùi, Mậu Dần-​Kỷ
Mão, Bính Tuất-​Đinh Hợi
thuộc Thuỷ Nhâm Tí-​Quý Sửu, Canh
Thân-​Tân Dậu, Mậu Thìn-​Kỷ Tỵ
sinh Mộc Nhâm Ngọ-​Quý Mùi, Canh Dần-​Tân
Mão, Mậu Tuất-​Kỷ Hợi
Xưa nay chúng ta thường nghe nói đến như
Giáp Tí là Hải Trung Kim, Ất Mùi là Sa Trung Kim, nhưng thực chất chưa có sách
nào của Việt Nam giải thích nổi do đâu mà có.
Chu Tử nói rằng: “Thanh nhạc là Thổ sinh
Kim Mộc Hỏa Thuỷ”. “Hồng Phạm” là Thuỷ Hỏa Mộc Kim Thổ. Đại để nạp âm là lấy
Can Chi phân phối ở ngũ âm mà bản âm nơi sinh của Ngũ Hành, tức là chỗ nạp âm
của Can Chi của nó. Bắt đầu là cung Thương Giác Chuỷ Vũ, nạp Giáp Bính Mẫu Canh
Nhâm vào, lấy hệ ngũ Tí mà tuỳ theo đó ngũ Sửu, Cung được Giáp Tí, Thương được
Bính Tí, Giác được Mậu Tí, Chuỷ được Canh Tí, Vũ được Nhâm Tí. Cung là Thổ, Thổ
sinh Kim, vì vậy Giáp Tí-​Ất Sửu nạp âm Kim. Thương là Kim, Kim sinh Thuỷ, vì
vậy Bính Tí-​Đinh Sửu nạp âm là Thuỷ. Giác là Mộc, Mộc sinh Hỏa, vì vậy Mậu Tí,
Kỷ Sửu nạp âm Hỏa. Chuỷ là Hỏa, Hỏa sinh Thổ, vì vậy Canh Tí-​Tân Sửu nạp âm
Thổ. Vũ là Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, vì vậy Canh Tí, Quý Sửu nạp âm Mộc. Thứ hai
tiếp Thương Giác Chuỷ Vũ Cung, nạp với Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là hệ ngũ Dần mà
tuỳ theo lấy ngũ Mão. Thương Kim với Giáp Dần-​Ất Mão, nạp âm Thuỷ. Giác Mộc
được Bính Dần-​Đinh Mão nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Mậu Dần-​Kỷ Mão nạp âm Thổ.
Vũ Thuỷ được Canh Dần-​Tân Mão nạp âm Mộc. Cung Thổ được Nhâm Dần-​Quý Mão nạp
âm Kim. Thứ ba tiếp là Giác Chuỷ Vũ Cung Thương, nạp với Giáp Bính Mậu Canh
Nhâm, lấy ngũ Thìn mà tuỳ theo lấy ngũ Tỵ. Giác Mộc được Giáp Thìn-​Ất Tỵ nạp
âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Bính Thìn-​Đinh Tỵ nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Mậu Thìn-​Kỷ
Tỵ nạp âm Mộc. Cung Thổ được Canh Thìn-​Tân Tỵ nạp âm Kim. Thương Kim được Nhâm
Thì-​Quý Tỵ nạp âm Thuỷ. Ở trên lục Giáp mới được một nữa, nạp âm tiểu thành.
Thứ tư, quay trở lại lấy Cung Thương Giác
Chuỷ Vũ, nạp với Giáp Bính Mậu Canh Nhâm. Lấy ngũ Ngọ mà tuỳ theo lấy ngũ Mùi.
