PHONG THỦY HỌC – NCD. BÀI 4

PHONG THỦY HỌC – NCD. BÀI 4
Giới thiệu : Đã có rất nhiều người viết về thuật Phong thủy . Gần đây một người bạn của dienbatn : Trường Minh – có bút hiệu NCD là một nhà nghiên cứu Phong thủy giỏi và một người trong Huyền môn đã tổng hợp các sách cổ , tư liệu về Phong thủy để viết lại vấn đề này . Tuy chưa phải là đầy đủ và có một vài điều riêng dienbatn chưa nhất trí , song đây là một tài liệu tốt cho những người nghiên cứu Phong thủy . Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn . Nguồn lấy từ Hoangthantai.com. Thân ái . dienbatn.







4/. CÁC DỊCH VỤ ĂN UỐNG- NGHỈ NGƠI:



Nói đến ngành “công nghiệp không khói” thì đúng là một lĩnh vực hái ra tiền mà các nước có tiềm năng đều ráng đầu tư, khai thác. Du lịch càng mở mang, phát triển bao nhiêu thì kéo theo dịch vụ nhà hàng-khách sạn phát triển bấy nhiêu. Thêm vào đó chi chỉ số GDP của người dân tăng, thì nhu cầu hưởng thụ của họ cũng tăng theo. Sau một tuần làm việc căng thẳng, ai cũng muốn có những giây phút thư giản cùng hưởng thụ chung với gia đình, bạn hữu thân tình hay… người yêu, một bữa ăn ngon, một buổi party nho nhỏ, hay đơn giản là dùng một ly kem, uống cafe tán gẫu với bạn bè..vv… Hàng quán ngày càng mọc lên như nấm; khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ thì đầy rẫy. Trong sự cạnh tranh này, nếu có sự thiết kế hợp lý về mặt Phong Thuỷ tất nhiên cơ hội thành công sẽ cao hơn vậy.



Điều đáng lưu tâm đầu tiên của lĩnh vực này chính là địa điểm. Về mặt này, kinh doanh dịch vụ ăn uống- nghỉ ngơi đòi hỏi khó khăn hơn các loại hình khác. Vì sao? Khách đi mua hàng có thể đi bộ hàng giờ từ dãy phố này sang dãy phố khác để mua sắm, NHƯNG khách của loại hình này là đi xe đến tận nơi. Do đó điều kiện tiên quyết của loại hình này là địa điểm đó phải THUẬN TIỆN GIAO THÔNG. Một con đường một chiều xe chạy có thể buôn bán hàng hóa đắt là chuyện có thể thấy, nhưng một hàng quán trên đường một chiều mà mua bán đắt rất ít, phải nhiều mặt khác làm tốt mới có thể. Nơi đó phải có hoặc gần nơi giữ xe cho khách. Nơi cơ sở kinh doanh buôn bán hàng hóa kỵ các Hung sát hôi thối, ấn tượng xấu gì thì bên này càng khó chấp nhận. Chẳng ai muốn vừa ăn xong bước ra thấy trại hòm trước mặt cả; mà cũng không ai ưa ở khách sạn mà sáng sớm nhìn ra thấy một nghĩa trang thê lương… Nơi đó kết cấu Địa tầng phải chắc mới được, vì nơi đây có cả trăm mạng người ăn uống- nghỉ ngơi- làm việc, nếu có sự cố gì thì thật không thể tưởng tượng nổi hậu quả sẽ thế nào. Tư tưởng Phong Thuỷ rất cầu kỳ về Địa chất, cho rằng Địa chất tác động không nhỏ đến cơ thể con người. Các vùng đất có chứa nhiều nguyên tố vi lượng kẽm, fluor, selen chịu tác dụng quang hợp phóng xạ vào không trung, trực tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ con người. Các vùng đất có sóng từ trường mạnh rất nguy hiểm, có thể làm tổn thương con người, tác động trực tiếp lên hệ thần kinh trung ương, khiến người ở nơi đó hay bị choáng đầu, chóng mặt, thần kinh suy nhược, thậm chí có thể bị bệnh thần kinh. Trong “Thập Nhị Trượng Pháp” của Dương Quân Tùng đời Đường cũng có nói:



Trấn xung trung sát bất kham thiên



Đường khí quy tùng tại lưỡng biên



Y mạch sảo ly nhị tam xích



Pháp trung khai trượng tối tam nguyên.



Tức khi có xung sát hay khí địa long (nay gọi là từ trường) quá mạnh, phải tránh sang hai bên trung tâm mạch khoảng 2- 3 thước mà định huyệt mới tốt. Lại thêm phía dưới đất nơi đó 3m có dòng chảy hay nơi hội tụ của hai giòng chảy, có thể tạo ra sóng từ mạnh hơn nơi khác. Nó khiến cho người ngụ nơi đó thường hay bị đau đầu, chóng mặt, nội tiết không điều hòa. Các vùng đất ẩm thấp cũng không thích hợp cho khách sạn, nhà nghỉ. Nó khiến người ở đó bị viêm khớp xương, tim do ảnh hưởng phong thấp, bệnh da liễu. Cho nên kết cấu Địa tầng vùng đất được xem trọng không có gì là khó hiểu cả, nó cần phải được xem xét kỹ trước khi xây dựng. Ngày xưa các nhà Phong Thuỷ không biết đó là từ trường gì, chỉ cảm nhận kim nam châm dao động mãi, họ cho đó là điểm bất tường nên không chọn vậy.



Không chỉ về mặt địa chất, Phong Thuỷ còn phải chú trọng tính hợp lý của loại hình kinh doanh. Muốn mở ra dịch vụ ăn uống- nghỉ ngơi khó hơn các loại hình kinh doanh khác, ở chỗ nó phải được tiếp thị một cách kỹ lưỡng trước khi quyết định xây dựng. Phải điều nghiên xem nơi ta muốn làm là tỉnh thành thuộc loại gì? Tính chất của tỉnh thành góp phần không nhỏ vào việc định hình kinh doanh dịch vụ này. Thí dụ như đó là thành phố du lịch, thì lý tưởng đấy nhưng chỉ có thời vụ, không có tính thường xuyên. Nơi đó là tỉnh thành sàn xuất và tiêu thụ hàng hóa, thì mở khách sạn ra chắc đầu Xuân một người khách, cuối Hạ một người khách ghé qua mất. Nơi lý tưởng nhất cho loại hình này là các tỉnh thành thương nghiệp, buôn bán sầm uất, buôn bán nhiều mặt hàng. Ngoài ra ta còn phải điều nghiên xem tình hình của người dân nơi đó sống thế nào? Khá giả hay nghèo nàn hay giàu có? Tiêu pha rộng rãi hay chi ly từng cắc? Một nơi mà người dân ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, ta đến mở nhà hàng ra chỉ để… đuổi ruồi thôi. Chúng ta còn xét đến các tuyến giao thông của nơi đó, có sân bay nội địa- quốc tế gì không? có tuyến đường xe lửa nào? Bến cảng, bến tàu có không? Nói chung, từ những tuyến, những trục giao thông đó xác định sơ nét về lượng khách từ nơi khác đến. Tất cả những phần thuộc tính chất của tỉnh thành này phải được xem xét kỹ trước khi mở ra kinh doanh. Người thầy địa lý thì chỉ làm công tác chuyên môn, NHƯNG người cố vấn Phong Thuỷ cho lĩnh vực kinh doanh không chỉ giỏi chuyên môn của mình, mà bắt buộc phải thông hiểu, am tường cả lĩnh vực tiếp thị này nữa. Vì phải tiếp xúc thị trường mới hiểu được cung, cầu ra sao, có như vậy mới cố vấn cho khách hàng được. Nói đến lĩnh vực này, NCD xin được nói rộng thêm một tý cho lĩnh vực nhà nghỉ, nhà trọ, khách sạn. Bởi dạng hình kinh doanh này không chỉ phục vụ khách du lịch, mà rất phức tạp. Trước tiên, ta phải nhìn nhận vấn đề trai- gái yêu đương thời nay khác xưa. Ngày trước còn bảo “nam nữ thọ thọ bất tương thân”, chứ các cô cậu ngày nay dám nói “nam nữ cọ cọ…mát da lưng” lắm đấy. Cho nên, chỉ cần hơi thân thân một tý mà nhiều cô cậu đã đưa nhau vào nhà nghỉ, nhà trọ mà tâm tình. Các dịch vụ mại dâm sa đọa cũng chiếm một lượng khách không nhỏ trong loại hình kinh doanh này, từ các khách ăn chơi xoàng xoàng, cho đến các Đại gia tiêu tiền như nước, các quan chức địa phương đều có cả. Cho nên khi tiếp thị Tiền kinh doanh cần phải để ý nếp sống, dân sinh; hay nói trắng ra là lưu tâm đến quan điễm chung về quan hệ tình dục ngoài hôn nhân- tiền hôn nhân của người dân vùng đó (các quan chức thì có lẽ “không có con mèo nào chê mỡ cả”, chẳng qua do hoàn cảnh nào đó chưa cho phép thôi, cả Clinton còn có mà!). Các hoạt động Tín Ngưỡng, Tôn Giáo lớn, các nơi gần chùa chiền miếu mạo (như vùng gần Tòa Thánh Tây Ninh, gần núi Bà Đen, gần Núi Bà Chúa Xứ…); các danh lam thắng cảnh nổi tiếng (như vùng gần Vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Nha Trang…)… các nơi đó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến lượng khách của loại hình kinh doanh này.



Còn một yếu tố nữa không kém phần quan trọng, đó là “tri bĩ, tri kỷ, bách chiến bách thắng”. Khi ta đến nơi đó, trước tiên phải nắm rõ ở đó đã có những đối thủ nào. Tìm hiểu thật kỹ về từng đối thủ của mình phải gặp trong tương lai, là một điều vô cùng có lợi cho kinh doanh sau này.Từ chất lượng ăn uống, cung cách phục vụ, không gian bài trí, giá cả món ăn, vệ sinh… của các dịch vụ ăn uống; cho đến chất lượng của trang thiết bị, cung cách phục vụ, địa thế, đằng cấp, qui mô… của các dịch vụ nghỉ ngơi. Tất cả phải có sự thống kê để đánh giá năng lực, tiềm năng, tầm cỡ của đối thủ cạnh tranh với mình. Có như vậy, khi chúng ta mở ra kinh doanh mới có thể thắng được.



Người ta thường nói: “ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, cưới vợ Nhật”, câu nói này gần như ai cũng từng nghe qua ít nhất một lần trong đời. Nay hiểu rộng câu này ra, NCD thấy nó rất thích hợp cho lĩnh vực kinh doanh ăn uống- nghỉ ngơi. Một điểm phục vụ ăn uống nghỉ- nghỉ ngơi không có gì quan trọng bằng ba yếu tố chính: Khung cảnh (tức vùng không gian nơi đó, quang cảnh hữu tình, bài trí bắt mắt..)_ Chất lượng (món ăn, thức uống đều ngon, đặc sắc; trang thiết bị phục vụ nghỉ ngơi thì đầy đủ, tiện nghi…)_ Cung cách phục vụ (đúng với phương châm “Khách là Thượng Đế”, “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, làm sao cho khách cảm nhận khi đến đó họ được săn sóc tận tình, được đối xử trân trọng mà lại niềm nở, thân tình như người thân trong nhà vậy). Đạt được ba yếu tố này thì không khó để nắm thành công trong tay.



Hôm qua NCD xem thời sự trên tivi, thấy có nói đến một công ty ở Hà Nội, kinh doanh nhà ở nơi các chung cư cao cấp, lại có cách hành xử “tiền hậu bất nhất” như thế sao gọi là “cao cấp” được. Khi xét đến yếu tố Phong Thuỷ trong lĩnh vực ăn uống- ngủ nghỉ ta không thể bỏ qua được phần tính chất và quy mô của nó. Tức là, giả như các bước ban đầu ta đã thực hiện xong, đã đi vào kinh doanh (nghĩa là giống như công ty nói trên đã bán xong nhà cho người dân mua), xin đừng xem nhẹ hai yếu tố Tính chất & Quy mô mà hỏng mất việc kinh doanh, uổng phí bao tâm huyết lúc đầu. Không vị khách nào muốn bỏ một món tiền gấp 3-4 lần quán ăn nơi khác cho một món ăn chẳng ra hồn, còn thua cả quán vỉa hè. Cũng như không ai chịu trả tiền theo mức khách sạn 4-5 sao cho một phòng mà tiện nghi thiếu kém, phục vụ tồi tệ được. Nếu chúng ta không làm tốt mặt này, thì một đồn mười, chục đồn trăm, chắc chắn điểm kinh doanh của chúng ta phải đóng cửa thôi, vì sẽ không ai đến ủng hộ một nơi như thế nữa.



Nói chung các khâu trên chúng ta có thể khống chế được qua khâu Tiếp thị & Quản lý kinh doanh, NCD không muốn bàn sâu thêm. Cũng như đối với các trường hợp khác, Cửa chính là một yếu tố quan trọng trong bất kỳ cơ sở hay nhà ở nào. Và nó cũng cùng một nguyên tắc chung như các cơ sở- doanh nghiệp trên kia, nên NCD không lập lại ở đây. Riêng nhà nghỉ- khách sạn cần lưu ý đến ngoại cảnh hơn nữa, bởi khách của họ là khách ngủ lại chứ không phải mua hàng hay ăn xong rồi về. Cho nên đôi khi có những kiến trúc hay hình thể bên ngoài làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của khách, tức là trực tiếp ảnh hưởng đến lượng khách của nơi này. Ánh sáng đèn ban đêm ở cửa phải hấp dẫn khách.



Do tính Âm bên trong khách sạn- nhà nghỉ, nên bên ngoài cần bố trí Dương làm chính, từ Tiền sảnh ra cổng cho đến bên ngoài: màu sắc thuộc Dương (không dùng gam màu sẫm, tối), ánh sáng thuộc Dương (ban đêm không dùng đèn mờ tối, ban ngày không để âm u). Tiền sảnh phải rộng lớn, thoáng, sáng sủa, nên có vài bộ bàn ghế (phù hợp với qui mô & đẳng cấp của khách sạn) để khách ngồi nghỉ, chờ đợi. Các khách sạn lớn thường có một quầy rượu hay bar giải khát nhỏ nơi Tiền sảnh, để khách có thể ngồi uống nước với bạn nào mà họ không muốn đưa lên phòng, vừa có thể tăng thêm doanh thu cho khách sạn. Như khách sạn 5 sao Hilton ở Thượng Hải cũng vậy. Không những thế, họ còn bố trí một bồn phun nước nhỏ nơi Tiền Sảnh, một tác động rất hay giúp Khí luân lưu khắp nơi, lan tỏa vào trong; lại đặt một bình hoa tươi thật lớn ngay Tiền Sảnh, mỗi ngày mỗi thay hoa mới, vừa bước vào cửa đã thấy ngay, tạo cho khách một ấn tượng tươi mát, dễ chịu ngay.



Khách sạn quan trọng nhất chính là Phòng Ngủ của khách bên trong. Chất lượng phòng tốt xấu trực tiếp ảnh hưởng đến giá cả thuê phòng & hình tượng khách sạn. Chiều cao trần phòng không nên quá 2m80, cao quá có cảm giác trống trải, thấp quá có cảm giác bị đè nén. Nên dùng các gam màu nhạt cho các phòng ngủ. Trong phòng ngủ khách sạn luôn đi kèm một phòng vệ sinh, cửa phòng vệ sinh không nên mở trực diện vào giường ngủ. Trong phòng vệ sinh phải sạch sẽ, cao ráo, thoải mái, thoáng khí, gam màu cũng nên nhạt. Có một điều mà trên kia NCD đã nói, là Tính chất & Qui mô, nay xin nhắc lại vì nó rất quan trọng: Nên thường xuyên kiểm tra hệ thống đèn, ống nước, máy điều hòa không khí, cable ti-vi, bồn cầu, máy nước nóng, tránh để khách phiền lòng. Khi thiết kế phòng nên cố gắng sao cho mỗi phòng đều đón được ánh mặt trời, và nhìn ra quang cảnh đẹp bên ngoài (như khách sạn Sheraton ở Hàng Châu- Trung Quốc nhìn ra cảnh thơ mộng tuyệt vời của Tây Hồ, như khách sạn Palace ở Đà Lạt nhìn ra Hồ Xuân Hương hữu tình…)



Các khách sạn- nhà nghỉ nên chừa khoảng không gian để xe có thể đậu lại, ít nhất cũng là để xuống khách. NCD không hiểu các quan chức Việt Nam ta đi ra nước ngoài tham quan cũng nhiều, chẳng biết họ có chịu tìm hiểu, học hỏi như mục đích của chuyến đi hay không, tại sao không tiếp thu được những cái hay của người về áp dụng? Trong đó có cả vấn đề qui hoạch đô thị, hiện đang còn nhiều điểm rất bất hợp lý. Ở một thành phố khuyến khích du lịch, muốn du khách đến mà đâu đâu cũng cấm đậu xe, thử hỏi sao khách có thể dừng ở khách sạn hay đi mua sắm thoải mái được? Có khi tài xế chạy vòng vòng cả chục con đường vẫn không có được một chỗ cho phép xe 12 chỗ đậu lại. Thật nghịch lý không thể tưởng! Đúng là “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, một bên là khuyến khích, một bên là cản trở, đấy là một cái khó cho các doanh nghiệp nhà hàng- khách sạn ở Việt Nam hiện nay. Trong khi chờ có sự qui hoạch hợp lý, trước tiên chúng ta tự mình hãy hoàn thiện, khắc phục điểm đó theo cách của mình. Nghĩa là trước khi mở ra nhà hàng- khách sạn hãy nghĩ đến tìm không gian để xe khách đỗ lại trước đã, vì ở Việt Nam ta có mùa mưa, nếu xe khách vào tận cửa thì sẽ tiện lợi rất nhiều vậy. Và có một điều này tuy không nằm trong lĩnh vực Phong Thuỷ, nhưng NCD thấy thực tiễn ở xứ bạn và nghĩ nó có thể giúp ích cho các doanh nghiệp khách sạn, nên xin giới thiệu ra đây. Lúc ở Thượng Hải, NCD thấy các nhân viên bảo vệ ở khách sạn Hilton rất cẩn thận, với khách du lịch họ luôn ghi lại số xe khi khách bước lên bất kỳ xe taxi nào trước cửa khách sạn họ. Điều này khiến du khách sẽ cảm thấy rất an tâm, họ cảm giác mình luôn được quan tâm, bảo vệ ngay cả lúc đi ra ngoài (bởi du khách có sự cố gì hay vắng mặt quá lâu, họ sẽ báo cảnh sát về số xe taxi mà khách đã lên ngay, điều này khiến xe taxi nào muốn lừa gạt khách cũng không dám làm ẩu). Một động tác nhỏ nhưng tạo ấn tượng tốt đẹp không nhỏ trong lòng du khách vậy.



Với các nhà hàng- quán ăn, quan trọng nhất là cái Bếp. Đa phần khách đến ủng hộ một quán nào đó là vì thức ăn ngon nhiều hơn là vì khung cảnh (Đổi lại, quán cafe đa phần là vì khung cảnh- âm nhạc là chính). Nhưng các món ăn ở các quán đa phần đều tầm tầm như nhau, khác chăng là ở mỗi quán có một món như là đặc trưng riêng của họ thôi. Cho nên, lấy ưu bù khuyết, cung cách phục vụ và khung cảnh, trang trí sẽ giúp thêm cho phần khẩu vị của khách vậy. Nhiều khi quán không làm món ăn xuất sắc lắm, nhưng các nhân viên phục vụ quá tận tình, chu đáo khiến cho khách… không nỡ bỏ đi quán khác ăn (thôi thì ăn ở đâu cũng same same như nhau, sao mình không đến chỗ nào tiếp đãi mình chu đáo hơn chứ?!). Hay có những nơi bài trí cực kỳ đẹp, khiến ai có tổ chức tiệc tùng đều nghĩ ngay đến nơi ấy, đấy cũng là một lợi thế kinh doanh lĩnh vực này vậy. NCD không bàn sâu ở hai mặt “bù lỗ” này, mà chỉ đưa ra những điều cần thiết về Phong Thuỷ trong nhà hàng- quán ăn thôi.



Bước vào một nhà hàng, một quán ăn thì chính trên cái lối ra vào ấy cũng đã góp phần tạo khung cảnh cho bữa ăn rồi vậy. Đây chính là “ấn tượng đầu tiên” của khách đối với loại hình kinh doanh này. Nên tránh cửa ra vào dẫn ngay vào các bàn ăn, vì nó có hai điều bất lợi:



_ Thứ nhất, với khách đang ngồi ăn nơi đó, họ sẽ cảm thấy ngượng vì luôn đập vào mắt những người đi ngang qua cảnh họ đang ăn, sẽ mất cả tự nhiên, thoải mái.



_ Thứ hai, với những khách vừa đến. Những người đang ăn cũng sẽ ngoái đầu nhìn xem ai đang vào (tâm lý là vậy), làm cho vị khách mới này thấy ngượng vì trở thành trung tâm chú ý của mọi người, như thế thật khó chịu.



Tạo một cảm giác thoải mái cho khách chính là ưu tiên bước đầu khi khách vào vậy. Nếu là một nhà hàng, một quán ăn lớn nên thiết kế một bàn tiếp tân, có nhân viên tiếp tân chào mời, đón khách vào khu vực trong, bàn giao cho nhân viên phục vụ bên trong. Như vậy sẽ tạo cho khách cảm giác mình được xem trọng, được ưu ái, tự dưng trong lòng họ sẽ nảy sinh thiện cảm ngay. Trong bước đầu tiên tiếp xúc với khách này, người nhân viên tiếp tân đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vì đấy chính là người đầu tiên tiếp xúc với khách hàng, việc mua bán với khách- ở bất kỳ dạng kinh doanh mua bán nào- thì người đầu tiên tiếp xúc với khách cũng rất quan trọng, quyết định việc mua bán thành hay không cũng một phần từ bước đầu tiên này. Người nhân viên tiếp tân không những phải tươi cười, vui vẻ mà còn phải ăn nói nhã nhặn, lịch sự, cởi mở, thân thiện với khách. Chỉ cần một ánh mắt ôn nhu trìu mến cũng khiến khách cảm thấy thân thiện hơn ngay (nhưng nếu người ta đi có đôi, mà cô nhân viên tiếp tân cứ nhìn “anh khách đẹp trai” mà chớp mắt làm duyên mãi, thì e rằng cặp khách này sẽ không ghé lại lần sau rồi). Không thể thủ bộ mặt u ám buồn xo ra mà tiếp khách (mọi việc buồn bã gì đều phãi gác lại bên ngoài), hay một gương mặt bơ phờ thiếu ngủ, gặp khách là…” liếc mắt đưa ghèn” thì nguy quá. Do đó, yếu tố thành công trong kinh doanh được xem trọng nhất với một người chủ là: Biết dùng đúng người vào đúng việc & thiết lập một quan hệ thân thiết với các nhân viên. Có như thế nhân  viên mới làm việc hết mình & phát huy hết khả năng của họ. Xin hãy nhớ cho vậy!



Các sách Phong Thuỷ bày bán trên thị trường nêu lên cách dùng gương trong nhà hàng- quán ăn để “tạo hiệu ứng” tăng lượng khách- tăng doanh thu. NCD rất tán đồng cách này. Cashier (quầy thu ngân) nên đặt ở vị trí chéo góc với cửa ra vào, đây là vì trí có tầm nhìn bao quát toàn cảnh trong nhà hàng. Một người quản lý có thể đứng gần đó quan sát khắp các bàn để điều động, hỗ trợ cho nhân viên khi cần thiết. Nếu góc chéo đó là cung Tài Lộc hay cung Quý Nhân thì quả là trên cả tuyệt vời!



Hãy lưu ý các góc cột vuông vức trong nhà hàng, quán ăn, vì các cạnh sắc bén cũa nó sẽ tạo ra Sát khí. Có vài cách hóa giải nó, nhưng đơn giản hơn hết là dùng dây leo thả theo các cạnh của nó. Nếu có thể, hãy sắp xếp các bàn tránh xa lối đi chung. Vì cung cách phục vụ nhà hàng buộc nhân viên phải bưng khay bằng một tay, họ cứ lượn qua lượn lại với khay thức ăn sẽ làm cho khách ngồi hai bên lối đi thấy phập phồng, “chả biết lúc nào mấy anh chàng này quẳng cái đống thức ăn trên mấy cái mâm kia vào người mình nữa đây?!”. Thật là khó chịu đấy! Làm ăn mất cả ngon. Ngay cả các khu vực gần Bếp cũng thế, nên tránh xa ra. Vì đó là nơi rất chộn rộn người lui kẻ tới, lại thêm mùi dầu mỡ chiên xào trong Bếp có thể làm thực khách ăn không còn thấy ngon nữa.



Màu sắc cũng góp phần trong việc này, các gam màu nóng như đỏ, cam, hồng thuộc Dương, chúng có tác dụng kích thích tính thèm ăn (điều này có phần giống trong thuyết A6m Dương Khí Công của Thầy Bùi Quốc Châu). Chính điều này dẫn đến lời khuyên các nhà hàng- tiệm ăn nên trang trí các gam màu nóng trên. Và trong các sách bày bán trên thị trường hiện nay, các tiền bối trong nghề này có một sự nhầm lẫn về cách giải thích, khi cho rằng vì tiệm ăn thuộc hành Hỏa nên phải dùng màu đỏ. Thực ra, tuy nhà hàng- quán ăn thuộc hành Hỏa, nhưng nếu ta thêm hành Hỏa thì nơi đây Hỏa khí quá vượng, sẽ tạo ra sự mất cân bằng trong Âm Dương, Ngũ Hành là cái hại thứ nhất. Với các nhà hàng- quán ăn bán Hải Sản tươi sống thì càng không nên dùng, vì màu đỏ là màu của tôm cá chết, đó là cái hại thứ hai, trường hợp này phải dùng gam màu xanh lá cây đậm. Trong các nhà hàng- quán ăn, việc bố trí thêm hai Hành Thủy & Mộc là rất cần thiết. Bởi nó có tính làm mát dịu cái Dương khí quá thịnh trong nhà hàng- quán ăn, điều có thể gây ra tranh chấp, thậm chí xô xát. Những chậu cậy xanh bố trí hợp lý, những hồ cá, những bức tranh sông biển với trời nước bao la tạo một cảm giác thư thả, đằm tính, lại có hiệu ứng tăng việc kinh doanh (vì nước là Thủy là chủ Tiền tài; hai nửa là Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa). Nhất là khi đặt đúng chỗ thuộc cung Bát Quái, nó sẽ hỗ trợ cho sự nghiệp, cho Tài Lộc, cho danh tiếng của nhà hàng ăn. Tránh làm toilet hay phòng ngủ của nhân viên ngay hướng Nam, thanh danh nhà hàng sẽ bị vùi xuống bùn nhơ đấy.



Với các quán fast-food, nhu cầu nơi đây là phục vụ càng nhiều khách càng tốt, và làm sao phục vụ được nhiều khách trong thời gian ngắn nhất. Do vậy, các nơi này cần chú ý nhất là lối ra vào phải rộng rãi, ở nơi dễ nhìn thấy nhất. Bàn ghế cho các quán fast-food này nhiều nơi chỉ là những bàn ghế nhỏ thô sơ. Nhưng theo NCD, nên dùng các bàn ghế nhiều màu sắc, như ba màu xanh- đỏ- vàng, tạo cảm giác vui mắt. Các cửa hàng fast-food thường đi kèm với các trung tâm mua sắm, nên màu sắc thích mắt sẽ dễ lôi cuốn khách đến đó hơn.



Với các quán bar, quán cafe thì nên lưu ý vấn đề trang trí. Chất lượng thức uống tuy quan trọng nhưng không bằng cái “không khí” nơi đó. Nơi này, sự trang trí một cách nghệ thuật & âm nhạc có tính cách chọn lọc là hai yếu tố góp phần không nhỏ trong việc quyết định thành công vậy. Màu sắc nơi đây thường dùng gam màu tối không phản xạ ánh sáng, vì ánh sáng nơi đây không thể sáng rỡ được. Vào một quán cafe mà đèn sáng choang như quán ăn, thật khó mà có hứng tán gẫu. Chung qui, nơi đây thích hợp với hành Thủy, sự tĩnh lặng (nhạc chỉ mở vừa phải để khách có thể nói chuyện thoải mái, không phải hét vào tai nhau mới nghe được), không gian ánh sáng mờ. Cũng như quán ăn, quầy thu tiền nên đặt ở vị trí có tầm nhìn bao quát.



Bây giờ NC mới nói đến vấn đề mà lẽ ra phải nói từ đầu, đó là: Ðặt tên cho doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh. Khổng Tử có nói: “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”. Qua đó ta có thể thấy cái tên quan trọng thế nào. Với người thì tên họ có thể bổ cứu cho sự thiếu sót trong năm tháng ngày giờ sinh. Chính vì vậy mà tục ngữ Trung  Quốc có câu: ” Cho con ngàn vàng chẳng bằng dạy cho con một nghề tốt, dạy con một nghề tốt chẳng bằng đặt cho con một cái tên tốt”. Sinh cùng năm tháng ngày giờ mà có số phận khác nhau là do nhiều yếu tố, trong đó cái tên cũng góp một phần vậy.



Ví dụ như: Người sinh năm Hợi, mà:



_ Trong tên có chữ Ngư (như Giao,Tuyết của cá tuyết..), chữ Mễ (như Phấn, Lương, Đường, Trang…), chữ Đậu (như Đăng, Phong, Diễm…): Phúc Lộc song toàn, danh lợi vĩnh tại, phú quý câu cát.



_ Trong tên có chữ Đao (như Lợi, Tiền là trước, Cương, Kiếm..), chữ Lực (như Thắng, Dũng, Công, Cần, Huân của huân chương…), chữ Thạch (như Thạch, Sa là cát, Bích của ngọc bích, Khánh…), chữ Mịch (như Văn, Thuần, Sa là lụa, Lũy của tích lũy, Huyền, Nhung, Tuyến, Duyên…): Bệnh nhược đoản thọ hoặc kỵ xa phạ thủy, lao lệ nhất sinh hoặc hình khắc phụ mẫu, hình ngẫu thương tử, đa tai ách hoặc ác tử hung vong chi ách.



……



Còn nhiều trường hợp nữa cho các bộ chữ Hán có trong tên của người sinh năm Hợi. Chỉ qua hai trường hợp trên ta cũng thấy số mệnh họ khác nhau một trời một vực, chỉ vì cái tên đặt khác nhau thôi. Dẫn chứng trên đây để các anh chị, các bạn thấy rõ cái tên góp phần không nhỏ vào vận mệnh con người, hầu khi có gia đình hãy đặt cho con mình cái tên mang nhiều vận may cho chúng.



Cũng như vậy, với doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh, nhưng nó phức tạp hơn một tý, vì nó còn phân ra loại hình gì. Ví dụ: Quán ăn có thể đặt tên NGON được, nhưng một doanh nghiệp mà đặt tên này nghe thấy kỳ quái liền; quán cafe có thể đặt tên “Điểm hẹn” được, nhưng công ty mà đặt tên này nghe không ổn, chắc quý phu nhân không ai muốn các ông chồng của mình đến những nơi có cái tên này, như một sự báo trước cho việc lăng nhăng bên ngoài rồi.



Cho nên, yếu tố đầu tiên phải là hợp lý, hợp với ngành nghề, hợp với loại hình kinh doanh, hợp với đẳng cấp của doanh nghiệp- của cơ sở. Cho dù có lựa được cái tên hợp với các yêu cầu của việc đặt tên, mà không hợp lý thì hãy dẹp đi, cho dù đó là sự chọn lựa của một ông thầy Phong Thuỷ nổi tiếng nào cũng thế. Và lẽ tất nhiên, cái tên hợp lý ấy phải mang một ý nghĩa tốt đẹp, đó chính là điều cần thiết thứ hai_ điều này cũng thuộc trong 9 tiêu chuẩn chọn tên, nhưng do tính quan trọng của nó nên NCD tách ra đây nói thêm. Không ai muốn cái tên doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh của mình vừa đọc lên là nghe như Điềm gỡ liền. Cái tên với ý nghĩa xấu thì tự nó đã tạo ra mặt lo âu về tâm lý cho chúng ta, mặt khác, khách hàng- đối tác cũng không muốn nhắc cái tên có ý nghĩa không may trên cửa miệng họ, như sợ vạ lây vậy. Vô hình chung tự ta cắt đứt sự giao tiếp với khách hàng- đối tác. Cái tên gợi lên điềm lành, may mắn ai cũng thích gọi cả, cũng như ngày Tết ai cũng muốn người có cái tên ý nghĩa tốt đẹp đến xông nhà vậy thôi. Hai yếu tố trên đây là tính hợp lý- tâm lý. Cái chính trong việc chọn tên cơ sở kinh doanh-doanh nghiệp theo Phong Thuỷ là phải hợp Âm Dương, Ngũ Hành. Cách chọn tên theo Phong Thuỷ trước đây vốn cũng như khoa Phong Thuỷ huyền bí này, được truyền từ Trung Quốc sang, cho nên chọn theo chữ Hán là chính. Các tên cơ sở như: Đại Thành, Đại Phú, Đại Phát, Kim Lợi, Thụân Thành, Thuận Phát.. đều lấy theo ý nghĩa chữ Hán cả đấy thôi. Thuật lấy tên này người ta căn cứ vào 9 điểm sau để chọn:



_ 1 là Ý nghĩa cát lành (như đã nói ở trên).



_ 2 là hợp Âm Dương, tính ra số nét của từng chữ, số nét lẽ là Dương, số nét chẵn là Âm. Cái tên phải Âm Dương liên tiếp hoặc đối xứng.



_ 3 là phải hợp Ngũ Hành, tính số nét như trên rồi quy ra Ngũ Hành (với 1-2 Mộc, 3-4 Hỏa, 5-6 Thổ, 7-8 Kim, 9-10 Thuỷ, trên nữa thì cứ trừ đi 10 cho đến khi số đó từ 10 trở xuống). Các chữ phải theo thứ tự tương sinh, không được tương khắc.



_ 4 là tổng số nét của các chữ phải là số tốt theo Dịch Lý. Trong điều này thì bên Dịch Lý cũng đã soạn ra sẵn các số từ 1 đến 81 nét có ý nghĩa thế nào.



_ 5 là cái tên quy đổi ra Ngũ Hành phải là Hỷ Dụng Thần của Bát Tự người chủ doanh nghiệp- cơ sở, hay Giám đốc công ty. Tức là phải tính năm tháng ngày giờ sinh của người đó, tìm Hỷ Dụng Thần trong Tứ Trụ của người đó (đây là công việc chuyên môn với người Đoán mệnh qua Tứ Trụ), xem Hỷ Dụng Thần đó thuộc Ngũ Hành gì, tên quy ra Ngũ Hành (trên Tổng số nét) so xem phải hợp mới tốt.



_ 6 là cái tên quy đổi Tổng số nét ra Ngũ Hành phải bù vào chỗ khuyết (nếu có) của Ngũ Hành trong Bát Tự ngày sinh của người chủ doanh nghiệp- cơ sở hay Giám đốc công ty.



_ 7 là cái tên quy đổi Tổng số nét ra Ngũ Hành phải phù hợp với ngành nghề của doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh.



_ 8 là cái tên đó phát âm lên phải thuận miệng, xuôi tai chứ không trúc trắc khó phát âm.



_ 9 là Tên phát âm lên không trùng âm với chữ mang ý nghĩa xấu. Vì chữ Hán Đồng âm rất nhiều. Ví dụ như: Hàn Uyên và Hàm Oan đều có cách phát âm na ná (hán yuan); Sử Thi và Tử Thi (si shi) có cách phát âm na  ná….







Khi cái tên viết trên bảng hiệu, phải chú ý màu sắc phối hợp trên bảng. Trong các màu phải có một màu làm Chính Sắc, đấy chính là màu khuyết trong Ngũ Hành của Bát Tự ngày sinh của chủ doanh nghiệp- cơ sở:



_ Khuyết Thổ, Kim: dùng màu Vàng, Trắng làm chủ.



_ Khuyết Hỏa, Thổ: dùng màu vàng, Đỏ làm chủ.



_ Khuyết Mộc, Hỏa: dùng màu Xanh da trời nhạt, đỏ làm chủ.



Cứ theo đó mà suy ra vậy.







Cách treo bảng hiệu cũng tùy hướng của doanh nghiệp.



_ Các hướng Bắc, Tây Bắc, Nam, Đông Nam: Nên treo cao vừa phải, quá cao sẽ ngăn chận dòng khí & đẩy khí Dương tăng lên nhiều khiến mất cân bằng Âm Dương.



_ Hướng Đông: Là hướng mặt trời mọc, tượng cho sự phát triển nên cần treo cao.



_ Hướng Tây: Là phương Bạch Hổ, nên treo cao vừa phải, nếu thấp quá sẽ có sự va chạm giửa các nhân viên.



_ Hướng Đông Bắc: Nên để thấp.



_ Hướng Tây Nam: Nên cách mặt đất cỡ 6m.







Về kích thước bảng hiệu (cả card visit) NCD cũng xin nhắc lại một lần nữa với các anh chị, các bạn, xin đừng quên: một chiều kích thước Dương, một chiều kích thước Âm.



Với nhà hàng- quán ăn- quán cafe, có người thích đặt theo số cho dễ nhớ. trong việc chọn số, thường xưa nay người ta chọn theo cách của người Hoa, là lựa những số Đồng Âm với những chữ mang ý nghĩa tốt đẹp, thuận lợi. Sau đây, NCD xin đơn cử một vài số:



_ 1: duy nhất, chỉ một.



_ 2: dễ.



_ 3: sanh (tam sanh hữu hạnh), là số tượng cho Tam tài.



_ 4: Tử (chết) => suy sụp, chết chóc, tàn tạ.



_ 5: số của Hoàng Cực; vô (không).



_ 6: Đồng Âm với Lộ (con đường), Lộc (tài lộc), số tượng cho Trời.



_ 7: Thất (mất).



_ 8: Đồng Âm chữ Phát (phát đạt), số tượng cho quẻ Khôn (đất).



_ 9: số tượng cho Cửu Nghi, Cửu Đỉnh, Cửu Cung.



_ 10: Thập toàn thập mỹ, kết hợp thủy chung.



_ 11: Trước sau như một.



_ 22: Dễ dàng, thuận lợi.



_ 33: hai lần sanh. Trong Dịch có nói “Tam tam, lục lục biến hóa vô cùng” => Phát đạt.



_ 24: dễ chết, dễ sa sút, dễ suy sụp.



_ 14: chỉ có một chết => phải lụn bại.



_ 34: chắc chết => phải lụn bại.



_ 16: nhất lộ => mãi vận chuyển, mãi vận hành.



_ 26: Đồng Âm với hai chữ “Y Lộc” => No ấm.



_ 76: thất lộc => mất tài lộc.



_ 53: vô sanh ==> thiếu sanh khí => khó vượng phát lên được.



_ 54: vô tử ==> không chết => sống còn.



_ 74: thất tử ==> mất chết => sống, hoạt động được.



_ 168: Đồng Âm với 3 chữ “Nhất Lộ Phát” => chỉ có 1 con đường phát đạt.



_ 909: con số này có một lai lịch mà có lẽ hầu hết người Việt nào đi vượt biên đường biển sau 1975 đều có nghe. Con tàu mang số 909 này bị cướp 9 lần, không ai trên tàu nghĩ rằng mình có thể sống sót sau từng ấy lần bị cướp. Khi sang đến Mỹ, các Thầy bói, chiêm tinh, Phong Thuỷ gì gì… mới dựa theo đó mà luận rằng: “Chín mà không có chín, tức là sống vậy”, nó cũng như 404 “Xỉ mà không xỉ, chết mà không chết” vậy. Đấy là một ý dựa trên sự việc đã xảy ra rồi mới luận, nhưng nghe có vẻ hợp lý nên NCD đưa ra cho các anh chị, các bạn xem thử.



_ 78: Con số này rất nhiều người khoái, vì hai lý do: Thứ nhất, số 38 theo số đề là Thần Tài thì 78 phải là Đại Thần Tài rồi. Thứ hai, trong tiếng Quảng Đông, hai chữ này phát âm nghe như “xách bạc”. Chính vì vậy mà không ít người tìm mua số xe, số điện thoại… đều thích số này. Nhưng với NCD, thì NCD đã từng khuyên nhiều người không nên (dĩ nhiên họ không tin và đã gặp thất bại, cái này là thật chứ không phải NCD nói đùa đâu đấy). Vì sao? vì 7 & 8 là thất bát, có ai muốn mình bị thất bát không? Đã dùng đến ý nghĩa chữ Hán, sao không dùng Âm chữ Hán theo nghĩa này? Huống chi Dịch là theo hiện tượng mà ứng quẻ, khi số đã báo hiệu sự Thất Bát thì tất không thể dùng vậy.



Do soạn chi tiết phải dài dòng quá, nên NCD chỉ tạm thời ghi ra các số nét tốt theo Quẻ Dịch đã được soạn sẵn trong các tài liệu chữ Hoa, các số nét được xem là tốt gồm:



1, 3, 5, 6, 7, 8, 11, 13, 15, 16, 17, 18, 21, 23, 24, 25, 29, 31, 32, 33, 35, 37, 39, 41, 45, 47, 48, 52, 63, 65, 67, 68, 73, 81.



Các số trên 81 nét thì cứ trừ đi 81, lấy số dư.



Như hôm trước đã hứa, sau loạt bài về cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp, nay NCD xin đăng chi tiết thước Lỗ Ban từ 5cm đến 5m (500cm). Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thước LỖ BAN: 43cm, 48cm, 52cm, 23cm… Nay NCD xin giới thiệu hai loại được xem là thông dụng, tức là đã in sẵn trên cây thước kéo bày bán trên thị trường. Thước này có độ dài chính xác 42,9 3/4 cm.



Xin các anh chị, các bạn hãy nhớ cho: Hàng trên dùng cho Dương Trạch, Hàng dưới dùng cho Âm Trạch. Ở đây, vì không để choán chỗ nhiều, nên NCD sẽ ghi chung hàng, cách nhau bởi một vạch ngang, mong các anh chị thông cảm nhé!



5cm: Nghinh Phúc_ Khẩu Thiệt, Bệnh Lâm.



6- 7- 8cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



9cm: Lao Chấp_ Hỷ Sự.



10cm: Cô Quả_ Tấn Bửu.



11cm: Trường Khố_ Nạp Phúc.



12- 13- 14- 15cm: Trên dưới đều xấu , kỵ dùng.



16cm: Thất Thoát_ Đại Cát.



17cm: Thiêm Đinh_ Tài Vượng.



18cm: Ích Lợi_ Ích Lợi.



19cm: Quý T _ Thiên Khố.



20cm: Quý Tử_ Phú Quý.



21cm: Đại Cát_ Tấn Bửu.



22cm: Thuận Khoa_ Hoạnh Tài.



23cm: Hoạnh Tài_ Thuận Khoa.



24cm: Hoạnh Tài_ Ly Hương.



25cm: Tấn Ích_ Tử Biệt.



26cm: Phú Quý_ Thoái Đinh.



27cm: Trên dưới đều xấu.



28cm: Tử Biệt_ Đăng Khoa.



29cm: Thoái Khẩu_ Quý Tử.



30cm: Ly Hương_ Thiêm Đinh.



31cm: Ly Hương_ Hưng Vượng.



32- 33- 34- 35cm: Trên dưới đều xấu.



35,2- 36cm: Bệnh Lâm_ Nghinh Phúc.



36,5-37cm: Khẩu Thiệt_ Lục Hợp.



38-38,5cm: Tài Chí_ Tấn Bửu, Tài Đức.



39-39,5cm: Đăng Khoa, Phúc Tinh.



40cm: Đăng Khoa_ Cập Đệ.



41cm: Tấn Bửu_ ĐINH (ĐINH là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



42,5cm: Hưng Vượng_ Đăng Khoa.



43cm: Tài Đức_ Khẩu Thiệt.



44cm: Tài Đức_ Bệnh Lâm.



44,5cm: Tấn Bửu_ Bệnh Lâm.



45cm: Bửu Khố_ HẠI (HẠI là chủ bốn cung xấu nhỏ ở hai bên).



45,5cm: TÀi_ Tử Tuyệt (TÀI là chủ của bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



46cm: Lục Hợp_ Tai Chí ( xin cẩn thận đây là TAI chư không phải TÀI).



47cm: Lục Hợp_ Thiên Đức.



48cm: Nghinh Phúc_ Hỷ Sự.



49cm: Thoái Tài_ Tấn Bửu.



50cm: Công Sự_ Nạp Phúc.



51- 51- 53- 54cm: Trên dưới đều xấu , kỵ dùng.



55cm: Kiếp Tài_ Đại Cát.



56cm: Kiếp Tài_ Tài Vượng.



57cm: Quan Quỷ_ Ích Lợi.



58cm: Thất Thoát_ Thiên Khố.



59cm: Thất Thoát_ Phú Quý.



60cm: Thiêm Đinh_ Tấn Bửu.



61cm: Ích Lợi_ Hoạnh Tài.



62cm: Quý Tử_ Thuận Khoa.



63cm: Quý Tử_ Ly Hương.



64cm: Đại Cát_ Tử Biệt.



65cm: Thuận Khoa_ Thoái Đinh.



66cm: Hoạnh Tài_ Thất Tài.



67cm: QUAN_ Đăng Khoa (QUAN là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



68cm: Tấn Ích_ Quý Tử.



69cm: Phú Quý_ Thiêm Đinh.



70cm: Tử Biệt_ Hưng Vượng.



71- 72- 73- 74cm: Trên dưới đầu xấu, kỵ dùng.



74,5cm: Tài Thất_ Nghinh Phúc.



75,5cm: Tai Chí_ Lục Hợp (cẩn thận, lại là TAI).



76,5- 77cm: Tử Tuyệt_ Tấn Bửu.



77,5cm: Tử Tuyệt_ Tài Đức.



78,5cm: Bệnh Lâm_ Phúc Tinh.



79cm: Bệnh Lâm_ Cập Đệ.



80cm: Khẩu Thiệt_ ĐINH.



81cm: Tài Chí_ Tài Vượng.



81,5cm: Tài Chí_ Đăng Khoa.



82cm: Đăng Khoa_ Khẩu Thiệt.



83cm: BỔN_ Bệnh Lâm (BỔN là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



84cm: Tấn Bửu_ HẠI.



84,5cm: Tấn Bửu_ Tử Tuyệt.



85cm: Hưng Vượng_ Tai Chí (lại là TAI, cẩn thận ).



86cm: Tài Đức_ Thiên Đức.



87cm: Tài Đức_ Hỷ Sự.



87,5cm: Bửu Khố_ Hỷ Sự.



88cm: Bửu Khố_ Tấn Đinh.



88,5cm: TÀI_ Tấn Bửu (TÀI là chủ bốn cung tốt ở hai bên).



89cm: Lục Hợp_ Nạp Phúc.



90cm: Nghinh Phúc_ Thất Thoát.



91cm: Nghinh Phúc_ Quan Quỷ.



92- 93- 93,5: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



94cm: BỆNH_ Đại Cát (BỆNH là chủ bốn cung xấu nhỏ ở hai bên).



95cm: Lao Chấp_ Tài Vượng.



96cm: Cô Quả_ ích Lợi.



97cm: Trường Khố_ Thiên Khố.



98cm: Kiếp Tài_ Phú Quý.



99cm: Kiếp Tài_ Tấn Bửu.



100cm: Quan Quỷ_ Hoạnh Tài.







101cm: Thất Thoát_ Thuận Khoa.



102cm: Thiêm Đinh_ Ly Hương.



103cm: Thiêm Đinh_ Tử Biệt.



104cm: Ích Lợi_ Thoái Đinh.



105cm: Quý T _ Thất Tài.



106cm: Quý Tử_ Đăng Khoa.



107cm: Đại Cát_ Quý Tử.



108cm: Thuận Khoa_ Thiêm Đinh.



109cm: Hoạnh Tài_ Hưng Vượng.



110cm: QUAN_ Cô Quả (QUAN là chủ bốn cung tốt nhở ở hai bên).



110,5cm: Tấn Ích_ Lao Chấp.



112cm: Phú Quý_ Công Sự.



113cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



113,5cm: Tử Biệt_ Nghinh Phúc.



114,5cm: Thoái Khẩu_ Lục Hợp.



116cm: Ly Hương_ Tấn Bửu.



117cm: Tài Thất_ Tài Đức.



117,5cm: Tài Thất_ Phúc Tinh.



118cm: Tài Thất_ Cập Đệ.



118,5cm: Tai Chí_ Cập Đệ (lại là TAI, cẩn thận)



119,5- 120cm: Tử Tuyệt_ Tài Vượng.



120,5cm: Tử Tuyệt_ Đăng Khoa.



121- 122- 123cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



123,5cm: Tài Chí_ Tử Tuyệt.



124cm: Tài Chí_ Tai chí (cẩn thận, hàng dưới là TAI).



125cm: Đăng Khoa_ Thiên Đức.



126cm: BỔN_ Hỷ Sự.



127cm: Tấn Bửu_ VƯỢNG.



127,5cm: Tấn Bửu_ Tấn Bửu.



128cm: Hưng Vượng_ Nạp Phúc.



129cm: Tài Đức_ Thất Thoát.



130cm: Tài Đức_ Quan Quỷ.



130,5cm: Bửu Khố_ Quan Quỷ.



131cm: Bửu Khố_ Kiếp Tài.



132cm: Lục Hợp_ Vô Tự.



133cm: Nghinh Phúc_ Đại Cát.



134cm: Nghinh Phúc_ Tài Vượng.



135cm: Thoái Tài_ Ích Lợi.



136cm: Công Sự_ Thiên Khố.



137cm: Lao Chấp_ Phú Quý.



138cm: Lao Chấp_ Tấn Bửu.



139cm: Cô Quả_ Hoạnh Tài.



140cm: Trường Khố_ Thuận Khoa.



141- 142- 143- 144cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



144,5cm: Thất Thoát_ Đăng Khoa.



145cm: Thiêm Đinh_ Đăng Khoa.



145,5- 146cm: Thiêm Đinh_ Quý Tử.



147cm: Ích Lợi_ Thiêm Đinh.



148cm: Quý Tử_ Hưng Vượng.



149cm: Đại Cát_ Cô Quả.



149,5cm: Đại Cát_ Lao Chấp.



150,5- 151cm: Thuận Khoa_ Công Sự.



151,5- 152cm: Hoạnh Tài_ Thoái Tài.



152,5cm: Hoạnh Tài_ Nghinh Phúc.



153,5cm: Tấn Ích_ Lục Hợp.



154,5- 155cm: Phú Quý_ Tấn Bửu.



155,5cm: Phú Quý_ Tài Đức.



156,5cm: Tử Biệt_ Phúc Tinh.



157cm: Thoái Khẩu_ Cập Đệ.



158cm: Thoái Khẩu_ ĐINH.



159cm: Ly Hương_ Tài Vượng.



159,5cm: Ly Hương_ Đăng Khoa.



160- 161- 162- 163,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



164cm: Bệnh Lâm_ Thiên Đức.



165cm: Bệnh Lâm_ Hỷ Sự.



165,5cm: Khẩu Thiệt_ Hỷ Sự.



166,5cm: Tài Chí_ Tấn Bửu.



167cm: Tài Chí_ Nạp Phúc.



168cm: Đăng Khoa_ Thất Thoát.



169cm: BỔN_ Quan Quỷ.



170cm: Tấn Bửu_ Kiếp Tài.



171cm: Hưng Vượng_ Vô Tự.



172cm: Tài Đức_ Đại Cát.



173cm: Bửu Khố_ Tài Vượng.



174cm: Bửu Khố_ Ích Lợi.



175cm: Lục Hợp_ Thiên Khố.







176cm: Nghinh Phúc_ Phú Quý.



177cm: Nghinh Phúc_ Tấn Bửu.



178cm: Thoái Tài_ Hoạnh Tài.



179cm: Công Sự_ Thuận Khoa.



180- 181- 182- 183cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



184cm: Kiếp Tài_ Đăng Khoa.



184,5cm: Kiếp Tài_ Quý Tử.



186cm: Quan Quỷ_ Thiêm Đinh.



187cm: Thất Thoát_ Hưng Vượng.



188cm: Thiêm Đinh_ Cô Quả.



188,5cm: Thiêm Đinh_ Lao Chấp.



189,5cm: Ích Lợi_ Công Sự.



191cm: Quý Tử_ Thoái Tài.



191,5cm: Quý Tử_ Nghinh Phúc.



192,5cm: Đại Cát_ Lục Hợp.



193,5cm: Thuận Khoa_ Tấn Bửu.



194,5- 195cm: Hoạnh Tài_ Tài Đức.



195,5cm: Hoạnh Tài_ Phúc Tinh.



196,5cm: Tấn Ích_ Cập Đệ.



197,5-198cm: Phú Quý_ Tài Vượng.



198,5cm: Phú Quý_ Đăng Khoa.







199- 200- 201- 202,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



203cm: Tài Thất_ Thiên Đức.



204cm: Tai Chí_ Hỷ Sự (là TAI chứ không phải TÀI).



205,5cm: Tử Tuyệt_ Tấn Bửu.



206cm: Tử Tuyệt_ Nạp Phúc.



207- 208- 209cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



209,5cm: Tài Chí_ Kiếp Tài.



210cm: Tài Chí_ Vô Tự.



211cm: Đăng KHoa_ Đại Cát.



212cm: BỔN_ Tài Vượng.



213cm: Tấn Bửu_ Ích Lợi.



214cm: Hưng Vượng_ Thiên Khố.



215cm: Tài Đức_ Phú Quý.



215,5cm: Tài Đức_ Tấn Bửu.



216cm: Bửu Khố_ Tấn Bửu.



217cm: TÀI_ Hoạnh Tài.



218cm: Lục Hợp_ Thuận Khoa.



219cm: Nghinh Phúc_ Ly Hương.



219,5cm: Nghinh Phúc_ Tử Biệt.



220- 221-222cm: Trên dưới đếu xấu, kỵ dùng.



223cm: Lao Chấp_ Đăng Khoa.



224cm: Lao Chấp_ Quý Tử.



225cm: Cô Quả_ Thiêm Đinh.



226cm: Trường Khố_ Hưng Vượng.



227- 228- 229- 230cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



230,5cm: Thất Thoát_ Nghinh Phúc.



231,5cm: Thiêm Đinh_ Lục Hợp.



232,5cm: Ích Lợi_ Tấn Bửu.



233,5cm: NGHĨA_ Tài Đức (NGHĨA là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



234cm: Quý Tử_ Tài Đức.



234,5cm: Quý Tử_ Phúc Tinh.



235cm: Đại Cát_ Cập Đệ.



236,5- 237cm: Thuận Khoa_ Tài Vượng.



237,5cm: Hoạnh Tài_ Đăng Khoa.



238cm: Hoạnh Tài_ Khẩu Thiệt.



239cm: Tấn Ích_ Bệnh Lâm.



240cm: Tấn Ích_ HẠI.



240,5cm: Phú Quý_ Tử Tuyệt.



241,5cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



242cm: Tử Biệt_ Thiên Đức.



243cm: Thoái Khẩu_ Hỷ Sự.



244cm: KIẾP_ VƯỢNG.



244,5cm: Ly Hương_ Tấn Bửu.



245cm: Ly Hương_ Nạp Phúc.



246- 247- 248- 249,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



250cm: Bệnh Lâm_ Đại Cát.



251cm: Khẩu Thiệt_ Tài Vượng.



252cm: Khẩu Thiệt_ Tấn Ích.



253cm: Tài Chí_ Thiên Khố.



254cm: Đăng khoa_ Phú Quý.



255cm: BỔN_ Tấn Bửu.



256cm: Tấn Bửu_ Hoạnh Tài.



257cm: Hưng Vượng_ Thuận Khoa.



258cm: Tài Đức_ Ly Hương.



259cm: Bửu Khố_ Tử Biệt.



260cm: TÀI_ Thoái Đinh.



261cm: Lục Hợp_ Thất Tài.



262cm: Nghinh Phúc_ Đăng Khoa.



262,5cm: Nghinh Phúc_ Quý Tử.



263cm: Thoái Tài_ Quý Tử.



264cm: Thoái Tài_ Thiêm Đinh.



265cm: Công Sự_ Hưng Vượng.



266- 267- 268- 269cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



270cm: Kiếp Tài_ Nghinh Phúc.



271cm: LY_ TÀI.



272cm: Quan Quỷ_ Tấn Bửu.



273cm: Thất Thoát_ Tài Đức.



273,5cm: Thất Thoát_ Phúc tinh.



274cm: Thiêm Tinh_ Cập Đệ.



275cm: Ích Lợi_ ĐINH.



276cm: Ích Lợi_ Tài Vượng.



276,5cm: NGHĨA_ Đăng Khoa.



277cm: Quý Tử_ Khẩu Thiệt.



278cm: Đại Cát_ Bệnh Lâm.



279- 280cm: Thuận Khoa_ Tử Tuyệt.



280,5cm: Hoạnh Tài_ Tai Chí.



281cm: Hoạnh Tài_ Thiên Đức.



282- 283cm: Tấn Ích_ Hỷ Sự-VƯỢNG.



283,5cm: Phú Quý_ Tấn Bửu.



284cm: Phú Quý_ Nạp Phúc.



285- 286- 287- 288cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



289cm: Tài Thất_ Đại Cát.



290cm: Tai Chí_ Tài vượng.



291cm: Tử Tuyệt_ Ích Lợi.



292cm: Tử Tuyệt_ Thiên Khố.



293cm: Bệnh Lâm_ Phú Quý.



294cm: Khẩu Thiệt_ Tấn Bửu.



295cm: Khẩu Thiệt_ Hoạnh Tài.



295,5cm: Tài Chí_ Hoạnh Tài.



296cm: Tài Chí_ Thuận Khoa.



297cm: Đăng Khoa_ Ly Hương.



298cm: BỔN_ Tử Biệt.



299cm: Tấn Bửu_ Thoái Đinh.



300cm: Hưng Vượng_ Tài Chí.







301cm: Tài Đức_ Đăng Khoa.



302cm: Bửu khố_ Quý Tử.



303cm: TÀI_ Thiêm Đinh.



304cm: Lục Hợp_ Hưng Vượng.



305cm: Nghinh Phúc- Cô Quả.



305,5cm: Nghinh Phúc_ Lao Chấp.



306- 307- 308cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



309cm: Lao Chấp_ Nghinh Phúc.



309,5cm: Lao Chấp_ Lục Hợp.



310cm: Cô Quả_ TÀI.



311cm: Cô Quả_ Tấn Bửu.



312cm: Trường Khố_ Tài Đức.



312,5cm: Kiếp Tài_ Phúc Tinh.



313cm: Kiếp Tài_ Cập Đệ.



314cm: LY_ ĐINH.



315cm: Quan Quỷ_ Tài Vượng.



315,5cm: Thất Thoát_ Đăng Khoa.



316cm: Thất Thoát_ Khẩu Thiệt.



317cm: Thiêm Đinh_ Bệnh Lâm.



318cm: Ích Lợi_ HẠI.



318,5cm: Ích Lợi_ Tử Tuyệt.



319cm: NGHĨA_ Tai Chí.



319,5cm: Quý Tử_ Tai Chí.



320cm: Quý Tử_ Thiên Đức.



321cm: Đại Cát_ Hỷ Sự.



322cm: Thuận Khoa_ VƯỢNG.



323cm: Thuận Khoa_ Nạp Phúc.



323,5cm: Hoạnh Tài_ Nạp Phúc.



324cm: Hoạnh Tài_ Thất Thoát.



325cm: Tấn Ích_ Quan Quỷ.



326cm: Phú Quý_ Kiếp Tài.



327cm: Phú Quý_ Vô Tự.



328cm: Tử Biệt_ Đại cát.



329cm: Thoái Khẩu_ Tài Vượng.



330cm: KIẾP_ Ích Lợi.



331cm: Ly Hương_ Thiên Khố.



332cm: Tài Thất_ Phú Quý.



333cm: Tai Chí_ Tấn Bửu.



334cm: Tử Tuyệt_ Hoạnh Tài.



335cm: HẠI_ Thuận Khoa.



336- 337,5: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



338cm: Tài Chí_ Thoái Đinh.



339cm: Tài Chí_ Thất Tài.



340cm: Đăng Khoa_ Đăng Khoa.



341cm: Tấn Bửu_ Quý tử.



342cm: Tấn Bửu_ Thiêm Đinh.



343cm: Hưng Vượng_ Hưng Vượng.



344cm: Tài Đức_ Cô Quả.



345cm: Bửu Khố_ Lao Chấp.



346cm: TÀI_ Công Sự.



347cm: Lục Hợ _ Thoái Tài.



348cm: Nghinh Phúc_ Nghinh Phúc.



348,5cm: Nghinh Phúc_ Lục Hợp.



349cm: Thoái Tài_ TÀI.



350cm: Công Sự_ Tấn Bửu.



351cm: Công Sự_ Tài Đức.



351,5cm: Bệnh_ Phúc Tinh.



352cm: Lao Chấp_ Cập Đệ.



353cm: Cô Quả_ ĐINH.



354cm: Cô Quả_ Tài Vượng.



354,5cm: Trường Khố_ Đăng Khoa.



355-3 56- 357- 358,5cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



359cm: Thất Thoát_ Thiên Đức.



360cm: Thiêm Đinh_ Hỷ Sự.







361cm: Ích Lợi_ Vượng.



361,5cm: Ích Lợi_ Tấn Bửu.



362cm: NGHĨA_ Nạp Phúc.



362,5cm: Quý Tử_ Nạp Phúc.



363cm: Quý Tử_ Thất Thoát.



364cm: Đại Cát_ Quan Quỷ.



365cm: Thuận Khoa_ Kiếp Tài..



366cm: Hoạnh Tài_ Vô Tự



367cm: Hoạnh Tài_ Đại Cát.



368cm: Tấn Ích_ Tài Vượng.



369cm: Phú Quý_ ích Lợi.



370cm: Phú Quý_ Thiên Khố.



370,5cm: Tử Biệt_ Thiên Khố.



371cm: Tử Biệt_ Phú Quý.



372cm: Thoái Khẩu_ Tấn Bửu.



373cm: KIẾP_ Hoạnh Tài.



373,5cm: Ly Hương_ Hoạnh Tài.



374cm: Ly Hương_ Thuận Khoa.



375- 376- 377- 378cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



378,5- 379cm: Bệnh Lâm_ Đăng Khoa.



380cm: Khẩu Thiệt_ Quý Tử.



381cm: Tài Chí_ Thiêm Đinh.



382cm: Tài Chí_ Hưng Vượng.



383cm: Đăng Khoa_ Cô Quả.



384cm: Tấn Bửu_ Lao Chấp.



384,5cm: Tấn Bửu_ Công Sự.



385cm: Hưng Vượng_ Công Sự.



386cm: Hưng Vượng_ Thoái Tài.



387cm: Tài Đức_ Nghinh Phúc.



388cm: Lục Hợp_ Bửu Khố.



389cm: TÀI_ Tấn Bửu.



390cm: Lục Hợp_ Tài Đức.



390,5cm: Nghinh Phúc_ Phúc Tinh.



391cm: Nghinh Phúc_ Cập Đệ.



392cm: Thoái Tài_ ĐINH.



393cm: Công Sự_ Tài Vượng.



393,5cm: Công Sự_ Đăng Khoa.



394cm: BỆNH_ Đăng Khoa.



395-396- 397- 397,5cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



398cm: Trường Khố_ Thiên Đức.



398,5cm: Kiếp Tài_ Thiên Đức.



399cm: Kiếp Tài_ Hỷ Sự.



400cm: Quan Quỷ_ VƯỢNG.



400,5cm: Quan Quỷ_ Tấn Bửu.



401,5cm: Thất Thoát_ Nạp Phúc.



402cm: Thất Thoát_ Thất Thoát.



402,5cm: Thiêm Đinh_ Thất Thoát.



403cm: Thiêm Đinh_ Quan Quỷ.



404cm: Ích Lợi_ Kiếp Tài.



405cm: NGHĨA_ Vô Tự.



405,5cm: Quý Tử_ Vô Tự.



406cm: Quý Tử_ Đại Cát.



407cm: Đại Cát_ Tài Vượng.



408cm: Thuận Khoa_ Ích Lợi.



409cm: Hoạnh Tài_ Thiên Khố.



410cm: Hoạnh Tài_ Phú Quý.



411cm: Tấn Ích_ Tấn Bửu.



412cm: Phú Quý_ Hoạnh Tài.



413cm: Phú Quý_ Thuận Khoa.



414-415- 416- 417cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



417,5- 418cm: Tài Thất_ Đăng Khoa.



418,5- 419cm: Tai Chí_ Quý Tử.



420cm: Tử Tuyệt_ Thiêm Đinh.



421cm: HẠI_ Hưng Vượng.



422cm: Bệnh Lâm_ Cô Quả.



423cm: Khẩu Thiệt_ Lao Chấp.



424cm: Tài Chí_ Công Sự.



425cm: Đăng Khoa_ Thoái Tài.



426cm: Đăng Khoa_ Nghinh Phúc.



426,5cm: BỔN_ Lục Hợp.



427cm: Tấn Bửu_ TÀI.



427,5cm: Tấn Bửu_ Tấn Bửu.



428cm: Hưng Vượng_ Tấn Bửu.



429cm: Hưng Vượng_ Tài Đức.



429,5cm: Tài Đức_ Phúc Tinh.



430cm: Tài Đức_ Cập Đệ.



431cm: Tấn Bửu_ ĐINH.



432cm: TÀI_ Tài Vượng.



432,5cm: Lục Hợp_ Đăng Khoa.



433cm: Lục Hợp_ Khẩu Thiệt.



433,5cm: Nghinh Phúc_ Khẩu Thiệt.



434cm: Nghinh Phúc_ Bệnh Lâm.



435- 436,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



437cm: BỆNH_ Thiên Đức.



437,5cm: Lao Chấp_ Thiên Đức.



438cm: Lao Chấp_ Hỷ Sự.



439cm: Cô Quả_ VƯỢNG.



439,5cm: Cô Quả_ Tấn Bửu.



440cm: Trường Khố_ Nạp Phúc.



441- 442- 443- 444,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



445cm: Thất Thoát_ Đại Cát.



445,5cm: Thiêm Đinh_ Đại Cát.



446cm: Thiêm Đinh_ Tài Vượng.



447cm: Ích Lợi_ Ích Lợi.



448cm: NGHĨA_ Thiên KHố.



448,5cm: Quý Tử_ Thiên Khố.



449cm: Quý Tử_ PHú Quý.



450cm: Đại Cát_ Tấn Bửu.



451cm: Thuận Khoa_ Hoạnh Tài.



452cm: Hoạnh Tài_ Thuận Khoa.



453cm: Hoạnh Tài_ Ly Hương.



454cm: Tấn Ích_ Tử Biệt.



455cm: Phú Quý_ Thoái Đinh.



456cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng



457cm: Tử Biệt_ Đăng Khoa.



458cm: Thoái Khẩu_ Quý Tử.



459cm: Ly Hương_ Thiêm Đinh.



460cm: Ly Hương_ Hưng Vượng.



461- 462- 463- 464cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



464,5cm: Bệnh Lâm_ Nghinh Phúc.



465,5cm: Khẩu Thiệt_ Lục Hợp.



467cm: Tài Chí_ Tấn Bửu.



467,5cm: Tài Chí_ Tài Đức.



468cm: Đăng Khoa_ Tài Đức.



468,5cm: Đăng Khoa_ Phúc Tinh.



469cm: Đăng Khoa_ Cập Đệ.



470cm: Tấn Bửu_ ĐINH.



470,5cm: Tấn Bửu_ Tài Vượng.



471cm: Hưng Vượng_ Tài Vượng.



471,5cm: Hưng Vượng_ Đăng Khoa.



472cm: Tài Đức_ Khẩu Thiệt.



473cm: Tài Đức_ Bệnh Lâm.



474cm: Bửu Khố_ HẠI.



474,5cm: TÀI_ Tử Tuyệt.



475,5cm: Lục Hợp_ Tài Chí.



476cm: Lục Hợp_ Thiên Đức.



476,5cm: Nghinh Phúc_ Thiên Đức.



477cm: Nghinh Phúc_ Hỷ Sự.



477,5cm: Thoái Tài_ Hỷ Sự.



478,5cm: Thoái Tài_ Tấn Bửu.



479cm: Công Sự_ Nạp Phúc.



480- 481- 482- 483,3cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



484cm: Kiếp Tài_ Đại Cát.



485cm: Kiếp Tài_ Tài Vượng.



486cm: Quan Quỷ_ Ích Lợi.



487cm: Thất Thoát_ Thiên Khố.



488cm: Thất Thoát_ Phú Quý.



489cm: Thiêm Đinh_ Tấn Bửu.



490cm: Ích Lợi_ Hoạnh Tài.



491cm: Quý Tử_ Thuận Khoa.



492cm: Quý Tử_ Ly Hương.



493cm: Đại Cát_ Tử Biệt.



494cm: Thuận Khoa_ Thoái Đinh.



495cm: Hoạnh Tài_ Thất Tài.



496cm: QUAN_ Đăng Khoa.



497cm: Tấn Ích_ Quý Tử.



498cm: Phú Quý_ Thiêm Đinh.



498,5cm: Phú Quý_ Hưng Vượng.



499cm: Tử Biệt_ Hưng Vượng.



500cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.







Trên đây là một loại trong các loại Thước Lỗ Ban lưu hành trong dân gian. Trong đó, chia ra làm 8 Cung lớn: TÀI- LY- BỆNH- NGHĨA- QUAN- KIẾP- HẠI- BỔN, vốn là 8 cạnh của Bát Quái kéo thành đường thẳng vậy. Nó cũng tượng cho các Sao trong Cửu Tinh:



_ TÀI: sao Tham Lang.



_ LY: sao Vũ Khúc.



_ BỆNH: sao Phá Quân.



_ NGHĨA: sao Cự Môn.



_ QUAN: sao Văn Khúc.



_ KIẾP: sao Liêm Trinh.



_ HẠI: sao Lộc Tồn.



_ BỔN: sao Phụ Bật.



Trên thị trường hiện nay cũng có một loại Thước Lỗ Ban (loại kéo ra, cuộn 5m hoặc 7m50 như trên) cũng cùng kích thước 42,9cm nhưng chỉ khác một chút ở tên gọi các cung thôi. Loại Thước này cũng phân ra 8 cung, khởi đầu thước là Cung Tài Lộc (dùng gọn 1 chữ TÀI), kế đến là Cung Phước Đức (chữ ĐỨC), Cung Lục Hại (chữ HẠI), Cung Kiếp Đạo (chữ KIẾP), Cung Quan Lộc (chữ QUAN), Cung Mỹ Thuận (chữ THUẬN), Cung Sanh Tang (chữ SANH), Cung Trường Bệnh (chữ BỆNH).



Các cung nhỏ bên trong thì cũng giống đến 8/10 với các cung này, về ý nghĩa thì hai bên vẫn tương đồng. Các Cung tốt bên này là TÀI, NGHĨA, QUAN, BỔN. Các Cung tốt bên kia là Tài Lộc, Phước Đức, Quan Lộc, Mỹ Thuận. Các cung nhỏ bên trong như:



Sanh Vượng <=> Hưng Vượng.



Âm Đức<=> Tài Đức.



Thiện Sanh <=> Bửu Khố.



Tấn Đinh <=> Thiêm Đinh.



Quý Nhân<=>Quý Tử.



Thuận Lợi <=>Thuận Khoa.



Ích Lợi <=> Hoạnh Tài .



Trong phép dùng Thiên Xích xưa, còn bốn loại Thước này cũng khá phổ biến là Tử Phòng Xích, Khúc Xích Lỗ Ban Xích, Huyền Nữ Xích.







Từ trước tới nay chúng ta thường hay nói trong Phong Thuỷ có hai trường phái chính: trường phái chú trọng về hình thể sơn mạch thì gọi là Loan Đầu, trường phái chuyên chú trọng về Tinh Sao, phương vị thì gọi là Lý Khí. Thực ra, Địa Mạch là khí đi ở dưới đất, hình chiếu lên trời, vì vậy sinh khí của trời (các Tinh tú) đều ứng vào các Quẻ, tức là thông cả Luật Lữ Thiên Địa Khí cảm ứng. Lấy các hào của Quẻ Hỗn Thiên để hỗ trợ cho Lai Long và Tọa Huyệt thì được vẹn toàn, tất cả đều căn cứ vào Thiên Tinh, Địa Diệu làm chính. Học về Địa Lý, có người chuyên dụng về Thiên Tinh, có người chuyên dụng về Loan Đầu, chia ra phe phái phân biệt, mỗi môn làm một cách. NHƯNG đấy là họ chưa thấu cái ý của các bậc Tiền hiền: Loan Đầu là Thể, Thiên Tinh là Dụng, Thể và Dụng đều liên quan, hỗ ứng cho nhau thì mới toàn mỹ được. Tinh tú trên trời chia ra khắp núi sông, Địa khí lưu hành dưới đất đâu đâu cũng có, phản ứng lên trời, cho nên Cổ nhân mới dạy: “Địa thừa Thiên khí ” là vậy. Phong Thuỷ học vốn không xa rời cái LÝ của Kinh Dịch, nên càng không thể tách rời Thể và Dụng. Hai bản thể này cùng song song tồn tại, hỗ tương cho nhau trong từng phần của khoa Phong Thuỷ. Chẳng hạn Đại Sư Phong Thuỷ Dương Quân Tùng dùng Cửu Tinh để xem LONG, Đại Sư Phong Thuỷ Lại Bố Y thì dùng Nhị Thập Bát Tú để xem SA- THỦY (cái lý bảo “tại THiên” chính do đây mà ra vậy, chữ Thiên chính là Thiên Tinh chứ không phải Trời định). Theo khoa Phong Thuỷ, ngôi Bắc Đẩu chính là Huyệt Trường, các Long là Cửu Tinh, SaThủy là Nhị Thập Bát Tú. Tất cả gộp lại chẳng phải Thể Dụng hợp nhất, đan xen vào nhau đó ư?



NCD tôi nói dài dòng như thế để xin dẫn đến một phép xem kích thước Lỗ Ban trong Dương Trạch ngày xưa, cũng không ra ngoài cái lý Thể Dụng. Cách tính của cách này như sau:



_ Từ vách trái sang vách phải.



_ Từ chỗ giọt nước mái hiên trước đến cửa chính.



_ Từ vách cửa chính đến vách kế.



_…( lần lượt từng đoạn cách khoảng giửa các vách trong nhà).



_ Từ vách ngăn áp chót đến vách hậu.



đều theo đúng Bộ Số của bốn Trực: TRỪ, ĐỊNH, CHẤP, KHAI.



Tuyệt đối tránh rơi vào bốn Trực: MÃN, BÌNH, THÂU, BẾ.



Tổng tất cả số đo ấy qui vào một cũng hợp với Bộ Số bốn Trực ấy gọi là Thiên Hợp.



Tổng chu vi nhà cũng hợp với Bộ Số của bốn Trực ấy gọi là Địa Hợp.



THIÊN & ĐỊA tương ứng như vậy chính là Âm Dương tương hợp vậy.



Dương Trạch khi đã Phân Kim, Lập Hướng, xác định phân phòng cho từng khu vực, đặt Bếp, kê giường .. .vv..xong thì đã là TĨNH, là Thể rồi. Riêng các vách có thể điều chỉnh cho kích thước hợp với Bộ Số, nên vẫn còn ĐỘNG, là Dụng. Cho nên, có thể nói, trong Dương Trạch thì Trạch là Thể, Kích Thước là Dụng. Thể & Dụng gồm đủ hợp ý nghĩa Tiên Hậu Thiên nhất gia, thì Phúc lành mới toàn mỹ được. Nếu có một cái phạm vào Hung Tinh thì khó khỏi sự lo phiền phức vậy.







CÁCH TÍNH CÁC BỘ SỐ TRỰC:



Người xưa dùng 4 thước 5 tấc làm một Bộ, 9 thước làm hai Bộ, 13 thước 5 tấc làm ba Bộ…



1 thước cổ = 20cm3mm thước Tây hiện nay.



==> 1 BỘ = 4 thước 5 tấc = 91cm 3,5mm



So đối với 12 Trực, thì Bộ đầu là Kiên, Bộ thứ hai là Trừ , Bộ thứ ba là Mãn…



Chiều cao của mái nhà phải tương xứng với chiều sâu căn nhà theo tỷ lệ 1/3.



SINH TÀI VƯỢNG VỊ VÀ VIỆC ĐẶT THẦN TÀI







Hôm nay NCD tôi muốn bàn về vấn đề mà có lẽ từ nhà thường cho đến cơ sở kinh doanh mua bán đều quan tâm: Đó là phương Sinh Vượng và cách đặt Tài Thần.



Phương vị này còn được gọi là “TÀI VỊ”, nó khác với phương Chính Thần trong Huyền Không học. Có ba thuyết nói về phương vị này khác nhau:



_ Thuyết thứ nhất là theo trường phái Huyền Không, chọn phương Chính Thần làm phương của TÀI VỊ.



_ Thuyết thứ hai là theo Phi Tinh của Huyền Không, cho rằng phương của Tam Bạch phi đến mới là phương của TÀI VỊ. Tam Bạch chính là: Nhất Bạch, Lục Bạch và Bát Bạch.



_ Thuyết thứ ba là chọn phương chéo với cửa ra vào làm phương TÀI VỊ.



Riêng bản thân NCD thì chọn theo thuyết thứ ba. Hai thuyết trên nói cũng có lý nhưng không thích hợp lắm. Nếu một lúc nào đó Vượng Khí Chính Thần hay Tam Bạch Tinh phi đến phương vị Cửa, chẳng lẽ đem Tài Thần ra đặt ở đấy à? Huyền Không Phi Tinh có nhiều điểm rất hay, nó có thể giải thích các hiện tượng động đất, sụp lỡ, hỏa hoạn, trộm cướp, chết người, đau bệnh, làm ăn thua lỗ…vv… mà các trường phái Bát Trạch Minh Cảnh và Dương Trạch Tam Yếu không thể giải thích thỏa đáng. Vì các trường phái kia thuộc TĨNH, các phương vị, an sao đều cố định nên gặp nạn tai thì không thể nói được, khi nhà và Sao đều vẫn tốt so với mạng gia chủ như lúc đầu. Còn trường phái Huyền Không thì các Phi Tinh luân chuyển, khó có được năm tháng ngày giờ trùng Sao lại như nhau (năm và tháng còn có thể nhưng thêm ngày và giờ thì rất hiếm hoi). Lại thêm khi các sao đi đơn lẻ thì khác, đi kèm với Sao khác thì có thể ý nghĩa biến đổi, hoặc còn ảnh hưởng với Sao của Trạch Vận khác nhau mà cho kết quả khác nhau, Thiên hình Vạn trạng. Sự huyền diệu của Phi Tinh là vậy, nhưng không phải lúc nào cũng cứng nhắc các Vượng Khí, Phi Tinh vào Dương Trạch, phải biết lúc nào áp dụng phương pháp nào cho thích hợp. Không phải vô tình mà người ta bố trí bàn làm việc nơi góc chéo với cửa ra vào, bởi nó là nơi tập trung Quyền lực trong một căn phòng, là nơi Tàng Phong Tụ Khí.



Theo khoa Phong Thuỷ thì tại phương TÀI VỊ này, người ta thường đặt các cây xanh lá to hay các tượng Tài Thần. Phương TÀI VỊ này có một số điều nên và không nên như sau:







1/. Các điều NÊN ở TÀI VỊ:



_ Nơi phương TÀI VỊ nên sáng sủa, quang minh, không thể để tối ám. Sáng là năng lượng Dương, thích hợp với Dương Khí. Sinh Khí không ưa nơi tối tăm, nên phương này tuyệt đối không nên để tối, nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm đèn.



_ Nơi phương TÀI VỊ nên có Sinh Cơ, tức là chỉ nơi đây thiết bày cây xanh là tốt, phải nhớ là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi. Nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn (nê thổ), không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên kiếm các loại cây lá to, dầy, lá xanh mãi như cây Vạn Niên Thanh chẳng hạn.



_ Nơi phương TÀI VỊ tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy, để cả nhà thường xuyên ngồi ở đó, hít thở không khí của TÀI VỊ hay nói cách khác là được thấm nhuần nguồn TÀI KHÍ nơi đó, sẽ giúp ích cho Tài Vận người trong nhà.



_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt giường ngủ là rất thích hợp. Đến đây thì có lẽ chúng ta đã hiểu vì sao các sách bày bán trên thị trường luôn khuyên “đặt giường chéo góc với cửa phòng”, có điều họ không nói rõ ra nguyên ủy bên trong thôi. 1/3 thời gian trong ngày con người nằm ngủ nghĩ nơi đó, thường xuyên hít thở nguồn TÀI KHÍ nơi đó cũng rất tốt cho Tài Vận vậy.



_ Nơi phương TÀI VỊ nên đặt vật hay biểu tượng Cát lành. Bởi phương này là nơi Vượng Khí ngưng tụ, nếu ta đặt thêm một biểu tượng Cát Lành thì tốt càng thêm tốt, như gấm thêu thêm hoa vậy. Biểu tượng này thường là các Vật Khí kích hoạt Tài Lộc, tuỳ theo tính chất Ngũ Hành và Phi Tinh của Trạch Vận Bàn nơi đó mà lựa chọn vật đặt cho thích hợp.







2/. Các điều KỴ của TÀI VỊ:



_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách, kệ sắt, máy móc nặng sẽ làm tổn hại đến Tài Vận của phòng đó.



_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ THỦY. Đấy cũng là lý do vì sao ở trên kia lại bảo nơi đây không thích hợp cho các loại cây trồng trong nước. Vì nơi đây là Cát Thần tọa vị, nay ta đem nước đến là Cát Thần lạc Thủy, khéo hóa ra vụng đấy!



_ Nơi phương TÀI VỊ phía sau nên có tường che chắn, không thể trổ cửa, trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục “Tàng phong Tụ khí” trong Phong Thuỷ, Tài Vận mới tụ được.



_ Nơi phương TÀI VỊ tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn, cạnh tủ..vv.. sẽ làm tổn hại Tài Khí nơi đó.



_ Nơi phương TÀI VỊ là nơi Cát Thần tọa vị nên ĐẠI KỴ ô uế, dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế, bụi bậm nơi đây.



_ Nơi phương TÀI VỊ không nên để tối tăm, vì u tối thì Sinh Khí không sinh sôi được, sẽ ảnh hưởng đến Tài Vận, sinh kế.







3/. Tài Thần:



Nói đến Tài Thần thì có lẽ không ai không biết đấy là vị Thần ban phước lộc, tiền tài, của cải cho mọi người. Thần Tài mà hôm nay NCD đề cập đến không phải là Địa Chủ Tài Thần mà mọi người hay thờ. Địa Chủ Tài Thần là một khuôn bài vị với hai dòng chữ ở giửa là : NGŨ PHƯƠNG NGŨ THỔ LONG THẦN TIỀN HẬU ĐỊA CHỦ TÀI THẦN mà mọi người hay thờ, hai bên có hai câu đối (“Kim chi sơ phát diệp_ Ngân thụ chánh hoa khai”, hay là “Thổ vượng nhân tòng vượng_ Thần an trạch tự an”, hay là “Thổ năng sinh Bạch ngọc_ Địa khả xuất Hoàng kim”). Ngày xưa người ta thường thờ Địa Chủ Tài Thần bên trong, bên ngoài thờ Môn Thần; ngày nay do nhiều nơi không cho thờ cúng bên ngoài nên chỉ còn thờ mỗi Địa Chủ Tài Thần bên trong, coi như vị Thần này kiêm luôn việc bảo hộ cho Trạch Chủ, không cho tà ma xâm nhập.



Tài Thần mà NCD đề cập ở đây là tượng Văn- Võ Tài Thần theo quan niệm người Hoa (vì vốn dĩ thuật Phong Thuỷ truyền từ Trung Quốc sang đây nên NCD cũng soạn theo tư liệu gốc của người Hoa vậy).



a/VĂN TÀI THẦN:



Chia làm hai là Tài Bạch Tinh Quân và Tam Đa Tinh.



_ Tài Bạch Tinh Quân: Ngoại hình như một vị trưởng giả giàu có, mắt trắng râu dài, người mặc áo gấm thắt đai ngọc, tay trái ôm 1 thỏi Kim Nguyên Bảo (thỏi vàng mả người ta hay để chưng nơi Thần Tài, nó cũng là một dụng cụ hóa sát trong Phong Thuỷ), tay phải ôm tờ giấy cuốn lại có in dòng chữ “Chiêu Tài Tiến Bảo”.



Theo truyền thuyết ông vốn là Thái Bạch Kim Tinh trên thượng giới, chức tước là “Đô Thiên chí phú Tài Bạch Tinh Quân” chuyên quản tiền tài vàng bạc của thiên hạ. Nên người ta hay đặt tượng ông nơi TÀI VỊ, có người còn thờ ông nữa.



_ Tam Đa Tinh: Nghe tên thì thấy lạ, nhưng thật ra đó là Phước- Lộc- Thọ Tam Tinh đấy thôi.



Phúc Tinh tay ôm đứa bé tượng trưng có con thì vạn sự đủ phúc khí. Lộc Tinh mặc triều phục sặc sỡ, tay ôm Ngọc Như ý, tượng trưng thăng quan tiến chức, thêm tài tăng lộc. Thọ Tinh tay ôm quả đào thọ, mặt lộ vẻ hiền hòa, hạnh phúc, tượng trưng cho an khang trường thọ. Trong ba vị chỉ có Lộc Tinh mới là Tài Thần, nhưng do xưa nay Tam Vị Nhất Thể đi chung không rời, nên người ta luôn làm chung tượng của 3 vị. Nếu đặt cả Tam Tinh vào TÀi VỊ thì cả nhà an vui, hạnh phúc, phúc lộc song thu.



Những người giữ chức văn, những người làm công nên đặt tượng Văn Tài Thần nơi TÀI VỊ, hay thờ Văn Tài Thần.



Các tượng Văn Tài Thần nên đặt quay mặt vào.







b/ VŨ TÀI THẦN:



Cũng chia làm hai là: Triệu Công Minh miệng đen mặt đen, và Quan Thánh Đế (còn gọi là Quan Công) mặt đỏ râu dài.



_ Triệu Công Minh: Vị thần này nếu quý vị nào có xem qua truyện Phong Thần ắt biết tiểu sử ông. Sau khi tử trận lên bảng Phong Thần, ông được Khương Tử Nha sắc phong làm “Chính Nhất Long Hổ Huyền Đàn chân quân” thống lĩnh bốn vị Thần: Chiêu Bảo, Nạp Trân, Chiêu Tài, Lợi Thị.



Ông vừa giúp tăng tài, tiến lộc vừa có thể hàng ma phục yêu, nên một số người Hoa cũng thích thờ ông, hay đặt tượng ông nơi TÀi VỊ, vừa giúp vượng tài, vừa giúp bình an.



_ Quan Thánh Đế: Nói đến Ngài, có lẽ không cần xem truyện Tam Quốc thì ai cũng từng nghe và biết. Gần như 99% người Hoa đều có thờ Quan Thánh Đế trong nhà cả! Ông không chỉ tượng trưng cho Chính Khí sáng lòa, mà còn có thể giúp cho người chiêu tài, tiến bảo, làm ăn thuận lợi, tai qua nạn khỏi, trừ tà hộ thân.



Những người làm quan võ, theo nghiệp lính, những ông chủ kinh doanh nên thờ Vũ Tài Thần hoặc đặt tượng Vũ Tài Thần nơi phương TÀI VỊ.



Các tượng VŨ Tài Thần nên đặt hướng ra cửa.



PHONG THỦY CHO VIỆC ĐÀM PHÁN, THƯƠNG LƯỢNG







Trong thực tế cuộc sống, khi ra làm ăn kinh tế, hay khi đi làm công chức nhà nước, làm cơ quan, cty …vv… chúng ta ai cũng phải ít nhiều cần đến những cuộc thương lượng, hay ở những vai trò cao hơn thì có những cuộc đàm phán để ký kết làm ăn…vv…. Chúng ta có thể sử dụng Phong Thủy để hỗ trợ cho mình, mang lại vận may khi thực hiện việc đàm phán, thương lượng (chứ không thể chắc chắn 100% đâu nghen, chỉ giúp có vận may thôi, còn phần tài năng thì quý vị phải có thực tài, chứ Phong Thủy không phải là phép Tiên, xin nhớ cho!)



Cách đơn giản nhất là chọn chỗ ngồi đối diện với 1 trong 4 hướng tốt nhất, tính theo Quái số của các anh chị, các bạn_ tức là cung Phi đấy. Hướng tốt nhất là Hướng Sinh Khí, kế đến là hướng Phục Vì, hai hướng còn lại cũng được nhưng không tốt bằng.



Nếu trong trường hợp không nhớ hướng tốt nhất của mình, hoặc không thể xác định hướng nơi đó, thì xin hãy áp dụng cách sau:



_ Chọn chỗ ngồi xa nhất so với cửa ra vào.



_ Trong mọi tình huống đàm phán, thương lượng, không nên ngồi quay lưng ra cửa, phải ngồi ở nơi luôn có thể nhìn thấy cửa ra vào.



_ Không ngồi quay lưng ra cửa sổ, nếu như cửa sổ đó không đối diện với một tòa nhà kiên cố.



_ Tránh ngồi ngay bên dưới xà nhà.



_ Nên chọn chỗ ngồi có chỗ để tay và lưng dựa cao.



_ Không nên ngồi ở vị trí khiến chân mình hướng ra cửa.



_ Đại Kỵ ngồi ở góc bàn, hay ngồi ở chỗ có cạnh bàn hay vật nhọn chĩa vào người.



Trên đây là một số điều cần biết trong Phong Thủy khi đàm phán, thương lượng. Ngoài ra, các anh chị, các bạn còn có thể dùng màu áo hay màu của bình hoa tươi trên bàn để giúp cho cuộc đàm phán của mình.



_ Màu xanh dương: Giúp diễn đạt những cách nghĩ và những ý tưởng thuận lợi, để đạt được những lợi ích trong trường hợp phải ký hợp đồng, hoặc phải thương lượng. Lúc thương lượng nếu gặp phải đối tượng khó thuyết phục, thì màu xanh dương sẽ giúp chúng ta dùng lý trí sắt thép và điềm đạm để giải quyết tốt vấn đề.



_ Màu đỏ: Là màu khiến đối tác không thể giành được thế áp đảo, đồng thời còn có thể giúp chúng ta học được cách phân tích tình hình mà biết tiến thoái đúng lúc, đúng nơi, để trong quá trình đàm phán tránh được những cuộc gây gỗ và thương lượng không thành công. Ngoài ra, màu đỏ còn giúp chúng ta làm cho đối tác yêu mến cá tính và năng lực của chúng ta một cách tâm phục khẩu phục.



_ Màu xanh ngọc bích: Giúp chúng ta có được những cách nghĩ sáng tạo và tư duy nhạy bén, nhằm tăng khả năng ứng phó, để có được phản ứng nhanh kịp lúc, tạo ra những quyết sách chính xác trong tình huống nguy cấp. Đồng thời còn giúp chúng ta nhìn rõ các vấn đề cốt lõi còn tồn đọng ở đối tác, hầu có lợi ích trong các giao kèo hợp đồng.



Nếu nơi đàm phán chúng ta có thể chủ động, thì có thể đặt một lẵng hoa tươi với các hoa:



Cúc Vân Nam (màu lam, tím)



Hoa cẩm chướng (màu đỏ)



Lá bạc (màu xanh ngọc bích)



trên bàn, và trước khi bàn vào vấn đề, hãy nhìn vào lẵng hoa, hít một hơi thật sâu và tưởng tượng làn hương của các bông hoa ấy len vào tâm trí mình. Có thể hít ngửi hương của lẳng hoa ấy thật sâu vài hơi trước khi vào cuộc đàm phán.



Với vài bí quyết nhỏ của Phong Thủy, mong các anh chị, các bạn nào có các cuộc đàm phán, thương lượng sẽ gặp nhiều may mắn hơn nhé!







DỌN DẸP SAU KHI CÓ ĐẠI TANG







Một người trong nhà qua đời, bạn phải làm sạch căn phòng mà người đó ở trước khi chết. Nếu người đó mất vì bệnh tật, thì đồ đạc của họ nên chôn hoặc hỏa thiêu theo. Điều này sẽ làm tiêu hủy bệnh tật. Với những người Á Đông chúng ta nói chung và người theo Phật Giáo nói riêng, thì trong quá trình làm sạch phòng người mất, thường có mời các nhà sư tụng kinh và cầu siêu. Tiếng chuông leng keng trong lúc hành lễ là một nghi thức thanh lọc không khí vậy. Song song việc đó là thắp hương. Năng lực tẩy sạch Khí Âm của nhang rất mạnh, nên cần lựa chọn nhang cẩn thận. Thông thường, loại nhang tốt nhất trong trường hợp này là nhang trầm hoặc nhang mùi đàn hương.



Vì vậy hãy dùng: Chuông và Nhang



Đi quanh căn phòng 3 lần theo chiều kim đồng hồ, vừa đi vừa gõ chuông.



Sau đó lại đi 3 lần như vậy với nhang.



Nếu quý vị nào là người tín ngưỡng Phật Giáo, thì có thể tăng cường thêm bằng cách đọc Mật Chú trong lúc đi quanh phòng. (Có thể chỉ là Đại Bi Chú, Lục Tự Đại Minh Chú hay các Mật Chú Tây Tạng khác).







LÀM SẠCH KHÍ ÂM SAU KHI CÓ NGƯỜI MẤT







Sau khi có người mất, cần phải tẩy rửa toàn bộ ngôi nhà với Dương Thủy. Có người dùng nước trời mưa khi chưa chạm đất là Dưong Thủy, nhưng theo NCD thì dùng nước được phơi dưới ánh nắng Mặt Trời chừng 3 giờ làm Dưong Thủy. Sau quá trình làm sạch không gian bằng chuông và nhang, vào ngày “Thất” đầu tiên nên tẩy rửa toàn bộ căn nhà bằng nước Duơng Thủy này. Khi làm việc tẩy rửa này, nhớ tẩy rửa cả nền nhà, nước Dương Thủy sẽ thấm vào nền nhà, cung cấp Sinh khí và tẩy rửa năng lượng chết chóc còn sót lại. Nếu đó là một căn hộ trong chung cư không tiện tẩy rửa, thì dùng giẻ nhúng nước Dương Thủy này để lau nền nhà. Nhớ rằng ngày tốt nhất dể làm diều này là ngày thứ 7 sau khi có người mất, tức là ngày cúng Thất đầu tiên theo Đạo Phật.







PHONG THỦY HƯƠNG HOA ĐỂ CẢI THIỆN QUAN HỆ MẸ CHỒNG- NÀNG DÂU







Trong quan hệ Á Đông chúng ta xưa giờ, quan hệ mẹ chồng nàng dâu thường hay phát sinh căng thẳng nhất. Hôm nay NCD xin hiến một cách cải thiện mối quan hệ này, với liệu pháp Hương hoa.



Liệu pháp này có thể dùng trong các trường hợp: nàng dâu ngang bướng không nghe lời dạy bảo của mẹ chồng, bà mẹ chồng khó tính hay trách móc con dâu, cô dâu mới không biết cách chung sống sao cho hòa hợp mẹ chồng, bà mẹ chồng không hiểu được ý cô con dâu mới.







1/. Hoa BÁCH HỢP THỦY HƯƠNG: Màu vàng chanh



Giải trừ những cảm giác căng thẳng, bất an và có khoảng cách giửa mẹ chồng nàng dâu, khiến giửa hai người không còn sự nghi kỵ lẫn nhau, những tình cảm chân thành tự phát sẽ nảy sinh giửa hai người. Ngoài ra, nó còn giúp mẹ chồng nàng dâu hiểu được niềm hạnh phúc và sự tôn trọng lẫn nhau, giảm nhẹ những ưu tư, căng thẳng, giúp cho quan hệ mẹ chồng nàng dâu ngày càng tốt đẹp hơn.



2/. Hoa THẠCH THẢO: Màu lam nhạt



Giúp tâm hồn được thoải mái, vui vẻ, hiểu thấu tấm lòng nhau để quan hệ mẹ chồng nàng dâu được tốt đẹp hơn, gần gũi hơn, thân tình hơn. Ngoài ra, màu này còn giúp hai người có những hành động yêu thương thiết thực, cụ thể hơn, giúp hai người tăng thêm lòng tự tin nương tựa vào đối phương, tránh được những hiềm khích giửa hai người.



3/. Cách thức dùng:



Mỗi sáng thứ 2, cắm những đóa hoa tươi mới và đặt chúng trong phòng khách hoặc trên bàn ăn. Mỗi ngày hít 3 lần hương hoa này thật sâu vào buồng phổi, năng lượng và hương thơm của hoa sẽ hòa quyện vào cơ thể bạn.



4/. Có thể cắm một bình hoa với các loại:



bách hợp thủy hương.



thạch thảo.



lan tiểu thương.



hoàng kim bách.







PHONG THỦY HƯƠNG HOA LÀM CON CÁI VÂNG LỜI CHA MẸ







Cách này dành cho những đứa trẻ hay chống đối, quậy phá, quá hiếu động hoặc quá khép kín, không cởi mở và ít nói. Càng thích hợp dành cho những thanh thiếu niên mới lớn thường hay bốc đồng.







1/. Hoa HỒNG KIM BÁCH hay CÁT CÁNH: màu lục



Giúp các bậc cha mẹ tăng thêm tính nhẫn nại với con cái, để cho mối quan hệ giửa cha mẹ và con cái trở nên thuận hòa, nhằm có được không gian yên tĩnh để nghe ra ý của nhau.



Ngoài ra, màu lục của các hoa này còn có thể giúp trẻ tập trung chú ý, và chúng trở nên sâu sắc hơn, qua đó có thể hiểu được nỗi lòng của cha mẹ chúng, đồng thời nâng cao khả năng phân tích tốt xấu để con cái nghe lời cha mẹ.



2/. Hoa THẠCH THẢO: màu lam tím



Giúp những đứa trẻ bị cản trở trong học tập hoặc chậm chạp trong ngôn ngữ và không thích nói chuyện, luôn buồn rầu trở nên cởi mở, vui vẻ.



Đồng thời giúp cho các thanh thiếu niên trong tuổi mới lớn có bản tính bốc đồng có thể trở nên chín chắn hơn.



Ngoài ra, hoa màu lam còn giúp trẻ phát triển tính sáng tạo, ham mê sách vỡ hơn.



3/. Hoa THỦY TINH hoặc hoa ĐỒNG TIỀN: màu hồng phấn



Giúp cho mối quan hệ giửa cha mẹ và con cái thêm tình yêu thương, để con cái có thể hiểu và trân trọng những gì cha mẹ làm cho chúng. Giúp cho trẻ có tính tự lập, tự lực khi không có cha mẹ gần bên, và giúp chúng cảm nhận tình yêu thương bao la vô bờ bến của cha mẹ dành cho chúng.



4/. cách thức dùng:



Đặt hoa tươi trên bàn ăn, 1 tuần thay hoa mới 1 lần. Hãy cố gắng mỗi ngày cùng ăn cơm với con mình 1 buổi.







Ngoài ra, cũng nên kích thích cung Tử Tức_ cung Đoài. Xin lưu ý các bậc cha mẹ nào có con gái cỡ tuổi thanh thiếu niên: TUYỆT ĐỐI TRÁNH ao- mương- hồ nước ở phía TÂY. Vì Đoài vi Thiếu nữ, nếu nơi đây có Thủy, chủ…..Đại dâm, sẽ khiến trẻ sớm sa vào con đường hư hõng, đàng đúm cùng bạn xấu. CẨN THẬN!







PHONG THỦY HƯƠNG HOA GIÚP TÌM ĐƯỢC CÔNG VIỆC TỐT







Ngoài các cách Động cung Nghề Nghiệp_HƯỚNG BẮC_ để kiếm việc làm ra, Phong Thủy còn có liệu pháp hương hoa giúp chúng ta tìm được công việc tốt. Cách này dành cho những ai muốn tìm cho mình một công việc tốt hơn, hay muốn thuyên chuyển chỗ làm.







1/. Hoa THẠCH THẢO: màu lam



Giúp tràn đầy sức mạnh và năng lực biết được công việc mà bản thân muốn để nổ lực đạt được. Nó giúp ta hiểu được tính cách của bản thân để tìm được công việc phù hợp với mình, đồng thời giúp ta nhận rõ ước mơ của mình để từ đó theo đuổi và cố gắng đạt được.



Ngoài ra, màu lam của hoa Thạch Thảo còn giúp ta dù trong hoàn cảnh nào cũng kiên định với lý tưởng, ước mơ của bản thân, giúp dung hòa giửa công việc và cuộc sống để bản thân tự tin hơn.



2/. Hoa LÊ PHỤNG SAN HÔ: màu đỏ



Giúp ta hiểu rằng trước khi tìm được việc như ý, điều cần thiết là phải thật nỗ lực và chịu học tập, có vậy mới làm việc được tốt, và tìm được công việc tốt.



3/. Cách thức dùng:



Đặt hoa trong văn phòng, phòng đọc sách, bàn làm việc, mỗi ngày hít thật sâu 3 lần hương hoa, hương hoa và năng lượng của nó sẽ hòa vào Khí trường của cơ thể bạn, giúp bạn trong việc tìm một công việc tốt.



4/. Có thể chưng một lẳng hoa, một giỏ hoa gồm:



hoa Thạch Thảo (màu lam).



hoa Lê Phụng San Hô (màu đỏ).



quả dưa Sơn Nam (màu cam).



tiểu lâm đầu.



Hồng Trúc.



Hoàng Kim Bách.



BÁT TRẠCH CHUYÊN SÂU



*****







A/. HUYỀN KHÔNG BÁT TRẠCH







Nói đến Huyền Không Bát Trạch, là phải nói đến bậc Thầy về Phong Thuỷ là Dương Quân Tùng đời Đường, chính ông đã đưa ra những thuyết về Huyền Không cho Bát Trạch, chuyên dùng để định Sa, Thủy, Lập Hướng cho Dương Trạch và Âm Trạch.



Huyền Không Bát Trạch có 2 phần: Đại Huyền Không và Tiểu Huyền Không. Dựa trên nguyên tắc Sinh, Khắc, Vượng, Tướng của Ngũi Hành mà chọn.



1/. Tiểu Huyền Không Ngũ Hành:



Đây là cách để đo lường Cát , Hung của Dương Trạch , Âm Trạch dựa trên Sa , Thủy. Lấy Hướng mà định. Theo ông Dương Quân Tùng thì :



Bính Đinh Dậu Ất thuộc Hỏa



Càn Khôn Mẹo Ngọ thuộc Kim



Hợi Giáp Cấn Quý thuộc Mộc



Tuất Canh Sửu Mùi thuộc Thổ



Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm thuộc Thủy.



(cái này thì các bạn phải tự học thuộc rùi nhé).



Thủy lai ( đến ) phải từ các Sơn có Ngũ Hành Vượng , Tướng.



Thủy khứ ( đi ) phải từ các sơn có Ngũ Hành Hưu , Tù.







Ví dụ cho dễ hiểu nha : Một căn nhà tọa Nhâm hướng Bính chẳng hạn.



_ Mình xem bảng ở trên thấy Bính thuộc Hỏa. Vậy thì các Hành Vượng Tướng so với Hỏa chính là Hỏa ( cùng Hành với Hỏa , nên Hỏa là Vượng ) , và Mộc ( Mộc sinh Hỏa , nên Hỏa được Tướng ).



Vậy thì các sơn có thể tiếp nhận Thủy lai là Bính, Đinh, Dậu, Ất, Hợi, Giáp, Cấn, Quý.



_ Bính thuộc Hỏa , vậy thì các Hành Hưu Tù so với Hỏa chính là Thổ ( Hỏa sinh xuất cho Thổ , nên Hỏa bị Hưu ) và Thủy ( Thủy khắc nhập Hỏa , nên Hỏa bị Tù )



vậy các sơn để Thủy khứ là Tuất, Canh, Sửu, Mùi, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân, Nhâm.







Ví dụ nữa nè : Một ngôi mộ tọa Thìn hướng Tuất.



_ Ta thấy Hướng Tuất thuộc Thổ



Vậy thì các Hành Vượng Tướng so với Thổ chính là : Thổ và Hỏa



=> các sơn tiếp nhận Thủy lai là Bính, Đinh, Dậu, Ất, Tuất, Canh, Sửu, Mùi.



_ Tuất thuộc Thổ



Vậy thì các Hành Hưu Tù so với Thổ chính là : Kim và Mộc.



=> các sơn để Thủy khứ là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Hợi, Giáp, Cấn, Quý.







Khi ứng dụng phép xem theo Tiểu Huyền Không ,phải dùng hoàn toàn Ngũ Hành theo Tiểu Huyền Không này , chớ xen lẫn Ngũ Hành các thuyết khác. Bởi trong Bát Trạch , ngoài Chính Ngũ Hành , còn có Tiểu Huyền Không Ngũ Hành , Đại Huyền Không Ngũ Hành , Hồng Phạm Ngũ Hành , Tam hợp cục Ngũ Hành , Nạp âm Ngũ Hành. Nếu dùng lẫn lộn e sẽ xảy ra lầm lẫn đáng tiếc. Cẩn thận! Cẩn thận!



Đây chỉ mới là cách tính thuận , phần sau mình sẽ bàn cách tính Nghịch , từ Thủy luận ngược lại chọn Hướng cho Nhà và Mộ.



Ở trên là nói về cách tính thuận, nhưng đó chỉ là cách trên sách vỡ thui. Còn thực tế, chúng ta phải tính nghịch là thường nhất. Nghĩa là từ thế Thủy thực tế mà ta chọn Hướng cho nhà ở hay mộ phần. Cách này thì mình làm ngược thui ý mà!







Ví dụ cho dễ hiểu: Đứng trên 1 cuộc đất, ta thấy Thủy lai đáo sơn Càn (Khi dùng chữ Thủy Lai này, xin các bạn hiểu cho là NCD đang nói về Âm Trạch, mộ phần đó nhen!), muốn chọn hướng cho Huyệt mộ, ta xét:



Càn theo Tiểu Huyền Không Ngũ Hành là thuộc Kim.



Vậy các Hướng cần lập là Kim và Thủy ( không còn là Kim và Thổ như cách tính thuận nữa đâu , xin đừng lầm , lầm 1 cái là chít liền đó ). Tức là một cái đồng Ngũ Hành với Thủy Lai, một cái là được Thủy Lai sinh cho.



=> các hướng để lập mộ sẽ là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân, Nhâm.



Dễ hén !







Thêm 1 ví dụ nữa cho Dương Trạch đi : Với Dương Trạch , Thủy lai chính là các ngã đường gần nhất so với cuộc đất mình chọn. Do đó , các bạn hay thấy SH yêu cầu người cần tư vấn tả xem ngã 3-4 gần nhà nhất thuộc sơn gì so với nhà là vậy đó. Đứng tại trung tâm đất đặt La bàn , chiếu tới ngã 3-4 gần đó nhất , xem nó rơi vào sơn gì , thì đó chính là sơn của Thủy lai trong Dương Trạch.



Nhà trong khu đô thị thường mình khó có thể xoay hướng khác , trừ phi….nhà biệt thự . Mà thường nhất là nhà cố định hướng sẵn , trong trường hợp này , mình vẫn xác định hướng Thủy lai để….Khai môn.



Nhà tọa Cấn hướng Khôn đi, có ngã tư gần nhà nhất thuộc sơn Càn.



Ta thấy theo Tiểu Huyền Không Ngũ Hành thì Càn thuộc Kim.



Vậy các sơn có thể Khai môn sẽ thuộc : Kim và Thủy



=> các sơn Khai môn là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần, Thìn, Thân, Tốn, Tị, Nhâm, Tân.







2/. Đại Huyền Không Ngũ Hành :



Đây cũng là cách để định Thủy lai, Thủy khứ trong cả Dương trạch lẫn Âm trạch. Pháp này được ghi lại trong Thiên Ngọc Kinh, 24 sơn cũng chia ra theo Ngũ Hành, cụ thể là :



Tý, Dần, Thìn, Cấn, Bính, Ất thuộc Kim



Ngọ, Thân, Tuất, Khôn, Nhâm, Tân thuộc Mộc



Mẹo, Tị, Sửu, Càn, Canh, Đinh thuộc Thủy-Thổ



Dậu, Hợi, Mùi, Tốn, Giáp, Quý thuộc Hỏa







Nguyên tắc xét PT không ra ngoài sơn, hướng, sa, thủy.



Theo cách tính của Đại HKNH, thì dùng Chi làm Chính thần, Can làm Linh thần. Nghĩa là Sơn Hướng phải dùng các sơn thuộc Địa Chi, Thủy lai phải đến các sơn thuộc Thiên Can hoặc Tứ duy (Càn, Khôn, Cấn, Tốn).



Khi xét Thủy lai theo Đại HKNH, thì lấy thế Hướng và Thủy cùng Ngũ Hành và Tương Sinh.



Nói khơi khơi như vậy chắc khó hiểu lắm, thôi để mình ghi ví dụ cho dễ.







Ví dụ : Nhà hay Mộ có các hướng thuộc Kim: Tý, Dần, Thìn.



nên chọn Thủy lai ở các sơn Cấn, Bính, Ất (cùng Ngũ Hành), Càn, Canh, Đinh (tương sinh ).







Nhà hay Mộ có các hướng thuộc Hỏa: Dậu, Hợi, Mùi (tương sinh).







Cũng như cách Tiểu HKNH, đây là cách tính thuận, còn trên thực tế thường tính nghịch lại, lấy Thủy thực tế mà chọn Hướng. Xin đừng quên!



Trong thực tế , mình có thể áp dụng cả 2 phương pháp Đại và Tiểu HKNH chung với nhau để định Thủy, hoặc lập hướng, khai môn.



Đứng trước 1 thế đất nào đó , nếu xây mộ thì nhìn Thủy đáo sơn nào , nếu khai môn thì xem giao lộ gần nhất ở sơn nào so với trung tâm , mình xét theo Đại HKNH thì nó thích hợp với các sơn nào để lập hướng , khai môn ; rồi lại xét tiếp theo Tiểu HKNH xem nó thích hợp với sơn nào. Mình gộp các sơn đó lại , chọn sơn nào có ở cả 2 pp mà lấy. Có đôi khi , nó không thích hợp , chẳng hạn nếu chọn khai môn ở bên hông nhà sao được ? Khi ấy ta phải dùng các pp khác nữa để chọn , cái này NCD sẽ nói ở sau.



Ví dụ : Cuộc đất có Thủy đáo sơn Khôn , muốn lập hướng cho mộ , ta tính thử xem nhé !



Theo Tiểu HKNH thì Khôn thuộc Kim , vậy các sơn cần để lập hướng phải thuộc Kim hay Thủy



=> các sơn để lập hướng là : Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân, Nhâm.



Theo Đại HKNH thì Khôn thuộc Mộc, vậy các sơn cần lập hướng phải thuộc Mộc và Hỏa



=> các sơn để lập hướng là: Khôn, Nhâm, Tân, Tốn, Giáp, Quý.



Gộp cả 2 lại, ta thấy có các sơn thích hợp là: Khôn, Tốn, Tân, Nhâm.







Ví dụ nữa : Nhà ở thành phố có giao lộ gần nhất thuốc sơn Tuất, muốn chọn sơn Khai môn, ta tính thử xem:



Theo Tiểu HKNH thì Tuất thuộc Thổ , vậy các sơn cần để Khai môn phải thuộc Thổ, Hỏa



=> các sơn để Khai môn là: Tuất, Canh, Sửu, Mùi, Bính, Đinh, Dậu, Ất.



Theo Đại HKNH thì Tuất thuộc Mộc, vậy các sơn cần để Khai môn phải thuộc Mộc, Hỏa



=> các sơn để Khai môn là: Khôn, Nhâm, Tân, Tốn, Giáp, Quý



Gộp cả 2 lại, ta thấy không có sơn thích hợp. Như vậy, ta phải dùng pp khác để chọn thôi.



B/. SONG SƠN NGŨ HÀNH







Ta thấy 1 vòng Địa bàn có 24 sơn, mà trên tựa đề là Song sơn, như vậy đủ thấy rõ sẽ có 12 cặp trong 24 sơn.



Đây thực ra chỉ là phương pháp chọn theo Tam hợp cục Ngũ Hành, và phối thêm các sơn đứng trước mỗi chữ Địa chi đó thành 1 cặp thôi.



_ Dần, Ngọ, Tuất là Tam hợp hóa Hỏa, nay thêm các sơn đứng kế trước nó, sẽ có Tam hợp cục Hỏa theo song sơn như sau: Cấn, Dần, Bính, Ngọ, Tân, Tuất.



_ Tị, Dậu, Sửu là Tam hợp hóa Kim, nay thêm các sơn kề trước nó, sẽ có: Tốn, Tị, Canh, Dậu, Quý, Sửu là Tam hợp cục Kim theo song sơn.



_ Thân, Tý, Thìn là Tam hợp hóa Thủy, nay thêm các sơn kế trước nó, sẽ có Tam hợp cục Thủy theo song sơn là: Khôn, Thân, Nhâm, Tý, Ất, Thìn.



_ Hợi, Mẹo, Mùi là Tam hợp hóa Mộc, nay thêm các sơn kề trước nó, sẽ có Tam hợp cục Mộc theo song sơn như sau: Càn, Hợi, Giáp, Mẹo, Đinh, Mùi.



Phương pháp song sơn này được ứng dụng rất rộng rãi trong phép Tiêu sa, nạp thủy.







Ví dụ : Thế đất có Thủy lưu đáo sơn Nhâm.



Ta thấy Nhâm thuộc Tam hợp Thủy cục, vậy các hướng cần chọn là Thân, Tý, Thin, rất gọn.







Vì dụ : Thế đất có Thủy đáo sơn Tân



Ta thấy Tân thuộc Tam hợp Hỏa cục, vậy các hướng cần chọn là Dần, Ngọ, Tuất. Chííííít liền đó !!! Đây là 1 cái bẫy. Vì sao ?



Trong phép Tiêu sa, nạp Thủy, luôn luôn Thủy lai phải từ các sơn Sinh, Vượng, Lâm Quan; Thủy khứ phải từ các sơn Mộ khố.



Ở đây, Tuất là Mộ khố của cục Hỏa, nên chỉ có thể là Thủy khứ, nay Thủy lai, ta không thể chọn theo phương pháp này được, mà phải dùng pp khác. Hãy cẩn thận!



Do ở trên có đề cập tới Mộ khố của cuộc đất, nên giờ mình giới thiệu tiếp luôn về pp Thập nhị thần



C/. THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP











Trong tất cả các phương pháp Tiêu Sa – Nạp Thủy của Phong Thủy, thì đây là phương pháp quan trọng nhất. Đây là biểu hiện trạng thái của vạn vật từ thai nghén đến sinh trưởng, lớn lên cho đến suy tàn. Cụ thể như sau:



_ Tuyệt: Biểu thị trạng thái không có gì, vạn vật chưa tượng hình, như trong bụng mẹ trống không chưa mang thai.



_ Thai: Tức là vạn vật phôi thai, mới tượng hình, nảy mầm. Cũng như bào thai mới thụ khí bẩm sinh của cha mẹ.



_ Dưỡng: Muôn vật đã hình thành, tựa như bào thai đã phát triển chờ ngày khai hoa nở nhụy.



_ Trường sinh: Vạn vật bắt đầu sinh ra, như đứa trẻ lọt lòng mẹ, còn rất yếu ớt, non nớt.



_ Mộc dục: Vạn vật phát triển, như cây dần lớn lên, bắt đầu hứng chịu nóng lạnh, gió mưa, bão táp. Như đứa trẻ mới lớn, vẫn còn cần vòng tay của cha mẹ.



_ Quan đới: Như cây đã bắt đầu ra hoa, như người đã trưởng thành.



_ Lâm quan: Như cây đã kết trái, như người thi cử đỗ đạt ra làm quan, có được công việc ổn định.



_ Đế vượng: Như trái đã chín mùi, như thời hưng vượng thành đạt nhất của đời người, có được vinh hoa phú quý, hạnh phúc.



_ Suy: Vạn vật từ Trưởng chuyển sang Tiêu, như người đã leo đến đỉnh núi tất phải quay trở xuống vậy, như giai đoạn đời người đã lớn tuổi, đã nghỉ hưu. Như cây sau mùa ra trái, bắt đầu suy yếu, kiệt dinh dưỡng vậy.



_ Bệnh: Như người đã già yếu, bắt đầu bệnh tật xâm hại. Như cây suy yếu bị côn trùng, nấm mối tấn công vậy.



_ Tử: Như người đã già cỗi đến chết, như cây đã cằn cỗi chết đi.



_ Mộ: Như người đã chôn xuống mộ sâu, mục rữa trở về đất lạnh.







Do ý nghĩa 12 cung như vậy, nên người ta mới chọn Trường Sinh làm cung khởi đầu, lấy tượng con người mới sinh ra làm giai đoạn đầu.



Trong đó có 4 cung Cát nhất là: Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng. Người ta dùng 4 Cát để Nạp Sa, Thu Thủy.



3 cung trung bình là: Mộc Dục, Thai, Dưỡng ít dùng tới .



5 cung Hung là: Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt. Người ta dùng 5 cung Hung để chọn sơn Thủy Khứ (chảy đi).



Cách khởi cung của Thập Nhị Thần này, khời từ Trường Sinh cho đến cuối cùng là Dưỡng, 12 cung trên 24 sơn, với mỗi cung là 2 sơn trong Song Sơn Ngũ Hành (đã nói ở trên). Và phép khởi có 2 điểm cần lưu ý:



_ Khởi cung dựa theo đặt tính Tam Hợp Cục Ngũ Hành của sơn Địa Chi trong song sơn, để chọn cung Trường sinh ở đâu.



_ Khởi cung Trường Sinh đi thuận nghịch là tùy theo thế đất Âm hay Dương.







Thế đất Âm hay Dương là gì?



Âm Long là thế đất từ phải chạy sang trái, giống như đi ngược chiều kim đồng hồ vậy.



Dương Long là thế đất chạy từ trái sang phải, giống như đi thuận chiều kim đồng hồ vậy.



Thế đất Dương phải phối với Thủy Âm _ Thế đất Âm phải phối với Thủy Dương.



Thủy lưu Âm là dòng nước chảy từ phải sang trái, ngược chiều kim đồng hồ là nghịch, nên gọi là Âm.



Thủy lưu Dương là dòng nước chảy từ trái sang phải, thuận chiều kim đồng hồ, nên là Dương.







Tam Hợp Cục Ngũ Hành:



_ Dần Ngọ Tuất là Hỏa cục: Dương khởi Trường Sinh tại Dần đi thuận, Âm khởi trường Sinh tại Dậu đi nghịch.



_ Thân Tý Thìn là Thủy cục: Dương khởi Trường Sinh tại Thân đi thuận, Âm khởi Trường Sinh tại Mẹo đi nghịch.



_ Tị Dậu Sửu là Kim cục: Dương khởi Trường Sinh tại Tị đi thuận, Âm khởi Trường Sinh tại Tý đi nghịch.



_ Hợi Mẹo Mùi là Mộc cục: Dương khởi Trường Sinh tại Hợi đi thuận, Âm khởi Trường Sinh tại Ngọ đi nghịch.







Có 2 cách để dễ nhớ cho các vòng Âm Dương này:



_ Cung Lâm Quan của Dương là Đế Vượng của Âm, và ngược lại, Đế Vượng của Dương là Lâm Quan của Âm.



_ Dương khời Trường Sinh tại cung đầu tiên trong Tam Hợp, Âm khởi Trường Sinh tại cung cuối cùng trong Tam Hợp lùi lại 1 cung.







Bây giờ xin đi vào phần thực hành của phương pháp Thập Nhị Thần này:



Khi Nạp Sa phải dùng Sơn (Long) của Mộ phần để nạp.



Thu Thủy phải dùng Hướng của Mộ phần để định.



Với Dương Trạch chỉ dùng Sơn của nhà để định thôi.







Ví dụ 1 : Ngôi mộ Cấn Long, Đinh Hướng. Thế đất Dương.



a/. Nạp sa



_ Thế đất Dương là khởi thuận.



_ Cấn Long thuộc song sơn Cấn Dần, thuộc Tam hợp Hỏa cục (Dần Ngọ Tuất)



_ Là Dương Hỏa cục nên khởi Trường sinh tại Dần => Mộc dục tại Giáp Mẹo, Quan đới tại Ất Thìn, Lâm Quan tại Tốn Tị, Đế Vượng tại Bính Ngọ, Suy tại Đinh Mùi…..Dưỡng tại Quý Sửu.



_ Các cung để Nạp Sa là: Cấn, Dần, Ất, Thìn, Tốn, Tị, Bính, Ngọ.



b/. Thu thủy



_ Đinh Hướng thuộc song sơn Đinh Mùi, thuộc Tam hợp Mộc cục (Hợi Mẹo Mùi)



_ Là Dương Mộc cục nên khời Trường sinh tại Càn Hợi => Mộc dục tại Nhâm Tý, Quan Đới tại Quý Sửu, Lâm Quan tại Cấn Dần, Đế Vượng tại Giáp Mẹo, Suy tại Ất Thìn….Dưỡng tại Tân Tuất.



_ Các cung để Thu Thủy là: Càn, Hợi, Quý, Sữu, Cấn, Dần, Giáp, Mẹo.



c/. Nếu là khởi cho Dương Trạch :



_ Đinh Hướng thì tất là Quý Sơn.



_ Quý thuộc Song sơn Quý Sửu, thuộc Tam hợp Kim cục (Tị Dậu Sửu)



_ Là Dương Kim cục nên khởi Trường Sinh tại Tốn Tị => Mộc dục tại Bính Ngọ, Quan Đới tại Đinh Mùi, Lâm Quan tại Khôn Thân, Đế Vượng tại Canh Dậu, Suy tại Tân Tuất….Dưỡng tại Ất Thìn.







Ví dụ 2 : Ngôi mộ Tọa Canh Hướng Giáp. Thế đất Dương.



a/. Nạp sa:



_ Thế đất Dương nên đây là cục Dương , khởi thuận.



_ Tân thuộc song sơn Canh Dậu, thuộc Tam Hợp Kim cục (Tị Dậu Sửu)



_ Là Dương Kim cục nên khởi Trường sinh tại Tốn Tị => Mộc dục tại Bính Ngọ, Quan Đới tại Đinh Mùi, Lâm Quan tại Khôn Thân, Đế Vượng tại Canh Dậu, Suy tại Tân Tuất….Dưỡng tại Ất Thìn.



_ các cung để Nạp Sa là: Tốn, Tị, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu.



b/. Thu Thủy:



_ Giáp thuộc Song sơn Giáp Mẹo , thuộc Tam hợp Mộc cục (Hợi Mẹo Mùi)



_ Là Dương Mộc cục nên khởi Trường sinh tại Càn Hợi => Mộc dục tại Nhâm Tý, Quan Đới tại Quý Sửu, Lâm Quan tại Cấn Dần, Đế Vượng tại Giáp Mẹo, Suy tại Ất Thìn….Dưỡng tại Tân Tuất.



_ Các cung để Thu Thủy là : Càn , Hợi , Quý , Sửu , Cấn , Dần , Giáp , Mẹo.



c/. Nếu khởi cho Dương Trạch :



_ Tọa Canh thuộc Song sơn Canh Dậu , thuộc Tam hợp Kim cục ( Tị Dậu Sửu )



_ Là Dương Kim cục nên khởi giống ở VD trên.











Ví dụ 3 : Ngôi mộ Tọa Tân Hướng Ất. Thế đất Âm.



a/. Nạp Sa :



_ Thế đất Âm nên khởi nghịch.



_ Tọa Tân thuộc song sơn Tân Tuất , thuộc Tam hợp Hỏa cục ( Dần Ngọ Tuất ).



_ Là Âm Hỏa cục nên khởi Trường Sinh tại Canh Dậu => Mộc dục tại Khôn Thân , Quan Đới tại Đinh Mùi , Lâm Quan tại Bính Ngọ , Đế Vượng tại Tốn Tị , Suy tại Ất Thín….Dưỡng tại Tân Tuất.



_ Các cung để Nạp Sa là : Canh , Dậu , Đinh , Mùi , Bính , Ngọ , Tốn , Tị.



b/. Thu Thủy :



_ Hướng Ất thuộc Song sơn Ất Thìn , thuộc Tam hợp Thủy cục ( Thân Tý Thìn ).



_ Là Âm Thủy cục nên khởi Trường Sinh tại Giáp Mẹo => Mộc dục tại Cấn Dần , Quan Đới tại Quý Sửu , Lâm Quan tại Nhâm Tý , Đế Vượng tại Càn Hợi , Suy tại Tân Tuất….Dưỡng tại Ất Thìn.



_ Các cung để Thu Thủy là : Giáp , Mẹo , Quý , Sửu , Nhâm , Tý , Càn , Hợi.



c/. Nếu là Dương Trạch :



_ Tọa Tân thuộc Song sơn Tân Tuất , thuộc Tam hợp Hỏa cục ( Dần Ngọ Tuất ).



_ Là Âm Hỏa cục nên khởi Trường Sinh tại Canh Dậu => Mộc dục tại Khôn Thân , Quan Đới tại Đinh Mùi , Lâm Quan tại Bính Ngọ , Đế Vướng tại Tốn Tị , Suy tại Ất Thìn….Dưỡng tại Tân Tuất.







***Lưu ý :



Đối với Dương Trạch, nếu nhà ở nông thôn, thì Sa, Thủy dùng như Sa, Thủy của Mộ phần Âm Trạch (Chân Sơn núi, đồi; Chân thủy sông, rạch, suối).



Nhưng ở khu đô thị thì sao ? Ở thánh phố, lấy các nhà cao tầng nhất trong khu đó, hay các khu gần đó làm Sa; lấy các giao lộ ngã 3-4-5 gần nhà làm Thủy.



Trong Lý thuyết thì chúng ta lấy từ Sơn (Long), Hướng ra để chọn Nạp Sa, Thu Thủy, NHƯNG trong thực tế, thường những cái đó đã có trước, cho nên ta thường phải làm ngược lại. Tức là từ Sa, Thủy có sẵn đó, ta chọn Hướng phù hợp với Sa, Thủy đó => Nhìn thế đất Dương hay Âm trước, sau đó xác định Sa, Thủy đó rơi vào 4 cung Cát nào (Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng) của CỤC nào, từ đó xác định Sơn Hướng






Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *