Sinh long:
Thế núi hùng vĩ, tinh phong tú bạt, thế đi lỗi lạc, phải trái có vây cánh, các chi hoạt bát mà hướng tới trước, đều có sinh khí. Cho nên loại long mạch đến này rất tốt.Tử long: Thế núi cứng nhắc như rắn chết, thiếu tay chân, loại long mạch này không hiển linh.Cường long: Thế núi hùng vĩ, thế đi ngang tàng, sức mạnh cực lớn như vạn mã phi nước đại. Cho nên, đây là loại long mạch rất tốt.Nhược long: Thế núi đến ốm yếu, giống như bộ xương khô, phân nhánh co rút, lực của sơn thể cũng vậy. Loại long mạch đến này không tốt.Thuận long: Loại long mạch này thế thuận mà xuất, phân nhánh đều bài bố thuận, thế đi đoàn tụ, tôn ty có trật tự cùng tiến tới, trên dưới chiếu cố nhau, phải trái ôm vào, đều là hữu tình mà không quên. Loại long mạch này rất quý.Nghịch long: Thế long mạch đang đi tới bỗng quay ra sau, cao thấp loạn xạ, ngọn núi nghiêng lệch, phân nhánh đều theo hướng nghịch lại, thanh long bạch hổ đều không hộ vệ thế đi trái khuấy. Loại long mạch này cũng rất xấu.Tiến long: Thế núi đế nhau dư, phân nhánh đều nhau giống như ôm xuống, hình thế hậu long từng đoạn tăng cao dần. Loại long mạch này cũng rất tốt.Thoái long: Thế núi mất trật tự, tay chân ngắn dần, thế long mạch lùi về sau, thế đi gắng gượng, bắt đầu nhỏ về sau càng lớn. Loại long mạch này rất xấu.Phúc long: Long mạch lấy tổ tông làm tôn quý, bản thân long mạch đến hai bên đều kín kẽ, trước sau chiếu cố nhau, chân tay tuy không lớn nhưng cồ kho có lẫm, sơn minh thủy tú, ngọn núi không không cao chót vót .nhưng không thô không xấu. Đây là long mạch chủ về phát phúc lâu dài.Bệnh long : Bản thân long mạch bất toàn, có đẹp có xấu, phân nhánh bên có bên không, bên sinh tử, bên đẹp bên xấu, hoặc một bên thì kín kẽ, một bên thì khuyết hảm. Loại long mạch này thuộc về long mạch xấu.Đồng bệnh long: Long mạch đến tinh phong tú bạt, hẻm núi kín kẽ, phân nhánh thuận nhiều trông rất ưu mỹ. Nhưng vì chỗ trọng yếu của long mạch đến: hoặc gãy khúc, hoặc nát vụn, hoặc lẫn lộn đất đá, nên không tốt.Kiếp long: Loại long mạch đến này phân nhánh rất nhiều, nhưng lại không đoan chính, đông tây loạn xạ khiến chân khí phân tán, long mạch không tụ, không tốt.Sát long: Long mạch đến mang theo sát khí, vì bản thân rời sơn tổ mà đến nên đá núi hiểm trở, lởm chởm. Loại long mạch này rất xấu.“Cửu long”, “Ngũ thế” và cách phân loại trên đều là những cách phân biệt long mạch trong quá trình xem cuộc đất trong phong thủy. Tên gọi của chúng bắt nguồn từ “Phái hình pháp”, là một cách phân loại địa thế, địa thể theo hình dạng thế núi dựa vào địa hình địa thế. Nhưng những người đi tiên phong của phái Ly khí còn tiến hành phân loại những hình thế tổng quát của hình dạng núi, đã đưa ra thuyết “Ngũ tinh” và thuyết “Cửu tinh” . Thuyết “Ngũ tinh” chủ yếu chịu ảnh hưởng của thuyết ngũ hành, đã phân chia hình thái của các đỉnh núi ra thành 5 loại kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Kim đầu tròn mà chân rộng, mộc đầu tròn mà thân thẳng, thủy đầu bằng mà có sóng giống như rắn bơi trong nước, hỏa đầu nhọn mà chân rộng, thổ đầu bằng mà chân thanh tú đẹp đẽ.Trong phong thủy cho rằng nếu như trong môi trường có đủ cả năm hình thế núi thì khí vận hành là tốt nhất, trong đó cũng có vẽ đính kèm rất nhiều những hình đồ của thuyết Mệnh lý tinh quái. Vì chịu ảnh hưởng của Lạ thư cửu cung, trong phong thủy lại chia thế núi ra thành 9 loại hình, gọi là “Cửu tinh”. Cửu tinh bao gồm: Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Tả Phụ, Hữu Bật. Cửu tinh thông thường liên hệ với quái vị, cát hung và ngũ hành sinh khắc hàm ý cơ bản của chúng đều theo thuộc tính của ý nghĩa tên tinh tú, ngũ hành và thứ tự cát hung như sau:– Tham Lang, Sinh Khí, thuộc mộc – thượng cát.– Vũ Khúc, Diên Niên, thuộc kim – thượng cát.– Cự Môn, Thiên Y, thuộc thổ – trung cát.– Tả Phụ, Phục Vị, thuộc mộc- tiểu cát.– Phá Quân, Tuyệt Mệnh, thuộc kim – đại hung.– Liêm Trinh, Ngũ Quỷ, thuộc hỏa – đại hung.– Lộc Tồn, Họa Hại, thuộc thổ – thứ hung.– Văn Khúc, Lục Sát, thuộc thủy – thứ hung.– Hữu Bật – Bất Định.Quan niệm cát hung của cửu tinh chủ yếu là dùng vào việc xem dương trạch (xem nhà ở).Khi phân biệt về hình thế của long mạch, còn phải chú ý đến hoàn cảnh chung quanh chủ long, phải có che chắn bảo vệ, hai bên long mạch phải có tiền hô hậu ủng mới có thể cho là khí thế to lớn hùng tráng.
QUAN SA
Sa trong phong thủy là chỉ những đồi núi nhỏ xung quanh chủ long, đặc biệt là chỉ những thế núi tầng tầng lớp lớp bao xung quanh huyệt trường. Có loại sa do vị trí sắp xếp và tác dụng khác nhau mà có những tên gọi khác nhau. Trong sách “Bát sơn thiên – Luận sa” có viết “Đứng thẳng hai bên, gọi là thị sa, có thể che chắn ác phong, rất có lực, bao bọc xung quanh long, gọi là vệ sa, có thể làm tán gió bên ngoài, tăng khí thế bên trong, bao bọc phía sau huyệt gọi là nghênh sa, thấp nhỏ như vái chào, nhường nhịn, giống như thị vệ đứng chầu phía trước, gọi là triều sa, bất kể xa gần đều rất quý” Trong phong thủy còn đặc biệt chú trọng lựa chọn hộ sa bên trái, bên phải. Sa bên trái của huyệt trường gọi là thượng sa, hay còn gọi là Thanh long sa; sa phía bên phải gọi là hạ sa hay còn gọi là Bạch hổ sa. Sở dĩ có phân biệt trái phải trên dưới, ngoài việc liên quan hệ với quan niệm tôn trọng bên trái của người Trung Hoa, có thể còn có quan hệ đến vấn đề chắn gió, vì vậy thượng sa ở bên trái thường nên cao to hơn hạ sa ở bên phải. Qua đó có thể thấy bất kể một huyệt địa phong thủy lý tưởng nào, cũng đều không thể tách rời sự bảo vệ của cát hộ sa bên trái bên phải, ở phía. trước cũng không được mở ra xa quá, mà phải có án sa, triều sa bảo vệ từ đó hình thành hoàn cảnh môi trường có thể chắn gió tụ khí. Trong phong thủy cho rằng các tầng lớp của sa càng nhiều càng tốt, “tầng tầng hộ vệ” phải hơi nghiêng và ôm vào phía trong, trông rất hữu tình, vậy mới có thể hình thành “phát phú phát quý chi địa” (đất phát phú quý), còn dưới chân sa phải có nước chảy uốn khúc, chậm rãi, đó mới gọi là phong thủy tốt . Trong phong thủy còn chú ý đến hình thái bên ngoài của sa, cho rằng sa có ba loại: đầy đặn tròn kín ngay thẳng là dáng phú (giàu); thanh tú nhỏ nhắn đẹp đẽ là dáng quý (sang), nghiêng ngả, phình to là dáng thấp hèn…, vỡ nát, nhọn hoắt, nhỏ hẹp, thấp bé, nghiêng ngả, thô kệch, gầy yếu, ngắn, lệch đầu, quay lưng, gãy quẹo, đều là loại tiềm ẩn mối họa”. Nói tóm lại những sa nhìn bên ngoài dễ chịu thoải mái là sa tốt, sa quý nhìn bên ngoài mà cảm thấy khó chịu là sa hung, sa xấu.
QUAN THỦY
“Bát sơn thiên” viết: “Phàm khi nhìn núi (sơn, long mạch), đến nơi có núi, trước tiên phải xem nước (thủy)… nơi nước đến là nơi long mạch phát, nơi nước hết cũng là nơi long mạch tận. Vì sao xem núi (sơn) trước tiên phải xem nước (thủy)? Vì sơn và thủy luôn đồng hành với nhau. Biết nguồn gốc của thủy, là cũng biết nơi phát mạch của sơn; biết nơi tận cùng của thủy là cũng biết nơi long mạch chấm dứt). Khi xem thủy, các thầy phong thủy căn cứ vào hình thái ngũ hành để chia trạng thái vây bọc của thủy ra thành năm loại hình: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Đây gọi là năm loại thủy thành. Thủy thành hình là lấy nước làm khuôn mẫu, thủy thành cố tác dụng giới hạn thủy, làm cho long khí không bị tán thất. Trong “Ngũ thành” có Kim thành và Thủy thành, nước chảy như dải lụa, quanh co hữu tình cho nên là nơi đất thượng quý (tốt nhất), Mộc thành và Hỏa thành có thế nước như tấn công, vỡ vụn, nhọn nghiêng cho nên không thể cho là cuộc đất tốt; còn thổ thành thì có hung, có cát, dòng chảy nhẹ nhàng, sâu, dâng nhẹ là tốt dòng chảy xiết là xấu. Trong phong thủy người ta căn cứ tình hình nước chảy trên mặt đất để chia ra làm tốt xấu, cho rằng chảy vòng vèo uốn khúc bao quanh hữu tình là đẹp, là cát; chảy xiết, đâm thẳng, cuốn đi là xấu, là hung. Quan điểm về cái đẹp và cái xấu này thoạt nhìn tường như rất hoang đường, nhưng trên thực tế nó là sự kế thừa và phát triển từ kinh nghiệm thực tế của cuộc sống, từ đó hình thành nên nền văn hóa truyền thống với mục tiêu tìm kiếm phong cách kín đáo, sâu sắc trầm lắng. Vì vậy yêu cầu đối với “Thủy khẩu” là: “Nguồn phải bao quanh hữu tình, không được đâm thẳng, bít kín; cửa ra phải kín kẽ, sợ nhất là đi thẳng ra xa mà không có uẩn khúc quay về. “Thủy khẩu” là điểm quan trọng nhất trong việc xem thế nước. Thủy khẩu là chỉ nơi nước chảy vào và nơi nước chảy ra của một khu vực nào đó, thông thường là chỉ nơi nước chảy ra. Thủy chủ về tài vận, cho nên tác dụng của thủy khẩu là tụ tài (tập trung tiền tài) Sách “Nhập địa nhãn đồ thuyết – “Thủy khẩu” viết: “Phàm nơi thủy đến gọi là thiên môn, nếu đến mà không thấy nguồn nước thì gọi là thiên môn khai (cửa trời mở); nơi thủy đi gọi là địa hộ, không thấy thủy đi thì gọi là địa hộ bế (cửa đất đóng). Nước chủ về tài, cửa vào mở thì tài đến, cửa đi đóng thì tài dùng bất tận.” Vì vậy trong “Táng thư” mới viết: “Phép xem phong thủy, lấy đắc thủy là ưu tiên, tàng phong là kế đến.” Trên thực tế một môi trường phong thủy tốt tuyệt đối không thể thiếu tác dụng của thủy. Thủy một mặt là phản ảnh của khí hậu, mặt khác lại có ảnh hưởng đến thổ nhưỡng, lớp phủ thực vật của khu vực, cuối cùng là ảnh hưởng đến cảnh quan sinh thái của một khu vực. Đối với cuộc đất để làm nơi ở mà nói, nước lại là thứ không thể thiếu được cho sản xuất và đời sống. Vì vậy các làng xóm thời xưa đều đặc biệt chú trọng việc lựa chọn thủy khẩu, lấy thủy khẩu làm đường giao thông chính, làm tiêu chí cho các vườn cảnh của làng xóm. Nhưng nơi này dân cư thường giàu có hơn những nơi khác, điều này chúng ta có thể thấy rõ trong thực. tế. Chính vì nước là tiêu chí của tài nguyên, vì vậy ở rất nhiều khu dân cư ở Trung Quốc đều yêu cầu phía trước nhà phải có sông nước, phía trước nhà không có sông nước thì phải đào hồ ao để làm cho tài nguyên phong phú. Thông thường người ta cho rằng: “Trữ nước trong hồ ao đủ để dưỡng địa mạch, dưỡng chân khí”. Công dụng của việc đào hồ ao trước nhà còn có lợi cho sản xuất và sinh hoạt.
ĐIỂM HUYỆT
Huyệt trong phong thủy cũng gần giống như huyệt vị trong cơ thể con người, là nơi có thể lấy được khí ra, khu được khí về, cũng giống như huyệt vị của cơ thể con người thông với kinh lạc, huyệt vị của phong thủy cũng thông với sinh khí của long mạch. Vì vậy trong phong thủy việc tìm huyệt là một việc hết sức quan trọng, muốn cảm thụ được sinh khí của long mạch, phải tìm được chân huyệt. Các thầy phong thủy cho rằng, huyệt là do trời đất tạo nên, tức là: có long mạch tồn tại thì phải có huyệt, chân long phải kết chân huyệt. Hình dáng của huyệt phong thủy, thường do sự khác nhau của địa hình cục bộ nên chia ra làm các loại:– Oa huyệt; Kiềm huyệt, Nhũ huyệt, Đột huyệt.Oa huyệt hay còn gọi là khai khẩu huyệt (huyệt mở miệng). Trong Táng thư nói rằng loại huyệt này giống như tổ yến, thường gặp ở nơi núi cao.– Kiềm huyệt, giống cái kềm có hai chân mở ra, còn gọi là khai cước huyệt, ở nơi núi cao hoặc nơi bình địa đều có thể gặp loại huyệt này.– Nhũ huyệt, huyệt mở rộng, ở giữa sinh nhũ (vú), còn gọi là huyền nhũ huyệt, nhũ đầu huyệt, ở nơi đất cao hoặc bình địa đều có thể gặp.– Đột huyệt, huyệt bằng ở giữa nổi gồ lên, còn gọi là bào huyệt. “Táng thư” nói loại huyệt này hình dạng giống như chiếc nồi úp ngược, thường gặp ở nơi bình địa. Hình dạng huyệt trong phong thủy, từ trái sang phải là: oa huyệt, nhũ huyệt, kiềm huyệt, đột huyệt.