cách xem Đông Tây tương hỗn.

Trên đây là cách xem Đông Tây tương hỗn.
Ảnh hưởng của Ngũ quỷ – Liêm trinh với các cung:
Sao Liêm Trinh đóng tại các cung Càn, Đoài tổn thương cho con trẻ đến 5 mạng, trong nhà không được yên lành. Đóng tại cung Khảm con thứ gặp tai ương, con trưởng và con nít yểu tử, trong nhà bệnh tật triền miên. Đóng tại cung Tốn, hay bị trộm giặc cướp bóc, tiền tài hao tán, con cái bị hỏa ách. Đóng tại cung Hỏa, những năm đầu thời ngành thứ khá giả, trưởng nam nắm giữ quyền hành, sau đó tán tài, tai họa đến. Đóng tại các cung Cấn Khôn, tổn hại lục súc, cung Khốn thời tổn thương 5 mạng, cung Cấn tổn thương 3 mạng.


Ảnh hưởng vào các năm của Sao:
– Sinh khí ảnh hưởng tốt cho những năm Hợi Mão Mùi.
– Diên niên ảnh hưởng tốt cho những năm Tỵ Dậu Sửu.
– Thiên Ất ảnh hưởng tốt cho những năm Dần Ngọ Tuất.
– Phụ Bật ảnh hưởng tốt cho những năm Hợi Mão Mùi.
– Tuyệt Mạng ảnh hưởng xấu cho những năm Tỵ Dậu Sửu.
– Lộc Tồn ảnh hưởng xấu cho những năm Dần Ngọ Tuất
– Ngũ Quỹ ảnh hưởng xấu cho những năm Dần Ngọ Tuất
– Lục Sát ảnh hưởng xấu cho những năm Thân Tý Thìn
Động trạch nhiên tinh và Ngũ hành
– Động trạch là nhà có nhiều phòng, nhiều ngăn, phải dùng phép ngũ hành tương sinh làm sao cho chủ phòng gặp được cát tinh như sinh khí, Thiên Ất và tránh cát hung tinh như Ngũ quỹ, Tuyệt mạng…
– Động trạch nếu không quá số lượng 5 phòng, 5 căn hoặc 5 viện thời chỉ dùng Ngũ hành của Ngũ tinh như Cự môn sinh Vũ khúc, Vũ khúc sinh Văn khúc, Văn khúc sinh Tham Lang, Tham Lang sinh Liêm Trinh, và Liêm Trinh sinh cho Cự môn… Cát tinh có thể sinh hung tinh và ngược lại.
– Biến trạch thường phải dùng hai Kim, hai Mộc hoặc hai Thổ, vì biến trạch số lượng phòng, căn, viên vượt quá 5, đến 10, vì thế cách phiên tinh của biến trạch khác động trạch. Do đó phải dùng hai Kim, hai Mộc hoặc hai Thổ. Ví dụ, phòng trước tiên là Tham Lang (Mộc), phòng thứ hai là Phụ Bật (Mộc) kế đó mới tới Liêm Trinh (Phòng 3) (Hỏa), phòng thứ tư là Lộc Tồn (Thổ), theo nguyên tắc thời trước dùng Lộc Tồn sau dùng Thiên Ất (Thổ), kế đến là Vũ Khúc (Kim) trước dùng Vũ Khúc, sau dùng Phá Quân (Kim), Phá Quân sinh Văn Khúc (Thủy), Văn Khúc sinh Phụ Bật (Mộc) trước dùng Phụ Bật, sau mới dùng Tham Lang, Cát không sinh hung, hung không sinh Cát. Nếu Biến trạch chỉ có 6 phòng thời phải trùng dụng 1 lần, 7 phòng thời phải trùng dụng 2 hai lần, 8 phòng thời trùng dụng 3 lần (Mộc, Kim hoặc Thổ) còn các phòng thứ 9, thứ 10 thời cứ việc sao này sinh sao khác như thường lệ.
– Hóa trạch là nhà gồm 11 phòng đến 15 phòng, việc khảo sát cũng giống như động trạch. Ba hành Mộc Thổ Kim đều được trùng dụng, riêng hai hành Thủy Hỏa thời đơn dụng. Vì lẽ Ngũ hành của Bát quái đều có hai Mộc, hai Thổ và hai Kim, nhưng chỉ có 1 Thủy, 1 Hỏa.
Sự ứng nghiệm của 4 hung tinh:
Văn Khúc chủ tà dâm, tự ái, Liêm Trinh chủ hỏa ách đau tim. Lộc Tồn chủ cô quả, lòa mắt. Phá Quân chủ về quan tài.
Luận về Ngũ hành và các chứng bệnh:
Muốn biết rõ chứng bệnh gì thời phải xét theo ngũ hành Kim thời là bệnh ho suyễn, lo sợ, khí huyết, máu mủ, gân cốt đau nhức. Mộc thời tứ chi suy nhược, bệnh phong, gan mật, hai bên tay chân đau đớn, co rút, mắt miệng méo lệch. Hỏa thời nhức đầu hỏa vượng, tam tiễn nóng, miệng khô ráo, hay nói sảng, thuộc về dương chủng dương hàn, đau bụng, nhọc độc, ác tật. Thủy thời hay mắc chứng hàn di tinh, bạch đới, đau lưng đau thận, thổ tả. Thổ thời liên quan đến tỳ vị, bụng chướng, phù thủng vàng da, và các chứng bệnh ôn dịch, thời khí.
– Kim Mộc tương khắc thời bị điên cuồng, hung tử
– Thủy Thổ tương khắc thời trong hay bất hòa.
– Mộc Thổ tương khắc thời tổn thương tỳ vị.
– Thủy Hỏa tương khắc thời bị lao trùng.
Phép xem Tĩnh trạch:
Khi xem tĩnh trạch thời đặt La Bàn ở giữa sân, và căng giấy chữ thập theo hướng Nam Bắc, Đông Tây, sau đó định rõ hướng của 24 sơn xem Chủ đóng ở cung nào, thuộc chữ nào, Môn thuộc cung nào, chữ nào và bếp thuộc cung nào (Nhìn vào La bàn để biết rõ cung và chữ) sau đó phối hợp Đông Tây tứ trạch mà đoán cát hung.
Phép xem Đông trạch, Biến trạch và Hóa trạch:
Khi xem các trạch trên, trước hết đặt La bàn ở trong đại môn và ngoài nhà, dùng thân tự tuyên để xem Đại môn thuộc cung nào, chữ nào, thuộc Đông hay Tây Tứ trạch. Kế đến xem xét các phòng hoặc các căn nhà, lấy căn nào cao nhất làm chuẩn đặt La Bàn tại giữa và căng thập tự tuyến và xem nhà này thuộc cung nào và chữ nào. Sau hết, đến giữa bếp lại hạ La bàn, căng thập tự tuyên như trên. Như vậy là có thể xác định được phương hướng của Môn – Chủ – Táo, kết hợp cả 3 cần được tương sinh, kỵ tương khắc, Đông Tây không được hỗn loạn.
Việc khảo sát công sở ở tỉnh, phủ, huyện… hoặc đền thờ miếu vũ, hàng quán làm ăn, cũng đều dựa vào sự khảo sát trên như Tĩnh trạch, Động trạch… nhưng hơi khác đôi chút với nhà cửa dân gian, Phủ thự, nha sở phải lấy Lộc làm chủ.
Ví dụ: Nha thự thuộc Tốn sơn, càn hướng, mở chính môn, thời ở trong chính viện đặt La Bàn, phân chia tấm quẻ 24 sơn xem Môn, Chủ, Táo thuộc cung nào, chữ nào theo bài ca Đại Du Niên tính thuận để xét về sinh khắc chế hóa mà định cát hung.