Cung Thổ được Giáp Ngọ-​Ất Mùi nạp âm Kim. Thương Kim được Bính Ngo-​Đinh Mùi
nạp âm Thuỷ. Giáp Mộc được Mậu Ngọ-​Kỷ Mùi nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Canh
Ngọ-​Tân Mùi nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ được Nhâm Ngọ-​Quý Mùi nạp âm Mộc. Thứ năm
quay lại lấy Thương Giác Chuỷ Vũ Cung nạp Giáp Bính Mậu Canh Nhâm, lấy ngũ Thân
mà tuỳ theo lấy ngũ Dậu. Thương Kim được Giáp Thân-​Ất Dậu nạp âm Thuỷ. Giác
Mộc được Bính Thân-​Đinh Dậu nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Mậu Thân-​Kỷ Dậu nạp âm
Thổ. Vũ Thuỷ được Canh Thân-​Tân Dâu nạp âm Mộc. Cung Thổ được Nhâm Thân-​Quý
Dậu nạp âm Kim. Thứ sáu tiếp quay lại lấy Giác Chuỷ Vũ Cung Thương nạp Giáp
Bính Mậu Canh Nhâm, lấy ngũ Tuất mà tuỳ theo lấy ngũ Hợi. Giác Mộc được Giáp
Tuất-​Ất Hợi nạp âm Hỏa. Chuỷ Hỏa được Bính Tuất-​Đinh Hợi nạp âm Thổ. Vũ Thuỷ
được Mậu Tuất-​Kỷ Hợi nạp âm Mộc. Cung Thổ được Canh Tuất-​Tân Hợi nạp âm Kim.
Thương Kim được Nhâm Tuất-​Quý Hợi nạp âm Thuỷ. Ấy là toàn bộ lục Giáp mà âm
đại thành vậy. Dương sinh ở Tí, từ Giáp Tí lấy đến Quý Tỵ. Âm sinh ở Ngọ, từ
Giáp Ngọ lấy đến Quý Hợi. Vì vậy 30 mới quay lại lấy Cung khởi Cung là quân.
Thương là thần, Giác là dân, đều nhập vào đạo (đường) vậy. Vì thế đều có thể
lấy làm đầu. Chuỷ là việc, Vũ là vật, đều nhập vào chỗ dùng vì vậy không thể
lấy làm đầu. Ấy là lấy hết ba Giáp mà quay lại bắt đầu ở Cung. Can là thiên,
Chi là Địa, âm (nạp âm Ngũ Hành) là người Ngũ Hành của tam tài đủ vậy”.
Đào Tông Nghi nói rằng: “Giáp Tí-​Ất Sửu
là Hải Trung Kim. Tí thuộc Thuỷ lại là cái hồ, lại là đất vượng của Thuỷ, kiêm
Kim tử ở Tí, Mộ ở Sửu, Thuỷ vượng mà Kim tử Mộ, vì vậy đặt là Hải Trung Kim
(vàng dưới biển).
Bính Dần-​Đinh Mão là Lô Trung Hỏa, Dần là
tam Dương, Mão là tứ Dương (thuộc quẻ Đại Tráng của 12 quẻ tiêu tức) nên Hỏa đã
đắc địa, lại được Mộc của Dần Mão mà sinh ra như thế thời đó trời đất như mở lò
ra, vạn vật bắt đầu sinh vì vậy gọi là Lô Trung Hỏa (lửa trong lò).
Mậu Thìn-​Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc. Thìn là
chốn thôn dã. Tỵ là lục Dương (thuần Dương, Tỵ là quẻ Càn của 12 quẻ tiêu tức),
Mộc đến lục Dương thì cành tốt tươi, lá rậm rạp phong phú. Lấy sự tốt tươi
thịnh vượng của Mộc mà vốn ở chốn thôn dã, vì vậy đặt là Đại Lâm Mộc (cây rừng
lớn).
Canh Ngọ-​Tân Mùi là Lộ Bàng Thổ, Mộc ở
trong Mùi (vì Mùi tàng Can Ất) mà sinh vượng Hỏa của ngôi vị Ngọ. Hỏa vượng thì
Thổ bị đốt khô đi, Mùi có thể nuôi nấng vạn vật, giống như lộ bàng thổ, vì vậy
đặt là Lộ Bàng Thổ (đất bên đường).
Nhâm Thân-​Quý Dậu là Kiếm Phong Kim. Thân
Dậu là chính vị của Kim, Kim Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đã sinh vượng
thì thành cương (là thép) vậy, cương thì vượt hơn ở kiếm phong, vì vậy đặt là
Kiếm Phong Kim (kim mũi kiếm).
Giáp Tuất-​Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa. Tuất Hợi
là thiên Môn, Hỏa chiếu thiên môn, ánh sáng của nó lên rất cao, chí cao vô
thượng, vì vậy đặt là Sơn Đầu Hỏa (lửa đầu núi).
Bính Tí-​Đinh Sửu là Giản Hạ Thuỷ. Thuỷ
vượng ở Tí, suy ở Sửu, vượng mà lật lại là suy thì không thể là gi­ang hà (sông
lớn) được, vì vậy đặt là Giản Hạ Thuỷ (nước dưới khe).
Mậu Dần-​Kỷ Mào là Thành Đầu Thổ. Thiên
Can Mậu Kỷ thuộc thổ của Dần là Cấn sơn, thổ tích lại mà thành núi, vì vậy đặt
là Thành Đầu Thổ (đất đầu thành).
Canh Thìn-​Tân Tỵ là Bạch Lạp Kim (hợp Kim
của thiết và chì), Kim Dưỡng ở Thìn, Sinh ở Tỵ hình chất mới sơ thành, chưa thể
vững chắc ích lợi được, vì vậy đặt là Bạch Lạp Kim (kim trong nến).
Nhâm Ngọ-​Quý Mùi là Dương Liễu Mộc. Mộc
Tử ở Ngọ, Mộ ở Mùi, Mộc đã Tử Mộ tuy được Thuỷ của Thiên Can Nhâm Quý sinh để
sống, chung lại là nhu nhược, vì vậy đặt là Dương Liễu Mộc (cây dương liễu).
Giáp Thân-​Ất Dậu là Tỉnh Tuyền Thuỷ. Kim
Lâm Quan ở Thân, Đế Vượng ở Dậu, Kim đã vượng thì Thuỷ do đó sinh ra, như vậy
là mới đang lúc sinh ra, lực lượng chưa lớn, vì vậy đặt là Tỉnh Tuyền Thuỷ
(nước dưới suốâi).
Bính Tuất-​Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ. Bính
Đinh thuộc Hỏa, Tuất Hợi là thiên môn, Hỏa đốt cháy ở trên thì Thổ không ở dưới
mà sinh ra được, vì vậy đặt là Ốc Thượng Thổ (đất trên nóc nhà).
Mậu Tí-​Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa. Sửu Tí
thuộc Thuỷ, Thuỷ cư ở chính vị mà nạp âm chính là Hỏa, Hỏa ở trong Thuỷ nếu
không phại là Thần Long thì không thể làm được, vì vậy đặt là Tích Lịch Hỏa
(lửa sấm sét).
Canh Dần-​Tân Mão là Tùng Bách Mộc. Mộc
Lâm Quan ở Dần, Đế Vượng ở Mão, Mộc đã vượng thì không thể nhu nhược được, vì
vậy đặt là Tùng Bách Mộc (gổ cây tùng, bách).
Nhâm Thìn-​Quý Tỵ là Trường Lưu Thuỷ. Thìn
là Mộ của Thuỷ, Tỵ là nơi Kim Sinh, Kim sinh thì Thuỷ tính đã giữ lại, lấy Mộ
Thuỷ mà gặp sinh Kim thì nguồn suối không cạn, vì vậy đặt là Trường Lưu Thuỷ
(nước nguồn).
Giáp Ngọ-​Ất Mùi là Sa Thạch Kim. Ngọ là
đất Hỏa Vượng, Hỏa vượng thì Kim chảy ra, Mùi là đất Hỏa Suy, Hỏa suy thì Kim
Quan Đái. Hỏa Suy mà Kim Quan Đái thì Mùi có thể thịnh mãn, vì vậy đặt là Sa
Thạch Kim (kim trong cát).
Bính Thân-​Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa. Dậu là
cửa nhập của nhật (mặt trời lặn), nhật đã đến ở thời đó thì ánh sáng tàng ẩn,
vì vậy đặt là Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi).
Mậu Tuất-​Kỷ Hợi là Bình Địa Mộc. Tuất
nguyên là chốn thôn dã, Hợi là đất Mộ sinh ra, Mộc sinh ra ở chốn thôn dã thì
không thể là một rễ cây, một gốc cây, vì vậy đặt là Bình Địa Mộc (cây ở đồng
bằng).
Canh Tí-​Tân Sửu là Bích Thượng Thổ. Sửu
tuy là chính vị nhà của Thổ, mà Tí là đất của Thuỷ vượng, Thổ gặp Thuỷ nhiều
thành là bùn, vì vậy đặt là Bích Thượng Thổ (đất trên vách).
Nhâm Dần-​Quý Mão là Kim Bạc Kim. Dần Mão
là đất của Mộc vượng, Mộc vượng thì Kim gầy yếu; lại nữa, Kim Tuyệt ở Dần, Thai
ở Mão. Kim đã vô lực vì vậy đặt là Kim Bạc Kim (kim pha bạc).
Giáp Thìn-​Ất Tỵ là Phú Đăng Hỏa. Thìn là
thực thời (giờ ăn), Tỵ là ở trong khu vực, trong tướng của nhật, Dương rực rỡ,
thế sáng sủa, phong quang ở thiên hạ, vì vậy đặt là Phú đăng Hỏa (lửa đèn
lồng).
Bính Ngọ-​Đinh Mùi là Thiên Hà Thuỷ. Bính
Đinh thuộc Hỏa, Ngọ là đất Hỏa vượng, mà nạp âm chính là Thuỷ, Thuỷ từ Hỏa xuất
ra, nếu không phải là ngân hà thì không thể có nước nầy, vì vậy đặt là Thiên Hà
Thuỷ (nước trên ngân hà, nước sông trên trời).
Mậu Thân-​Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ. Thân là
Khôn, Khôn là địa, Đậu là Đoài, Đoài là trạch (đầm). Thổ của Mậu Kỷ gia lên
trên địa trạch nầy chẳng phải cái nào khác là Thổ phù bạc, vì vậy đặt là Đại
Dịch Thổ (khu đất rộng lớn).
Canh Tuất-​Tân Hợi là Thoa Xuyến Kim. Kim
đến Tuất mới Suy, đến Hợi mới Bệnh thì đúng thật là nhu vậy, vì vậy đặt là Thoa
Xuyến Kim (kim trâm thoa hay vàng trang sức).
Nhâm Tí-​Quý Sửu là Tang Chá Mộc. Tí thuộc
Thuỷ, Sửu thuộc Kim, Thuỷ sinh Mộc còn Kim khắc Mộc (Mộc mới sinh thì yếu giống
như cây tang chá), vì vậy đặt là Tang Chá Mộc (gỗ cây dâu).
Giáp Dần-​Ất Mão là Đại Khê Thuỷ, Dần là
góc Đông Bắc, Mão là chính Đông, Thuỷ chảy chính Đông (“chúng thuỷ triều Đông”
– muôn nhánh sông đều chảy về phương Đông) thì thuận tính nó, nên sông suối,
khe, ao, đầm, hồ đều hợp với nhau mà quay trở về, vì vậy đặt là Đại Khê Thuỷ
(nước ở khe lớn, nước lũ).
Bính Thìn-​Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ. Thổ Mộ
ở Thìn, Tuyệt ở Tỵ mà Hỏa của Thiên Can Bính Đinh đến Thìn là Quan Đái, đến Tỵ
là Lâm Quan, Thổ đã Mộ Tuyệt, vượng Hỏa quay lại sinh Thổ, vì vậy đặt là Sa
Trung Thổ (đất lẫn trong cát).
Mậu Ngọ-​Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa, Ngọ
là đất Hỏa vượng, Mộc ợ trong Mùi lại phục sinh, tính Hỏa cháy ở trên, lại gặp
sinh địa, vì vậy đặt là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời).
Canh Thân-​Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc. Thân
là tháng 7, Dậu là tháng 8, thời ấy thì là Mộc tuyệt vậy, duy mộc của thạch
lựu, trái lại bền chắc, vì vậy đặt là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây thạch lựu).
Nhâm Tuất-​Quý Hợi là Đại Hải Thuỷ. Thuỷ
Quan Đái ở Tuất, Lâm Quan ở Hợi, Thuỷ vượng thì lực hậu (dầy), kiêm Hợi là gi­ang
(sông lớn) nên lực mạnh thế tráng, không phải Thuỷ ấy thì không thể như thế, vì
vậy đặt là Đại Hải Thuỷ (nước trong biển lớn).
Đến đây có lẽ độc giả đã hiểu được nguyên
lý sáng tỏ Nạp Âm Ngũ Hành và 12 con vật của tuổi do đâu mà có vậy. Rõ ràng Cổ
Nhân đã suy diễn có phương pháp hẳn hòi, thế thì không phải do người đời sau cố
tình gượng ép bày đặt ra được. Dĩ nhiên trong Mệnh Lý Học Nạp Âm Ngũ Hành có
giá trị chắc thật, không thể thiếu. Song những thuật sĩ đời sau, có lẽ hiếm
người biết được nguyên lý của Nạp Âm Ngũ Hành 60 Hoa Giáp, nên đã bịa đặt ra đủ
thứ luận giải chăng. Xin độc giả cần phải thận trọng!
KHÔNG KIẾP MINH TÂM

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *