Tiết 2. ĐIỀU HẬU DỤNG THẦN
Note:
– Được thay thế bằng phần trích dịch trong Mệnh lý trân bảo (tác giả Đoàn Kiến Nghiệp);
– Đoạn dịch này có tham khảo bản dịch của anh PhieuDieu.
Điều hậu chính giải
(Giải thích lại về dụng thần điều hậu)
Dùng điều hậu để lấy Dụng-thần là nội dung trọng yếu khi chọn Dụng-thần trong Bát-tự, nhưng giải thích trong rất nhiều sách đều không được rõ ràng. Tôi từng viết một bài “Điều hậu thủ dụng” trong “Mệnh Lý Chỉ Yếu” vào năm 1995 nhưng chưa thật sự chuẩn xác và còn nhiều sai lầm, cho nên cần phải viết mới bài này để giải thích lại. Đầu tiên cần định nghĩa lại điều hậu, kế tiếp chỉnh lại điều kiện sử dụng điều hậu.
1. Điều hậu là phương pháp gặp lạnh lẽo thì làm cho ấm áp (hàn noãn), hanh khô thì làm ẩm mát (táo thấp) tức là áp dụng dựa theo mùa sinh, lấy tiết lệnh làm chủ, phối hợp tra khán với các Địa chi trong trụ. Nghĩa là chỉ có sanh mùa đông, hoặc sanh mùa hạ mới cần dùng hàn noãn điều hậu. Sanh tháng mùi, tuất lại gặp hỏa hoặc sanh tháng sửu, thìn lại gặp thủy mới dụng táo thấp điều hậu. Còn các trường hợp khác sanh mùa xuân, mùa thu thì không dùng điều hậu.
2. Điều hậu chỉ áp dụng giới hạn một số Thiên-can mà không thích hợp cho tất cả Thiên-can. Giáp Ất mộc đối với thời tiết hàn noãn mẫn cảm nhất, cho nên thông thường Giáp Ất mộc là nhật chủ, hoặc làm Dụng-thần, Kỵ-thần lại sinh mùa đông hoặc mùa hạ đầu tiên cần cân nhắc điều hậu. Tiếp theo Canh Tân kim đối với hàn noãn, táo thấp cũng rất mẫn cảm. Mậu Kỷ thổ đối với điều hậu không mẫn cảm. Về phần Bính Đinh Nhâm Quý bản thân chúng đối với hàn noãn cũng không mẫn cảm, nhưng nó dựa vào mộc sinh (Bính Đinh) và dựa vào mộc tiết (Nhâm Quý), cho nên khi có mộc thì cần điều hậu, không mộc thì không cần điều hậu.
3. Phương pháp điều hậu cần tách biệt cùng với dụng hỏa, dụng thủy, không thể nhập làm một được. Ví như tháng 3 là thìn, khi dụng hỏa thì thìn thổ hối hỏa (làm mờ hỏa) lại là thủy khố thì bất cát, nhưng nếu dụng điều hậu thì xuân tháng 3 ấm áp hoa nở khắp trời, dương khí bắt đầu phát triển, nên cát. Cũng có Bát-tự vừa dụng hỏa, cũng vừa dụng Noãn điều hậu; hoặc vừa dụng thủy, vừa dụng Hàn điều hậu; hoặc cũng có trường hợp dụng riêng lẻ một mình. Phải chú ý phân biệt phương pháp sử dụng từng loại một. Bây giờ chọn một ví dụ để bàn, trích từ sách “Dự trắc chân tung”, trang 221 của tác giả Lý Hàm Thần:
Ví dụ, nữ mệnh:
Kỷ hợi / Đinh sửu / Đinh mùi / Nhâm dần
Đại vận: Mậu dần – Kỷ mão – Canh thìn – Tân tị – Nhâm ngọ
Đây là Bát-tự một thị trưởng Hàm Ninh tỉnh Hà Bắc. Lý Hồng Thành cho rằng thân nhược dụng hỏa, Lý Hàm Thần nói tòng Quan. Lời khẳng định của Lý Hàm Thần không đúng, tòng Quan tức Quan làm Dụng-thần, Quan-tinh Nhâm thủy nhược nên Hỷ-thần nhược, nhất định không làm Quan. Hơn nữa, hỏa Trường sinh tại dần mộc lại không gặp phá, Đinh hỏa hữu khí hữu sinh thì không thể tòng. Thực tế mệnh này cũng không Tòng Quan, cũng không phải Thân nhược dụng hỏa, mà là dùng Noãn điều hậu để làm ấm. Bản thân Đinh hỏa đối với thời tiết không mẫn cảm, nhưng dần mộc mà nó dựa vào lại khá hàn (lạnh) không thể mọc lên được, cho nên cần gặp noãn địa (đất ấm áp), Đại vận liên tiếp gặp noãn địa cho nên cát lợi. Vận Canh thìn tuy thìn thổ hối hỏa (xấu), nhưng đối với điều hậu mà nói thì lại là cát, cho nên vận này nhất định không xấu, ngược lại đoán cát tường. Sẽ có người nói năm Ất hợi, tị hợi xung, khử đi tị hỏa thì sẽ xấu, nhưng thực tế Dụng-thần điều hậu còn có một đặc tính chính là không sợ hình-xung-phá-hại cũng như không sợ bị hợp hóa làm biến chất, bất cứ một loại ngũ hành hữu hình nào trong kim mộc thủy hỏa thổ đều rất sợ bị xung phá làm mai một, chỉ có điều hậu là thời tiết, một loại thời gian, coi như vô hình. Cho nên không sợ bị phá hoại.
Một ví dụ minh họa :
A) Lá số Triệu X (tức Triệu Vũ) :
Đinh mùi / Nhâm tý / Đinh tị / Tân hợi
B) Lá số của tôi (tức Đoàn Kiến Nghiệp) :
Đinh mùi / Tân hợi / Ất tị / Đinh sửu
Đại vận: Canh tuất – Kỷ dậu – Mậu thân
Bạn học của tôi và tôi đều hành vận giống nhau. Trụ anh ta Dụng-thần ắt hẳn là mộc hỏa; còn của tôi Dụng-thần lại là điều hậu. Chỗ này có sự khác biệt.
Vận Canh tuất thì anh ta hỏa được gốc, học giỏi luôn đứng top đầu; còn của tôi tại vận này vẫn trung bình.
Vận Kỷ dậu:
– Năm Giáp tuất, dụng thần hỏa của anh ta cực tốt, đây là năm khai trương cửa hàng lớn. Còn mệnh tôi dụng Giáp nhưng không cần Tuất, nửa năm đầu không may, qua hết tháng Giáp tuất kiếm được mấy ngàn đồng, khác biệt rất lớn.
– Đến năm Ất hợi, dụng hỏa của anh ta gặp Ất mộc có thể sanh hỏa, Dậu ở Đại vận kìm hãm Tị, Hợi xung Tị, cát hung lẫn lộn; tốt là do Hợi xung Tị khiến giải phóng Tị khỏi sự kìm hãm của Dậu, Dụng-thần (Tị) xuất xung nên tốt; hung do Hợi quá vượng nên cuối cùng cũng xung mất Tị, kết quả nửa năm đầu buôn bán lời hơn trăm ngàn đồng, nửa năm sau vỡ nợ bắt buộc phải dẹp tiệm.
Đối với tôi thì năm này là một năm rất xui xẻo, thu nhập rất ít lại còn bị bệnh suốt năm.
– Từ năm 1998 là năm Mậu dần vốn đang chuyển dần sang ấm áp (noãn), mỗi năm tốt dần lên, trong khi anh ta lại không thấy khởi sắc.
– Đến năm 2000 Canh thìn, mệnh tôi càng ngày càng tốt, anh ta thì bình thường, cha anh ta mắc bệnh.
Vận Mậu thân: là thổ kim, đối với mệnh tôi dụng thần điều hầu rơi vào noãn địa là tốt còn anh ta vị tất tốt hơn mệnh tôi.
Bài tập :
1. Nữ mệnh:
Đinh mùi / Nhâm tý / Đinh tị / Tân sửu
Đại vận: Quý sửu – Giáp dần – Ất mão – Bính thìn
Mệnh này cùng Thiên can với mệnh của Triệu X. Cho biết tại sao không cùng trình độ học thức? Và mô tả tình cảnh các năm Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão.
Đáp án:
Đinh mùi / Nhâm tý / Đinh tị / Tân sửu
Đại vận: Quý sửu – Giáp dần – Ất mão – Bính thìn
Thực tế mệnh này tốt nghiệp Trung học, công việc là phân phối sản phẩm, năm 1994 (Giáp tuất) bị mất việc, năm 1995 (Ất hợi) ở nhà nghỉ, chồng cũng mất việc, cuộc sống hết sức khó khăn. Năm 1996 (Bính tý) một lần nữa tìm được việc làm, bắt đầu kiếm được tiền, vì nghề của cô ta là quản lý kế toán, lợi dụng chức vụ kiếm thêm chút đỉnh, cho nên năm 1996, 1997 (Đinh sửu), 1998 (Mậu dần) và 1999 (Kỷ mão) đều thu nhập rất nhiều. Năm 2000 (Canh thìn) Ất Canh hợp, Tài-tinh hợp Ấn, mua một căn nhà tốn 100 ngàn đồng, trước đó chỉ là thuê phòng ở trọ.
Tình hình thực tế của cô ta ở Lưu niên so với Triệu Vũ hoàn toàn trái ngược nhau (Bát tự Triệu Vũ: Đinh mùi / Nhâm tý / Đinh tị / Tân hợi ), nhưng thực tế Dụng-thần của hai người giống nhau. Sở dĩ có khác biệt như vậy chính là kết quả tác động không giống nhau giữa Lưu niên, Đại vận và Bát-tự. Thông qua nghiên cứu mệnh này giúp trình độ Mệnh-lý của học viên sẽ được nâng lên một cấp.
– Luận giải:
Trước tiên, vì sao trình độ học vấn cô ta không cao còn Triệu Vũ thì khác, nguyên do là can giờ Tài-tinh đã đắc gốc mà Ấn-tinh không lộ, còn mệnh Triệu Vũ giờ Tân hợi thì Tài-tinh vô căn, Ấn lâm Trường sinh. Thân nhược, Tài là Kỵ thần nên cần Tài nhược không được sinh trợ thì chủ giàu có; Tài vượng lại có sinh phù ắt chủ nghèo. Nhưng mệnh này, mệnh cục tuy không giàu không vinh nhưng gặp đại vận Dụng-thần Ất mộc nâng trợ Nhật chủ nên tốt đẹp.
Năm Giáp tuất, Mão Tuất hợp, Thái-tuế kìm chế Mão không cho phù Nhật chủ, mà Mão là Ấn là công việc nên đã mất việc. Năm này nhất thiết không nên giải thích thành Mão Tuất hợp hóa hỏa trợ nhật chủ, lục hợp khả dĩ lấy hợp là chính còn lực hóa của nó rất yếu, nếu như đoán vào năm Quý dậu, Dậu xung khử Mão, mất việc thì cũng chính xác, thực tế năm Quý dậu bị ngưng lương.
Năm Ất hợi thành Hợi Mão Mùi mộc cục, vốn giúp Đinh hỏa trợ Nhật chủ, thực tế sinh bất thành do Mùi ở vị trí của “Khách”, mộc cục Hợi Mão Mùi trợ cho can năm Đinh hỏa, không có quan hệ với Nhật chủ, cho nên năm này vẫn nghỉ ở nhà. Tương phản với điều này là do Hợi xung Tị cung Phu nên chồng mất việc. Năm Bính tý, Bính hợp Tân còn Tý hợp Sửu là cảnh Thái-tuế hợp mất hai Kỵ-thần của trụ giờ, khử Kỵ-thần thì hưởng được Kỵ-thần, cho nên đắc tài sinh lợi.
Còn năm này, Triệu Vũ gặp đại vận Kỷ dậu, Kỵ-thần lâm vượng, việc hợp của Bính Tân không thể khử được Tân mà trái lại còn đánh động (hợp động) Kỵ-thần. Năm Đinh sửu cách kiếm tiền giống Triệu Vũ. Năm Mậu dần có Dần hình Tị, hình động Hỷ-thần chủ cát; còn mệnh Triệu vũ năm này Dần tham hợp Hợi thủy nên nhất sự vô thành. Năm Kỷ mão đúng năm Dụng-thần, sanh trợ hỏa nên cũng tốt đẹp.
Tiết 3. BỆNH DƯỢC THỦ DỤNG
(Tuyển chọn Dụng thần theo phép Bệnh dược)
“Bệnh dược” là thế nào? Bát tự có thần làm lụy đến mình nên gọi là “Bệnh”, thần chữa bệnh (khử bệnh) được gọi là “Dược”, tức là thuốc trị bệnh. Phương pháp “Bệnh dược” là sự tinh túy trong việc tuyển chọn Dụng thần, phép Phù ức và Điều hậu là một hình thức đặc thù của phép Bệnh dược. Thân vượng thì coi vượng là Bệnh, có thể dụng Quan sát để chế, dụng Tài tinh để làm hao bớt, dụng Thương Thực để tiết thân, tất cả đều là dùng “Dược” để trị “Bệnh”. Thân nhược thì phải coi nhược là Bệnh, có thể dụng Ấn để sinh phù, dụng Kiếp để trợ giúp cũng đều là dùng “dược” để cứu giúp cho Thân. Bát tự thiên về hàn tất lấy hàn làm Bệnh, noãn tức là cái thần khí làm cho thân ấm lên là Dược, tương tự, Bát tự thiên về noãn, tức noãn là Bệnh, lúc này hàn lại là Dược. Bệnh dược còn nhiều hình thức khác, nhưng chung quy có thể phân làm ba loại:
1. Trong Bát tự có thần quá thiên lệch về vượng (thiên vượng) mà thành Bệnh thần. Nhân mệnh tạo hóa quý ở trung hòa, vượng lệch về một phía tất phải chịu lụy. Như trong Bát tự thổ nhiều, Nhật chủ là Thủy thì Sát trọng thân khinh; nhật chủ là Kim thì thổ dày chôn kim; Nhật chủ là Hỏa thì bị che mất ánh sáng; Nhật chủ là Mộc thì thành Tài đa thân nhược; Nhật trụ Thổ thì Tỉ kiên quá nhiều. Đều là do thổ trọng mà thành bệnh, lúc này hỷ dụng Mộc làm thuốc trị bệnh, lấy thuốc làm Dụng thần. Lại như dụng Tài, gặp phải Tỉ Kiên quá nặng thành bệnh, mừng gặp được Quan sát làm thuốc; Dụng Thực thần Thương quan, Ấn trọng thành bệnh, mừng gặp được Tài làm thuốc; Dụng Quan sát, kiến Ấn thụ thái trọng thành bệnh, mừng gặp được Tài làm thuốc. Các tình huống này cần các thần khí thiên vượng không nên quá vượng, quá vượng tức bệnh quá nặng thì thuốc không đủ để trị bệnh, mà còn sợ rằng kích động vượng thần khắc ngược lại (phản khắc); lại cần thần khí đóng vai trò là thuốc không được vô khí, Dược thần vô khí thì bệnh cũng không thể khử được, có bệnh mà không có thuốc, là mệnh của kẻ hèn kém. Còn cách Tòng cường, Tòng vượng thì không thuộc loại này.
Ví dụ 5.20
Tân Sửu / Đinh Dậu / Quý Dậu / Mậu Ngọ
Bính Thân – Ất Mùi – Giáp Ngọ – Quý Tị – Nhâm Thìn – Tân Mão
Mệnh này Quý thủy sinh vào tháng tám là đất Kim lại có chi ngày Dậu kim, niên can Tân kim, Dậu sửu bán hợp Kim cục, Kim vượng lệch một phía mà thành bệnh. Nếu trong mệnh không có hỏa làm thuốc thì cuộc đời chìm trong tửu sắc, hoàn toàn bỏ đi. May mắn là giờ có Ngọ hỏa là thuốc trị bệnh, lại được Mậu Quý hóa hỏa dẫn xuất hỏa khí. Vận đến Giáp ngọ, lưu niên Giáp tuất hợp khởi hỏa cục làm thuốc trị Kim bệnh nên tìm được kế sách buôn bán phát tài. Tiếc là sau vài năm vận đến Quý tị, Quý thủy làm hại hỏa, kim cục Tị Dậu Sửu bệnh càng thêm nặng, sợ rằng Tài bị phá tận ắt sự nghiệp tan thành tro bụi. Đây là trường hợp Ấn trọng thành bệnh, lấy Tài làm thuốc.
===================
Mời đoán Dụng thần :
Ví dụ 5.21
Giáp Thân / Đinh Mão / Kỷ Tị / Bính Dần
Mậu Thìn – Kỷ Tị – Canh Ngọ – Tân Mùi – Nhâm Thân – Quý Dậu
Ví dụ 5.22 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Ất Sửu / Tân Mùi / Bính Dần / Kỷ Sửu
Canh Ngọ – Kỷ Tị – Mậu Thìn – Đinh Mão – Bính Dần – Ất Sửu
Ví dụ 5.23 (cũng trích từ Trích Thiên Tủy)
Mậu Thìn / Mậu Ngọ / Nhâm Thìn / Giáp Thìn
Kỷ Mùi – Canh Thân – Tân Dậu – Nhâm Tuất – Quý Hợi – Giáp Tý
Ví dụ 5.24
Bính Tuất / Mậu Tuất / Quý Mùi / Quý Sửu
Đinh Dậu – Bính Thân – Ất Mùi – Giáp Ngọ – Quý Tị – Nhâm Thìn
Ví dụ 5.21
Giáp Thân / Đinh Mão / Kỷ Tị / Bính Dần
Mậu Thìn – Kỷ Tị – Canh Ngọ – Tân Mùi – Nhâm Thân – Quý Dậu
Trụ này Kỷ thổ sinh vào tháng hai, thất lệnh và suy yếu, Quan tinh nắm lệnh lộ ra, thông thường luận là dụng Ấn phù Thân mà lại không biết rằng Kỷ thổ đóng ở Ấn thụ Tị hỏa lại có Bính Đinh thấu xuất sát bên tương sinh, mộc vượng sinh hỏa, lửa mãnh liệt thổ tất bị cháy khét lẹt, Quan tinh mộc khí tòng theo thế của hỏa mà còn hao hụt do đến khắc thổ, làm cho thần khí Quan tinh tiết hết cho Ấn thụ thành ra Quan vô dụng, Ấn liền chuyển thành Bệnh của trụ, cần phải dụng Tài khử đi thì Quan mới dùng được. Trước 40 tuổi vận tẩu hỏa địa, tuy là kẻ tài giỏi học thức nhưng bất đắc chí, phải chịu cảnh nhà nông, sau 40 tuổi kim thủy đắc thế xung phá khử đi Bệnh thần, nhân vì có tài văn chương hơn người nên được dìu dắt trọng dụng, hiện tại đang làm việc tại cơ quan chính phủ. Đây là minh họa Ấn trọng tiết khí Quan tinh thành bệnh nên lấy Tài làm thuốc.
Ví dụ 5.22 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Ất Sửu / Tân Mùi / Bính Dần / Kỷ Sửu
Canh Ngọ – Kỷ Tị – Mậu Thìn – Đinh Mão – Bính Dần – Ất Sửu
Mệnh này hỏa sinh cuối hè, nhưng gặp Thương quan trùng trùng tiết khí, che mờ ánh sáng Nhật chủ hỏa, thổ vượng chuyển thành bệnh. May mắn nhật đóng tại Dần mộc là thuốc trị bệnh, có thể khử thổ bệnh phù trợ nhật chủ. Đến vận Đinh mão, Dụng thần đắc vượng đồng thời chế khử đi kỵ thần Tân kim, đây gọi là có bệnh mà có thuốc, một bước tận cửu trùng, phúc hỷ liên tiếp đến; vận Bính dần kế tiếp, hỷ dụng đầy đủ, làm quan tận hoàng triều. Đây là trường hợp Thương quan nặng thành bệnh, dụng Ấn làm thuốc.
Ví dụ 5.23 (cũng trích từ Trích Thiên Tủy)
Mậu Thìn / Mậu Ngọ / Nhâm Thìn / Giáp Thìn
Kỷ Mùi – Canh Thân – Tân Dậu – Nhâm Tuất – Quý Hợi – Giáp Tý
Mệnh này bốn trụ toàn là Sát, khí nhật chủ tuy thông gốc Thìn khố nhưng không địch lại nổi đoàn Sát vây bủa. Thông thường là thấy Sát trọng thì dụng Ấn hóa giải, song Bát tự vô Kim lại sinh vào tháng 5, Kim trái lại còn bị khắc; tuyệt diệu ở chổ trụ giờ lộ ra Giáp Thực thần chế phục đoàn Sát làm thuốc khử bệnh; dược thần thông căn thìn khố lại có khí, đây chính là “Nhất tướng đương quan” (Tướng giữ thành) đoàn Sát tự nhiên phải thất bại. Vận đến Quý hợi, Thực thần phùng sinh, thi cử liên tục đỗ đạt; vận đến Giáp tý làm quan Huyện lệnh. Đây là trường hợp Sát trọng thành bệnh, dụng Thực thần làm thuốc.
Ví dụ 5.24
Bính Tuất / Mậu Tuất / Quý Mùi / Quý Sửu
Đinh Dậu – Bính Thân – Ất Mùi – Giáp Ngọ – Quý Tị – Nhâm Thìn
Trụ này là Nữ mệnh, trong trụ thổ vừa dày vừa nhiều, Quan sát hỗn cư, vừa không có Ấn thụ hóa Sát vừa vô Thực thần chế Sát. Nhật chủ Quý thủy phùng Tỉ kiếp, thông căn nhưng không thể tòng theo Quan sát, đây chính là có bệnh mà không thuốc, là mệnh của một người nghèo khổ đến mức thuở nhỏ thì mất cha, trung niên mất chồng, con cái thì bất hiếu, tuổi già hết sức cô quạnh thê lương.
Bát tự đóng thành bầy đảng thiên vượng mà thành bệnh, dụng dược khử bệnh vẫn cần chú ý Nhật chủ. Thực Thương thái vượng, Thân nhược dụng Ấn có thể khử Thương quan và khả dĩ sinh trợ Nhật chủ; khi Ấn thụ quá vượng, Thân vượng dụng Tài có khả năng khử Ấn và cũng có thể hao khí nhật chủ. Song, khi Quan sát quá vượng (dùng Sát luận), Nhật chủ quá yếu, có Ấn thì phải chọn Ấn đầu tiên, nếu dụng Ấn bất thành mới dụng Thực thương để khử đi thế vượng của Quan sát. Thế nên mới nói dụng Ấn hóa Sát nhưng cần chú ý đến Nhật chủ và lợi dụng được sự hòa thuận của lục thần, còn nếu dụng Thực thương chế Sát tiết Nhật chủ chỉ tạo ra cảnh tranh đấu trong trụ. Học giả cần thông tỏ để nhận biết tường tận.
2. Trong Bát tự có thần làm hại Hỷ thần, Dụng thần thì cũng có bệnh. Bát tự nếu lấy khí phù (trợ) làm Hỷ thì phải xem cái làm tổn hại khí đó là bệnh; hoặc lấy khí ức (chế) làm Hỷ thì phải xem cái làm tổn hại đến khí ức đó là bệnh. Giả sử như trong Mệnh Thân nhược dụng Ấn nhưng lại có Tài phá Ấn, tức Tài là Bệnh thần; thần khí hợp khử hoặc khắc khử đi Tài chính là thuốc; hay như trong Mệnh Thân vượng dụng Quan nhưng lại có Thương quan kiến Quan thì Thương quan chính là Bệnh thần, nếu có thần khí hợp khử hoặc khắc khử đi Thương quan chính là thuốc; hoặc trong Mệnh Thân vượng mà được Thực Thần tiết tú song lại tồn tại Kiêu thần đoạt Thực, tất Kiêu Ấn là bệnh thần, cần có thuốc là thần khí hợp khử hoặc khắc khử đi Kiêu Ấn. Trong trụ có Can chi xung khắc Hỷ thần mà thành bệnh, tức lấy hợp khử xung thần là thuốc trị bệnh, v.v… tình huống còn nhiều và rất đa dạng phong phú. Bệnh thần không nên kết đảng hội hợp, nếu không thì như người bệnh lâm vào tình trạng nguy kịch, nan y, thuốc vào cũng không khá hơn mà còn thành hại.
Ví dụ 5.25 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Mậu Thìn / Ất Mão / Tân Sửu / Đinh Dậu
Bính Thìn – Đinh Tị – Mậu Ngọ – Kỷ Mùi – Canh Thân – Tân Dậu
Mệnh này xuân kim khí nhược gặp thời thượng Thất Sát khắc kề bên, vốn có thể dụng Ấn hóa Sát, Mậu thổ Ấn thụ cách xa lại bị vượng mộc khắc phá hỏng, chẳng những Mậu thổ không thể sinh trợ hóa giải mà nhật chi Sửu thổ cũng bị mão mộc khắc phá, đây là mộc Tài khắc làm tổn thương Ấn mà thành bệnh. Nửa đời trước vận hành Nam phương Sát địa, vất vả gian nan, bôn ba mà chẳng gặp thời; vừa giao vận Canh Thân, khắc khử mộc Bệnh thần, đắc kỳ ngộ liên tiếp lập quân công; cùng với vận Tân dậu là hai mươi năm mà làm quan đến Phó doãn. Đó là do kim năng khử Bệnh thần mộc để trợ Thân và giúp Ấn có thể hóa Sát thành công. Đây là trường hợp Tài trọng tổn thương Ấn làm Ấn không thể hóa Sát, dụng Tỉ Kiếp để làm thuốc.
================
Mời đoán Dụng thần:
Ví dụ 5.26
Đinh Dậu / Quý Sửu / Ất Mùi / Kỷ Mão
Nhâm Tý – Tân Hợi – Canh Tuất – Kỷ Dậu – Mậu Thân
Ví dụ 5.27 (trụ này chắc ai cũng nhận ra)
Đinh Hợi / Canh Tuất / Kỷ Tị / Canh Ngọ
Kỷ Dậu – Mậu Thân – Đinh Mùi – Bính Ngọ – Ất Tị – Giáp Thìn
Ví dụ 5.26
Đinh Dậu / Quý Sửu / Ất Mùi / Kỷ Mão
Nhâm Tý – Tân Hợi – Canh Tuất – Kỷ Dậu – Mậu Thân
Mệnh này Ất mộc sinh tháng chạp tuy đắc Lộc ở giờ nhưng cần dụng hỏa để sưởi ấm trụ (noãn cục), cho nên năm lộ Đinh hỏa Thực Thần làm dụng, song lại phùng Quý thủy nguyệt can Kiêu thần đoạt Thực thương khắc Dụng thần mà thành Bệnh, mừng ở chổ trụ giờ thượng Kỷ thổ khắc chế Quý thủy mới có thể gọi là có bệnh được thuốc. Thời niên thiếu gặp vận thủy địa nên không cậy nhờ được cha mẹ, trắc trở lao đao; đến vận Kỷ thổ dược thần đắc lực khắc khử được Quý thủy chi bệnh, năm Canh ngọ hỏa phùng vượng địa mà phát đạt. Sau đến năm Quý Dậu, việc kinh doanh thất bại, thua lỗ thảm hại, đó là do gặp Đại vận chi Dậu kim sinh thủy, bệnh không thể khử tận mà còn gặp thêm Lưu niên trợ Bệnh thương khắc Dụng thần Đinh hỏa, có thể gọi đây là thuốc không đắc lực mà bệnh cũ còn tái phát. Ví dụ này dụng Thực mà lại thấu Kiêu nên thành bệnh, lấy Tài làm thuốc cứu ứng.
Ví dụ 5.27, tứ trụ Tưởng Giới Thạch
Đinh Hợi / Canh Tuất / Kỷ Tị / Canh Ngọ
Kỷ Dậu – Mậu Thân – Đinh Mùi – Bính Ngọ – Ất Tị – Giáp Thìn
Kỷ thổ sinh Tuất nguyệt lại được lưỡng Ấn tương sinh nhật chủ rất vượng, Canh kim Thương quan tựa hồ như tiết tú song táo thổ không thể sinh kim nên kim khí rất yếu lại còn gặp Kiêu Ấn khắc chế nên có thể nói rằng vô tú khí, vậy sao lại quý? Kỳ thực, trụ này là Quan lộc cách (cách này có thể xem ở chương 12), Nhật Lộc quy thời, Ngọ hỏa Lộc thần tượng trưng quyền lực làm Dụng thần của Bát tự. Thấu Canh kim Thương quan phản thành bệnh thần, nên dụng Hỏa khử đi để đắc dụng, chi Hợi thủy trụ năm xung khắc Tị hỏa thành bệnh.
Vận hành hỏa địa Đinh Mùi, Bính Ngọ, Ất Tị khắc khử đi Canh kim, lên như diều gặp gió nhưng vẫn cần hỏa địa dụng thổ thì mới gặp tốt. Bính ngọ vận, lưu niên 1925 Ất Sửu thổ, nắm binh quyền đánh bại quân Trần Quýnh Minh (đây là do Sửu thổ hình động Tuất thổ khắc Hợi thủy); lưu niên 1928 Mậu Thìn thổ được bầu làm Chủ tịch Quốc Dân Đảng (đây là do Thìn thổ xung động Tuất thổ khắc Hợi thủy); cho nên trụ này cùng lấy hỏa thổ làm Dụng thần, thổ để khử chế thủy còn có hỏa thì mới đắc thế. Hành vận đến Giáp Thìn, Thìn thổ hối (lu mờ ánh sáng) Ngọ hỏa là tối kỵ, năm Hợi Tý Sửu chế hỏa nên thất bại. Đây là minh họa Tài đến khắc Ấn, Ấn không thể chế Thương Quan mà thành Bệnh, dụng Tỉ Kiếp khử Tài làm thuốc.
Ví dụ 5.28
Quý Sửu / Mậu Ngọ / Kỷ Tị / Đinh Mão
Đinh Tị – Bính Thìn – Ất Mão – Giáp Dần – Quý Sửu – Nhâm Tý
Đây là mệnh của nhà tư bản công nghiệp thời hậu Thanh, Trạng nguyên Trương Khiên. Chi giờ tuy rằng không phải là Ngọ lộc nhưng lại có Đinh hỏa đắc can lộc nên cũng là Quan lộc cách, song gặp phải chi năm sửu thổ hối hỏa tiết khí lộc thần thành bệnh. Trung vận hành Đông phương mộc địa khử đi bệnh thần để sinh trợ cho Lộc thần, thi Cử nhân đỗ Trạng nguyên, sau gia nhập Hàn Lâm, hoạn lộ hanh thông.
Ví dụ 5.29
Đinh Mùi / Canh Tuất / Kỷ Tị / Canh Ngọ
Kỷ Dậu – Mậu Thân – Đinh Mùi – Bính Ngọ – Ất Tị – Giáp Thìn
Mệnh này sinh năm 1967 so với trụ của Tưởng Giới Thạch chỉ khác một chữ ở chi năm, bỏ Hợi thay bằng Mùi là một khác biệt lớn. Tuy cũng là Nhật lộc quy thời nhưng không có bệnh thần Hợi thủy, hỏa thổ khô cháy, đoàn Kiêu Kiếp biến thành trạng thái thiên khô (mất cân bằng), Lộc thần vô dụng bất thành cách cục. Người này là kẻ ăn không ngồi rồi, lười nhác lại còn vô nhân cách. Ba mươi tuổi mà chưa lấy vợ, dựa vào người khác để sống đích thị mệnh bần tiện. Ở đây thấy rõ rằng chỉ khác một chữ mà sai một ly đi một dặm. Ví dụ này minh họa hỏa vượng thổ táo thành bệnh mà bệnh thần lại kết thành bè đảng, không có thuốc khả cứu thì chính là mệnh bần tiện.
Trường hợp thương khắc Hỉ Thần Dụng thần mà thành bệnh, đa số đều là quý mệnh, đó là do Dụng thần bị tổn thương ví như ngựa khỏe bị thắng cương, chẳng phải là vô dụng mà chỉ là tạm thời thụ chế, khi bệnh thần bị khử đi thì ngựa lại có thể phi băng băng ngàn dặm. Ngược lại, nếu vô thương vô khắc thì tựa như ngựa hay mà không có dây cương, ngựa bất kham sao có thể hữu dụng. Cho nên cổ thư có câu ca: “Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ, cách trung năng khử bệnh, tài lộc lưỡng tương tùy”, mấu chốt ở chổ có bệnh đắc thuốc dụng thần có thể cứu ứng, Bát tự diệu dụng đều nằm ở chổ này.
3. Bát Tự tồn tại thần hỗn cục tạp cách thành Bệnh thần. Bát tự thành cách hữu dụng thì nên thanh thuần không nên hỗn trọc, nên tinh túy không nên hỗn tạp, thế nên mới nói dụng Quan không nên hỗn Sát, hữu Sát tức thành bệnh; dụng Thực Thần không nên hỗn Thương Quan, xuất hiện Thương Quan liền thành bệnh, ngược lại cũng vậy. Lại có tượng kim thủy hiện ra (kim bạch thủy thanh), tất nhiên không nên có hỏa tạp lẫn vào, có hỏa tức có bệnh; mộc hỏa thông minh (mộc hỏa sáng rực) không nên hỗn kim, có kim cũng tức có bệnh; thủy mộc thuận sinh không nên thấy thổ làm nghịch chuyển trình tự đó, hữu thổ cũng là hữu bệnh; thổ kim tiết tú (nở hoa) không nên phùng mộc kháng kích, có mộc lẫn vào cũng là bệnh. Ngoài ra còn có thân cực vượng tòng cường thành cách, không nên tạp lẫn Tài Quan, có (Tài Quan) tức thành bệnh; Thân cực nhược tòng Tài Quan mà thành cách lại không nên tạp lẫn Tỉ Kiếp, có nó thì có bệnh; thêm nữa, Chánh quan cách Thân vượng dụng Tài, Thân nhược dụng Ấn, tạp lẫn vào Thương thực thì thành bệnh; Thương quan sinh Tài cách, Thân vượng dụng Tài, Thân nhược dụng Kiếp, có lẫn Quan sát vào thành bệnh, v.v…và còn nhiều nữa. Có bệnh do hỗn cục và tạp cách có thể xung, khắc, hợp, hóa nó đi. Nói thông thường là bệnh thần tại Thiên can thì dùng hợp để khử đi; bệnh tại Địa chi thì dùng xung khắc để khử.
Ví dụ 5.30, mệnh Hitler
Kỷ Sửu / Mậu Thìn / Bính Dần / Đinh Dậu
Đinh Mão – Bính Dần – Ất Sửu – Giáp Tý – Quý Hợi – Nhâm Tuất
Nhìn sơ Bát Tự, niên nguyệt đều là thổ, Nhật nguyên Bính hỏa tiết khí quá nặng mà thành Bệnh, tất dụng nhật chi Dần mộc khử thổ để sinh phù Nhật nguyên. Nhưng mà sớm hành vận Đinh Mão Bính Dần là đất Dụng thần vì sao Phụ Mẫu đều mất, sống lang thang không nơi nương tựa? Xem kỹ Bát Tự có những hai Bệnh, một là chi giờ Tài tinh phá Ấn, hai là Thương Thực hỗn tạp cho nên cách cục bất thuần. Vì thế hành vận Giáp Tý, Giáp Kỷ hợp khử Thương lưu lại Thực, cách cục chuyển thanh thuần, còn Tý lại tiết kim sinh mộc, lưỡng Bệnh đều được khử nên vận này chỉ ra tay một lần mà soán đoạt được quyền lực thống trị. Vận Quý Hợi, Quý thủy hợp khử Mậu thổ Thực Thần, cách cục vẫn thanh thuần, Hợi thủy hợp Dần, Dậu kim không còn bị thương nên trong vận này tiếp tục đãm nhiệm chức Tổng thống Đức, nắm chắc quân quyền, ngang nhiên phát động Đại chiến Thế giới II. Nhưng đến vận Nhâm Tuất không tồn tại cách cục khử tạp lưu thanh, vả lại Thìn Tuất thổ gặp xung kích phản thành trọc loạn, Nhật chủ bị khắc gặp mộ địa, thất bại tự sát mà chết. Ví dụ chỉ ra Thiên can Thương Thực hỗn tạp, Đại vận có thể hợp mất đi, chuyển vi thanh túy.
Ví dụ 5.31 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Giáp Tý / Đinh Mão / Giáp Dần / Canh Ngọ
Mậu Thìn – Kỷ Tỵ – Canh Ngọ – Tân Mùi – Nhâm Thân
Giáp Dần Nhật chủ, sinh tháng Mão, cường mộc được hỏa để tiết bớt. Can tháng Đinh hỏa và chi giờ Ngọ hỏa là hỷ của cách cục, chính là tượng mộc hỏa thông minh (sáng sủa). Nhưng không hỷ Canh kim Thất Sát lộ ra ở trụ giờ vốn là kỵ thần của cách cục, lại vô thủy để hóa giải, nên biến thành Bệnh. Sớm vào vận nam phương hỏa, Dụng thần đắc vượng, một bước lên mây làm quan đến chức Quan Sát. Vận chí Nhâm Thân, Bệnh thần đắc vượng, thể dụng đều bị tổn thương, không thể tránh được họa. Đây là ví dụ Thương Quan cách, ngộ Sát tinh hỗn cục.
Ví dụ 5.32
Bính Thân / Tân Sửu / Đinh Mùi / Tân Sửu
Nhâm Dần – Quý Mão – Giáp Thìn – Ất Tỵ – Bính Ngọ
Đinh hỏa sinh vào tháng Sửu suy nhược và vô khí, tuy thông căn ở chi Mùi nhưng gặp lưỡng Sửu xung phá, Nhật chủ cực suy tất phải tòng tượng. Đây là Tòng nhi cách lấy Tài làm Dụng thần. Song, niên can lộ ra Bính Kiếp đoạt Tài thành bệnh. Ất Tị vận tuy Bính Kiếp đắc Lộc là kỵ thần, nhưng mà Tỵ Sửu củng hợp kim cục chuyển thành hỷ, gặp năm Nhâm Thân, Quý Dậu khắc khử đi Bệnh thần, Tài tinh đắc vượng, thuận lợi mọi bề, buôn bán phát tài. Năm Giáp Tuất, can sinh trợ cho Bính Kiếp, chi hình khai hỏa khố, liền gặp suy bại; năm Ất Hợi xung kích Tỵ hỏa, Kiếp tài phải loạn; năm Bính Tý lộ ra Bính hỏa hợp mất Thiên can Tài và hợp với Tài khố trong trụ, liên tiếp gặp thất bại. Đây là minh họa suy cực tòng tượng cách gặp Tỉ Kiếp hỗn cục.
Ví dụ 5.33 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Bính Dần / Giáp Ngọ / Bính Ngọ / Quý Tỵ
Ất Mùi – Bính Thân – Đinh Dậu – Mậu Tuất – Ất Hợi – Canh Tý
Mệnh này Nhật nguyên Bính hỏa, nhật nguyệt chi tọa Nhận, niên chi gặp sinh, thời chi đắc Lộc, lại thấu Giáp Bính, lửa mạnh thiêu cháy mộc, cực kỳ vượng thì chỉ có tòng theo thế cường đó, tái dụng mộc hỏa. Song, giờ thượng Quý thủy vô căn không thể chế hỏa, phản thành hỗn cục là Bệnh của mệnh. Sơ vận mộc hỏa thổ, cường thần được trợ khắc khử Bệnh thần, tiền tài kiếm được liên tiếp gia tăng; vận Thân Dậu trúng phải nhiều hình hao rắc rối; đến Hợi vận kích động cường hỏa, Bệnh thần đắc vượng địa, gia nghiệp tan tành rồi vong mạng. Đây gọi là gặp cực vượng phải theo tòng cường cách, Tài Quan phản thành Bệnh.
Ví dụ 5.34
Kỷ hợi / Canh ngọ / Tân dậu / Nhâm thìn
Kỷ tị – Mậu thìn – Đinh mão – Bính dần – Ất sửu
Trụ này Tân kim Nhật chủ tọa Lộc, thấu Kiếp lại có Ấn sinh thì không phải là nhược. Thời trụ thấu Thương Quan, Thương Quan cách có thể thành lập; nhưng mà bất hỷ nguyệt lệnh Thất Sát hỗn cục thành Bệnh, nên đến Lưu niên Mậu Ngọ bị đi tù. Sau đó tại đại vận Bính Dần, Lưu niên Nhâm Thân, Quý Dậu bạo phát, đây do Thương Quan cách hỷ dụng Kiếp. Nhưng Đại vận Bệnh thần không được khử đi, nên sau đó lại lâm cảnh khó khăn, thu không đủ chi gần như phá sản. Đây là ví dụ Thương Quan cách hỗn Sát thành Bệnh.
Trường hợp hỗn cục tạp cách, vốn là kỵ thần của cách cục, ví như tỳ vết của viên ngọc quý, loang lỗ bề ngoài trông không đẹp, thành thử mệnh có Bệnh là mệnh hiếm có, quý cách. Nếu trong mệnh tự có thể khử được thì mới cho là mệnh tốt; còn nếu mệnh không thể tự khử được thì tại vận khử đi, vận đó sẽ khá, song qua vận đó bệnh lại tiếp tục làm hại; nếu mệnh và vận đều chẳng thể khử bệnh thì thành hỗn cục phá cách, cách cục bất thành chuyển sang mệnh bình thường hoặc mệnh bần tiện.
Tiết 4. TÒNG THẾ THỦ DỤNG
Ngũ hành Bát tự vốn hỷ trung hòa, cân đối. Thông thường thì vượng thì nên tiết nên thương, suy thì hỷ bang hỷ trợ. Song, trong trụ có thần khí cực vượng liền chuyển thành chuyên vượng thì không thể chịu khắc, khi khắc tổn sẽ kích khởi vượng thần, chẳng những vô ích mà ngược lại còn có hại. Cho nên trong mệnh có thần khí chuyên vượng thì chỉ nên thuận theo cường thế, hoặc sinh trợ hoặc tiết khí, không được khắc hao. Phép tòng thế phân thành hai loại:
1, Nhật chủ quá vượng mà Tài Sát vô khí, kiến Tài Sát phản thành Bệnh thần, chỉ có thể thuận theo thế vượng của Nhật chủ, Dụng thần có thể là Ấn thụ, Tỉ Kiếp và Thương Thực, nhưng tùy tình hình mà sử dụng sẽ khác.
Trích Thiên Tủy: “Ngũ hành suy vượng hữu điên đảo chi lý, mộc thái vượng nhi tự kim, hỷ hỏa chi luyện dã; mộc cực vượng nhi tự hỏa, hỷ thủy chi khắc dã”. (Ngũ hành suy vượng mang lý lẽ điên đảo, mộc thái vượng tựa như kim, hỷ hỏa luyện; mộc cực vượng tựa như hỏa, ưa thủy khắc). Cho nên Nhật chủ thái vượng thì hỷ Thương Thực tiết bớt, Nhật chủ cực vượng thì thích được Ấn thụ sinh cho.
– Nhật chủ vượng mà thấu tiết thần (thần tiết khí), trong cục Ấn khinh lại không thể khắc tiết thần thì gọi là nhật chủ thái vượng, khi đó hỷ tiết không hỷ sinh, và cũng hỷ Tỉ Kiếp;
– Nhật chủ vượng mà vô tiết thần, trong trụ nhiều thần khí sinh trợ, gọi là nhật chủ cực vượng, thích được sinh mà không thích tiết, Tỉ Kiếp cũng thích hợp;
– Ngoài ra còn có Ấn thụ vượng mà vô Thương Thực, lại vô Tài tinh chế Ấn, gọi là mẫu tử tình y (tình mẫu tử gắn bó, nương tựa nhau), hỷ Tỉ Kiếp mà không thích bị tiết khí, Ấn thụ khả dụng.
– Nhưng cũng có mệnh vừa hỷ sinh vừa thích tiết và cả hỷ Tỉ Kiếp, gọi là Tỉ Kiếp chuyên quyền, hữu Ấn thụ thì đều quy về Tỉ Kiếp, sinh thì không được thương tiết, tiết thì không thể có Ấn.
Ví dụ 5.35 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Giáp Dần / Đinh Mão / Ất Mùi / Đinh Hợi
Mậu Thìn – Kỷ Tỵ – Canh Ngọ – Tân Mùi – Nhâm Thân – Quý Dậu
Trụ này Hợi Mão Mùi hội mộc cục, Nhật chủ cường vượng, hữu Tài nhưng tòng cục (mộc) nên không thành hỗn tạp, lưỡng Đinh hỏa lộ ra Thực Thần tiết thấu, tuy có Hợi thủy Ấn thụ vẫn tòng cục, nên không làm hại Đinh hỏa. Mệnh này Dụng thần tất tại hỏa; vận đến Tị, Đinh hỏa lâm vượng, đỗ Tiến sĩ (Giáp bảng); Canh Ngọ, Tân Mùi, vẫn là vận nam phương hỏa, kim cũng không làm hại thể dụng, hoạn lộ bình thản; vận Nhâm Thân mộc hỏa đều tổn thương, phá cách, chết ở trong quân. Đây là trường hợp minh họa Nhật chủ thái vượng dụng Thực Thần, nên tiết mà không nên sinh.
Ví dụ 5.36 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Quý Mão / Bính Thìn / Giáp Dần / Ất Hợi
Ất Mão – Giáp Dần – Quý Sửu – Nhâm Tý – Tân Hợi – Canh Tuất
Giáp Dần Nhật nguyên, sinh vào cuối xuân, Đông phương mộc cục lại có Hợi thủy sinh mộc, Nhật chủ cường vượng. Bính hỏa lộ ra tiết tú vốn có thể làm dụng nhưng gặp Quý thủy Ấn thụ thương khắc, tự đóng ở Thìn thổ lại thành suy. Mới vào Ất Mão, Giáp Dần, phúc hỷ tự nhiên; sau giao Quý Sửu, Quý lại thương Bính, phá bại dị thường. Đến vận Nhâm Tý, Kiêu thần đoạt Thực, tan nhà nát cửa tự ải mà chết. Đây là minh họa Nhật chủ thái vượng dụng Thực Thần, trong trụ có Ấn thương khắc, kỵ hành vận Ấn thụ.
Ví dụ 5.37 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Quý Hợi / Giáp Tý / Nhâm Thân / Canh Tý
Quý Hợi – Nhâm Tuất – Tân Dậu – Canh Thân – Kỷ Mùi – Mậu Ngọ
Nhâm Thân nhật sinh tháng Tý, niên thời là Hợi Tý, can thấu Canh Quý, thủy thế cuồn cuộn không thể chặn được. Nguyệt can Giáp mộc khô héo lại gặp kim phạt, không thể dung nạp thủy nên bỏ đi không dùng, trái lại dụng Canh Thân kim để thuận theo khí thế. Sơ vận Quý Hợi, tòng theo vượng thần của trụ nên phúc phận đại hảo; vận Nhâm Tuất thủy bất thông căn, Tuất thổ kích động thủy thế, gia cảnh gặp nạn, tang chế, phá hao; Tân Dậu Canh Thân nhập học tu thân, gia nghiệp ngày càng tăng tiến; giao vận Kỷ Mùi, kích động thế nước đang chảy mạnh và khắc liền 3 Tý, phá hao dị thường, đến Mậu vận thì chết.
So trụ này và trụ trước, giống nhau ở nguyệt can thấu xuất Thực Thần bị Ấn khắc, tại sao trụ kia kỵ Ấn còn trụ này hỷ Ấn? Lý do là lý tính ngũ hành khác nhau, vượng mộc gặp một chút hỏa có thể tiết bớt, nên khi hỏa thụ khắc là Dụng thần bị thương; vượng thủy gặp mộc khô nhược (cây khô) thì không thể dung nạp thủy, mộc vốn đã vô dụng thụ khắc thì ngại gì nữa? Ví dụ này nói rõ Nhật chủ thái vượng, trong trụ Thực Thần vô dụng, thành ra hỷ dụng Ấn thụ.
Ví dụ 5.38 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Mậu tuất / Bính thìn / Kỷ tị / Kỷ tị
Đinh Tỵ – Mậu Ngọ – Kỷ Mùi – Canh Thân – Tân Dậu – Nhâm Tuất
Tứ trụ hỏa thổ, hoàn toàn không có tiết thần, thổ cực vượng, nên sinh không nên tiết. Sơ vận Nam phương, hưởng di nghiệp cha ông phong túc, Ngọ vận nhập học, Kỷ Mùi thi hương thi hội, nổi trội hơn người nhưng không được tiến cử; giao vận Canh Thân, Thanh phù hóa điệp (ý nói sâu Thanh phù vốn rất đẹp, hình thù giống con ve và con bướm, còn có tên là Thần tiền, tượng trưng cho tiền tài, hóa ra điệp, con bướm, thì thành vô dụng), gia nghiệp dần mai một; vận Tân Dậu tiền tài ví như sau xuân lại gặp sương tuyết, sự nghiệp tiêu điều; Nhâm vận bị đoàn Tỉ tranh cướp nên mất tại vận này. Đây là Nhật chủ cực vượng dụng Ấn thụ, nên sinh không nên tiết.
Ví dụ 5.39 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Nhâm Tý / Tân Hợi / Giáp Dần / Giáp Tý
Nhâm Tý – Quý Sửu – Giáp Dần – Ất Mão – Bính Thìn – Đinh Tị
Giáp Dần nhật nguyên, sinh tháng Hợi thủy vượng mộc chắc, cực kỳ vượng. Một ít Tân kim tòng theo thế thủy, bình yên hòa thuận nên không thành hỗn cục. Càng hỷ tứ trụ không hỏa thổ, thủy mộc nhất khí, tình mẫu tử tựa nhau. Sơ vận Bắc phương, nhập học đăng khoa; hai vận Giáp Dần Ất Mão, tòng theo vượng thế, làm quan danh tiếng một vùng; vận Bính Thìn vẫn còn tình nghĩa củng hợp, tuy bị cách chức nhưng tránh được hung họa; vận Đinh Tị gặp cảnh xung kích đề cương (bản thể nguyệt lệnh), trái nghịch kỳ thế của trụ nên vong mạng. Ví dụ này thuyết minh Ấn thụ vượng mà không có Thương Thực, Nhật chủ hỷ được sinh hoặc tỉ trợ, không thích tiết.
Ví dụ 5.40 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Giáp dần / Ất hợi / Ất mão / Quý mùi
Bính tý – Đinh sửu – Mậu dần – Kỷ mão – Canh thìn – Tân tị – Nhâm ngọ – Quý mùi
Mệnh này Hợi Mão Mùi hội mộc cục, niên chi Dần mộc, tứ trụ vô kim, hỏa không thấu xuất. Hợi thủy Ấn thụ đã hợp mà hóa mộc, Quý thủy vốn nhược tất tòng cường thế. Khí Tứ trụ quy hết về Tỉ Kiếp. Hành vận Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão đều thuận lợi. Vận Canh Thìn, Tân Tị hoạn nạn tang chế đổ vỡ, hoạn lộ cũng lao đao. Đến ngoài 60, hành vận Nhâm Ngọ, Quý Mùi, từ Huyện lệnh mà thăng Tư Mã, dấn bước đến chốn quan trường rồi được thăng lên chức Quan Sát, thẳng một mạch như dương phàm đại hải (thuyền có buồm làm bằng cây liễu mỏng manh mà ra được biển lớn, ý nói thành quả thần kỳ). Bởi vậy xem đến cách chuyên vượng, Tỉ Kiếp thừa quyền, Đông nam bắc vận đều thuận lợi; chỉ sợ kỵ vận Tây phương kim khắc phá mà thôi.
Ví dụ 5.41 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Canh dần / Kỷ mão / Ất hợi / Quý mùi
Canh thìn – Tân tị – Nhâm ngọ – Quý mùi – Giáp thân
Xem sơ qua thì trụ này và trụ trước đó đại đồng tiểu dị, tựa hồ cũng thành tòng cường cách. Nhưng mà mệnh này can thấu Canh kim, xung quanh không thủy dẫn hóa, còn thấu Kỷ Tài tương trợ, tất bất hòa với mộc đang vượng. Canh kim thành Bệnh thần, tứ trụ không thấy hỏa khắc khử khiến Nhật chủ có xu hướng đến hợp với nó, cách Tòng cường liền bị Canh kim phá hỏng. Bất đắc dĩ Nhật chủ phải đổi dụng Tài Quan, lại thấy Tài hội Kiếp cục, Quan lâm tuyệt địa, Dụng thần không chỗ dựa. Cho nên gia nghiệp phá hao, học cũng chẳng xong, học thì nhiều mà chẳng có gì thành. Tiền tài hao phá, xa lìa người thân, xuống tóc đi tu. Trường hợp này thuyết minh Tòng cường cách kiến Quan sát, vô Ấn hóa giải tất phá cách.
Tóm lại, Nhật chủ vượng để thành tòng vượng cách, đầu tiên kỵ hỗn Tài Quan Sát, nếu tạp Tài hội hay hợp với cường thần thì không kỵ, hoặc tạp Quan tạp Sát bị Ấn thụ tiết tận cũng không kỵ; kế đến là kỵ dụng Thương Thực mà bị Ấn tinh khắc phá, Thương Thực và Ấn thụ không gặp nhau thì được. Vượng cách đã thành, thần khí sở dụng có thể là sinh, hoặc tiết, hoặc bang trợ vượng khí. Như trong trụ Tỉ Kiếp đông đảo, gặp Thương Thực thì gọi là “anh hoa phát tú” (hoa đẹp đang nở), cần nguyên cục vô Ấn mới tránh được phản khắc làm hại thì danh lợi mới thành toại; kiến Ấn thụ mà trong cục vô Thương Thực, gọi là “sinh trợ cường thần” cũng chủ vẻ vang thuận lợi; kiến Tài tinh tất bị đoàn Tỉ tranh đoạt cần có Thương Thực tòng trung dẫn hóa mới tránh được tai ương; kiến Quan sát, gọi là phạm vượng, hung họa khó tránh khỏi.
2, Nhật chủ cô lập vô khí, Tứ trụ không có ý hướng sinh phù mà dù có sinh phù cũng bị thần khí khác khắc phá, Nhật chủ chỉ có thể tòng theo vượng khí, cần xem xét vượng khí quy về thần nào, nếu Tứ trụ Tài Quan (Sát) đều vượng, không thấy Thương Thực, thế tất ở Quan (Sát), cho dù có Thương Thực cũng có thể được Tài tinh hóa hợp để không tranh đấu với Quan (Sát), khi đó thành cách Tòng Quan, Tòng Sát, hỷ hành Tài vận và Quan (Sát) vận; nếu tứ trụ Thương Thực Tài tinh cùng vượng không thấy Quan Sát, thế ắt hẳn do Tài, cho dù hữu Quan Sát cũng có thể hợp hội thành vượng thần để không tạp loạn thì có thể thành cách Tòng Tài hoặc Tòng Nhi, hỷ hành Thương Thực vận và Tài vận. Tòng cách đều kỵ hành Tỉ Kiếp Ấn thụ vận.
Ví dụ 5.42 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Ất mão / Kỷ mão / Mậu thìn / Quý hợi
Mậu dần – Đinh sửu – Bính tý – Ất hợi – Giáp tuất – Quý dậu
Mậu thổ sinh trọng xuân, mộc đang nắm quyền, đóng nơi Thìn thổ, tuy là thông căn lại bị vượng mộc khắc phá, huống chi Thìn thổ vốn có công nuôi dưỡng mộc và hàm chứa thủy, lại còn được giờ Hợi thủy vượng sinh mộc, thế ấy ắt hẳn ở Quan. Nhật chủ suy nhược, vô hỏa sinh hóa, vô kim hỗn cục, chọn cách Tòng Quan chứ cũng không luận thành Thân suy. Tuy không phải xuất thân khoa giáp, vận đến Bính Tý, Ất Hợi, liên tiếp đăng khoa quan tước, chức vị đến Phong cương (tương đương Tổng đốc, Tuần phủ); đến vận Quý Dậu, Thương Quan kiến Quan phá đi thế tòng, bị cách chức rồi chết. Đây là ví dụ Nhật chủ tuy có Tỉ Kiếp nhưng thân mình lo cũng chẳng xong nên chỉ phù hợp Tòng vượng Quan, là giả tòng, Tỉ Kiếp thành Bệnh.
Ví dụ 5.43
Giáp Ngọ / Đinh Mão / Tân Mão / Giáp Ngọ
Bính Dần – Ất Sửu – Giáp Tý – Quý Hợi – Nhâm Tuất
Đây là Nữ mệnh, tứ trụ mộc hỏa đầy trụ, Nhật chủ Tân kim tuyệt khí mà không có sinh phù, đúng thực Tòng Sát cách. Người này làm việc giỏi giang, nữ trung hào kiệt. Hành vận Giáp Tý, Quý Hợi tuy nói Tòng Sát cách kỵ Thương Thực, nhưng mà Mệnh này thiên địa can chi toàn vượng mộc hộ hỏa, thủy vận bất thương khắc hỏa trái lại còn có ý hướng sinh mộc, cho nên sau năm Bính Dần một bước lên mây (thanh vân trực thượng), hiện đang giữ chức vụ tại một bộ quan trọng của chính phủ. Có thể thấy được cách Tòng Sát mà Tài vượng thì cũng không sợ Thương Thực.
Ví dụ 5.44 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Mậu Tuất / Bính Thìn / Ất Mùi / Bính Tuất
Đinh Tị – Mậu Ngọ – Kỷ Mùi – Canh Thân – Tân Dậu – Nhâm Tuất
Ất mộc sinh cuối xuân, đóng gốc tại Mùi, đắc dư khí ở Thìn, tựa hồ Tài đa Thân nhược, nhưng Tứ trụ đều là Tài, kỳ thế tất phải tòng. Mùa xuân thổ khí hư chỉ có Bính hỏa là thực khí, mà hỏa chính là tú khí của mộc, thổ chính là tú khí của hỏa, ba thứ mộc hỏa thổ đầy đủ và hoàn toàn không có kim tiết, không có thủy chia cắt. Hơn nữa, càng mừng gặp vận Nam phương hỏa địa vốn là nơi tú khí lưu hành. Cho nên khoa cử thềm son, danh đề bảng vàng. Ví dụ này minh họa Tòng Tài cách, dụng Thương Quan Bính hỏa dẫn hóa, Thương nhược Tài vượng, gặp Quan vận vô hại.
Ví dụ 5.45 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Mậu tuất / Đinh tị / Giáp dần / Kỷ tị
Mậu ngọ – Kỷ mùi – Canh thân – Tân dậu – Nhâm tuất – Quý hợi
Giáp Dần nhật nguyên sinh tháng Tị, Bính hỏa nắm lệnh, tuy tọa ở Lộc nhưng tinh chất bị tiết tận. Hỏa vượng mộc bị thiêu, hỷ thổ để lưu khí hỏa, vượng khí quy về thổ, Nhật chủ suy cực tất Tòng Tài. Sơ vận Mậu Ngọ Kỷ Mùi, thuận theo hỏa thổ, tổ nghiệp thịnh vượng, lại đỗ tú tài; vận Canh Thân nghịch hỏa tính, kim tiết khí thổ; đến Quý Hợi xung kích hỏa thế mà chết. Đây là Tòng Tài cách, Thương Thực vượng tướng, kiến Quan sát có hại, gặp phải thủy đại họa.
Ví dụ 5.46
Mậu Ngọ / Ất Mão / Canh Thìn / Mậu Dần
Giáp Dần – Quý Sửu – Nhâm Tý – Tân Hợi
Nữ mệnh, Canh sinh trọng xuân, địa chi Dần Mão Thìn hội mộc cục, Ất Canh lại hợp, tựa hồ Tòng Tài. Song, ngại rằng can thấu lưỡng Ấn, lại có Ngọ hỏa tiết Tài trợ Ấn, càng ngại không có Thương Thực dẫn hóa Nhật chủ, tuy Tài vượng nhưng có Ấn nên không thể tòng được. Luận theo Tài đa Thân nhược vốn có thể dụng Ấn Kiếp phù thân, nhưng kỵ nhật chủ tham hợp, không đoái hoài gì đến Dụng thần trợ giúp mình, cho nên sinh ra tính cách bốp chát, ăn nói bừa bãi, hay lật lọng, tham tiền thất trinh, không có gì kiêng dè cả. Ví dụ này cho biết, Tòng Tài cách cần phải có Thương Thực, còn gặp Quan Sát tiết Tài lại kỵ.
Ví dụ 5.47
Nhâm ngọ / Nhâm dần / Quý mão / Giáp dần
Quý mão – Giáp thìn – Ất tị – Bính ngọ – Đinh mùi – Mậu thân
Trụ này Quý sinh đầu xuân, mộc vượng thừa quyền, tuy lộ ra Kiếp tài nhưng tứ trụ vô kim, gặp mộc bị tiết hết đi. Vượng khí quy hết về mộc, thành thủy mộc Tòng Nhi cách. Mừng năm có chi Ngọ hỏa, Thương Thực sinh Tài, tú khí lưu hành, đây gọi là Tòng Nhi cách mừng gặp được Tài, chuyển thành tâm ý mẹ sinh cho con. Trung niên hành vận Nam phương, hoạn lộ hanh thông, giữ chức trưởng thanh tra trọng yếu. Đây là Tòng Nhi cách mừng gặp được Tài, gặp Tỉ Kiếp thành Bệnh thần.
Ví dụ 5.48 (trích từ Trích Thiên Tủy)
Mậu Tuất / Ất Sửu / Bính Thìn / Kỷ Sửu
Giáp Tý – Quý Hợi – Nhâm Tuất – Tân Dậu – Canh Thân
Mệnh này tứ trụ đều là thổ, Mệnh chủ Bính hỏa tận tiết cho thổ, tựa hồ Tòng nhi cách, nhưng Tứ trụ vô kim, vượng thổ không thấy sinh, tất khí bế thần khô. Huống chi nguyệt can Ất mộc trợ hỏa khắc thổ, tình ý Nhật chủ tất theo về Ất mộc, không thể Tòng nhi được. Song Ất mộc khô héo lấy gì trợ hỏa? Cho nên năm 34 tuổi mắc bệnh mà chết. Đây thuyết minh trường hợp Tòng Nhi cách kiến Ấn tất phá. Nếu chỉ cần thấu xuất Tài tinh khắc khử Ấn thụ thì Thương Thực lại có thể sinh Tài ắt hẳn trở thành quý cách rồi!
Tóm lại:
Nhật chủ suy yếu mà tòng theo cường thần, chỉ có hai loại, hoặc là Tòng Tài Quan (Sát), hoặc Tòng Thương Thực Tài. Tòng Quan (Sát) cần dụng Tài để phụ trợ; Tòng Tài cần dụng Thương Thực lấy hóa Kiếp; Tòng Thương Thực lại cần phải có Tài tinh để lưu thông.
Nhưng Tòng cách lại phân ra cao thấp: Tòng Quan thuần không nên hỗn Sát, Tòng Sát thanh lại không nên hỗn Quan, dễ thành Quan sát hỗn tạp, khi ấy Nhật chủ đang tòng liền vô định hướng, coi như tổn hại quý cách; Tòng Tài cách tuy chẳng phân biệt thiên chính (Tài) nhưng cần Thực Thương nở hoa (tiết tú), chẳng những công danh hiển đạt mà còn cả đời chẳng có tai họa lớn, do Tòng Tài tối kỵ Tỉ Kiếp vận, trong trụ hữu Thương Thực năng hóa Tỉ Kiếp (nếu có) để sinh Tài thì cũng tốt đẹp; Tòng Nhi cách cần Thương Thực sinh Tài, lại cần hành Tài vận, không gặp Tài vận thì không phú quý, mà khi được tú khí lưu hành, người tất thông minh xuất chúng, học vấn tinh thâm.
Giả như Nhật chủ suy nhược, Thương Thực, Tài tinh, Quan Sát đều vượng, Nhật chủ tòng theo thần nào? Đây tất dụng Tài để được hòa thuận, dẫn thông khí Thương Thực, trợ Quan sát, nhằm chuyển thành Thương Thực sinh Tài, Tài sinh Quan sát, vượng khí quy về Quan sát. Chỉ cần Thương Thực và Quan sát không tranh đấu với nhau thì cũng có thể thành quý cách. Tối kỵ Nhật chủ suy nhược mà có phù trợ, mong tòng mà không thể tòng, mà thần khí phù trợ lại không đủ lực phù không nổi, không có đường để đi thì thân lâm tuyệt cảnh, đây ắt hẳn sống mà như phế nhân. Tòng và bất tòng, quý hay tiện đều theo đó mà ra, người học cần cố gắng nhận thức rõ
QUAN LỘC CÁCH
Người xưa luận Lộc cách thường lấy nguyệt lệnh phùng Lộc thành cách Kiến lộc, nhật chi tọa lộc thành Chuyên lộc, thời chi gặp lộc thành Quy lộc, tất cả chẳng phải là Quan Lộc cách, Quan Lộc cách là do tác giả tự mình chủ trương. Lộc, chính là địa chi bản khí tụ về, có thể gọi là lãnh địa mà ta chiếm hữu, giống như Lộc thần hội cục, đông đúc lớn mạnh mà kết thành một thế lực hoặc một đảng, phái, tức là giống như mình có một lãnh địa khá lớn rồi tự mình thành chúa tể một phương. Bởi vì khi thành cách đó, đa số đều có chức vị khá cao, cho nên gọi thành Quan Lộc cách.
Quan Lộc thành cách, trước tiên cần Lộc thần đóng ở chi giờ, cùng hợp hội thành Lộc cục, nếu không có hội cục hợp cục thì cần Lộc thần kết đảng thành thế, không phùng xung khắc; kế đến, trong trụ bất thấu Quan Sát, bất phùng Thương Thực. Quan Sát khắc lộc phá cách bất thành, Thương Thực tiết lộc chuyển thành luận Tiết tú cách, chẳng thành Lộc cách được. Quan Lộc cách hỷ gặp Ấn sinh, Tỉ Kiên cũng tốt.
Quan Lộc cách thành cách có thể nắm giữ chức vị to lớn, quyền uy đều không thua kém người có Quan Sát thành cách. Say đây chọn vài ví dụ để giảng.
Ví dụ 12.1
Ất Mùi / Đinh Hợi / Ất Sửu / Kỷ Mão
Mậu Tý – Kỷ Sửu – Canh Dần – Tân Mão – Nhâm Thìn – Quý Tị – Giáp Ngọ
Đây là mệnh của Từ Hi thái hậu – Diệp Hách Na Lạp thị (Yehe NaLa). Giờ sinh chẳng phải giờ Hợi mà là giờ mão, giờ phùng qui lộc cùng với nguyệt lệnh, niên chi hợp thành Lộc cục, biến thành Quan Lộc cách. Cho nên tâm ý của bà hừng hực, ham muốn quyền lực rất mạnh, cuối cùng trở thành triều đại độc tài, hại nước hại dân.
Nhật chủ tọa chi Sửu thổ, tuy là Quan khố song Quan tinh bất thấu, bất hoại cách, nhưng sửu thổ bị Lộc cục phá hoại, Quan tinh mất đi bảo hộ khó mà sinh tồn nên khắc chồng rất nặng nên vua Hàm Phong sớm băng hà. Nguyệt can lại thấu xuất Thực thần cũng tiết Lộc phá cách, còn Đinh hỏa đóng trên Hợi tự hợp với Nhâm (chú: tự hợp với Nhâm tàng trong Hợi) nên không phá cách; song vì Đinh là tử tinh (sao con cái), nhược cực phùng hợp nên khắc con rất nặng thế nên con là vua Đồng Trị chết sớm. Lộc là quyền thế nên cần sinh, trợ, giúp cho nó. Vận Canh dần, Quan lâm tuyệt nên chồng chết, dần Kiếp giúp Lộc thành ra đưa con là Tải Thuần lên ngôi vua, đổi hiệu là Đồng Trị, ban đầu buông rèm nhiếp chính. Đến vận Tân mão lộc lâm vượng địa, Tử tinh hỏa lâm bại địa, con là vua Đồng Trị chết vì bệnh giang mai vào năm 1875. Lập Tải Điềm làm vua, đổi hiệu thành Quang Tự, cũng vẫn buông rèm nhiếp chính. Vận Nhâm Thìn, Nhâm thủy Ấn tinh tuy là hỷ nhưng Thìn là thủy khố, Hợi thủy nhập mộ, Lộc cục bị tổn thương, cắt đất bồi thường, mang nổi nhục mất nước. Quý tị vận, xung chiến đề cương, nhưng Hợi thủy phá Tị, Thương quan không thể tổn hại được cục, tuy quốc dân hèn kém nhưng chính quyền vẫn ổn định như lúc ban đầu; nhưng vận nhập noãn địa (đất ấm), mộc mọc lớn thì thủy bị tiết nên vô cùng xa xỉ, thổ mộc mạnh mẽ, quốc lực kiệt quệ. Vận Giáp ngọ, Thực thần lâm vượng địa, Hợi thủy không thể phá được, Lộc thần bị tiết, khiến cách cục gặp bại. Đầu tiên là cải cách chính trị gặp chính biến vào năm Mậu tuất, lại gặp Phong trào khởi nghĩa Nghĩa Hòa Quyền, sau đó thì đến Liên quân tám nước (Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga, Nhật, Ý và Áo) tiến vào Bắc kinh, Mậu thân niên gặp Quan tinh tuổi già mà mất. Quan lộc cách gặp vận Thực thần, tái phùng Quan Sát lưu niên tất gặp hung.
Mệnh này nguyệt lệnh Hợi thủy đại biểu quốc gia, chi giờ Mão lộc đại biểu quyền lực và bản thân, Hợi Mão Mùi hợp cục đại biểu dùng quyền lực ấy thống trị quốc gia, song Hợi thủy Tuần không, trụ đầy thần khí tiết nó nên đại biểu cho cuộc đời làm nước mất nhà tan, cuối cùng thì mang một nước Trung Quốc lớn như thế chà đạp để mất đi giang sơn Mãn Thanh, thật là tai họa.
Ví dụ 12.2
Ất Sửu / Kỷ Mão / Ất Hợi / Quý Mùi
Mậu Dần – Đinh Sửu – Bính Tý – Ất Hợi – Giáp Tuất – Quý Dậu – Nhâm Thân
Mệnh này được chép trong sách Thiên Lý Mệnh Cảo, Vi Thiên Lý cho rằng: “do Tân tàng trong sửu ở chi năm nên Khúc Trực cách đã bị phá, cho nên phải đoán là Thân vượng Tài khinh và chỉ là mệnh bình thường”. Tác giả cho rằng lý này (của Vi Thiên Lý) làm sự việc khó giải quyết ở mệnh của Từ Hi đó là tứ trụ này sửu tại niên chi ngõ hầu có thể phá cách, còn Từ Hi sửu tại nhật chi thì càng phá cách hơn nữa, nên tác giả tưởng luận Khúc trực cách là do không thực sự nắm vững mệnh lý, thực ra chính lý phải là: mệnh Từ Hi lộc thần tại giờ có thể thành Quan Lộc cách do Lộc tại giờ tượng trưng cho chính mình; còn trụ này Lộc thần tại nguyệt lệnh, mà Lộc tại nguyệt lệnh thì không thể đại biểu cho chính mình mà chỉ chứng tỏ bản thân vượng tướng, Lộc cục hội thành và bản thân không có quan hệ với nhau cho nên không thể thành Quan Lộc cách, liền lấy Thân vượng Tài khinh để luận mệnh chứ chẳng phải do Tân kim trong sửu phá cách. Ví dụ này cho biết Quan Lộc cách đều khác các cách có ghi trong sách như Khúc trực cách, Viêm thượng cách, Tòng cách cách, Nhuận hạ cách, v.v…vì cần phải có Lộc thần tại chi ngày hoặc chi giờ.
P.s:
Trích đoạn sách Thiên Lý Mệnh Cảo (có thể tham khảo sách này trong diễn đàn do bác chindonco đã post lên):
Ất Sửu / Kỷ Mão / Ất Hợi / Quý Mùi
Mậu Dần – Đinh Sửu – Bính Tý – Ất Hợi – Giáp Tuất – Quý Dậu – Nhâm Thân
Cụ này theo đường xuất ngoại làm quan, thông thạo kinh sách, tài lộc phong túc. Sau năm 30 tuổi gia đạo sa sút, may là am hiểu thư pháp nên mài mực viết lách kiếm sống. Khi còn bé đã từng nhờ người phê mệnh, đa số đều phê là Nhân thọ Khúc trực cách để mà kỳ vọng vào tương lai đầy hứa hẹn. Nhân trước kia có người giới thiệu đến thăm nhà tôi hỏi chuyện, tôi nói: “Ất sinh tháng Mão, chi hội đủ mộc cục, Tân tàng trong chi năm sửu nên Khúc trực đã bị phá, chỉ có thể lấy Thân vượng Tài khinh để đoán mệnh. Trước 26 tuổi vận hỏa thổ nên thiếu niên đắc chí, đến khi 31 tuổi vận chuyển phương đông bắc khó tránh khỏi đau khổ trắc trở. Song Nhâm vận rất xấu, không tổn tài lớn thì may mắn lắm rồi. Lại sau vận Tân sống tạm bợ thì đến vận Mùi hóa mộc nguy như đèn trước gió.
Chú thêm: Mệnh của Đoàn Kỳ Thụy: Ất Sửu / Kỷ Mão / Ất Hợi / Nhâm Ngọ với Ất Lộc tại Mão, Kỷ Lộc tại Ngọ, Nhâm Lộc tại Hợi, luân phiên đắc lộc nên vượng khí gắn kết nhau, mộc vượng thủy kiện, ngọ hỏa tiết tú nên cách cục thanh kỳ đứng trên vạn người. Bát tự sai nhau một giờ nhưng thổ nhưỡng khác nhau rất xa, sao giống được như mệnh của Đoàn, đáng sợ thay !
Ví dụ 12.3
Quý Mùi / Giáp Dần / Ất Hợi / Kỷ Mão
Quý sửu – Nhâm tý – Tân hợi – Canh tuất – Kỷ dậu – Mậu thân – Đinh mùi – Bính ngọ
Thư ghi đây là mệnh Lý Hồng Chương, Ất mộc xuân sinh Hợi Mão Mùi hội thành mộc cục, thời gặp quy lộc, không thấy Quan sát không hiện Thương Thực, Quan Lộc cách thành cách cho nên dần được cất nhắc trọng dụng thành mệnh quan Thanh triều (đại quan lạm quyền) thống lĩnh mọi sự từ quân sự, chính trị đến ngoại giao. Mão lộc tuy là quyền thế nhưng vẫn cần Hợi thủy hội cục sinh trợ, song nguyệt lệnh Kiếp tài hợp tiết Hợi thủy làm Hợi thủy không thể chuyên tâm sinh trợ Quan Lộc, đây chính là “tham hợp vong lộc” cũng đúng với vẻ ủy mị, rụt rè, yếu hèn bất lực không nghĩ đến quốc sự tiến thủ tự lập, được chăng hay chớ, chết rồi mà còn lưu tiếng nhơ khắp thiên hạ. Cho nên tứ trụ này Hỉ thần là thủy, Giáp Dần Kiếp tài là Bệnh, kim thành Dụng thần để xung phá Kiếp sinh thủy. Riêng chỉ kị Thương Quan Thực Thần tiết Lộc phá cách.
Hành vận Tân Hợi lưu niên Đinh Mùi, Hợi Mão Mùi làm vượng lộc cục, gia nhập Hàn lâm viện và từ đó về sau bắt đầu đi theo con đường làm quan. Sau khi vận đến đất Tây phương kim phá Kiếp sinh thủy liền nhẹ bước đường mây, liên tục đảm nhiệm trọng trách Tổng đốc Lưỡng Quảng, Tổng đốc vùng Trực Đãi (địa phận hành chính dưới thời Minh-Thanh gồm Bắc kinh, Thiên tân, hầu hết tỉnh Hà bắc, Hà nam và một phần tỉnh Sơn đông), Ngoại vụ đại thần (tương đương Bộ trưởng ngoại giao). Hành vận Bính ngọ, Thương Thực tiết Lộc phá cách, Lưu niên Tân Sửu kiến Sát tinh khắc thân nên bệnh mà mất, việc tử vong này cũng cùng một lý so với mệnh của Từ Hi.
Ví dụ 12.4
Kỷ Hợi / Mậu Thìn / Ất Hợi / Kỷ Mão
Đinh mão – Bính dần – Ất sửu – Giáp tý – Quý hợi
Ất mộc sinh tháng Thìn, Tài tinh nắm lệnh, Ấn Tỉ đều cường, Tài vô nguyên thần sinh trợ nên suy nhược, tựa hồ có thể nói chẳng phải là quý mệnh. Thực tế, tứ trụ này không cần đến Tài mà là thành cách Quan Lộc đại quý mệnh. Người này là một chuyên gia kinh tế học, trợ lý cho một vị lãnh đạo cấp cao của quốc gia. Dụng thần là Lộc thần ở chi giờ, kị thần là Tài tinh, hỉ thần là Ấn. Vận Ất sửu kị thần thông gốc nên gặp phải trợ ngại rất lớn. Vận Giáp tý Dụng thần đắc địa, vì thế được nâng đỡ trọng dụng một bước nhảy lên nắm giữ chức vụ cao.
Ví dụ 12.5
Kỷ Hợi / Đinh Mão / Ất Mùi / Kỷ Mão
Bính dần – Ất sửu – Giáp tý – Quý hợi
(sách in lộn thành Kỷ sửu thay vì Ất sửu)
Tứ trụ này trích từ Thiên Lý Mệnh Cảo là mệnh của luật sư nổi tiếng Thượng Hải, Ngô Kinh Hùng. Giờ phùng qui lộc lại có Hợi Mão Mùi hợp Lộc cục, dường như đã thành Quan Lộc cách. Song kiến Đinh hỏa nguyệt can thấu xuất tiết Lộc để sinh Tài. Ở đây không thể so với tứ trụ của Từ Hi thái hậu tuy cũng có Đinh hỏa Thực Thần thấu ra nhưng đóng ở Hợi hợp đi (tác giả chú: mệnh Từ Hi nguyệt can là Đinh hợi, Đinh tương hợp với Nhâm tàng trong hợi), bản trụ tọa bên dưới là Mão mộc sinh hỏa, Thực Thần vượng tướng không thể khử được tất nhiên phá mất Quan Lộc cách, chuyển thành luận Thực thần sinh Tài cách, cho nên mệnh này vô quan chức, dựa vào Thực Thần để sinh sống chỉ có thể là một luật sư nổi danh mà thôi.
Ví dụ 12.6
Đinh Sửu / Nhâm Tý / Nhâm Thân / Tân Hợi
Tân hợi – Canh tuất – Kỷ dậu – Mậu thân – Đinh mùi – Bính ngọ – Ất tị
Các ví dụ trước nhật chủ đều là can Ất mộc kiến Mão thành Quan Lộc, còn ở đây là tác giả tình cờ gặp được một tứ trụ của một vị lãnh đạo cấp cao đương nhiệm. Nhâm thủy sinh vào giữa đông, trụ giờ kiến lộc lại thấy hợi tý sửu hội thành lộc cục, bản thân đóng ở Thân kim sinh trợ hợi thủy và không gặp Quan sát/ Thương thực nên Quan Lộc cách thành cách. Chỉ không hỷ nguyệt lệnh Kiếp Nhận, Thân Tý bán hợp Nhận cục, gọi là “Tỉ Kiếp phân Lộc” hỗn cục thành bệnh. Cho nên tứ trụ này mừng gặp được hỏa thổ xung khắc Tý thủy khử Nhận nhằm làm thanh thuần Lộc cách, mà vận hành Nam phương còn có sự góp sức của Điều hậu; sớm vào vận Tây phương kim địa, Lộc Nhận đều được sinh tuy học vấn tinh thâm, làm quan nhưng chưa vinh hiển; khi vào vận Bính Ngọ, Ngọ hỏa xung Tý nhận và hợp Hợi Lộc gọi là khử trọc lưu thanh (gạn bỏ đi vẩn đục mà lưu lại trong lành tinh khiết) nên một bước lên mây mà được giao trọng quyền. Có thể thấy được Quan Lộc cách gặp Kiếp tài bại Tài đều làm hỗn tạp cách cục, được Đại vận hay Lưu niên khử đi thì thành tốt.
Ví dụ 12.7
Đinh Mùi / Kỷ Dậu / Tân Sửu / Tân Mão
Canh tuất – Tân hợi – Nhâm tý – Quý sửu
Đây là nữ mệnh, Tân sinh tháng dậu, Thiên Ấn phù Thân nên nhật chủ rất vượng, còn Tài Sát đều nhược, nếu dùng Thân vượng dụng Tài để luận thì Tài vô nguyên khí lại bị Không vong, cường Kim khắc nhất định là mệnh nghèo. Nhưng mà Tứ trụ này không chỉ giàu có mà chồng và chị ta đều mang danh chức, còn Quý sửu vận thì thu nhập rất lớn. Thực tế Tứ trụ này cũng là Quan Lộc cách, Lộc phân ra Can Lộc và Chi Lộc, tứ trụ này tuy chi giờ không gặp được Dậu nhưng can giờ Tân cũng là Lộc. Dụng thần là Tỉ kiên Ấn tinh, Tài Quan là kị thần cho nên vận Quý sửu đại cát.
Tóm lại: Sách ghi rằng “Nhật Lộc quy thời không thấy Quan tinh, tượng là thanh vân đắc lộ”, chính là nói đến Quan Lộc cách. Quan Lộc cách gặp Quan sát, Thực thương đều phá cách, gặp Kiếp Nhận Tài tinh thành tổn cách; duy chỉ hỷ Ấn tinh sinh trợ, Tỉ kiên giúp đỡ; mừng nhất là được Lộc thần kết đảng thành thế. Lộc cách thành cách mới có thể nắm giữ uy quyền hiển hách; Lộc bị tổn hại thì xem xét xem có thành một cách cục đặc thù nào không; nếu vẫn không thành thì thẩm tra xem Lộc thần có bị hủy hoại hay không, nếu không bị hủy hoại thì xem Lộc như Tài, tuy không thành quý cách nhưng cũng có thể tiểu phú.