Thái cực pháp về Môn – Chủ – Táo
Tuy có sự phân chia làm 24 sơn nhưng cũng nằm trong phạm vi Bát quái, mỗi quẻ bao gồm 3 sơn, Ví dụ 3 chữ Càn Tuất Hợi đều thuộc quả Càn, Nhâm Tý Quý đều thuộc quẻ Khảm. Vì thế khi xem xét, bất luận là 1 hay 2, 3, 4, 5 đều 10 viện, cũng bất luận là phòng chính, phòng phụ, cũng bất luận là viện trước viện sau, trái hay phải, chỉ cần lấy phòng viện nào cao lớn nhất làm chuẩn, chiều cao thời căn cứ vào cái nóc. Tại nơi được chọn lựa ngay giữa nhà hạ La bàn xem thuộc chữ nào và cung nào của Bát quái. Môn là cổng ra đường đi, chữ không cần phân biệt lớn, nhỏ, muốn biết cát hung phải xem cổng này. Xét về bếp thời xét hướng của nhà bếp, tức là cửa ra vào bếp, chứ không phải là cửa bếp lò, cả 3 nơi này đều đặt La bàn để xác định phương hướng, rồi tổng hợp cả 3 để khảo sát theo ngũ hành sinh khắc mà định cát hung.
Cách phân biệt Tĩnh trạch, Động trạch, Biến trạch, Hóa trạch:
Dương trạch gồm có 4 loại là Động Tĩnh Biến Hóa:
– Nếu nhà đó chỉ có đơn thuần 1 viên, 1 phòng thời gọi là Tĩnh trạch. Việc khảo sát chỉ cần xét nơi cửa an các sao theo Du Niên.
– Nếu nhà đó gồm có 2, 3, 4 đến 5 viện thời gọi là Động trạch, đúng phép xảo phiên Bát quái. Tại sao Động trạch lại chỉ giới hạn có 5 phòng, vì chỉ có 5 hành Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Từ 6 phòng đến 10 phòng, gọi là Biến trạch. Điều này có thể lý giải là: Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục Thành Chi… Từ Nhất, Lục, Nhị, Thất, Tam Bát, Tử Cửu và Ngũ Thập, số 10 là số cuối cùng và là thành số. Quá số 10 lại trở về số 1, vì thế gọi là Biến trạch. Cách khảo sát phải cùng song Kim, song Mộc, song Thổ, đó lập hướng pháp Xảo phiên Bát quái nói trên. Sau hết là nhà có từ 11 phòng trở lên đến 15 thời được gọi là Hóa trạch, Thổ thuộc số 5, muôn vật đều do Thổ mà ra.
Phép giải hung của bếp:
Đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, bệnh tật cũng do ăn uống mà sinh ra. Do đó bếp phải an theo hướng có sinh khí. Thiên Ất hay Diên Niên, đó là 3 kiết phương, điều tối kỵ là làm bếp ở hung phương như Ngũ quỷ và Lục sát. Nếu phạm vào cát hung phương này thời hại người hại của, hay sinh bệnh hoạn. Muốn giải trừ hung họa, thời dọn dẹp hết tro bụi trên bếp cũ, cúng nước sạch quét rửa cho sạch sẽ. Sau đó đem tro bụi ra đổ ở sông hoặc hoặc ở vùng đồng trống. Mua những vật liệu mới xây cất theo cát phương Thiên y như vậy có thể giải quyết được hung tai, điều này rất ứng nghiệm, nếu bếp thuộc phương Mộc sẽ ứng nghiệm trong vòng 30 ngày, bếp thuộc phương Thổ ứng trong vòng 50 ngày, bếp thuộc phương Kim, ứng nghiệm trong vòng 40 ngày, bếp thuộc Hỏa ứng trong vòng 20 ngày, cuối cùng bếp thuộc phương Thủy sẽ ứng trong vòng 60 ngày. Nếu chủ cũng được cát phương thời bệnh mau khỏi, thêm con thêm của, và công danh hoạn lộ thường ứng trong vòng 3 năm.
Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp cũ, vì e hung khí chưa tan, nên để ý nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại mà vô hại. Riêng những vật dụng thường dùng như chén bát, đũa, muỗng… đều không kỵ. Trái lại chỉ kỵ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi xa, đúng 5 ngày là lấy theo ý nghĩa phá Ngũ quỷ.
Cách phân biệt rõ các táo
Khi thấy trong nhà có những hiện tượng như ốm đau, trẻ con khó nuôi, tuổi già cô độc không con cái bệnh hoạn lâu không khỏi, hôn nhân trắc trở, cần đặt lại bếp vào phượng Thiên y (Thiên Ất hay Cự môn) và chiếu theo mạng nguyên của Trạch chủ mà an giường nằm, bếp nước sẽ được đại cát.
Học hành mãi mà thi cử không đậu, hoặc trong nhà gặp cảnh cùng khốn, thời nên đặt bếp vào phương sinh khí, cổng lớn theo phương sinh khí, ngoài sinh trong tức là Môn sinh chủ sẽ có hiệu quả rất mau. Nếu cầu tài, trong vòng 100 ngày sẽ hiệu nghiệm.
Con trai con gái trong nhà thường bị yểu mạng đó là hung triệu, gặp trường hợp này nên đặt bếp vào phương Diên Niên sẽ được tặng tuổi thọ. Đặt cổng lớn theo phương Diên Niên và Chủ an theo Thiên y phương rất tốt.
Các phương sinh khí, Thiên y và Diên Niên kể trên cần được hợp với Mạng Nguyên của Trạch chủ. Nếu không được sự tương hợp thời an giường và táo khẩu (miệng lò lửa) hợp với phương hướng của Trạch chủ cũng rất tốt, tuy vậy không bằng trường hợp trên. Tóm lại, muốn được toàn mỹ cần được 5 điều: Môn, Chủ, Táo, giường nằm và táo khẩu đều hợp với bản mệnh của Trạch chủ.
Cách phân biệt rõ các táo
Khi thấy trong nhà có những hiện tượng như ốm đau, trẻ con khó nuôi, tuổi già cô độc không con cái bệnh hoạn lâu không khỏi, hôn nhân trắc trở, cần đặt lại bếp vào phượng Thiên y (Thiên Ất hay Cự môn) và chiếu theo mạng nguyên của Trạch chủ mà an giường nằm, bếp nước sẽ được đại cát.
Học hành mãi mà thi cử không đậu, hoặc trong nhà gặp cảnh cùng khốn, thời nên đặt bếp vào phương sinh khí, cổng lớn theo phương sinh khí, ngoài sinh trong tức là Môn sinh chủ sẽ có hiệu quả rất mau. Nếu cầu tài, trong vòng 100 ngày sẽ hiệu nghiệm.
Con trai con gái trong nhà thường bị yểu mạng đó là hung triệu, gặp trường hợp này nên đặt bếp vào phương Diên Niên sẽ được tặng tuổi thọ. Đặt cổng lớn theo phương Diên Niên và Chủ an theo Thiên y phương rất tốt.
Các phương sinh khí, Thiên y và Diên Niên kể trên cần được hợp với Mạng Nguyên của Trạch chủ. Nếu không được sự tương hợp thời an giường và táo khẩu (miệng lò lửa) hợp với phương hướng của Trạch chủ cũng rất tốt, tuy vậy không bằng trường hợp trên. Tóm lại, muốn được toàn mỹ cần được 5 điều: Môn, Chủ, Táo, giường nằm và táo khẩu đều hợp với bản mệnh của Trạch chủ.
Hiệu quả tốt của 3 cát tinh:
– Gặp được cát phương Tham Lang (tức sinh khí) thời sinh được 5 con, công danh hiển đạt, mau giàu có, tăng nhân khẩu, may mắn dồn dập đến, trong 30 ngày có hiệu quả.
– Gặp được cát phương Thiên Ất (tức Cự môn) thời vợ chồng hòa thuận, sinh được 3 con hiền, làm ăn giàu có, ít bệnh tật, nhân khẩu, gia súc đều tăng tiến hưng vượng, nó hiệu quả trong vòng 50 ngày.
– Gặp được cát phương Vũ khúc (tức Diên Niên) sinh được 4 con hiền, giàu vào hàng trung phú nhưng thượng thọ, vượng tài, vợ chồng hòa thuận, hôn nhân tốt đẹp, ruộng vườn mở mang, nhân khẩu và lục súc đều thịnh, thường có tin mừng.
– Gặp được Phục vị (tức hai sao Phụ Bật) thời được Tiểu Phú trung thọ, nhiều gái ít trai (Sao này có tính cách phụ họa).
Hiệu quả xấu của 4 hung tinh:
– Tuyệt mạng (Phá Quân) thuộc Kim đóng tại cung Ly ví như con thú cùng đường quay đầu lại cắn, đóng tại cung Tốn, giống như kẻ bạo tàn đắc chí, tàn hại kẻ trung lương, đóng tại 2 cung Cấn Khôn, ví như chứa lương để nuôi giặc, dưỡng hồ di họa, đóng tại cung Khảm như dồn cọp xuống hổ, gầm thét vang trời, đóng tại hai cung Càn Đoài giống như lang sói, sẽ có lúc cắn lại.
– Ngũ quỷ (Liêm Trinh) đóng tại hai cung Chấn Tốn là mộc sinh hỏa, cháy chóc khắp nơi, đóng tại hai cung Càn Đoài như lửa mặt trời, tan vàng nát đá, đóng tại hai cung Cấn Khôn, như lửa rực của Hỏa Diệm sơn ngọc đá đều tan, đóng tại cung Khảm giống những vị thuộc bào chế (Dã cát và ô dâu), đóng tại cung lạ như tưới dầu vào lửa, mọi vật tiêu tan.
– Họa hại (Lộc Tồn) đóng tại 2 cung Chấn Tốn như bọn nô tỳ gian ác, dù sau này bị chế phục, sau này sẽ phản chủ, đóng tại 2 cung Cấn Đoài như quân cướp bóc tạm thời đều hàng, nhưng sau sẽ phản phúc. Đóng tại cung Ly như nhận giặc làm con nuôi, sau sẽ bị chúng cướp đoạt gia tài, đóng tại cung Khảm như kẻ gian rình mò trong đêm tối tự tung tự tác, đóng tại hai cung Cấn Khôn như kết liên gian đang, sẽ bị họa diệt tộc.
– Lục sát (Văn khúc) đóng tại hai cung Càn Đoài giống như kẻ phỉnh nịnh, gian ác, đào tường khoét vách. Đóng tại cung Cấn giống như đôi vợ chồng xấu xa bệnh hoạn. Đóng tại 2 cung Chấn Tốn giống như cô trinh nữ mà thất tiết, tấm thân ô uế, đóng tại cung Khảm giống như phường trên bậc trong đầu. Đóng tại cung Ly giống như ở cùng với mụ vợ ghen tuông, suốt ngày la hét.
Luận về sự khác biệt giữa sơn cốc và thành thị:
Xét về dương trạch phải phân biệt rõ là nơi đó thuộc thôn quê có núi non sông nước hay thành thị đất chật người đông. Nếu ở nơi sơn cốc, thời lấy núi non làm chủ và nhà phải theo pháp long, chân khí hùng tráng, núi non nước bọc như vậy tất được đại phát. Còn ở thành thị phải theo trạch pháp, nghĩa lại cổng mở theo các phương chủ và táo đều cần hướng hợp, được như vậy sẽ hiệu nghiệm nhãn tiên chí trong vòng 3 năm được cát lợi.
Phương vị của Cửu tinh sinh vượng:
– Tham Lang cư bắc chủ vinh xương (Tham Lang ở Khảm tốt)
– Cự môn đáo Hỏa tử tôn cưỡng (Cự Môn ở cung Ly tốt)
– Vũ khúc tới nghi lâm Thổ vị (Vũ Khúc ở Cấn Khôn tốt).
– Các cứ bản vị diệc sinh tưởng (mỗi sao đóng ở phương vị, thuộc hành của mình cũng rất tốt, như Vũ Khúc tại Càn).
– Duy hữu Lục Sát Văn khúc Thủy (chỉ có sao Văn Khúc thủy).
– Trung ương thụ chế bất vi ương (đóng tại cung Thổ như Khôn Cấn không gây tai họa).
Ảnh hưởng Cát hung của Cửu tinh:
– Phục vị và Thiên Ất không gây tai họa.
– Diên Niên và Sinh khí đều là điều lành.
– Ngũ quỷ là Liêm Trinh nếu gặp phải thời tổn thương nhân khẩu và nhiều tai họa.
– Lục sát là Văn khúc thuộc Nhâm Quý Thủy, gây tổn thương gia súc và nhiều nổi kinh hoàng.
– Tuyệt mạng gây tổn thương nhân khẩu.
– Họa hại cũng gây những sự chẳng lành.
– Tham Lang tức sinh khí có lợi cho quan lộc.
– Vũ Khúc tức Diên Niên, tuổi thọ cao.
– Phụ Bật tức Phục vệ, mọi sự đều tốt.
– Cự Môn tức Thiên Ất, có lợi cho tài lộc.
– Liêm Trinh tức Ngũ quỷ, hay bệnh tật.
– Phá Quân tức Tuyệt mạng, nhiều tai ương.
– Lộc Tồn tức Họa hại, tổn thương nhân khẩu.
– Văn Khúc tức Lục Sát, nữ nhân bị tổn thương.
– Sao Tham Lang thuộc Mộc đóng tại các cung Khảm Ly Chấn Tốn là đắc vị, phát phúc bền lâu. Đóng tại các cung Càn Đoài là nội khắc, tại các cung Khốn Cấn là Ngoại chiến.
– Sao Diên Niên thuộc Kim, đóng tại 2 cung Càn Đoài là đắc vị, tại cung Khôn Cấn là được sinh khí, tại cung Ly là Nội khắc, tại 2 cung Chấn Tốn là Ngoại khiến.
Ở sơn cốc thời phương hướng là riêng mình, còn ở thành thị là của chung của nhiều người.
Miếu tinh phương vị:
Miếu tinh tức là Thiên tinh. Vậy Thiên tinh là gì? Trên thì ứng với tinh tú trên trời dưới ứng với họa phúc trong cõi nhân gian, Miếu tinh gặp phương tinh thời hung, ở phương cát thời cát, Cát phương là gì? Tức là Tam cát, Lục tú. Các phương Hợi, Chấn Canh là Tam cát, Các phương Càn Bính Tốn Tân Đoài Đinh là Lục Tú. Tam cát là phương tài lộc, Lục tú là phương Văn học thi cử, Khi Miếu vũ dành chừa đặt đúng phương Tam cát hay Lục tú thời phần an vật thịnh. Tại đế thánh thời lấy đại dương làm chuẩn. Ngoài ra, như các miếu vũ tên tuổi Đông Nhạc, Văn Xương, Tam Quan, Nhị Lang đều cát, không hung. Đặc biệt ở những ngã tư đường không nên xây cất đền miếu. Nếu phạm vào Mậu Kỷ Sát, tất bất lợi.
Phương vị của tháp bút:
Nói chung những nơi đô thành tỉnh thị, phủ huyện mà trong vùng ít người đậu đạt, thi cử khó khăn chật vật, thời nên chọn 4 phương vị Giáp, Tốn, Bính, Đinh trên đó xây những ngọn tháp gọi là văn bút phong, cần cao hơn các sơn khác. Như vậy vùng đó sẽ phát khoa bảng. Ngoài ra có thể cất tháp ở trên ngọn núi, hoặc ở núi đất phẳng thời xây tháp thật cao, văn học sẽ phát.
Bát phương miếu tinh:
Nhất hạch hữu thiện tinh, điên cuồng to dâm loạn sinh – Nhị hắc hữu Thiên tinh, phú quý vượng nhân đinh, Tam bích hữu Thiên tinh, phát khoa tại trạch trung. Tứ lục hữu thiên tinh, gia phú quý tử sinh. Lục bạch hữu thiên tinh, phú hào khoa giáp đăng. Thất xích hữu Thiện tinh, trạch trung vô lỗ công, tuy nhiên phát khoa giáp, dản khủng vô nhân đinh. Bát bạch hữu Thiên tinh, hào tuấn xuất kỳ anh, phú quý thùy kham địch, hộ hộ tung thống bình, Cửu tửu tử hữu Thiên tinh, hoạc mục hựu tuyệt ông, tây phương nhược vô bộ, đồng biến khuyết nhân đinh. Nhất bạch dâm dục tiểu cát tường, nhị hắc vô tây hể đông xương, tam bích đăng khoa phục thọ trường, tứ lục kim bảng hề phú cườn, lục bạch Thiên tứ phú quý hương, chất xích tú lệ hể cô sương, bát bạch phúc lộc thọ phân phương, cửu tử nhãn tật hể tử vong, cánh hưữ ngũ hoàng mầu kỳ phương, Thiên tinh như lâm hề tai ương, thử trung âm dương nguyên diệu tàng, tham bát thấu hề danh hề dương.
Tam nguyên Mệnh Quyết
Chủ yếu của bài quyết này nói về mối tương quan giữa mạng nguyên của Trạch chủ và Bát quái phương vị, tức là Đông tứ trạch và Tây tứ trạch, Mạng nguyên thời căn cứ vào năm sinh như sinh năm Giáp Tý, Ất Sửu. Đặc biệt, xem về dương trạch, không phải chỉ đích thuần xét người đó thuộc tuổi nào mà còn phải biết tuổi đó thuộc Thượng Nguyên, Trung Nguyên hay Hạ Nguyên. Mỗi nguyên được ấn định là 60 năm.
Ví dụ: Thượng Nguyên Giáp Tý gồm những người sinh từ năm 1864 đến 1923 tức là năm Quý Hợi.
– Trung Nguyên Giáp Tý gồm người sinh từ năm 1924 đến 1983 tức là năm Quý Hợi.
– Hạ Nguyên Giáp Tý gồm những người sinh từ năm 1984 đến 2043 tức là năm Quý Hợi.
Trong nguyên bản có ghi là năm Giáp Tý thuộc năm Khang Hy thứ 23, là thời xa xưa, do đó dịch giả căn cứ vào dương lịch để độc giả tiện tham khảo. Nhưng cũng phải lưu ý, Tết dương lịch thường đến trước Tết âm lịch khoảng hơn một tháng, nên mặc dù sinh vào tháng 1/1924 nhưng vẫn thuộc tuổi Quý Hợi của Thượng Nguyên.
Bài Tam nguyên Mệnh Quyết là một bài thơ gồm 28 chữ, nguyên văn như sau:
– Thượng Nguyên Giáp Tý Nhất cung Khảm.
– Trung Nguyên khởi Tốn, Hạ đoài gian.
– Thượng Ngũ, Trung Nhị, Hạ Bát Nữ.
– Nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên.
Bài quyết này được coi như một công thức để tính Mạng nguyên của trạch chủ đối với phương vị của Bát quái, có thể giảng diễn như sau:
Các tuổi thuộc Thượng Nguyên Giáp Tý thời khởi từ cung Khảm thuộc số 1. Các tuổi thuộc Trung Nguyên Giáp Tý khởi từ cung Tốn tức số 4, các tuổi Hạ nguyên Giáp Tý khởi sự cung Đoài tức số 7, cách tính đi lần lượt Tý Sửu Dần Mão, tuổi gặp cung nào tức là mạng Nguyên nằm tại cung đó. Đặc biệt những con số biểu tượng trên khác hẳn với các số của tiền thiên bát quái, sau đây là biểu đồ trên bàn tay.
Khảm : số 1 cung Dần 
Khôn : số 2 cung Mão
Chấn : số 3 cung Thìn
Tốn : số 4 cung Tỵ
(1) : số 5 cung Ngọ
Càn : số 6 cung Thân
Đoài : số 7 cung Dậu
Cấn : số 8 cung Tuất
Ly : số 9 cung Hợi.
(1) số 5 tuy có cung nhưng không thuộc quẻ nào
Việc tính mạng nguyên thời căn cứ theo các số đã chỉ định ở trên để khởi cung, Nam thời đi nghịch, Nữ đi thuận. Sau đây là các ví dụ:
Nam: – Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1864, khởi từ cung Khảm (tức cung Dần) chữ Tý năm ngay tại cung Khảm, vậy Mạng nguyên số này hợp với cung Khảm tức là thuộc Đông tứ trạch.
– Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1865, tính nghịch (bỏ hai cung Sửu Tý) tính nghịch chuyển sang cung Hợi thuộc quẻ Ly, số 9, vậy tuổi Ất Sửu nằm tại cung Ly cũng thuộc Đông Tứ trạch.
Trên đây đểu thuộc nam mạng, Thượng nguyên.
Nữ: – Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1864, khởi ở số 5 (có cung nhưng không có quẻ), (sẽ giải thích sau).
– Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1865, khởi số 5 đi thuận tiếng sang số 6 tức cung Càn, vậy mạng nguyên này nằm ở cung Càn thuộc Tây Tứ trạch.
Trên đây đều thuộc Nữ mạng – Thượng nguyên – Kế đến sẽ xét các tuổi nam nữ thuộc Trung Nguyên:
Nam: – Tuổi Giáp Tý sinh năm 1924, khởi tự cung Tốn tức số 4 (tại cung Tỵ), chữ Tý nằm ngay tại cung đó, vậy tuổi này hợp với cung Tốn thuộc Đông tứ trạch.
– Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1925, khởi tự cung Tốn đi nghịch về cung Thìn thuộc cung Chấn số 3. Mạng này hợp với cung Chấn.
Nữ: – Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1924, khởi tự cung Khôn, tức số 2 chữ Tý đóng tại cung này, vậy mạng nguyên hợp với cung Khôn thuộc Tây tứ trạch.
– Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1925, khởi tự cung Khôn đi thuận, đến cung Thìn thuộc quẻ Chấn số 3.
Trên đây là nữ mạng, thuộc Trung Nguyên. Kế đến là các tuổi Hạ Nguyên nam và nữ.
Nam: – Tuổi Giáp Tý sinh năm 1984, khởi tự cung Đoài, số 7, chữ Tý nằm ngay tại đây, vậy mạng này hợp với cung Đoài thuộc Tây tứ trạch.
– Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1985, khởi tự cung Đoài đi nghịch về số 6 tức cung Dần.
Nữ: – Tuổi Giáp Tý sinh năm 1984, khởi tự cung Cấn tức số 8, chữ Tý nằm ngay tại cung Cấn, vậy mạng này hợp với cung Càn thuộc Đông Tứ trạch.
Đây là biến cố Cửu cung, Bát quái, tất cả có 9 cung nhưng chỉ có 8 quẻ, do đó khuyết một quẻ là số 5, vậy khi tính thuận nghịch mà đến đường số 5, thời đàn ông lấy số 2, đàn bà lấy số 8 để thay thế. Đó là áp dụng câu thơ: Nam Ngũ Ký Nhị, Nữ ký Bát.
Tam nguyên mệnh quyết đã được trình bày như trên để tìm mạng nguyên của trạch chủ hợp với phương hướng. Nhưng cách này hơi chậm vì gặp những tuổi Nhâm Tuất hay Quý Hợi thời phải đi hết 5 vòng là 60 tuổi mới tới, dễ bị lầm lẫn và mất thì giờ. Vậy có một biện pháp (phép tính nhanh) để tính cho mau và đỡ sai lầm. Căn bản của phép này dựa vào Lục giáp: xin lấy Trung nguyên Giáp Tý làm ví dụ, vì Trung Nguyên thường gặp hơn là Thượng nguyên và Hạ nguyên so với thế hệ của ta hiện nay.
– Con nhà Giáp Tý khởi tại Tốn đi nghịch đến tuổi Quý Dậu – tính chữ Tý tại cung Tốn – đến năm sinh.
– Con nhà Giáp Tuất khởi tại cung Chấn đến tuổi Quý Mùi – tính chữ Tuất tại cung Chấn đến năm sinh.
… vẫn theo nguyên tắc nam nghịch nữ thuận như bài quyết đã nói rõ.
Ví dụ tuổi Quý Mùi thuộc con nhà Giáp Tuất, lấy chữ Tuất để vào cung Chấn (Thìn) chữ Hợi để vào cung Khôn (Mão) và sẽ đến chữ Mùi tức là mạng đến cung Chấn số 3 (khi đếm đến cung Dần thời nhớ bỏ qua 2 cung Sửu, Tý, tiến ngay sang cung Hợi. Cách tính tương đối phức tạp. Dịch giả sẽ làm một bản lập thành bổ túc ở phần cuối cùng).
Phương pháp khảo sát về Nha thự:
Nha thự và công đường là nơi công sớ để giải quyết mọi việc cho dân, thi hành chính lệnh và pháp lệnh, do đó cần có phương hướng thích hợp, sáng sủa không sai phạm vào các lỗi lầm như Đông Tây, hỗn loạn, Môn chủ tượng khác… thời việc thi hành pháp lệnh mới được dễ dàng, dân chúng thuận tòng.
Xét về Nha Thự, công sớ thời phải lấy đại đường làm chủ, nơi này cần nhất là được cao ráo sáng sủa, khoáng đạt. Về phương vị, cần gặp các cát tinh như Tham Lang, Diên Niên, Thiên Ất. Được vậy thời vị chỉ huy sẽ giải quyết mọi việc sáng suốt, phân xử công minh. Thứ đến là phải xét đến đại môn tức là cổng ra vào nơi công đường, cần nhất phương vị phải tương sinh với đại đường. Được vậy, dân chúng trong vùng hiền hòa, đôn hậu, sống lượng thiện, biết tôn trọng pháp luật và những viên chức đại diện cho chính quyền. Xét về Nha thự, tất phải xét đến bếp trước, vì nơi đây được coi là Lộc vị. Nếu bếp được hướng tốt, thời công danh mau tiến. Bếp gặp hung sát thời hay sinh mọi chuyện rắc rối phiền phức. Tóm lại, muốn được công danh thuận lợi phải được cả 3 trọng điểm Môn – Chủ – Táo ở phương vị tốt và tương sinh hoặc tỵ hòa mới coi là đại cát.
Sau đây là những đặc điểm cần chú ý khi khảo sát:
– Nếu viện được coi là Tĩnh trạch thời cứ việc áp dụng bài ca Du niên mà tìm phương vị tốt xấu. Nếu là Đông trạch gồm 2, 3, 4 đến 5 phòng, nên áp dụng theo Đông trạch, dùng đơn kim đơn mộc, xảo phiên bát quái. Nếu thuộc về Biến trạch, có từ 6 đến 10 phòng phải dùng song kim song mộc hoặc song thổ vẫn ứng dụng xảo phiền Bát quái, Hóa trạch có từ 11 đến 15 phòng cũng áp dụng theo cách đó.
– Đại đường hay công đường cần phải xây cất trên nền cao, ngay thẳng, rộng lớn, sáng sủa. Như vậy, người chỉ huy sẽ sáng suốt, làm việc theo lương tâm, xử đoán công minh. Rất kỵ ở hai bên hông mở cửa thông ra ngoài, cách này gọi là “Tứ thú trương khẩu”, trong vùng thường xảy ra án mạng, nhiều chuyện vu cáo lôi thôi. Ngoài ra, hai phía trước và sau không nên xây cất thêm phòng nhỏ, cách này gọi là “Nhị quỷ đài kiện”, người chỉ huy hay bị chuyện dèm pha màng lụy, kẻ phục địch thời phản trắc.
– Ở các nơi đại môn, Nghi môn (qua đại môn tới nghi môn kể từ ngoài đi vào) và nơi hoãn cách (nghỉ ngơi) rất kỵ dựng bia đá, vì hay gặp khẩu thiệt thị phi, kiện tụng, kháng tỗ… Vì dựng bia đá hai bên khi nhìn giống như hai răng nanh của hổ.
Trái lại, trước công đường, dựng bia ở hai bên, đối lập với nhau thời đó lại là điều tốt, ví như tay trái, tay phải đều cầm, hốt ngà, biểu tượng sự trung nghĩa và cầm quyền lớn. Nếu đặt bia ở 2 bên đầu cổng vào ở 2 phía đông tây cũng rất tốt, thường có những bậc danh nho, cao sĩ trị dân, trên dưới hòa mục. Ở nơi Nghi môn, nếu dựng bia, thời sinh ra những kẻ sĩ điên ác.
– Phía trước đại đường nên rộng rãi vuông vắn thuộc hình thổ hay kim, thời dân gian no ấm, kẻ sĩ thuần lương. Nếu có những đống đá gạch hoặc cây cối um tùm che khuất, ngăn trở, thời hay sinh những kẻ xúi dục, kiện tụng, mọi việc không tốt. Nếu trước công đường mà có khoảng đất vừa hẹp vừa dài giống như đầu rắn cổ vịt, thời nhân dân cũng khổ. Ngoài cửa Nghi môn cũng cần được rộng rãi, vuông vắn, không nên nhỏ hẹp như đầu rắn, cổ vịt.
– Có 3 nơi biểu tượng uy quyền là Đại đường, Nghi môn và Đại môn, nơi đây xuất pháp chính lệnh, cần nhất phải oai nghiêm, sáng sủa, đẹp đẽ, vuông vắn. Nếu một trong 3 trọng điểm trên bị lệch lạch, phá khuyết thời làm quan phải phá tài, làm dân thời cùng khổ.
– Trước đại môn cũng cần được rộng rãi, khoáng đạt, thời vị quan tướng mới được công danh thuận lợi, và những kẻ phục dịch thuộc cấp mới hết lòng làm việc. Nếu thấp nhỏ, méo lệch, phá khuyết thời nha dịch cùng khổ hay làm bậy, dân chúng nghèo đói hoang tàn.
– Trước công đường cho đến đầu cổng, ở phương Đoài, không nên đặt Hỏa lò, đá mài và các vật dụng có hình thức dữ dằn. Phòng ốc không nên để vỡ nát, nghiêng lệch hoặc có đường đi trực xạ. Ngoài ra cũng rất kỵ những nhà cửa của dân gian xây cất quá cao án ngữ ngay đại môn.
– Trước đại môn, hai bên có thư phòng của Nha lại làm việc cũng cần ngay ngắn, cửa lớn cửa nhỏ đều phải chỉnh tề. Về kiểu mẫu tổng quát, trước công đường cần khá rộng, như vậy sẽ có những bực trung thần nghĩa sĩ, dân chúng hiền lương, cuộc sống phú túc.
– Tại Nghi môn cũng cần trước hẹp sau rộng giống thế hình, tường cao ráo. Nha dịch giỏi, có khả năng.
– Sau đại đường là Nhị đường, tam đường, Nội viên… đều cần trước hẹp sau rộng mới đúng cách. Hai bên là thư viện phòng khách cũng cần trước hẹp sau rộng đều chủ phát phúc lâu dài. Nếu đặt bếp trà (nơi pha trà) ở các phương vị gặp Tham Lang Diên Niên hay Thiên Ất cũng ít tốt, sinh con hiền cháu thảo. Nếu an tại các phương, Ngũ quỷ thời kẻ tôi tớ hầu hạ sinh ra gian trá, trộm cắp, bỏ trốn.
– Phòng khách cần sáng sủa, ngay thẳng, cửa mở theo chính diện tốt. Nếu mở cửa thông hai bên hoặc ở góc gọi là “Tứ thú trương khẩu”, thời hay gặp những vụ án tìm không ranh manh mối, dân chúng kháng cáo, khẩu thiệt thị phi.
– Nhị đường, tam đường cũng phải ngay ngắn, sáng sủa, bếp phải đặt ở phường sinh khí, Diên Niên hoặc Thiên Ất mới có lộc, vợ nội trợ đảm đang. Nếu trong viện có gạch ngói chồng chất bừa bải thời trong nhà hay có người đau mắt, chết trẻ gỗ thời hay sinh khẩu thiệt.
– Tại Nha thự, đại môn và Nghi môn, nếu có tường hai bên phải ngang với cổng, không nên quá thấp. Nếu quá thấp gọi là “Lậu kiên” quan dân nha địch đều cùng khổ, nếu méo lệch, thời hay bất hòa với cấp trên, nha dịch tác tệ, hay xảy án mạng.
– Chuồng ngựa ở trong Nha thự (văn thự hay võ thự) cũng phải an ở các phương Sinh khí, Diên Niên, Thiên Ất thời ngựa mới khỏe mạnh, mập mạp, đó là cách “Dịch mã thôi quan”, thăng chức mau chóng. Nếu đặt ở phương ngũ quỷ thời ngựa ốm yểu chết chóc, hoặc thất lạc. Công văn cũng hay thất thoát.
– Địa thế của Nhạ Sớ cũng cần ngay thẳng rộng rãi, trước hẹp sau rộng. Đó là cách “khẩu khẩu nha thự” vào nhiều mà ra ít, quan dân đều phú túc.
– Nha thự được xây cất Tý Sơn Ngọ hướng, Nhân Sơn Bính hướng, Quý Sơn Đinh hướng, thời không nên đặt bếp ở phía đông bắc (Cấn Thổ) như vậy người giúp việc thường hay trộm cắp hay đào tẩu, tỳ thiếp hay làm chuyện dâm bôn, Quan hay sợ vợ, dân thời ưa kiện cáo, những chuyện này xảy ra là do lỗi lầm cách khai môn và an táo. Nha thự nằm phương khảm, cửa mở phương ly, đặt bếp tại cung cấn, thời thiếp bất phục thế, phụ nữ gây chuyện ồn ào. Nếu Nha thự ở phương Khảm, bếp đặt ở phương Tốn, đối nội, vợ hiền đức, tỳ thiếp đúng đắn. Đối ngoại, Nha dịch trung thành, thượng cấp vui vẻ.
– Bếp nước trong Nha thự cần đặt tại các phương sinh khí, Thiên Ất, tương sinh hoặc tỵ hòa với đại môn, đại đường. Bếp nên cất thành 3 gian hoặc 5 gian tốt. Nếu mở cửa sau gọi là “thoát mang táo” tán tài và hay gặp hung án.
– Nếu an bếp vào các phương Ngũ quỷ thời xảy ra đến 4, 5 án mạng, mất lòng thượng cấp, hay xảy kiện tụng, giáng cấp, tang tóc.
– Trong Nha thự, ngoài đại đường, thường có nhị đường, tam đường, tứ đường. Rất kỵ cất thêm những căn phòng nhỏ ở phía sau Đường. Nếu cất ngay ở giữa gọi là “Phi phát phòng”, đàn bà hay gặp cảnh góa bụa. Chi trưởng bị đoản thọ. Nên cất ở hai bên gọi là “Yên vĩ phòng” hay sinh ra sự dâm loạn tán tài. Nếu một bên có, một bên không, gọi là “Đơn triên phòng”, làm quan mà cũng khổ, mọi sự bất lợi, kẻ tiểu nhân trộm cắp, hại ngầm. Còn có tên là “ám toán phòng” rất kỵ. Nếu trước và sau đều có phòng lớn, giữa có phòng nhỏ tức là phơi phòng, vô hại.
– Nha thự dù thuộc văn hay võ đều nên trước thấp sau cao, trước hẹp sau rộng. Phía trong qua cổng ngoài hợp với hình này thời nha dịch khá giả. Trước đại đường hợp hình này thời nhân viên thư lại khá giả và ra làm quan. Nhị đường, tam đường hợp hình này, thời vị quan trưởng mau thăng chức.
– Về việc ứng nghiệm của Nha thự so với Nhà dân có điểm khác biệt. Nha thự ứng nghiệm mau, Nhà dân ứng nghiệm chậm hơn. Nhà dân thời phải 1, 2 năm còn Nha thì chỉ trong vòng 5, 3 tháng, Nhà dân phải 8, 10 năm thời Nha thự chỉ 2, 3 năm. Quan thự mà phạm Ngũ quý thời hung tai đến liền, thường có hiện tượng ma quái, có thể bị tai họa đến 4, 5 lần. Khi trong Nha thự có ma quỷ quấy phá, đều do Môn, Chủ, Táo phạm vào phường Ngũ quỷ.
– Cách giải trừ ma quỷ là nơi phạm vào Ngũ quỷ thời phải chuyển đi nơi khác, những vật dụng như tro bụi, gạch đá… phải đem đổ xuống sông hoặc ngã tư đường, dùng vàng lượng tống tiền, còn các đồ thiết khí thời nên để vào chỗ trống khoảng 100 ngày cho hung khí tiêu tan, sẽ lại dùng được.
– Nơi phóng uế như cầu tiêu, nhà xí… nên đặt vào phương Ngũ quỷ, mọi việc thuận lợi, kế đến là đặt ở phương Lục sát cũng tốt, ngoài ra có thể an ở các phương Họa hại, Tuyệt mạng – Nhà xí mà an ở cát phương thời hay đau ốm.
– Trước đại đường rất kỵ xây cất thêm một phòng nhỏ hoặc có cổng nhỏ. Nếu ngay nơi giọt nước của mái đại đường cháy xuống tiêu phòng hoặc tiêu môn thời công danh bất lợi và tuyệt tự, hại vợ khắc con, hay gặp chuyện lo buồn. Trên nguyên tắc đại đường phải có địa vị độc tôn, ngay ngắn sáng sủa, không nghiêng lệch. Tóm lại, đại đường là nơi quan yếu nhất.
– Những hướng khai môn và phóng thủy của Nha thự cũng cần lưu ý: Nếu Nha thự thuộc 4 chính hướng Tý Ngọ Mão Dậu, thời nên phóng thủy từ bên phải nhằm suy phương là Ất, Tân, Đinh, Quý. Nếu thuộc 4 hướng Càn, Khôn, Cấn, Tốn là tứ duy, thời nên phóng thủy ở phía trái nhằm các phương Ất, Tân, Đinh, Quý là cách ta khổ tiêu thủy (mượn kho để tiêu nước) như vậy sẽ không xung phá ngôi Dưỡng. Nên đặt La Bàn ở giữa Đại môn và Nghi môn mà định hướng để phong thủy.
– Nha thự rất kỵ phạm Ngũ quỷ. Có 4 cách phạm Ngũ quỷ: 1. Xiên cung Ngũ quỷ là trùng cung Liêm Trinh vừa cao vừa lớn; 2. Môn và Táo phạm vào Ngũ quỷ; 3. Chủ và Táo phạm vào Ngũ quỷ; 4. Môn và Chủ phạm vào Ngũ quỷ. Tất cả 4 cách này đều hung, khi tại nhiệm hay gặp sự hung tai bất tráo hoặc án mạng. Tuy vậy, cũng có khi không gặp tai họa lớn nhưng hay gặp chuyện rắc rối, dân chúng kháng hoặc cha con vợ chồng gặp chuyện lủng củng, sự chiết giảm, hung tai này là do 2 nguyên nhân: có Lục Sát (thủy) chế hóa Ngũ quỷ, (Hỏa) hoặc vị trưởng quan đó đang gặp vận tốt chế áp được Ngũ quỷ. Trường hợp này được gọi là “áp sát thự” nhưng qua một thời gian lâu cũng gặp tai họa.
– Nhà giam phạm nhân cũng phải lưu tâm về phương vị: Nên cất nhà giam bên trong đại môn tại cung Bạch Hổ (Dậu). Tọa tại đây, hướng về Đông. Việc phân bố kiến trúc các phòng giam thời 3 phương Nam Đông Bắc nên cao lớn, riêng phương Tây cần thấp nhỏ như vậy phạm nhân sẽ thuận tòng. Bếp của nhà giam nên đặt tại 4 phương Khảm Ly Chấn Tốn, không nên đặt tại 3 phương Càn, Khôn, Đoài. Nếu phòng giam ở phía tây cao lớn, đặt bếp ở phía này, tức là xung với cửa nhà giam. Mão Dậu với Đại môn là Hỏa Kim tương khắc, phạm vào Ngũ quỷ, tội nhân làm loạn, hoặc vượt ngục đào tẩu, vi phạm kỷ luật, chống đối quan quân. Nhà xí của lao xa nên đặt ở phương Tây là tốt nhất. Việc xử án thuận lợi, phạm nhân phục tùng.
– Ở dưới đại môn, không nên dùng đá xanh giải đường, cách này gọi là “Thanh Long áp canh” dễ bị thuyên chuyển.
– Những tảng đá lớn hoặc đá mài nên đặt ở các phương hưu tù, rất kỵ để ở dưới sàn gỗ, dưới bục ngồi… cách này gọi là “bạch hổ trương khẩu”, hay gặp khẩu thiệt, nên để ở trong phòng ốc gọi là “Hổ nhập Long” cũng chủ về đàn bà miệng tiếng. Nên đặt ở nơi kín đáo trong phòng là tốt hơn cả.
Sau đây là một kiểu mẫu về Nha thự, gồm có 5 lớp Khảm thự, Ly môn, Chấn táo.
Thự này lớp ngoài là cổng ngoài (đại môn) thuộc Diên Niên Kim, lớp thứ hai là Nghị môn gặp Lục Sát Thủy. Lớp thứ ba tức Đại đường (tức chủ vị) thuộc Tham Lang Mộc, riêng Đại đường này cần cao lớn mới tốt. Lớp thứ tự gặp Liêm Trinh Hóa cần phải thấp. Lớp thứ 5 gặp Thiên Ất Thổ cũng cần cao hơn lớp thứ 4. Bếp đặt ở các cung Chấn hoặc Tốn đều tốt, được gọi là Sinh khí táo, vì Khá, thủy sinh, Chấn táo Mộc. Chấn mộc sinh ly môn Hóa. Mộc Hóa tương sinh mộc hỏa thông minh, âm dương chính phối. Diên Kiên đến cung Khảm, Kim Thủy tương sinh, Đại đường cao vút, Mộc Hỏa tương sinh, cung sinh sao, sao sinh cung, Thủy Hỏa ký tế. Đó là kiểu mẫu tốt, nhất về Nha thự. Nếu chiếu theo biểu đồ này mẩu xây cất, tất gặp được Tham Lang sinh khí, chỉ trong vòng 3 năm sẽ ứng nghiệm, đặc biệt vào những năm Thân, Tý, Thìn, Hợi, Mão, Mùi được thăng thiên. Nếu chậm thời ứng nghiệm trong vòng 6 đến 8 năm, chắc chắn có sự thăng tiến công danh. Về ứng kỳ: Nhất và Lục thuộc Thủy, Tam vả Bát thuộc Mộc, cho nên đoán là trong vòng 3 năm hoặc 8 năm sẽ ứng điềm đại cát.
1. Lớp ngoài là đại môn.
2. Lớp nhì là Nghi môn.
3. Lớp 3 là Đại đường gặp sinh khí Tham Lang Mộc tinh cần được sao lớp làm chủ vị. Tại Nha thự chỉ riêng có Đại đường cao lớn, thăng quan lời tài.
4. Lớp thứ 4, Nhị đường thuộc Ngũ quỷ Liêm Trinh Hóa, cần thấp nhỏ.
5. Lớp thứ 5, Tam đường, thuộc Thiên Ất Cự Môn Thổ, cần cao lớn.
A. Bếp đặt ở phương Chấn, cát Lợi.
Tý Sơn Ngọ Hướng, Nhân Sơn Bính hướng Quý Sơn Đình hướng, cả 3 hướng này đều là Ly môn Khám chủ. Đừng xảo phiên Bát quái song kim song Mộc. Lớp ngoài nhất là Kim, lớp nhì là Kim, lớp 3 là Thủy, lớp 4 là mộc, lớp 5 là mộc, lớp 6 là Hỏa, lớp 7 là Thổ, lớp 8 là Thổ. Lớp thứ 5 là Tham Lang Mộc cần cao lớn. Bếp đặt ở phương Chấn, Tốn, Khảm Thủy, sinh Chấn Mộc, Chấn Mộc sinh Ly Hỏa, có tên là Thủy Hỏa tương sinh, Mộc Hỏa thông minh, là điềm đạt cát, thăng quan tiến chức.
1. Lớp ngoài nhất, cổng ngoài, Điền Niên Kim.
2. Lớp thứ nhì, cổng trong, Tuyệt mạng Kim.
3. Lớp thứ ba, Đại đường, Văn khúc, Thủy.
4. Lớp thứ tư, Nhị đường, Phụ Bật, Mộc.
5. Lớp thứ năm, tam đường, Tham Lang Mộc, cần cao lớn, Chủ.
6. Lớp thứ sáu, tứ đường, Liêm Trinh Hóa, cần thấp.
7. Lớp thứ bảy, Ngũ đường, Cự môn Thế, cần cao.
Kiểu mẫu 3. Nha thự gồm 8 lớp: Khảm Chủ, Ly Môn
Nha thự này ở lớp thứ 5 gặp Tham Lang Sinh khí, cần cao lớn hơn các lớp khác, như vậy tất thăng quan tiến lợi tài. Lớp thứ 8 gặp Thiên Ất, Cự Môn cũng cần cao lớn, lợi cho việc thăng tiến. Bếp nên đặt ở các phương Tốn, Ly, Giáp, Mão và các phương Nhâm, Tý, Quý đều tốt. Nhưng Chấn, Tốn, Mộc được coi là thượng cát, Khảm là thứ cát. Như vậy, chắc chắn có sự thăng thiên. Nếu gặp sự thăng thiên bất lợi có thể là vì các nguyên do sau đây: Bếp lại mở thêm cổng sau, hoặc bếp không đặt đúng 1 trong 3 phương vị sinh khí, Thiên Ất, Diên Niên. Xin giải thích ngay, Lộc tức là Bếp nước, ăn cơm tức là hưởng lộc, vậy do bếp nước không đúng, phương vị nên mang lại những hậu quả bất lợi.
1. Lớp thứ nhất là cửa ngoài thuộc Diên – Niên – Kim.
2. Lớp thứ hai là Nghi môn, thuộc Tuyệt, Mạng, Kim.
3. Lớp thứ ba là Đại đường thuộc Văn Khúc Thủy.
4. Lớp thứ 4 là Nhị đường thuộc Hữu Bật – Mộc.
5. Lớp thứ 5 là Tam đường thuộc Tham Lang – Mộc.
6. Lớp thứ 6 là Tứ đường thuộc Ngũ quỷ – Hỏa.
7. Lớp thứ 7 là Ngũ đường thuộc Họa hại – Thổ.
8. Lớp thứ 8 là Lục đường thuộc Thiên Ất – Thổ.
Phép đặt bếp của 3 Nha thự kể trên.
Nếu đặt bếp ở bên đông thành một căn riêng biệt, thời ngay giữa vị trí của bếp đặt la bàn để khảo sát phương vị 8 quẻ, nên đặt ở 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn, duy đặt ở hai cung Chấn Tốn tức là Lộc phù địa: Khảm Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa. Như vậy là Môn – Chủ – Táo được tương sinh. Như vậy 3 Nha thự nói trên đều được cát lợi thường gặp được dịp may thăng quan tiến chức trong vòng 3 đến 5 năm. Ba năm là thuộc số của Mộc, 5 năm là số của Thổ, chậm lắm là 8 hoặc 10 năm. Các số 3 và 8 thuộc Mộc, 5 và 10 thuộc Thổ. Ba biểu đồ Nha thự trên đây có tính cách điển hình. Các Nha thự khác cũng nên phòng theo đó mà làm. Đặc biệt phải lưu tâm đến phương vị của bếp, vì bếp là Lộc sở, Bếp hợp phương vị thì thăng quan lợi tài. Nếu có sự bất lợi như dân chúng kháng tố… thời phải xét lại hoặc Chủ Môn phạm Ngũ quỷ, hoặc như Khảm thự Ly môn, Chủ phạm vào Ngũ quỷ tại cung Càn, Môn phạm Ngũ quỷ tại cung Đoài. Nếu an bếp tại 2 nơi này là hoàn toàn bất lợi.
Kiểu mẫu thứ 4: Ba Sơn Bính Ngọ Đinh thuộc 3 hướng Nhâm Tý Quý, nha thự 5 lớp. Thổ tinh cao lớn làm chủ.
Nha thự này là Khảm môn, Ly chủ, Táo thuộc Chấn Tốn, gồm 5 lớp, Thiên Ất Cự Môn Thổ làm chủ đến Ly cung, Hỏa sinh Thổ tức cung sinh sao, thăng quan lợi tài đại cát:


1. Diên Niên Kim tinh
2. Văn Khúc Thuỷ tinh
3. Sinh khí Mộc tinh
4. Ngũ Quỹ Hõa Tinh
5. Thái Ất Thổ Tinh (xem hình 4 )
Nha thự này (hình số 5) là Khảm Môn, Ly Chủ, lớp thứ 7 thuộc sao Cự Môn, cần cao lớn. Ở phía đông đặt bếp vào các phương Sinh khí, Thiên Ất, đặt cát rất lợi cho việc thăng tiến công danh.
1. Diên Niên Kim tinh 4. Phụ Bật Mộc tinh
2. Tuyệt Mạng Kim tinh 5. Tham Lang Mộc tinh
3. Văn Khúc Thủy tinh 6. Ngũ quỷ Hỏa tinh
7. Thiên Ất Cự Môn Thổ tinh
Trước đại đường, trong đại môn, kể cả Nhị đường Tam đường, cho đến chu vị bốn bức tường cũng nên phỏng theo hình trên này mà xây cất Nha thự.


Nói chuyện về Nha thự đều phải trước hẹp sau rộng, giống như hình chiếc quan tài. Chủ việc tiền tài hoạnh phát, rất ứng nghiệm. Theo kinh nghiệm của tôi, những nhà đại tài chú hoặc những nhà tấn phát, nhà cửa thường hợp với hình này, muốn khá giả, nên sửa sang cho hợp cách.
Luận về cách đo lường thước tấc và cát hung
Việc đo lường xác định ranh giới phải lấy giọt nước trên mái chảy xuống làm chuẩn (thôn quê thường gọi là giọt gianh). Từ đại đường đến Nghi môn, dùng thước đo, cứ số lẻ là tốt (1, 3, 5… thước), số chẳn không tốt. Sau đại đường đến nhị đường, tam đường cũng cứ so theo cách đó. Số lẻ thuộc dương, số chẵn thuộc âm, vậy dương cát, âm hung. Việc ứng dụng con số theo Lạc thư, số 1 là Thủy, số 3 thuộc Lộc, số 5 thuộc Thổ. Nói chung, dùng bộ, thước, hay trượng đều nên dùng số lẻ. Và danh từ cũng có những sự phân biệt như sau:
– Từ cửa ngoài đến Nghi môn gọi là Nhân cục.
– Từ Nghi môn đến đại đường gọi là Hung đường (xin nhớ Hung là Ngực, chứ không phải là hung dữ).
Hai nơi đây đều cần vuông vắn, rộng rãi,rất kỵ quá dài và quá hẹp được coi là Xà thân áp cảnh sát, chủ sự tán tài, cùng khổ.
Sau đây là những bài thơ nói về hung cục và cát cục:
Trường hiệp hung cục ca (Dài và hẹp là hung cục)
– Cục như áp cảnh tịnh xà thân (hình mình rắn cổ vịt).
– Nhược thị công nha tối khả xâm (Nha thự rất kỵ).
– Quan chính mõi quai hư khố nổ (công sự rắc rối, kho tàng rỗng).
– Cảnh trang dân vật thụ tai truân (dân chúng khổ sở).
Phương khoát cát cục (vuông rộng)
– Công nha cát cục cánh phương (Nha thự được vuông rộng).
– Vũ trụ hồng hoang tổng quát mung (hình trước hẹp như miệng túi).
– Chính tích hận đẳng cao trạc tốc (chính tích giỏi, thăng tiến).
– Vạn dân ca vũ tụng Ngu đường (muôn dân vui mừng).
Hình A: Chấn chủ, Đoài môn, Tốn Táo, 5 lớp, cách Áp sát Nha thự.
Nha thự này tuy bị Môn, Chủ tương khắc, theo phiên kim xáo phiên bát quái. Lớp ngoài là Tuyệt mạng Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, lớp thứ ba gặp sinh khhí Tham Lang Mộc tinh, cao lớn, lấy làm chủ vị, Tham Lang đóng tại chính đông là Mộc tinh đắc vị, phối hợp với Tốn Táo, được cách “nhị mộc thành lâm” và trở thành hóa cát, chủ về sơ vận thăng quan, lợi tài. Tuy nhiên, nếu ở lâu, sẽ mắc các chứng bệnh đau mình, co rút chân tay, khó nuôi con, trai gái yểu mạng. Vậy nên gấp tu bổ một tòa nhà cao ở hai phương Đoài, Càn, chuyển bếp sang cung Khôn như vậy, đại cát.
1. Lớp ngoài cùng là Phá Quân Kim.
2. Lớp thứ nhì là Văn Khúc Thủy.
3. Lớp thứ 3 là Sinh khí Mộc, cao lớn.
4. Lớp 4 là Ngũ quỷ, Hỏa, thấp.
5. Lớp 5, Cự Môn, Thổ.
Hình B: Đoài Chủ, Chấn Môn, Khôn Táo, 5 lớp, ám sát Nha thự.
Nếu luận về Môn, Chủ, Táo thời thự này không tốt. Nếu luận về tứ chính phiên Kim, thời lớp thứ 5 là Cự môn thổ đến cung Đoài được cung và sao tương sinh, như vậy là cát tinh, đắc vị, hung sát phải thoái phục, lại được chủ táo tương sinh, chủ về sơ vận, thăng quan tiến chức. Nhưng để lâu thời Môn, Chủ, Táo khắc chế lẫn nhau nên trong nhà vợ chồng con cái hay bất hòa, hay sinh chứng đau bụng, ăn không tiêu… Như vậy phải mở cửa theo hướng Càn mới được yên lành. Nói chung, Nha thự phạm vào Áp sát thời tiền cát hậu hung nên cẩn thận.
Luận về cát hung các Văn, Vũ miễu
Lý thuyết âm dương đã được phân chia, nếu âm dương không hòa hợp là hung triệu. Nha thự cần hợp quy cách thời văn miếu cũng phải xây cất trên cát địa, tức là Tam cát, Lục tú (đã nói ở trên). Khi xét phương vị, nên đặt La Kinh trước Đại đường. Đến miếu nên đặt ở trên 3 chữ Cấn, Giáp, Tốn. Bên phải cần cao ráo, giống như ngọn bút, cây thương. Bên trái cần trống trải, thoáng đãng, liếc mắt là thấy rõ văn cát khuê lâu ở trên thành. Như vậy sẽ phát về khoa giáp. Tại các phương Tốn, Bính, Đinh có tháp Bút thời phát khoa bảng đại thần. Nói về vũ miếu thời nên đặt trên 3 phương Hợi, Canh, Đinh là đắc địa. Nếu ở các phương Bính, Đinh thời phải tọa Nam hướng Bắc. Như vậy được âm dương chính phối, thuộc quẻ Thủy Hỏa ký tế, phát về võ tướng trung thần.
Khi xây cất văn, võ miếu tối kỵ ở sát ngã tư đường, gần sát Nha thự. Khi lập miếu Thổ địa rất kỵ ở gần Ngã tư, gọi là cách “Mậu Kỷ sát thổ áp trung ương”, khiến dân chúng nghèo khổ, trong vùng hay sinh người lùn, cụt chân tay, mù lòa, bệnh ung thư, câm điếc. Trai gái dâm đảng, thông gian trong nhà. Nếu đặt ở cung Khảm, càng bất lợi. Khảm thuộc Thủy, tương khắc với Thổ, chú về sự yểu vong, góa bụa, chột mắt, tai họa liên miên…
Luận về phương vị cát hung của Cửu tinh:
Sau gặp nơi đắc địa, phú quý và đa đinh, nếu gặp Long chân, khí tráng, thời chỉ trong 3 năm là đại phát. Còn phúc lớn hay nhỏ là tùy theo Long mạch lớn nhỏ.
– Sinh khí Mộc đóng tại Chấn, Tốn, Khảm, Ly Xà đắc vị, phú quý sinh 5 con, tốt những năm Hợi, Mão, Mùi, ngành trưởng đại lợi.
– Thiện y, Thổ đóng tại các cung Khôn, Cấn, Đoài là đắc vị, phúc lộc sinh 3 con hiếu thảo, ứng với những năm Dậu, Kỷ, Thìn,Tuất, Sửu, Mùi, ngành giữa lợi.
– Diên Niên, Kim, tại các cung Càn, Khôn, Cấn, Đoài là đắc vị, tốt, chủ binh quyền sinh 4 con, phát vào năm Canh, Tân, Tỵ, Dậu, Sửu ngành út lợi.
– Ngũ quỷ, Hỏa đại hung, chủ về ma quỷ, kiện tụng, khẩu thiệt hỏa, đạo, sinh 2 con, tai họa vào những năm Bính, Đinh, Dần, Ngọ, Tuất, trưởng phòng bất lợi.
– Họa hại, Thổ, chủ câm điếc, mù lòa, cùng khổ, góa bụa, tiếu phòng bất lợi.
– Văn khúc, Thủy, dâm đãng, tự ải, sinh 1 con.
– Tuyệt mạng, Kim, hay gặp ác tật, yếu chiết, cô quả, phá sản.
Bốn loại hung tinh này nếu Môn Chủ Táo phạm vào rất nguy hiểm, dù Long chân khí tráng cũng không phát.
Tổng luận về Dương trạch
– Tại Kinh độ thời lấy Hoàng điện nội thành làm chủ.
– Tỉnh thành thời lấy 3 ty, Nha thự làm chủ.
– Châu huyện lấy công đường làm chủ.
– Nho học lấy văn miếu làm chủ.
– Chùa chiền, am viện lấy chính điện làm chủ.
– Kẻ thân sĩ, dân chúng lấy căn nào cao nhất làm chủ.
– Một nhà có nhiều hộ ở chung, lấy bếp làm chủ.


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *