PHONG THỦY HỌC – NCD. BÀI 4

PHONG THỦY HỌC – NCD. BÀI 4
Giới thiệu : Đã có rất nhiều người viết về thuật Phong thủy . Gần đây một người bạn của dienbatn : Trường Minh – có bút hiệu NCD là một nhà nghiên cứu Phong thủy giỏi và một người trong Huyền môn đã tổng hợp các sách cổ , tư liệu về Phong thủy để viết lại vấn đề này . Tuy chưa phải là đầy đủ và có một vài điều riêng dienbatn chưa nhất trí , song đây là một tài liệu tốt cho những người nghiên cứu Phong thủy . Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn . Nguồn lấy từ Hoangthantai.com. Thân ái . dienbatn.







4/. CÁC DỊCH VỤ ĂN UỐNG- NGHỈ NGƠI:



Nói đến ngành “công nghiệp không khói” thì đúng là một lĩnh vực hái ra tiền mà các nước có tiềm năng đều ráng đầu tư, khai thác. Du lịch càng mở mang, phát triển bao nhiêu thì kéo theo dịch vụ nhà hàng-khách sạn phát triển bấy nhiêu. Thêm vào đó chi chỉ số GDP của người dân tăng, thì nhu cầu hưởng thụ của họ cũng tăng theo. Sau một tuần làm việc căng thẳng, ai cũng muốn có những giây phút thư giản cùng hưởng thụ chung với gia đình, bạn hữu thân tình hay… người yêu, một bữa ăn ngon, một buổi party nho nhỏ, hay đơn giản là dùng một ly kem, uống cafe tán gẫu với bạn bè..vv… Hàng quán ngày càng mọc lên như nấm; khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ thì đầy rẫy. Trong sự cạnh tranh này, nếu có sự thiết kế hợp lý về mặt Phong Thuỷ tất nhiên cơ hội thành công sẽ cao hơn vậy.



Điều đáng lưu tâm đầu tiên của lĩnh vực này chính là địa điểm. Về mặt này, kinh doanh dịch vụ ăn uống- nghỉ ngơi đòi hỏi khó khăn hơn các loại hình khác. Vì sao? Khách đi mua hàng có thể đi bộ hàng giờ từ dãy phố này sang dãy phố khác để mua sắm, NHƯNG khách của loại hình này là đi xe đến tận nơi. Do đó điều kiện tiên quyết của loại hình này là địa điểm đó phải THUẬN TIỆN GIAO THÔNG. Một con đường một chiều xe chạy có thể buôn bán hàng hóa đắt là chuyện có thể thấy, nhưng một hàng quán trên đường một chiều mà mua bán đắt rất ít, phải nhiều mặt khác làm tốt mới có thể. Nơi đó phải có hoặc gần nơi giữ xe cho khách. Nơi cơ sở kinh doanh buôn bán hàng hóa kỵ các Hung sát hôi thối, ấn tượng xấu gì thì bên này càng khó chấp nhận. Chẳng ai muốn vừa ăn xong bước ra thấy trại hòm trước mặt cả; mà cũng không ai ưa ở khách sạn mà sáng sớm nhìn ra thấy một nghĩa trang thê lương… Nơi đó kết cấu Địa tầng phải chắc mới được, vì nơi đây có cả trăm mạng người ăn uống- nghỉ ngơi- làm việc, nếu có sự cố gì thì thật không thể tưởng tượng nổi hậu quả sẽ thế nào. Tư tưởng Phong Thuỷ rất cầu kỳ về Địa chất, cho rằng Địa chất tác động không nhỏ đến cơ thể con người. Các vùng đất có chứa nhiều nguyên tố vi lượng kẽm, fluor, selen chịu tác dụng quang hợp phóng xạ vào không trung, trực tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ con người. Các vùng đất có sóng từ trường mạnh rất nguy hiểm, có thể làm tổn thương con người, tác động trực tiếp lên hệ thần kinh trung ương, khiến người ở nơi đó hay bị choáng đầu, chóng mặt, thần kinh suy nhược, thậm chí có thể bị bệnh thần kinh. Trong “Thập Nhị Trượng Pháp” của Dương Quân Tùng đời Đường cũng có nói:



Trấn xung trung sát bất kham thiên



Đường khí quy tùng tại lưỡng biên



Y mạch sảo ly nhị tam xích



Pháp trung khai trượng tối tam nguyên.



Tức khi có xung sát hay khí địa long (nay gọi là từ trường) quá mạnh, phải tránh sang hai bên trung tâm mạch khoảng 2- 3 thước mà định huyệt mới tốt. Lại thêm phía dưới đất nơi đó 3m có dòng chảy hay nơi hội tụ của hai giòng chảy, có thể tạo ra sóng từ mạnh hơn nơi khác. Nó khiến cho người ngụ nơi đó thường hay bị đau đầu, chóng mặt, nội tiết không điều hòa. Các vùng đất ẩm thấp cũng không thích hợp cho khách sạn, nhà nghỉ. Nó khiến người ở đó bị viêm khớp xương, tim do ảnh hưởng phong thấp, bệnh da liễu. Cho nên kết cấu Địa tầng vùng đất được xem trọng không có gì là khó hiểu cả, nó cần phải được xem xét kỹ trước khi xây dựng. Ngày xưa các nhà Phong Thuỷ không biết đó là từ trường gì, chỉ cảm nhận kim nam châm dao động mãi, họ cho đó là điểm bất tường nên không chọn vậy.



Không chỉ về mặt địa chất, Phong Thuỷ còn phải chú trọng tính hợp lý của loại hình kinh doanh. Muốn mở ra dịch vụ ăn uống- nghỉ ngơi khó hơn các loại hình kinh doanh khác, ở chỗ nó phải được tiếp thị một cách kỹ lưỡng trước khi quyết định xây dựng. Phải điều nghiên xem nơi ta muốn làm là tỉnh thành thuộc loại gì? Tính chất của tỉnh thành góp phần không nhỏ vào việc định hình kinh doanh dịch vụ này. Thí dụ như đó là thành phố du lịch, thì lý tưởng đấy nhưng chỉ có thời vụ, không có tính thường xuyên. Nơi đó là tỉnh thành sàn xuất và tiêu thụ hàng hóa, thì mở khách sạn ra chắc đầu Xuân một người khách, cuối Hạ một người khách ghé qua mất. Nơi lý tưởng nhất cho loại hình này là các tỉnh thành thương nghiệp, buôn bán sầm uất, buôn bán nhiều mặt hàng. Ngoài ra ta còn phải điều nghiên xem tình hình của người dân nơi đó sống thế nào? Khá giả hay nghèo nàn hay giàu có? Tiêu pha rộng rãi hay chi ly từng cắc? Một nơi mà người dân ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, ta đến mở nhà hàng ra chỉ để… đuổi ruồi thôi. Chúng ta còn xét đến các tuyến giao thông của nơi đó, có sân bay nội địa- quốc tế gì không? có tuyến đường xe lửa nào? Bến cảng, bến tàu có không? Nói chung, từ những tuyến, những trục giao thông đó xác định sơ nét về lượng khách từ nơi khác đến. Tất cả những phần thuộc tính chất của tỉnh thành này phải được xem xét kỹ trước khi mở ra kinh doanh. Người thầy địa lý thì chỉ làm công tác chuyên môn, NHƯNG người cố vấn Phong Thuỷ cho lĩnh vực kinh doanh không chỉ giỏi chuyên môn của mình, mà bắt buộc phải thông hiểu, am tường cả lĩnh vực tiếp thị này nữa. Vì phải tiếp xúc thị trường mới hiểu được cung, cầu ra sao, có như vậy mới cố vấn cho khách hàng được. Nói đến lĩnh vực này, NCD xin được nói rộng thêm một tý cho lĩnh vực nhà nghỉ, nhà trọ, khách sạn. Bởi dạng hình kinh doanh này không chỉ phục vụ khách du lịch, mà rất phức tạp. Trước tiên, ta phải nhìn nhận vấn đề trai- gái yêu đương thời nay khác xưa. Ngày trước còn bảo “nam nữ thọ thọ bất tương thân”, chứ các cô cậu ngày nay dám nói “nam nữ cọ cọ…mát da lưng” lắm đấy. Cho nên, chỉ cần hơi thân thân một tý mà nhiều cô cậu đã đưa nhau vào nhà nghỉ, nhà trọ mà tâm tình. Các dịch vụ mại dâm sa đọa cũng chiếm một lượng khách không nhỏ trong loại hình kinh doanh này, từ các khách ăn chơi xoàng xoàng, cho đến các Đại gia tiêu tiền như nước, các quan chức địa phương đều có cả. Cho nên khi tiếp thị Tiền kinh doanh cần phải để ý nếp sống, dân sinh; hay nói trắng ra là lưu tâm đến quan điễm chung về quan hệ tình dục ngoài hôn nhân- tiền hôn nhân của người dân vùng đó (các quan chức thì có lẽ “không có con mèo nào chê mỡ cả”, chẳng qua do hoàn cảnh nào đó chưa cho phép thôi, cả Clinton còn có mà!). Các hoạt động Tín Ngưỡng, Tôn Giáo lớn, các nơi gần chùa chiền miếu mạo (như vùng gần Tòa Thánh Tây Ninh, gần núi Bà Đen, gần Núi Bà Chúa Xứ…); các danh lam thắng cảnh nổi tiếng (như vùng gần Vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Nha Trang…)… các nơi đó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến lượng khách của loại hình kinh doanh này.



Còn một yếu tố nữa không kém phần quan trọng, đó là “tri bĩ, tri kỷ, bách chiến bách thắng”. Khi ta đến nơi đó, trước tiên phải nắm rõ ở đó đã có những đối thủ nào. Tìm hiểu thật kỹ về từng đối thủ của mình phải gặp trong tương lai, là một điều vô cùng có lợi cho kinh doanh sau này.Từ chất lượng ăn uống, cung cách phục vụ, không gian bài trí, giá cả món ăn, vệ sinh… của các dịch vụ ăn uống; cho đến chất lượng của trang thiết bị, cung cách phục vụ, địa thế, đằng cấp, qui mô… của các dịch vụ nghỉ ngơi. Tất cả phải có sự thống kê để đánh giá năng lực, tiềm năng, tầm cỡ của đối thủ cạnh tranh với mình. Có như vậy, khi chúng ta mở ra kinh doanh mới có thể thắng được.



Người ta thường nói: “ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, cưới vợ Nhật”, câu nói này gần như ai cũng từng nghe qua ít nhất một lần trong đời. Nay hiểu rộng câu này ra, NCD thấy nó rất thích hợp cho lĩnh vực kinh doanh ăn uống- nghỉ ngơi. Một điểm phục vụ ăn uống nghỉ- nghỉ ngơi không có gì quan trọng bằng ba yếu tố chính: Khung cảnh (tức vùng không gian nơi đó, quang cảnh hữu tình, bài trí bắt mắt..)_ Chất lượng (món ăn, thức uống đều ngon, đặc sắc; trang thiết bị phục vụ nghỉ ngơi thì đầy đủ, tiện nghi…)_ Cung cách phục vụ (đúng với phương châm “Khách là Thượng Đế”, “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, làm sao cho khách cảm nhận khi đến đó họ được săn sóc tận tình, được đối xử trân trọng mà lại niềm nở, thân tình như người thân trong nhà vậy). Đạt được ba yếu tố này thì không khó để nắm thành công trong tay.



Hôm qua NCD xem thời sự trên tivi, thấy có nói đến một công ty ở Hà Nội, kinh doanh nhà ở nơi các chung cư cao cấp, lại có cách hành xử “tiền hậu bất nhất” như thế sao gọi là “cao cấp” được. Khi xét đến yếu tố Phong Thuỷ trong lĩnh vực ăn uống- ngủ nghỉ ta không thể bỏ qua được phần tính chất và quy mô của nó. Tức là, giả như các bước ban đầu ta đã thực hiện xong, đã đi vào kinh doanh (nghĩa là giống như công ty nói trên đã bán xong nhà cho người dân mua), xin đừng xem nhẹ hai yếu tố Tính chất & Quy mô mà hỏng mất việc kinh doanh, uổng phí bao tâm huyết lúc đầu. Không vị khách nào muốn bỏ một món tiền gấp 3-4 lần quán ăn nơi khác cho một món ăn chẳng ra hồn, còn thua cả quán vỉa hè. Cũng như không ai chịu trả tiền theo mức khách sạn 4-5 sao cho một phòng mà tiện nghi thiếu kém, phục vụ tồi tệ được. Nếu chúng ta không làm tốt mặt này, thì một đồn mười, chục đồn trăm, chắc chắn điểm kinh doanh của chúng ta phải đóng cửa thôi, vì sẽ không ai đến ủng hộ một nơi như thế nữa.



Nói chung các khâu trên chúng ta có thể khống chế được qua khâu Tiếp thị & Quản lý kinh doanh, NCD không muốn bàn sâu thêm. Cũng như đối với các trường hợp khác, Cửa chính là một yếu tố quan trọng trong bất kỳ cơ sở hay nhà ở nào. Và nó cũng cùng một nguyên tắc chung như các cơ sở- doanh nghiệp trên kia, nên NCD không lập lại ở đây. Riêng nhà nghỉ- khách sạn cần lưu ý đến ngoại cảnh hơn nữa, bởi khách của họ là khách ngủ lại chứ không phải mua hàng hay ăn xong rồi về. Cho nên đôi khi có những kiến trúc hay hình thể bên ngoài làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của khách, tức là trực tiếp ảnh hưởng đến lượng khách của nơi này. Ánh sáng đèn ban đêm ở cửa phải hấp dẫn khách.



Do tính Âm bên trong khách sạn- nhà nghỉ, nên bên ngoài cần bố trí Dương làm chính, từ Tiền sảnh ra cổng cho đến bên ngoài: màu sắc thuộc Dương (không dùng gam màu sẫm, tối), ánh sáng thuộc Dương (ban đêm không dùng đèn mờ tối, ban ngày không để âm u). Tiền sảnh phải rộng lớn, thoáng, sáng sủa, nên có vài bộ bàn ghế (phù hợp với qui mô & đẳng cấp của khách sạn) để khách ngồi nghỉ, chờ đợi. Các khách sạn lớn thường có một quầy rượu hay bar giải khát nhỏ nơi Tiền sảnh, để khách có thể ngồi uống nước với bạn nào mà họ không muốn đưa lên phòng, vừa có thể tăng thêm doanh thu cho khách sạn. Như khách sạn 5 sao Hilton ở Thượng Hải cũng vậy. Không những thế, họ còn bố trí một bồn phun nước nhỏ nơi Tiền Sảnh, một tác động rất hay giúp Khí luân lưu khắp nơi, lan tỏa vào trong; lại đặt một bình hoa tươi thật lớn ngay Tiền Sảnh, mỗi ngày mỗi thay hoa mới, vừa bước vào cửa đã thấy ngay, tạo cho khách một ấn tượng tươi mát, dễ chịu ngay.



Khách sạn quan trọng nhất chính là Phòng Ngủ của khách bên trong. Chất lượng phòng tốt xấu trực tiếp ảnh hưởng đến giá cả thuê phòng & hình tượng khách sạn. Chiều cao trần phòng không nên quá 2m80, cao quá có cảm giác trống trải, thấp quá có cảm giác bị đè nén. Nên dùng các gam màu nhạt cho các phòng ngủ. Trong phòng ngủ khách sạn luôn đi kèm một phòng vệ sinh, cửa phòng vệ sinh không nên mở trực diện vào giường ngủ. Trong phòng vệ sinh phải sạch sẽ, cao ráo, thoải mái, thoáng khí, gam màu cũng nên nhạt. Có một điều mà trên kia NCD đã nói, là Tính chất & Qui mô, nay xin nhắc lại vì nó rất quan trọng: Nên thường xuyên kiểm tra hệ thống đèn, ống nước, máy điều hòa không khí, cable ti-vi, bồn cầu, máy nước nóng, tránh để khách phiền lòng. Khi thiết kế phòng nên cố gắng sao cho mỗi phòng đều đón được ánh mặt trời, và nhìn ra quang cảnh đẹp bên ngoài (như khách sạn Sheraton ở Hàng Châu- Trung Quốc nhìn ra cảnh thơ mộng tuyệt vời của Tây Hồ, như khách sạn Palace ở Đà Lạt nhìn ra Hồ Xuân Hương hữu tình…)



Các khách sạn- nhà nghỉ nên chừa khoảng không gian để xe có thể đậu lại, ít nhất cũng là để xuống khách. NCD không hiểu các quan chức Việt Nam ta đi ra nước ngoài tham quan cũng nhiều, chẳng biết họ có chịu tìm hiểu, học hỏi như mục đích của chuyến đi hay không, tại sao không tiếp thu được những cái hay của người về áp dụng? Trong đó có cả vấn đề qui hoạch đô thị, hiện đang còn nhiều điểm rất bất hợp lý. Ở một thành phố khuyến khích du lịch, muốn du khách đến mà đâu đâu cũng cấm đậu xe, thử hỏi sao khách có thể dừng ở khách sạn hay đi mua sắm thoải mái được? Có khi tài xế chạy vòng vòng cả chục con đường vẫn không có được một chỗ cho phép xe 12 chỗ đậu lại. Thật nghịch lý không thể tưởng! Đúng là “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, một bên là khuyến khích, một bên là cản trở, đấy là một cái khó cho các doanh nghiệp nhà hàng- khách sạn ở Việt Nam hiện nay. Trong khi chờ có sự qui hoạch hợp lý, trước tiên chúng ta tự mình hãy hoàn thiện, khắc phục điểm đó theo cách của mình. Nghĩa là trước khi mở ra nhà hàng- khách sạn hãy nghĩ đến tìm không gian để xe khách đỗ lại trước đã, vì ở Việt Nam ta có mùa mưa, nếu xe khách vào tận cửa thì sẽ tiện lợi rất nhiều vậy. Và có một điều này tuy không nằm trong lĩnh vực Phong Thuỷ, nhưng NCD thấy thực tiễn ở xứ bạn và nghĩ nó có thể giúp ích cho các doanh nghiệp khách sạn, nên xin giới thiệu ra đây. Lúc ở Thượng Hải, NCD thấy các nhân viên bảo vệ ở khách sạn Hilton rất cẩn thận, với khách du lịch họ luôn ghi lại số xe khi khách bước lên bất kỳ xe taxi nào trước cửa khách sạn họ. Điều này khiến du khách sẽ cảm thấy rất an tâm, họ cảm giác mình luôn được quan tâm, bảo vệ ngay cả lúc đi ra ngoài (bởi du khách có sự cố gì hay vắng mặt quá lâu, họ sẽ báo cảnh sát về số xe taxi mà khách đã lên ngay, điều này khiến xe taxi nào muốn lừa gạt khách cũng không dám làm ẩu). Một động tác nhỏ nhưng tạo ấn tượng tốt đẹp không nhỏ trong lòng du khách vậy.



Với các nhà hàng- quán ăn, quan trọng nhất là cái Bếp. Đa phần khách đến ủng hộ một quán nào đó là vì thức ăn ngon nhiều hơn là vì khung cảnh (Đổi lại, quán cafe đa phần là vì khung cảnh- âm nhạc là chính). Nhưng các món ăn ở các quán đa phần đều tầm tầm như nhau, khác chăng là ở mỗi quán có một món như là đặc trưng riêng của họ thôi. Cho nên, lấy ưu bù khuyết, cung cách phục vụ và khung cảnh, trang trí sẽ giúp thêm cho phần khẩu vị của khách vậy. Nhiều khi quán không làm món ăn xuất sắc lắm, nhưng các nhân viên phục vụ quá tận tình, chu đáo khiến cho khách… không nỡ bỏ đi quán khác ăn (thôi thì ăn ở đâu cũng same same như nhau, sao mình không đến chỗ nào tiếp đãi mình chu đáo hơn chứ?!). Hay có những nơi bài trí cực kỳ đẹp, khiến ai có tổ chức tiệc tùng đều nghĩ ngay đến nơi ấy, đấy cũng là một lợi thế kinh doanh lĩnh vực này vậy. NCD không bàn sâu ở hai mặt “bù lỗ” này, mà chỉ đưa ra những điều cần thiết về Phong Thuỷ trong nhà hàng- quán ăn thôi.



Bước vào một nhà hàng, một quán ăn thì chính trên cái lối ra vào ấy cũng đã góp phần tạo khung cảnh cho bữa ăn rồi vậy. Đây chính là “ấn tượng đầu tiên” của khách đối với loại hình kinh doanh này. Nên tránh cửa ra vào dẫn ngay vào các bàn ăn, vì nó có hai điều bất lợi:



_ Thứ nhất, với khách đang ngồi ăn nơi đó, họ sẽ cảm thấy ngượng vì luôn đập vào mắt những người đi ngang qua cảnh họ đang ăn, sẽ mất cả tự nhiên, thoải mái.



_ Thứ hai, với những khách vừa đến. Những người đang ăn cũng sẽ ngoái đầu nhìn xem ai đang vào (tâm lý là vậy), làm cho vị khách mới này thấy ngượng vì trở thành trung tâm chú ý của mọi người, như thế thật khó chịu.



Tạo một cảm giác thoải mái cho khách chính là ưu tiên bước đầu khi khách vào vậy. Nếu là một nhà hàng, một quán ăn lớn nên thiết kế một bàn tiếp tân, có nhân viên tiếp tân chào mời, đón khách vào khu vực trong, bàn giao cho nhân viên phục vụ bên trong. Như vậy sẽ tạo cho khách cảm giác mình được xem trọng, được ưu ái, tự dưng trong lòng họ sẽ nảy sinh thiện cảm ngay. Trong bước đầu tiên tiếp xúc với khách này, người nhân viên tiếp tân đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vì đấy chính là người đầu tiên tiếp xúc với khách hàng, việc mua bán với khách- ở bất kỳ dạng kinh doanh mua bán nào- thì người đầu tiên tiếp xúc với khách cũng rất quan trọng, quyết định việc mua bán thành hay không cũng một phần từ bước đầu tiên này. Người nhân viên tiếp tân không những phải tươi cười, vui vẻ mà còn phải ăn nói nhã nhặn, lịch sự, cởi mở, thân thiện với khách. Chỉ cần một ánh mắt ôn nhu trìu mến cũng khiến khách cảm thấy thân thiện hơn ngay (nhưng nếu người ta đi có đôi, mà cô nhân viên tiếp tân cứ nhìn “anh khách đẹp trai” mà chớp mắt làm duyên mãi, thì e rằng cặp khách này sẽ không ghé lại lần sau rồi). Không thể thủ bộ mặt u ám buồn xo ra mà tiếp khách (mọi việc buồn bã gì đều phãi gác lại bên ngoài), hay một gương mặt bơ phờ thiếu ngủ, gặp khách là…” liếc mắt đưa ghèn” thì nguy quá. Do đó, yếu tố thành công trong kinh doanh được xem trọng nhất với một người chủ là: Biết dùng đúng người vào đúng việc & thiết lập một quan hệ thân thiết với các nhân viên. Có như thế nhân  viên mới làm việc hết mình & phát huy hết khả năng của họ. Xin hãy nhớ cho vậy!



Các sách Phong Thuỷ bày bán trên thị trường nêu lên cách dùng gương trong nhà hàng- quán ăn để “tạo hiệu ứng” tăng lượng khách- tăng doanh thu. NCD rất tán đồng cách này. Cashier (quầy thu ngân) nên đặt ở vị trí chéo góc với cửa ra vào, đây là vì trí có tầm nhìn bao quát toàn cảnh trong nhà hàng. Một người quản lý có thể đứng gần đó quan sát khắp các bàn để điều động, hỗ trợ cho nhân viên khi cần thiết. Nếu góc chéo đó là cung Tài Lộc hay cung Quý Nhân thì quả là trên cả tuyệt vời!



Hãy lưu ý các góc cột vuông vức trong nhà hàng, quán ăn, vì các cạnh sắc bén cũa nó sẽ tạo ra Sát khí. Có vài cách hóa giải nó, nhưng đơn giản hơn hết là dùng dây leo thả theo các cạnh của nó. Nếu có thể, hãy sắp xếp các bàn tránh xa lối đi chung. Vì cung cách phục vụ nhà hàng buộc nhân viên phải bưng khay bằng một tay, họ cứ lượn qua lượn lại với khay thức ăn sẽ làm cho khách ngồi hai bên lối đi thấy phập phồng, “chả biết lúc nào mấy anh chàng này quẳng cái đống thức ăn trên mấy cái mâm kia vào người mình nữa đây?!”. Thật là khó chịu đấy! Làm ăn mất cả ngon. Ngay cả các khu vực gần Bếp cũng thế, nên tránh xa ra. Vì đó là nơi rất chộn rộn người lui kẻ tới, lại thêm mùi dầu mỡ chiên xào trong Bếp có thể làm thực khách ăn không còn thấy ngon nữa.



Màu sắc cũng góp phần trong việc này, các gam màu nóng như đỏ, cam, hồng thuộc Dương, chúng có tác dụng kích thích tính thèm ăn (điều này có phần giống trong thuyết A6m Dương Khí Công của Thầy Bùi Quốc Châu). Chính điều này dẫn đến lời khuyên các nhà hàng- tiệm ăn nên trang trí các gam màu nóng trên. Và trong các sách bày bán trên thị trường hiện nay, các tiền bối trong nghề này có một sự nhầm lẫn về cách giải thích, khi cho rằng vì tiệm ăn thuộc hành Hỏa nên phải dùng màu đỏ. Thực ra, tuy nhà hàng- quán ăn thuộc hành Hỏa, nhưng nếu ta thêm hành Hỏa thì nơi đây Hỏa khí quá vượng, sẽ tạo ra sự mất cân bằng trong Âm Dương, Ngũ Hành là cái hại thứ nhất. Với các nhà hàng- quán ăn bán Hải Sản tươi sống thì càng không nên dùng, vì màu đỏ là màu của tôm cá chết, đó là cái hại thứ hai, trường hợp này phải dùng gam màu xanh lá cây đậm. Trong các nhà hàng- quán ăn, việc bố trí thêm hai Hành Thủy & Mộc là rất cần thiết. Bởi nó có tính làm mát dịu cái Dương khí quá thịnh trong nhà hàng- quán ăn, điều có thể gây ra tranh chấp, thậm chí xô xát. Những chậu cậy xanh bố trí hợp lý, những hồ cá, những bức tranh sông biển với trời nước bao la tạo một cảm giác thư thả, đằm tính, lại có hiệu ứng tăng việc kinh doanh (vì nước là Thủy là chủ Tiền tài; hai nửa là Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa). Nhất là khi đặt đúng chỗ thuộc cung Bát Quái, nó sẽ hỗ trợ cho sự nghiệp, cho Tài Lộc, cho danh tiếng của nhà hàng ăn. Tránh làm toilet hay phòng ngủ của nhân viên ngay hướng Nam, thanh danh nhà hàng sẽ bị vùi xuống bùn nhơ đấy.



Với các quán fast-food, nhu cầu nơi đây là phục vụ càng nhiều khách càng tốt, và làm sao phục vụ được nhiều khách trong thời gian ngắn nhất. Do vậy, các nơi này cần chú ý nhất là lối ra vào phải rộng rãi, ở nơi dễ nhìn thấy nhất. Bàn ghế cho các quán fast-food này nhiều nơi chỉ là những bàn ghế nhỏ thô sơ. Nhưng theo NCD, nên dùng các bàn ghế nhiều màu sắc, như ba màu xanh- đỏ- vàng, tạo cảm giác vui mắt. Các cửa hàng fast-food thường đi kèm với các trung tâm mua sắm, nên màu sắc thích mắt sẽ dễ lôi cuốn khách đến đó hơn.



Với các quán bar, quán cafe thì nên lưu ý vấn đề trang trí. Chất lượng thức uống tuy quan trọng nhưng không bằng cái “không khí” nơi đó. Nơi này, sự trang trí một cách nghệ thuật & âm nhạc có tính cách chọn lọc là hai yếu tố góp phần không nhỏ trong việc quyết định thành công vậy. Màu sắc nơi đây thường dùng gam màu tối không phản xạ ánh sáng, vì ánh sáng nơi đây không thể sáng rỡ được. Vào một quán cafe mà đèn sáng choang như quán ăn, thật khó mà có hứng tán gẫu. Chung qui, nơi đây thích hợp với hành Thủy, sự tĩnh lặng (nhạc chỉ mở vừa phải để khách có thể nói chuyện thoải mái, không phải hét vào tai nhau mới nghe được), không gian ánh sáng mờ. Cũng như quán ăn, quầy thu tiền nên đặt ở vị trí có tầm nhìn bao quát.



Bây giờ NC mới nói đến vấn đề mà lẽ ra phải nói từ đầu, đó là: Ðặt tên cho doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh. Khổng Tử có nói: “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”. Qua đó ta có thể thấy cái tên quan trọng thế nào. Với người thì tên họ có thể bổ cứu cho sự thiếu sót trong năm tháng ngày giờ sinh. Chính vì vậy mà tục ngữ Trung  Quốc có câu: ” Cho con ngàn vàng chẳng bằng dạy cho con một nghề tốt, dạy con một nghề tốt chẳng bằng đặt cho con một cái tên tốt”. Sinh cùng năm tháng ngày giờ mà có số phận khác nhau là do nhiều yếu tố, trong đó cái tên cũng góp một phần vậy.



Ví dụ như: Người sinh năm Hợi, mà:



_ Trong tên có chữ Ngư (như Giao,Tuyết của cá tuyết..), chữ Mễ (như Phấn, Lương, Đường, Trang…), chữ Đậu (như Đăng, Phong, Diễm…): Phúc Lộc song toàn, danh lợi vĩnh tại, phú quý câu cát.



_ Trong tên có chữ Đao (như Lợi, Tiền là trước, Cương, Kiếm..), chữ Lực (như Thắng, Dũng, Công, Cần, Huân của huân chương…), chữ Thạch (như Thạch, Sa là cát, Bích của ngọc bích, Khánh…), chữ Mịch (như Văn, Thuần, Sa là lụa, Lũy của tích lũy, Huyền, Nhung, Tuyến, Duyên…): Bệnh nhược đoản thọ hoặc kỵ xa phạ thủy, lao lệ nhất sinh hoặc hình khắc phụ mẫu, hình ngẫu thương tử, đa tai ách hoặc ác tử hung vong chi ách.



……



Còn nhiều trường hợp nữa cho các bộ chữ Hán có trong tên của người sinh năm Hợi. Chỉ qua hai trường hợp trên ta cũng thấy số mệnh họ khác nhau một trời một vực, chỉ vì cái tên đặt khác nhau thôi. Dẫn chứng trên đây để các anh chị, các bạn thấy rõ cái tên góp phần không nhỏ vào vận mệnh con người, hầu khi có gia đình hãy đặt cho con mình cái tên mang nhiều vận may cho chúng.



Cũng như vậy, với doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh, nhưng nó phức tạp hơn một tý, vì nó còn phân ra loại hình gì. Ví dụ: Quán ăn có thể đặt tên NGON được, nhưng một doanh nghiệp mà đặt tên này nghe thấy kỳ quái liền; quán cafe có thể đặt tên “Điểm hẹn” được, nhưng công ty mà đặt tên này nghe không ổn, chắc quý phu nhân không ai muốn các ông chồng của mình đến những nơi có cái tên này, như một sự báo trước cho việc lăng nhăng bên ngoài rồi.



Cho nên, yếu tố đầu tiên phải là hợp lý, hợp với ngành nghề, hợp với loại hình kinh doanh, hợp với đẳng cấp của doanh nghiệp- của cơ sở. Cho dù có lựa được cái tên hợp với các yêu cầu của việc đặt tên, mà không hợp lý thì hãy dẹp đi, cho dù đó là sự chọn lựa của một ông thầy Phong Thuỷ nổi tiếng nào cũng thế. Và lẽ tất nhiên, cái tên hợp lý ấy phải mang một ý nghĩa tốt đẹp, đó chính là điều cần thiết thứ hai_ điều này cũng thuộc trong 9 tiêu chuẩn chọn tên, nhưng do tính quan trọng của nó nên NCD tách ra đây nói thêm. Không ai muốn cái tên doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh của mình vừa đọc lên là nghe như Điềm gỡ liền. Cái tên với ý nghĩa xấu thì tự nó đã tạo ra mặt lo âu về tâm lý cho chúng ta, mặt khác, khách hàng- đối tác cũng không muốn nhắc cái tên có ý nghĩa không may trên cửa miệng họ, như sợ vạ lây vậy. Vô hình chung tự ta cắt đứt sự giao tiếp với khách hàng- đối tác. Cái tên gợi lên điềm lành, may mắn ai cũng thích gọi cả, cũng như ngày Tết ai cũng muốn người có cái tên ý nghĩa tốt đẹp đến xông nhà vậy thôi. Hai yếu tố trên đây là tính hợp lý- tâm lý. Cái chính trong việc chọn tên cơ sở kinh doanh-doanh nghiệp theo Phong Thuỷ là phải hợp Âm Dương, Ngũ Hành. Cách chọn tên theo Phong Thuỷ trước đây vốn cũng như khoa Phong Thuỷ huyền bí này, được truyền từ Trung Quốc sang, cho nên chọn theo chữ Hán là chính. Các tên cơ sở như: Đại Thành, Đại Phú, Đại Phát, Kim Lợi, Thụân Thành, Thuận Phát.. đều lấy theo ý nghĩa chữ Hán cả đấy thôi. Thuật lấy tên này người ta căn cứ vào 9 điểm sau để chọn:



_ 1 là Ý nghĩa cát lành (như đã nói ở trên).



_ 2 là hợp Âm Dương, tính ra số nét của từng chữ, số nét lẽ là Dương, số nét chẵn là Âm. Cái tên phải Âm Dương liên tiếp hoặc đối xứng.



_ 3 là phải hợp Ngũ Hành, tính số nét như trên rồi quy ra Ngũ Hành (với 1-2 Mộc, 3-4 Hỏa, 5-6 Thổ, 7-8 Kim, 9-10 Thuỷ, trên nữa thì cứ trừ đi 10 cho đến khi số đó từ 10 trở xuống). Các chữ phải theo thứ tự tương sinh, không được tương khắc.



_ 4 là tổng số nét của các chữ phải là số tốt theo Dịch Lý. Trong điều này thì bên Dịch Lý cũng đã soạn ra sẵn các số từ 1 đến 81 nét có ý nghĩa thế nào.



_ 5 là cái tên quy đổi ra Ngũ Hành phải là Hỷ Dụng Thần của Bát Tự người chủ doanh nghiệp- cơ sở, hay Giám đốc công ty. Tức là phải tính năm tháng ngày giờ sinh của người đó, tìm Hỷ Dụng Thần trong Tứ Trụ của người đó (đây là công việc chuyên môn với người Đoán mệnh qua Tứ Trụ), xem Hỷ Dụng Thần đó thuộc Ngũ Hành gì, tên quy ra Ngũ Hành (trên Tổng số nét) so xem phải hợp mới tốt.



_ 6 là cái tên quy đổi Tổng số nét ra Ngũ Hành phải bù vào chỗ khuyết (nếu có) của Ngũ Hành trong Bát Tự ngày sinh của người chủ doanh nghiệp- cơ sở hay Giám đốc công ty.



_ 7 là cái tên quy đổi Tổng số nét ra Ngũ Hành phải phù hợp với ngành nghề của doanh nghiệp- cơ sở kinh doanh.



_ 8 là cái tên đó phát âm lên phải thuận miệng, xuôi tai chứ không trúc trắc khó phát âm.



_ 9 là Tên phát âm lên không trùng âm với chữ mang ý nghĩa xấu. Vì chữ Hán Đồng âm rất nhiều. Ví dụ như: Hàn Uyên và Hàm Oan đều có cách phát âm na ná (hán yuan); Sử Thi và Tử Thi (si shi) có cách phát âm na  ná….







Khi cái tên viết trên bảng hiệu, phải chú ý màu sắc phối hợp trên bảng. Trong các màu phải có một màu làm Chính Sắc, đấy chính là màu khuyết trong Ngũ Hành của Bát Tự ngày sinh của chủ doanh nghiệp- cơ sở:



_ Khuyết Thổ, Kim: dùng màu Vàng, Trắng làm chủ.



_ Khuyết Hỏa, Thổ: dùng màu vàng, Đỏ làm chủ.



_ Khuyết Mộc, Hỏa: dùng màu Xanh da trời nhạt, đỏ làm chủ.



Cứ theo đó mà suy ra vậy.







Cách treo bảng hiệu cũng tùy hướng của doanh nghiệp.



_ Các hướng Bắc, Tây Bắc, Nam, Đông Nam: Nên treo cao vừa phải, quá cao sẽ ngăn chận dòng khí & đẩy khí Dương tăng lên nhiều khiến mất cân bằng Âm Dương.



_ Hướng Đông: Là hướng mặt trời mọc, tượng cho sự phát triển nên cần treo cao.



_ Hướng Tây: Là phương Bạch Hổ, nên treo cao vừa phải, nếu thấp quá sẽ có sự va chạm giửa các nhân viên.



_ Hướng Đông Bắc: Nên để thấp.



_ Hướng Tây Nam: Nên cách mặt đất cỡ 6m.







Về kích thước bảng hiệu (cả card visit) NCD cũng xin nhắc lại một lần nữa với các anh chị, các bạn, xin đừng quên: một chiều kích thước Dương, một chiều kích thước Âm.



Với nhà hàng- quán ăn- quán cafe, có người thích đặt theo số cho dễ nhớ. trong việc chọn số, thường xưa nay người ta chọn theo cách của người Hoa, là lựa những số Đồng Âm với những chữ mang ý nghĩa tốt đẹp, thuận lợi. Sau đây, NCD xin đơn cử một vài số:



_ 1: duy nhất, chỉ một.



_ 2: dễ.



_ 3: sanh (tam sanh hữu hạnh), là số tượng cho Tam tài.



_ 4: Tử (chết) => suy sụp, chết chóc, tàn tạ.



_ 5: số của Hoàng Cực; vô (không).



_ 6: Đồng Âm với Lộ (con đường), Lộc (tài lộc), số tượng cho Trời.



_ 7: Thất (mất).



_ 8: Đồng Âm chữ Phát (phát đạt), số tượng cho quẻ Khôn (đất).



_ 9: số tượng cho Cửu Nghi, Cửu Đỉnh, Cửu Cung.



_ 10: Thập toàn thập mỹ, kết hợp thủy chung.



_ 11: Trước sau như một.



_ 22: Dễ dàng, thuận lợi.



_ 33: hai lần sanh. Trong Dịch có nói “Tam tam, lục lục biến hóa vô cùng” => Phát đạt.



_ 24: dễ chết, dễ sa sút, dễ suy sụp.



_ 14: chỉ có một chết => phải lụn bại.



_ 34: chắc chết => phải lụn bại.



_ 16: nhất lộ => mãi vận chuyển, mãi vận hành.



_ 26: Đồng Âm với hai chữ “Y Lộc” => No ấm.



_ 76: thất lộc => mất tài lộc.



_ 53: vô sanh ==> thiếu sanh khí => khó vượng phát lên được.



_ 54: vô tử ==> không chết => sống còn.



_ 74: thất tử ==> mất chết => sống, hoạt động được.



_ 168: Đồng Âm với 3 chữ “Nhất Lộ Phát” => chỉ có 1 con đường phát đạt.



_ 909: con số này có một lai lịch mà có lẽ hầu hết người Việt nào đi vượt biên đường biển sau 1975 đều có nghe. Con tàu mang số 909 này bị cướp 9 lần, không ai trên tàu nghĩ rằng mình có thể sống sót sau từng ấy lần bị cướp. Khi sang đến Mỹ, các Thầy bói, chiêm tinh, Phong Thuỷ gì gì… mới dựa theo đó mà luận rằng: “Chín mà không có chín, tức là sống vậy”, nó cũng như 404 “Xỉ mà không xỉ, chết mà không chết” vậy. Đấy là một ý dựa trên sự việc đã xảy ra rồi mới luận, nhưng nghe có vẻ hợp lý nên NCD đưa ra cho các anh chị, các bạn xem thử.



_ 78: Con số này rất nhiều người khoái, vì hai lý do: Thứ nhất, số 38 theo số đề là Thần Tài thì 78 phải là Đại Thần Tài rồi. Thứ hai, trong tiếng Quảng Đông, hai chữ này phát âm nghe như “xách bạc”. Chính vì vậy mà không ít người tìm mua số xe, số điện thoại… đều thích số này. Nhưng với NCD, thì NCD đã từng khuyên nhiều người không nên (dĩ nhiên họ không tin và đã gặp thất bại, cái này là thật chứ không phải NCD nói đùa đâu đấy). Vì sao? vì 7 & 8 là thất bát, có ai muốn mình bị thất bát không? Đã dùng đến ý nghĩa chữ Hán, sao không dùng Âm chữ Hán theo nghĩa này? Huống chi Dịch là theo hiện tượng mà ứng quẻ, khi số đã báo hiệu sự Thất Bát thì tất không thể dùng vậy.



Do soạn chi tiết phải dài dòng quá, nên NCD chỉ tạm thời ghi ra các số nét tốt theo Quẻ Dịch đã được soạn sẵn trong các tài liệu chữ Hoa, các số nét được xem là tốt gồm:



1, 3, 5, 6, 7, 8, 11, 13, 15, 16, 17, 18, 21, 23, 24, 25, 29, 31, 32, 33, 35, 37, 39, 41, 45, 47, 48, 52, 63, 65, 67, 68, 73, 81.



Các số trên 81 nét thì cứ trừ đi 81, lấy số dư.



Như hôm trước đã hứa, sau loạt bài về cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp, nay NCD xin đăng chi tiết thước Lỗ Ban từ 5cm đến 5m (500cm). Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại thước LỖ BAN: 43cm, 48cm, 52cm, 23cm… Nay NCD xin giới thiệu hai loại được xem là thông dụng, tức là đã in sẵn trên cây thước kéo bày bán trên thị trường. Thước này có độ dài chính xác 42,9 3/4 cm.



Xin các anh chị, các bạn hãy nhớ cho: Hàng trên dùng cho Dương Trạch, Hàng dưới dùng cho Âm Trạch. Ở đây, vì không để choán chỗ nhiều, nên NCD sẽ ghi chung hàng, cách nhau bởi một vạch ngang, mong các anh chị thông cảm nhé!



5cm: Nghinh Phúc_ Khẩu Thiệt, Bệnh Lâm.



6- 7- 8cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



9cm: Lao Chấp_ Hỷ Sự.



10cm: Cô Quả_ Tấn Bửu.



11cm: Trường Khố_ Nạp Phúc.



12- 13- 14- 15cm: Trên dưới đều xấu , kỵ dùng.



16cm: Thất Thoát_ Đại Cát.



17cm: Thiêm Đinh_ Tài Vượng.



18cm: Ích Lợi_ Ích Lợi.



19cm: Quý T _ Thiên Khố.



20cm: Quý Tử_ Phú Quý.



21cm: Đại Cát_ Tấn Bửu.



22cm: Thuận Khoa_ Hoạnh Tài.



23cm: Hoạnh Tài_ Thuận Khoa.



24cm: Hoạnh Tài_ Ly Hương.



25cm: Tấn Ích_ Tử Biệt.



26cm: Phú Quý_ Thoái Đinh.



27cm: Trên dưới đều xấu.



28cm: Tử Biệt_ Đăng Khoa.



29cm: Thoái Khẩu_ Quý Tử.



30cm: Ly Hương_ Thiêm Đinh.



31cm: Ly Hương_ Hưng Vượng.



32- 33- 34- 35cm: Trên dưới đều xấu.



35,2- 36cm: Bệnh Lâm_ Nghinh Phúc.



36,5-37cm: Khẩu Thiệt_ Lục Hợp.



38-38,5cm: Tài Chí_ Tấn Bửu, Tài Đức.



39-39,5cm: Đăng Khoa, Phúc Tinh.



40cm: Đăng Khoa_ Cập Đệ.



41cm: Tấn Bửu_ ĐINH (ĐINH là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



42,5cm: Hưng Vượng_ Đăng Khoa.



43cm: Tài Đức_ Khẩu Thiệt.



44cm: Tài Đức_ Bệnh Lâm.



44,5cm: Tấn Bửu_ Bệnh Lâm.



45cm: Bửu Khố_ HẠI (HẠI là chủ bốn cung xấu nhỏ ở hai bên).



45,5cm: TÀi_ Tử Tuyệt (TÀI là chủ của bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



46cm: Lục Hợp_ Tai Chí ( xin cẩn thận đây là TAI chư không phải TÀI).



47cm: Lục Hợp_ Thiên Đức.



48cm: Nghinh Phúc_ Hỷ Sự.



49cm: Thoái Tài_ Tấn Bửu.



50cm: Công Sự_ Nạp Phúc.



51- 51- 53- 54cm: Trên dưới đều xấu , kỵ dùng.



55cm: Kiếp Tài_ Đại Cát.



56cm: Kiếp Tài_ Tài Vượng.



57cm: Quan Quỷ_ Ích Lợi.



58cm: Thất Thoát_ Thiên Khố.



59cm: Thất Thoát_ Phú Quý.



60cm: Thiêm Đinh_ Tấn Bửu.



61cm: Ích Lợi_ Hoạnh Tài.



62cm: Quý Tử_ Thuận Khoa.



63cm: Quý Tử_ Ly Hương.



64cm: Đại Cát_ Tử Biệt.



65cm: Thuận Khoa_ Thoái Đinh.



66cm: Hoạnh Tài_ Thất Tài.



67cm: QUAN_ Đăng Khoa (QUAN là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



68cm: Tấn Ích_ Quý Tử.



69cm: Phú Quý_ Thiêm Đinh.



70cm: Tử Biệt_ Hưng Vượng.



71- 72- 73- 74cm: Trên dưới đầu xấu, kỵ dùng.



74,5cm: Tài Thất_ Nghinh Phúc.



75,5cm: Tai Chí_ Lục Hợp (cẩn thận, lại là TAI).



76,5- 77cm: Tử Tuyệt_ Tấn Bửu.



77,5cm: Tử Tuyệt_ Tài Đức.



78,5cm: Bệnh Lâm_ Phúc Tinh.



79cm: Bệnh Lâm_ Cập Đệ.



80cm: Khẩu Thiệt_ ĐINH.



81cm: Tài Chí_ Tài Vượng.



81,5cm: Tài Chí_ Đăng Khoa.



82cm: Đăng Khoa_ Khẩu Thiệt.



83cm: BỔN_ Bệnh Lâm (BỔN là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



84cm: Tấn Bửu_ HẠI.



84,5cm: Tấn Bửu_ Tử Tuyệt.



85cm: Hưng Vượng_ Tai Chí (lại là TAI, cẩn thận ).



86cm: Tài Đức_ Thiên Đức.



87cm: Tài Đức_ Hỷ Sự.



87,5cm: Bửu Khố_ Hỷ Sự.



88cm: Bửu Khố_ Tấn Đinh.



88,5cm: TÀI_ Tấn Bửu (TÀI là chủ bốn cung tốt ở hai bên).



89cm: Lục Hợp_ Nạp Phúc.



90cm: Nghinh Phúc_ Thất Thoát.



91cm: Nghinh Phúc_ Quan Quỷ.



92- 93- 93,5: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



94cm: BỆNH_ Đại Cát (BỆNH là chủ bốn cung xấu nhỏ ở hai bên).



95cm: Lao Chấp_ Tài Vượng.



96cm: Cô Quả_ ích Lợi.



97cm: Trường Khố_ Thiên Khố.



98cm: Kiếp Tài_ Phú Quý.



99cm: Kiếp Tài_ Tấn Bửu.



100cm: Quan Quỷ_ Hoạnh Tài.







101cm: Thất Thoát_ Thuận Khoa.



102cm: Thiêm Đinh_ Ly Hương.



103cm: Thiêm Đinh_ Tử Biệt.



104cm: Ích Lợi_ Thoái Đinh.



105cm: Quý T _ Thất Tài.



106cm: Quý Tử_ Đăng Khoa.



107cm: Đại Cát_ Quý Tử.



108cm: Thuận Khoa_ Thiêm Đinh.



109cm: Hoạnh Tài_ Hưng Vượng.



110cm: QUAN_ Cô Quả (QUAN là chủ bốn cung tốt nhở ở hai bên).



110,5cm: Tấn Ích_ Lao Chấp.



112cm: Phú Quý_ Công Sự.



113cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



113,5cm: Tử Biệt_ Nghinh Phúc.



114,5cm: Thoái Khẩu_ Lục Hợp.



116cm: Ly Hương_ Tấn Bửu.



117cm: Tài Thất_ Tài Đức.



117,5cm: Tài Thất_ Phúc Tinh.



118cm: Tài Thất_ Cập Đệ.



118,5cm: Tai Chí_ Cập Đệ (lại là TAI, cẩn thận)



119,5- 120cm: Tử Tuyệt_ Tài Vượng.



120,5cm: Tử Tuyệt_ Đăng Khoa.



121- 122- 123cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



123,5cm: Tài Chí_ Tử Tuyệt.



124cm: Tài Chí_ Tai chí (cẩn thận, hàng dưới là TAI).



125cm: Đăng Khoa_ Thiên Đức.



126cm: BỔN_ Hỷ Sự.



127cm: Tấn Bửu_ VƯỢNG.



127,5cm: Tấn Bửu_ Tấn Bửu.



128cm: Hưng Vượng_ Nạp Phúc.



129cm: Tài Đức_ Thất Thoát.



130cm: Tài Đức_ Quan Quỷ.



130,5cm: Bửu Khố_ Quan Quỷ.



131cm: Bửu Khố_ Kiếp Tài.



132cm: Lục Hợp_ Vô Tự.



133cm: Nghinh Phúc_ Đại Cát.



134cm: Nghinh Phúc_ Tài Vượng.



135cm: Thoái Tài_ Ích Lợi.



136cm: Công Sự_ Thiên Khố.



137cm: Lao Chấp_ Phú Quý.



138cm: Lao Chấp_ Tấn Bửu.



139cm: Cô Quả_ Hoạnh Tài.



140cm: Trường Khố_ Thuận Khoa.



141- 142- 143- 144cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



144,5cm: Thất Thoát_ Đăng Khoa.



145cm: Thiêm Đinh_ Đăng Khoa.



145,5- 146cm: Thiêm Đinh_ Quý Tử.



147cm: Ích Lợi_ Thiêm Đinh.



148cm: Quý Tử_ Hưng Vượng.



149cm: Đại Cát_ Cô Quả.



149,5cm: Đại Cát_ Lao Chấp.



150,5- 151cm: Thuận Khoa_ Công Sự.



151,5- 152cm: Hoạnh Tài_ Thoái Tài.



152,5cm: Hoạnh Tài_ Nghinh Phúc.



153,5cm: Tấn Ích_ Lục Hợp.



154,5- 155cm: Phú Quý_ Tấn Bửu.



155,5cm: Phú Quý_ Tài Đức.



156,5cm: Tử Biệt_ Phúc Tinh.



157cm: Thoái Khẩu_ Cập Đệ.



158cm: Thoái Khẩu_ ĐINH.



159cm: Ly Hương_ Tài Vượng.



159,5cm: Ly Hương_ Đăng Khoa.



160- 161- 162- 163,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



164cm: Bệnh Lâm_ Thiên Đức.



165cm: Bệnh Lâm_ Hỷ Sự.



165,5cm: Khẩu Thiệt_ Hỷ Sự.



166,5cm: Tài Chí_ Tấn Bửu.



167cm: Tài Chí_ Nạp Phúc.



168cm: Đăng Khoa_ Thất Thoát.



169cm: BỔN_ Quan Quỷ.



170cm: Tấn Bửu_ Kiếp Tài.



171cm: Hưng Vượng_ Vô Tự.



172cm: Tài Đức_ Đại Cát.



173cm: Bửu Khố_ Tài Vượng.



174cm: Bửu Khố_ Ích Lợi.



175cm: Lục Hợp_ Thiên Khố.







176cm: Nghinh Phúc_ Phú Quý.



177cm: Nghinh Phúc_ Tấn Bửu.



178cm: Thoái Tài_ Hoạnh Tài.



179cm: Công Sự_ Thuận Khoa.



180- 181- 182- 183cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



184cm: Kiếp Tài_ Đăng Khoa.



184,5cm: Kiếp Tài_ Quý Tử.



186cm: Quan Quỷ_ Thiêm Đinh.



187cm: Thất Thoát_ Hưng Vượng.



188cm: Thiêm Đinh_ Cô Quả.



188,5cm: Thiêm Đinh_ Lao Chấp.



189,5cm: Ích Lợi_ Công Sự.



191cm: Quý Tử_ Thoái Tài.



191,5cm: Quý Tử_ Nghinh Phúc.



192,5cm: Đại Cát_ Lục Hợp.



193,5cm: Thuận Khoa_ Tấn Bửu.



194,5- 195cm: Hoạnh Tài_ Tài Đức.



195,5cm: Hoạnh Tài_ Phúc Tinh.



196,5cm: Tấn Ích_ Cập Đệ.



197,5-198cm: Phú Quý_ Tài Vượng.



198,5cm: Phú Quý_ Đăng Khoa.







199- 200- 201- 202,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



203cm: Tài Thất_ Thiên Đức.



204cm: Tai Chí_ Hỷ Sự (là TAI chứ không phải TÀI).



205,5cm: Tử Tuyệt_ Tấn Bửu.



206cm: Tử Tuyệt_ Nạp Phúc.



207- 208- 209cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



209,5cm: Tài Chí_ Kiếp Tài.



210cm: Tài Chí_ Vô Tự.



211cm: Đăng KHoa_ Đại Cát.



212cm: BỔN_ Tài Vượng.



213cm: Tấn Bửu_ Ích Lợi.



214cm: Hưng Vượng_ Thiên Khố.



215cm: Tài Đức_ Phú Quý.



215,5cm: Tài Đức_ Tấn Bửu.



216cm: Bửu Khố_ Tấn Bửu.



217cm: TÀI_ Hoạnh Tài.



218cm: Lục Hợp_ Thuận Khoa.



219cm: Nghinh Phúc_ Ly Hương.



219,5cm: Nghinh Phúc_ Tử Biệt.



220- 221-222cm: Trên dưới đếu xấu, kỵ dùng.



223cm: Lao Chấp_ Đăng Khoa.



224cm: Lao Chấp_ Quý Tử.



225cm: Cô Quả_ Thiêm Đinh.



226cm: Trường Khố_ Hưng Vượng.



227- 228- 229- 230cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



230,5cm: Thất Thoát_ Nghinh Phúc.



231,5cm: Thiêm Đinh_ Lục Hợp.



232,5cm: Ích Lợi_ Tấn Bửu.



233,5cm: NGHĨA_ Tài Đức (NGHĨA là chủ bốn cung tốt nhỏ ở hai bên).



234cm: Quý Tử_ Tài Đức.



234,5cm: Quý Tử_ Phúc Tinh.



235cm: Đại Cát_ Cập Đệ.



236,5- 237cm: Thuận Khoa_ Tài Vượng.



237,5cm: Hoạnh Tài_ Đăng Khoa.



238cm: Hoạnh Tài_ Khẩu Thiệt.



239cm: Tấn Ích_ Bệnh Lâm.



240cm: Tấn Ích_ HẠI.



240,5cm: Phú Quý_ Tử Tuyệt.



241,5cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



242cm: Tử Biệt_ Thiên Đức.



243cm: Thoái Khẩu_ Hỷ Sự.



244cm: KIẾP_ VƯỢNG.



244,5cm: Ly Hương_ Tấn Bửu.



245cm: Ly Hương_ Nạp Phúc.



246- 247- 248- 249,5cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



250cm: Bệnh Lâm_ Đại Cát.



251cm: Khẩu Thiệt_ Tài Vượng.



252cm: Khẩu Thiệt_ Tấn Ích.



253cm: Tài Chí_ Thiên Khố.



254cm: Đăng khoa_ Phú Quý.



255cm: BỔN_ Tấn Bửu.



256cm: Tấn Bửu_ Hoạnh Tài.



257cm: Hưng Vượng_ Thuận Khoa.



258cm: Tài Đức_ Ly Hương.



259cm: Bửu Khố_ Tử Biệt.



260cm: TÀI_ Thoái Đinh.



261cm: Lục Hợp_ Thất Tài.



262cm: Nghinh Phúc_ Đăng Khoa.



262,5cm: Nghinh Phúc_ Quý Tử.



263cm: Thoái Tài_ Quý Tử.



264cm: Thoái Tài_ Thiêm Đinh.



265cm: Công Sự_ Hưng Vượng.



266- 267- 268- 269cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



270cm: Kiếp Tài_ Nghinh Phúc.



271cm: LY_ TÀI.



272cm: Quan Quỷ_ Tấn Bửu.



273cm: Thất Thoát_ Tài Đức.



273,5cm: Thất Thoát_ Phúc tinh.



274cm: Thiêm Tinh_ Cập Đệ.



275cm: Ích Lợi_ ĐINH.



276cm: Ích Lợi_ Tài Vượng.



276,5cm: NGHĨA_ Đăng Khoa.



277cm: Quý Tử_ Khẩu Thiệt.



278cm: Đại Cát_ Bệnh Lâm.



279- 280cm: Thuận Khoa_ Tử Tuyệt.



280,5cm: Hoạnh Tài_ Tai Chí.



281cm: Hoạnh Tài_ Thiên Đức.



282- 283cm: Tấn Ích_ Hỷ Sự-VƯỢNG.



283,5cm: Phú Quý_ Tấn Bửu.



284cm: Phú Quý_ Nạp Phúc.



285- 286- 287- 288cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



289cm: Tài Thất_ Đại Cát.



290cm: Tai Chí_ Tài vượng.



291cm: Tử Tuyệt_ Ích Lợi.



292cm: Tử Tuyệt_ Thiên Khố.



293cm: Bệnh Lâm_ Phú Quý.



294cm: Khẩu Thiệt_ Tấn Bửu.



295cm: Khẩu Thiệt_ Hoạnh Tài.



295,5cm: Tài Chí_ Hoạnh Tài.



296cm: Tài Chí_ Thuận Khoa.



297cm: Đăng Khoa_ Ly Hương.



298cm: BỔN_ Tử Biệt.



299cm: Tấn Bửu_ Thoái Đinh.



300cm: Hưng Vượng_ Tài Chí.







301cm: Tài Đức_ Đăng Khoa.



302cm: Bửu khố_ Quý Tử.



303cm: TÀI_ Thiêm Đinh.



304cm: Lục Hợp_ Hưng Vượng.



305cm: Nghinh Phúc- Cô Quả.



305,5cm: Nghinh Phúc_ Lao Chấp.



306- 307- 308cm: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



309cm: Lao Chấp_ Nghinh Phúc.



309,5cm: Lao Chấp_ Lục Hợp.



310cm: Cô Quả_ TÀI.



311cm: Cô Quả_ Tấn Bửu.



312cm: Trường Khố_ Tài Đức.



312,5cm: Kiếp Tài_ Phúc Tinh.



313cm: Kiếp Tài_ Cập Đệ.



314cm: LY_ ĐINH.



315cm: Quan Quỷ_ Tài Vượng.



315,5cm: Thất Thoát_ Đăng Khoa.



316cm: Thất Thoát_ Khẩu Thiệt.



317cm: Thiêm Đinh_ Bệnh Lâm.



318cm: Ích Lợi_ HẠI.



318,5cm: Ích Lợi_ Tử Tuyệt.



319cm: NGHĨA_ Tai Chí.



319,5cm: Quý Tử_ Tai Chí.



320cm: Quý Tử_ Thiên Đức.



321cm: Đại Cát_ Hỷ Sự.



322cm: Thuận Khoa_ VƯỢNG.



323cm: Thuận Khoa_ Nạp Phúc.



323,5cm: Hoạnh Tài_ Nạp Phúc.



324cm: Hoạnh Tài_ Thất Thoát.



325cm: Tấn Ích_ Quan Quỷ.



326cm: Phú Quý_ Kiếp Tài.



327cm: Phú Quý_ Vô Tự.



328cm: Tử Biệt_ Đại cát.



329cm: Thoái Khẩu_ Tài Vượng.



330cm: KIẾP_ Ích Lợi.



331cm: Ly Hương_ Thiên Khố.



332cm: Tài Thất_ Phú Quý.



333cm: Tai Chí_ Tấn Bửu.



334cm: Tử Tuyệt_ Hoạnh Tài.



335cm: HẠI_ Thuận Khoa.



336- 337,5: Trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



338cm: Tài Chí_ Thoái Đinh.



339cm: Tài Chí_ Thất Tài.



340cm: Đăng Khoa_ Đăng Khoa.



341cm: Tấn Bửu_ Quý tử.



342cm: Tấn Bửu_ Thiêm Đinh.



343cm: Hưng Vượng_ Hưng Vượng.



344cm: Tài Đức_ Cô Quả.



345cm: Bửu Khố_ Lao Chấp.



346cm: TÀI_ Công Sự.



347cm: Lục Hợ _ Thoái Tài.



348cm: Nghinh Phúc_ Nghinh Phúc.



348,5cm: Nghinh Phúc_ Lục Hợp.



349cm: Thoái Tài_ TÀI.



350cm: Công Sự_ Tấn Bửu.



351cm: Công Sự_ Tài Đức.



351,5cm: Bệnh_ Phúc Tinh.



352cm: Lao Chấp_ Cập Đệ.



353cm: Cô Quả_ ĐINH.



354cm: Cô Quả_ Tài Vượng.



354,5cm: Trường Khố_ Đăng Khoa.



355-3 56- 357- 358,5cm: trên dưới đều xấu, kỵ dùng.



359cm: Thất Thoát_ Thiên Đức.



360cm: Thiêm Đinh_ Hỷ Sự.







361cm: Ích Lợi_ Vượng.


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *