NHỮNG NÉT TƯỚNG NỐT RUỒI

NHỮNG NÉT TƯỚNG NỐT RUỒI

a/- Bản chất và ý nghĩa : Trong thuật ngữ của tướng học, danh từ nốt ruồi mọc trên mặt ruồi bao gồm :
Những dấu chấm trên làn da hoặc chìm trong da (tục ngữ gọi là tàn nhan hay bã chè), có hình dáng hơi tròn, hoặc tròn, có thể nhỏ như đầu đinh ghim hoặc lớn bằng đầu nén hương thông thường đang đốt cháy. Loại này người ta mệnh danh là tử chí hay nốt ruồi mọc trên mặt ruồi chết.
Những dấu chấm nổi cao hơn mặt da 1 cách tự nhiên (mụn cóc không được coi là nốt ruồi mọc trên mặt ruồi vì có nguồn gốc bịnh lý lan tràn rộng hay bị thu hẹp nhờ phép trị liệu y khoa thông thường), có thể lớn bằng đầu nén nhang hoặc nhỏ như hạt tấm. Loại nốt ruồi mọc trên mặt ruồi này được gọi là nốt ruồi sống (sinh chí).
Về mặt màu sắc, nốt ruồi bất kể là loại sống hay chết đều có thể có các màu sắc sau đây :
– Màu xám tro – Màu đen lợt – Vàng đậm như hoàng thổ – Hồng lợt – Đỏ đậm như màu son tàu.
Nốt ruồi động và nốt ruồi tĩnh : động là mọc nơi bắp thịt được sử dụng để cử động như chung quanh miệng. Tĩnh là mọc những nơi không cử động như lổ tai, đầu, trán v.v.
Chỉ có hai màu đen huyền và đỏ đậm như son tàu mới coi là quý, những màu khác, tạp sắc chủ về hung hiểm, phá hại.
Nốt ruồi xuất hiện trên mặt, nhất là phái đẹp, nốt ruồi son hoặc mun có hình dạng vừa phải sẽ làm tăng thêm duyên dáng của nụ cười, ánh mắt. Xuất hiện ở các bộ tĩnh vị, ví dụ như sống mũi trán làm giảm mỹ quan khuôn mặt. Về dự đoán sự tốt xấu căn cứ vào vị trí nốt ruồi, ta cần phải nhớ nguyên tắc cơ bản là nốt ruồi nên vừa phải và ở những chỗ khuất kín trên khuôn mặt, hoặc mọc sau lớp quần áo thường có ý nghĩa tốt, trái lại là xấu.
Sách Tướng Lý hoành Chân, bàn về nốt ruồi có nói : “Nốt ruồi đối với con người cũng như cỏ cây đối với núi non, gò đống đối với địa thế của đất đai. Chất đất tốt thì sinh ra cây cối tươi tốt, chất đất cằn cỗi thì sinh ra cây cỏ héo úa, xấu xa. Người có nội chất tốt thì ra nốt ruồi đẹp cho thế nhân biết được cái đẹp. Người có bản chất xấu thì không sao có nốt ruồi đẹp được.
Nốt ruồi nổi lên tượng trưng cho một gò đống đối với mặt đất, cho nên nó phải ở nơi kín, nên ẩn tàng mới quí. Gò đống hiện ra ngay giữa đường đi lối lại hay sân vườn gây cản trở, làm mất mỹ quan, nhưng ở nơi rừng núi lại góp phần vào việc làm gia tăng cảnh trí của địa thế.
– Trên mặt tượng trưng cho sảnh đường, những đường giao tiếp trên mặt tượng trưng cho đường giao thông lớn (thông cù). Nếu mọc ngay nơi sảnh đường thì làm hại khí tượng sảnh đường, mọc ở thông cù thì trở ngại cho việc đi lại.
– Nốt ruồi nằm nơi “sơn lâm cùng cốc” thì sinh được “hoa thơm cỏ lạ” như ở tóc, chân mày, râu, tóc mai, hoặc ở những bộ phận kín trên mình, đó tượng trưng cho sơn lâm. Vì vậy sách có câu : “Mặt không có nốt ruồi thì tốt. Trong mình không có nốt ruồi thì xấu”.
Bởi vậy, nốt ruồi không nên hiện ra TRÊN TRÁN, MŨI (mũi và trán ví như đường cái hoặc sân vườn) mà nên hiện ra ở chân mày, chân tóc (những nơi này với khuôn mặt ví như thâm sơn hiểm cốc).
Ông Hoành Chơn Nhã xem tướng luận về nốt ruồi có nói : “nốt ruồi như núi có rừng cây, đất có đồi gò. Núi có chất tốt thì sinh cây quí, xum xuê tỏ ra có tú sắc đẹp đẽ. Đất mà ô trọc thì sinh giống ác thảo để phô chất xấu cũng như ngọc lành có tì vết, hột xoàn có vết than. Lẽ của vạn vật cũng như vậy. Người mà sẵn có tố chất tốt đẹp thì sinh nốt ruồi tốt, đặc biệt để phô vẻ tốt, nếu xấu thì có những nốt ruồi xấu để tỏ việc ti tiện. Nốt ruồi đen mà ở nơi lộ liễu quá thì hung nhiều, ở nơi kín đáo thì cát nhiều, sinh trên mặt phần nhiều là bất lợi. Nốt ruồi đen thì thật đen mun, còn son thì phải được như màu son (đỏ hồng) thì mới tốt. Đen mà có pha màu đỏ thì chủ người nói nhiều, hay tranh biện, pha màu trắng thì chủ việc hay lo sợ, tai ách; pha màu vàng thì chủ hay quên, để thất thoát đồ vật”.
Từ những điểm trên ta thấy phép giải đoán sự cát hung của mụt ruồi có thể được thu gọn vào 3 điểm chính :
1/- Bản chất mụt ruồi (chìm hay nổi)
2/- Màu sắc (tốt xấu)
3/- Vị trí xuất hiện (đúng hay trái chỗ)
b/- Phương pháp giải đoán
Trong 3 điểm chính trên thì vị trí nốt ruồi đóng vai trò chính, còn cách cấu tạo và màu sắc chỉ có giá trị thứ yếu.
Xuất hiện đúng vị trí thích nghi là nốt ruồi sống, không lớn không nhỏ, màu đen hoặc đỏ sậm khá rõ rệt là điềm rất tốt. Sắc bóng và đậm chủ yếu về sự việc nhãn tiền, lợt dần chủ về việc quá khứ, đậm dần chủ về tương lai. Nếu nốt ruồi chết, hình dạng méo lệch thì xấu dù là màu sắc gì đi nữa.
Xuất hiện không đúng vị trí ngoài ý nghĩa đặc thù do vậy từng vị trí nốt ruồi sống cực xấu, nốt ruồi chết xấu vừa, hình dạng lớn nhỏ cũng ảnh hưởng tới sự xấu : lớn xấu nhiều, nhỏ xấu ít. Về màu sắc thì sắc đen huyền đỏ sậm giúp cho mụt ruồi sống, không lớn không nhỏ, mọc sái chỗ, sửa chữa phần nào tính chất xấu của vị trí và có ý nghĩa là tiền hung hậu kiết. Nếu mụt ruồi sống mà là các màu tạp sắc hoặc không phải là đen huyền hay đỏ sậm thì mới phải giải đoán là cực xấu.
Người da trắng mà mặt mày châu thân có nhiều nốt ruồi chết màu đen bóng chủ về thông minh, nhưng háo sắc, màu vàng khô chủ về ngu đần đê tiện.
Người cao ốm mà tuổi thiếu niên mặt và thân hình có nhiều nốt ruồi chết cỡ lớn rải rác, màu sắc hỗn tạp chủ yếu về yểu thọ.
Người mập và trẻ, có các nốt ruồi chết hiện lên trên thân hình, diện mạo thì yểu, nhưng ngoài ngũ tuần, mặt và tay chân nảy sinh ra. Bất luận màu gì miễn là có sinh khí thì đó là dấu hiệu trường thọ.
Nơi đây là ý nghĩa của mụt ruồi trên 1 số bộ vị quan trọng của khuôn mặt (H2)
Chú giải :
– Thiên : chủ về không được thân cận những người quyền quí trai thường khắc cha, con gái thường làm tổn hại chồng.
– Thiên đình : chủ yếu không được hưởng hạnh phúc của cha mẹ, đặc biệt là khắc mẹ.
– Tư không : thường nói bao quát cả cha mẹ và có ý nghĩa tương tự như 2 bộ vị trên. Đàn bà thường suốt đời khổ vì chồng. Ngoài ra về mặt tai họa, nếu kẻ đó, bất luận nam nữ mà nghề nghiệp khiến thường xuyên phải tiếp xúc với các loại hỏa khí như lính cứu hỏa, hỏa đầu quân (đầu bếp), thợ luyện kim, v.v… thì trong đời khó thoát khỏi tai nạn về lửa, ít nhứt một lần.
– Ấn đường : Mụt ruồi sống nhưng phá cách chủ về ý chí bạc nhược, làm việc có đầu không đuôi, nếu đắc cách hoàn toàn chủ về quí hiển.
– Sơn căn : chủ về hình khắc (trai khắc vợ, gái khắc chồng). Nếu chính giữa sơn căn và tiếp giáp với niên thượng có mụt ruồi sống mà sắc như tàn tro chủ về chết bất đắc kì tử.
Sơn căn có vị trí ở trên giữa sống mũi, giữa đường ngang bên trong hai khóe mắt.
– Sống mũi (bao gồm cả niên thượng, thọ thượng) : chủ về nghèo khó, thân thể bịnh tật. Đàn ông dễ bị đàn bà hiếp chế, đàn bà dễ bị chồng làm khổ.
– Chuẩn đầu : chủ về khó tránh khỏi hao tổn tiền bạc và cũng có ý nghĩa vì háo sắc mà tốn của (chung cả nam lẫn nữ). Riêng đối với đàn bà, còn có một trong nhiều ý nghĩa quan trọng cho biết là số có chồng tính tình độc hại, nham hiểm.
– Nhân trung : tại đây có nốt ruồi là một điểm cực xấu vì đó là nơi cho biết khá chính xác về thọ yểu, con cái (nhất là đàn bà vì ngoài ý nghĩa chung cho cả 2 giới còn có ý nghĩa đặc biệt là tử cung dễ bị bịnh)
– Thực thương và lộc thương : chủ về hệ lụy do ăn uống mà ra (bị bịnh vì ăn uống, miệng tiếng vì ăn uống v.v…)
– Thừa tương : khó tránh khỏi vì ăn nhậu mà ngộ độc hay chết vì rượu nhất là vào khoảng 54 tuổi
– Miệng, môi : ham ăn và có ăn luôn luôn
– Địa các : chủ về tai họa, tốn tiền hại của, do người quen biết gây ra (chẳng hạn đứng bảo lãnh cho ai thuộc về một việc liên quan đến tiền bạc, ruộng vườn v.v…)
– Lệ đường (Cung phu thê) : chủ về đàn ông thường hay trai gái, nếu không lấy thêm vợ bé thì cũng lăng nhăng. Đàn bà khó tránh khỏi cảnh tái giá.
– Lưỡng quyền : lưỡng quyền thấp lại có mụt ruồi, quyền của mình bị người khác chiếm đoạt hoặc vì người mà mang lụy đến thân khiến cho quyền uy của mình bị tổn hại.
Người xưa có câu : “Uy nghi là nhờ đôi mắt, lưỡng quyền và thần khí”. Đàn bà lưỡng quyền cao, người hung dữ lấn áp chồng, sát phu, hại chồng, hoặc là người rất dâm đãng.
Người Tàu ngày xưa chọn vợ cho vua, vòng loại đã kỵ người có lưỡng quyền nhô. Đàn ông lưỡng quyền nhô là loại người nham hiểm hoặc ác độc, luồn cúi người trên, đè đạp kẻ dưới quyền. Xương lưỡng quyền còn gọi là đông nhạc (lưỡng quyền bên trái) và tây nhạc (lưỡng quyền bên phải), cả hai được gọi là “nhân phủ”. Lưỡng quyền không được nhô lên hoặc lõm xuống, cũng không được kéo dài đến mai tóc mới là tướng phúc và quý. Lưỡng quyền cao là tướng xấu, nữa cuộc đời bị hại.
Lưỡng quyền là xương hai bên gò má. Tiếng Anh : cheekbones, tên y khoa: zygomatic bones.
– Tai : ở phía trên, chủ thể về cá tính con người hiếu hạnh, ở phía dưới chủ về thông minh.
– Ngũ Nhạc : là năm vị thần trông coi 5 ngọn núi thiêng của tàu gồm đông nhạc (Thái sơn), tây nhạc (Hoa sơn), nam nhạc (Hành sơn) là trán, trung nhạc (trung tâm, Tung sơn) là mũi, bắc nhạc (Hằng sơn) là cằm.
Trong sách Thần Tướng Toàn Biên luận về nốt ruồi ở trên đầu và mặt có nói :
Đàn ông có nốt ruồi sinh ngay giữa trán là chủ phú quý, gần trên đó là cực quý. Trên trán có 7 điểm đen chủ đại quý. Sinh ngay Thiên trung thì hại cha, ngay Thiên đình là hại mẹ, ở Tư không thì hại cả cha mẹ, ở ngay Ấn đường là chủ quý.
Nốt ruồi mọc ở hai vành tai chủ trí tuệ thông minh, trong tai chủ sống lâu, ở tai trái chủ có tài của, ở khoé mắt làm chủ giặc, nốt ruồi trong tròng trắng mắt là người cực kỳ nham hiểm, trên sơn căn chủ việc khắc hại, dưới sơn căn chủ chết vì binh đao, bên mũi bịnh lao khổ mà chết, trên con mắt nhiều cùng khốn, trong lông mày chủ phú quý, dưới mắt chủ tốt có lợi, đầu chót mũi phòng bị chết vì gươm đao, ở sống mũi bị truân chuyên và nhiều hư trệ, ở nhơn trung dễ cưới vợ, bên mép miệng khó giữ của, trong miệng chủ có ăn uống, trên lưỡi chủ nhiều hư ngôn, dưới môi phá tài của, mép miệng chủ mất chức quyền.
Ở Thừa tương chủ việc say rượu mà chết. Ở Tả sương chủ có “nhất của hoành thất” (vô cớ mà của bị mất mát). Ở Cao quảng hại cha mẹ, ở Xích dương chủ chết đường, ở Phụ giác chủ chết vì binh đao, ở Biên địa chủ chết ở nơi khách (không ở nhà mình), ở Sơn lâm chủ bị sâu bọ làm bị thương, ở Hổ giác chủ chết trong quân lính. Ở Kiếp môn bị tên bắn chết, ở Thanh lộ thì ra đường bị thương vong. Ở Thái dương* có vợ hoặc chồng tốt, ở Ngư vỹ * chủ chết ở chợ, ở Gian môn chủ chết đâm. Ở Thiên tỉnh chủ chết nước, ở Lâm trung là người thận trọng trong sạch, ở Phu tòa bị chồng chết.Ở Thuê Tòa bị chết vợ, ở Trường nam chủ khắc con nhỏ. Ở Kim quĩ chủ phá bại, ở Thượng mộ chủ không được chức quyền, ở Học đường chủ người vô học, ở Mạng môn chủ hỏa ách, ở Bậc sử chủ làm giặc, ở Anh môn chủ đói lạnh”.
– Thái dương vị trí: ở giữa đuôi lông mày và đuôi mắt lùi về sau khoảng 1 thốn (3,33cm) có chỗ lõm.

Nốt Ruồi trên Mặt – Đàn Ông (H3)

1. Yểu số 2.Cự phá 3. Khắc mẹ 4. Bạch Hổ 5. Khắc cha 6. Thanh cao 7. Tính tốt 8. Thanh long 9. Đại phú 10. Chết đường 11. Không nên đi xa 12. Tốt 13. Điền trạch 14. Quý hiển 15. Đại kiết 16. Ruộng vườn 17. Quan lớn 18. Phú Quý 19. Thông minh 20. Đại phú 21. Mất cướp 22. Yểu số 23. Tai nạn 24. Hỏa ách 25. Đại kiết 26. Phú 27. Xấu 28. Quan văn 29. Đại kiết 30. Chết nước 31. Tai ách 32. Xấu 33. Hỏa ách 34. Dâm ách 35. Hại con 36. Khắc mẹ 37. Hại vợ 38. Hại cha 39. Tốt 40. Xấu 41. Con chết 42. Không con 43. Ít con 44. Tốt 45. Có tài sản 46. Khắc vợ 47. Hại vợ 48. Quan ách 49. Ly biệt 50. Hiếu 51. Thông minh 52. Thủy nạn 53. Hại gia súc 54. No đủ 55. Nghèo khổ 56. Thọ 57. Thủy nạn 58. Giác khẩu (角口 hay cãi lộn, tranh chấp bằng lời nói) 59. Bần tiện 60. Khẩu thiệt 61. Ăn lộc 62. Chết vì rượu 63. No đủ 64. Thông minh 65. Phước lộc 66. Đại tài.

Nốt Ruồi trên Mặt – Phụ Nữ (H4)

1. Nhiều chồng 2.Mẹ chồng chết 3. Hại cha mẹ 4. Ít kẻ ăn người ở 5. Tái giá 6. Hại thân 7. Hại chồng 8. Ham sắc 9. Họa ách 10. Thọ 11. Hiếu sắc 12. Có chồng sang 13. Một đời chồng 14. Hưởng lộc 15. Tốt 16. Phước 17. Nhiều đời chồng 18. Một chồng 19. Không nên đi xa 20. Thông minh 21. Xung khắc 22. Chồng tốt 23. Đại phú 24. Chồng tốt 25. Xấu 26. Tốt 27. Nhiều con 28. Chồng sang 29. Chồng chết 30. Hại chồng 31. Mất cướp 32. Tốt lâu 33. Hiếu sắc 34. Ít con 35. Hỏa ách 36. Hại chồng 37. Xấu 38. Hại con 39. Chồng chết trước 40. Hiếu sắc 41. Có hiếu 42. Tự tử 43. Ghen tương 44. Chết nước 45. Bần tiện 46. Sinh đôi 47. Bần tiện 48. Sát con 49. Khẩu thiệt 50. Chồng bị hại 51. Thủy tai 52. Tật khổ 53. Bần tiện 54. Khẩu thiệt 55. Hại chồng 56. Có của 57. Có ăn 58. Thông minh 59. Có của 60. Thủy ách 61. Hại đứa ở.
Những điều kể trên chỉ là những điểm dễ thấy trên khuôn mặt. Ngoài ra nốt ruồi còn có thể mọc (hoặc từ lúc sơ sinh, hoặc tới một thời điểm nào đó trong đời) bất cứ ở đâu, trên mặt cũng như trên châu thân (chân tay, bụng, rún, cổ, âm hộ, dương vật v.v…). Do đó liệt kê tất cả với từng danh hiệu bộ vị riêng rẽ sẽ quá ruồm rà, nên soạn giả tóm tắt những ý nghĩa chính của nốt ruồi trên mỗi bộ vị thành từng sơ đồ, độc giả chỉ cần quan sát kỹ cũng đủ có một ý niệm khá rõ rệt về nốt ruồi.
Chú thích :
– Sơn căn là chỗ trũng ngay sóng mũi giữa hai khoé mắt.
– Hỏi : Nếu nốt ruồi không mọc đúng như trên hình vẽ thì không có sao phải không ? Hay là chỉ cần mọc ở điểm gần gần trên hình vẽ thì cũng tính như vậy ?
– Trả lời : Người ta thường nói có tin thì có linh, có kiêng thì có lành… Không có gì tuyệt đối, ngay cả với cái số của mình, vì : Tướng tùy tâm sinh – Tướng tùy tâm diệt -Tướng tốt xấu là ở cái tâm con người !  Vậy nếu có nốt ruồi ngay hay gần chỗ tốt thì hãy tin là tốt, nhưng có nốt ruồi ngay gần chỗ xấu thì… đừng tin.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *