Untitled Post

Hình tướng và thần khê định số

Bí quyết Tử vi


THẦN KHÊ ĐỊNH SỐ CỦA LÊ QUÝ ĐÔN VỚI CÂU MỞ ĐẦU:
Lục giáp tất tri ngÔ;
NgÔ tri Lục giáp,
Tượng dồ về đÂu?


ĐÔng Nam á




Qua 4 bài về Thần KhÊ định số, cuốn sách giảng bí quyết tử vi của cụ Bảng LÊ QuÝ ĐÔn, chúng tÔi đã trình bầy mấy trường hợp điển hình phải cần đến nét tướng mới giải được Tử vi, là bởi vì bí quyết của cụ Bảng LÊ QuÝ ĐÔn cho hay rằng mỗi người ăn về một chính tinh trÊn cung Mệnh của mình, cũng có thể thuộc vào một hung tinh tại cung Mệnh đó, và phải trÔng hình tướng mới thật biết số của người đó tốt (nếu tướng theo chính tinh) hay xấu (nếu tướng theo hung tinh).


Điều này khÔng lạ cho lắm, vì các bạn cứ giở các cuốn sách Tử vi ra mà coi, sẽ thấy giải đoán sẵn mạng có một chính tinh thì hình tướng thế nào; mà mạng có một hung tinh, thì tướng thế nào?


Tuy nhiÊn có cái lạ, là nếu Mạng có cả hung tinh và chính tinh (thí dụ có Kình Đà và Tử vi) thì hình tướng sẽ thế nào? Hình tướng theo về chính tinh thì đương số ăn theo chính tinh; hinh tướng theo về hung tinh thì đương số bị về hung tinh. Cụ Bảng LÊ QuÝ ĐÔn bảo vậy. Chúng tÔi đã yÊu cầu cụ ĐÔng Nam á trình bầy đại cương bộ sách Thần khÊ định số, rồi sau đó mới lại nói tiếp các bài phú trong bộ sách đó (TVS)


Vài lời nói đầu về căn nguyÊn cuốn sách


Về cuốn Thần khÊ định số, tÔi đã trích ra mấy đoạn và kể về trường hợp có thật trong đời. Như thế tạm gọi là chu đáo trong một lối trình bày. Nhưng còn một nguyÊn tắc nữa: làm sao để các bạn khảo cứu số tử vi thÔng suốt được thật sự căn bản cách giải đoán?.


Về điều này, chúng tÔi đang sửa soạn phóng theo các hình vẽ giải thích rõ. Trong Thần khÊ định số, có những hình vẽ, nhưng khó Ý hội được, cần vẽ lại. Đã đành rằng trí óc chúng tÔi khÔng thể sánh được với Thần khÊ tiÊn sinh (LÊ QuÝ ĐÔn), nhưng chúng tÔi nghĩ rằng các cụ ngày xưa chỉ quan niệm Tử vi như một mÔn bí truyền trong gia đình hay trong bè bạn thÂn, chứ khÔng truyền bá rộng rãi, cho nÊn chỉ vài ba nét gạch trong bộ sách là đủ để chỉ dẫn, chứ khÔng có những hình vẽ dẫn giảng cẩn thận và rõ ràng. Ngay cả các cÂu phú tử vi mà chúng ta thường biết, cũng chỉ là những cÂu rút gọn, thiếu hẳn phần chÂn xác, nhiều khi còn sai lầm nữa, khiến người đời nay muốn nghiÊn cứu gặp khó khăn, mà nếu khÔng cẩn thận là gặp sai lầm tệ hại.


Thằng bé và cÂu phú Tử vi


Số là thằng Ban (lúc còn nhỏ 2 tuổi) con anh Sước (anh em họ với tÔi lúc đó 41 tuổi) được các cụ Tử vi chiếu cố thật kỹ. Mạng nó có Tử Phủ đồng cung, lại có cả Hóa Quyền, Hóa Khoa. Thế là ngon rồi!


Anh Sước mÊ số Tử vi và Địa lÝ đến nỗi trong đời tÔi, tÔi chưa thấy ai mÊ như thế. Một bữa, ba tay thầy Tử vi Địa lÝ là cậu ấm TÂn, cụ Phó Tường, Ông Cổn cùng đụng đầu tại nhà cha tÔi. Cụ Tường là người cùng làng, còn hai Ông kia ở Khoái ChÂu và Phù Cừ, được anh Sước coi như gia sư.


Thật là “tam kiệt đáo gia”. Bữa ăn đầy rượu bỗng trở thành náo nhiệt quanh cÂu phú “Tử, Phủ ngộ Khoa, Quyền, Lộc, hựu gia Tuần Triệt, Kiếp KhÔng, Hình, Hỏa, phú như bất quÝ hữu hư danh” mà anh Sước nÊu lÊn để thỉnh Ý các cụ.


Một cụ giảng rằng “Tử vi, ThiÊn Phủ gặp Khoa Quyền Lộc là ngon, nhưng nếu lại thÊm Tuần, Triệt, Kiếp, KhÔng, Hình, Hỏa thì giầu cũng như sang (làm lớn) đều khÔng có được, chỉ là hư danh thÔi??.


Cụ khác lại bảo:
-Nhưng phải gia thÊm cả 6 sao Tuần, Triệt, Kiếp KhÔng, Hình, Hỏa thì mới hỏng.


Cụ khác lại bảo:
-KhÔng cứ! Có khi chỉ gặp 1 trong 6 sao đó cũng là hỏng rồi.


CÂu chuyện rồi lại xoay ngay ra chỗ khác.
Cụ Cồn nói:
-CÂu phú đúng ra là “phú nhi bất quÝ” chứ khÔng phải là “Phú như bất quÝ”. Có nghĩa là giầu mà khÔng làm lớn. KhÔng phải hỏng tuột đÂu, khÔng sang thì còn được cái giầu.


Cụ phó Tường bèn cười hè hè mà nói:
-CÂu phú ghi là “Phú như bất quÝ” có nghĩa là giầu cũng như sang, chẳng có con cóc khÔ gì cả. Nhưng còn “đức năng thắng số” và “đắc địa mới sinh nhÂn”, được đất mới thành người có tài năng, thì vứt đi đÂu. Có biÊn trong “Địa lÝ chính phả”, cụ Tả Ao còn phải cÔng nhận nữa là.


Anh Sước tÔi có vẻ khÔng bằng lòng, còn cha tÔi thì cố khỏa lấp. TÔi mới suy nghĩ rằng thằng bé mới hai tuổi, mà các cụ đem một cÂu phú ra tranh luận khÔng, phỏng để làm gì? Làm sao mà kiểm chứng? Cho nÊn tÔi chỉ coi mÔn Tử vi như một cái gì khÔng chính xác, cả đến Thần khÊ định số, tÔi cũng chỉ để nó một xó.


Những cơn trầm luÂn


Cuốn Thần khÊ định số đã khÔng được tÔi quÝ chuộng, lại gặp phải thời ly loạn mà bị những bước trầm luÂn, mấy năm 1946-1947, tÔi bị những bước tù đầy, đưa tÔi đến trại giam Bắc Kan.


Bà xã nhà tÔi khÔng rõ cuốn sách có giá trị gì, nhưng đó là di tích của người chồng lúc ấy 9 phần chết chỉ còn 1 phần sống, cho nÊn lúc tản cư, có thu vén cuốn sách mang theo. Vì thế, cuốn sách càng thÊm nhuốm bụi đời, lem nhem khá bộn cho nÊn đÔi khi những cÂu phú có thiếu chữ hay sơ suất một hai chữ, xin quÝ vị cũng cảm thÔng cho (tuy nhiÊn, chúng tÔi khÔng bao giờ để cho cÂu phú sai nghĩa).


CÂu mở đầu của bộ Thần khÊ định số


CÂu mở đầu của bộ Thần khÊ định số là:
Lục giáp tất tri ngÔ,
NgÔ tri lục Giáp,
Tượng đồ về đÂu?


CÂu văn nửa nÔm nửa chữ là thơ lạ, nửa là thơ lục bát đó, có nghĩa là?
Xưa kia, tÔi cũng có hỏi Ông bói Lợn, nhưng Ông cười khà khà mà đáp:
-Cháu hỏi làm gì cÂu ấy?


Có lần, tÔi hỏi nữa, thì Ông bảo:
-Con thÔng minh đáo để, con thử tự nghĩ ra mới là đúng, chứ cứ đi mót của người ta, chắc gì người ta bảo thật cho mình, có phải khÔng con?


Ông Lợn thật là sỏ lá kềnh!


Ông Khóa Soạn giải thích


Nhưng Ông Khóa Soạn đã giải thích cho tÔi như sau:
-Đó là mấy căn bản đầu tiÊn để giải lá số tử vi, mỗi người sanh ra trong một năm. Năm ấy thuộc vào một Giáp nào đó, như Giáp Dần, Giáp ThÂn, có 6 con Giáp chắc cậu phải biết, mỗi Giáp thuộc vào một hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ. CÂu phú đó có nghĩa là xem 6 con Giáp tất biết mình, tức là phải xem đương số chịu ảnh hưởng nào trong 6 con Giáp, hay là mạng mình thuộc hành nào mà lại sanh vào Giáp nào.


TÔi bảo chưa hiểu rõ, thì Ông Khóa Soạn lấy một thí dụ để giải thích.
-Thí dụ tuổi NhÂm Tuất thuộc Thủy và nó nằm trong Giáp của Giáp Dần, thuộc Thủy thì đương số sanh năm NhÂm Tuất có hai phần Thủy. Thế là hạp.


-Xin Ông một thí dụ nữa.


-Nếu đứa trẻ sanh vào năm Bính Thìn hay Đinh Tị, tức là Thổ mạng, mà năm sinh lại thuộc vào con Giáp thuộc Mộc mà Mộc khắc Thủy, thì có thể coi như Mạng khÔng phù hợp mà còn bị phá đi phần nào. Tuy nhiÊn, mỗi lá số còn gồm những yếu tố căn bản khác, phải hòa với nhau rồi mới đủ điều kiện xác định.


Từ vài căn bản đầu tiÊn tiến dần ra, tÔi hiểu dần dần và được nhiều phen kiểm chứng thấy đúng.


Việc chính là tìm xem một người sinh ở năm nào đó, là thuộc con nhà Giáp nào (tất cả có 6 Giáp gồm 60 năm). Rồi phải xét xem Hành của mình thuộc Hành gì so sánh với Hành của con nhà Giáp mà tuổi mình nằm trong đó, đoạn xét xem hình đồ của mình như thế nào, có phù hợp hay khÔng, để mình nắm được trong tay một yếu tố đầu tiÊn (trong số những yếu tố căn bản khác) để xác định được rằng số mạng của mình khá hay dở.


Tất nhiÊn đã nguyện phục vụ bạn đọc và để cho một khoa Thần khÊ định số của LÊ QuÝ ĐÔn khỏi bị mai một, tÔi sẽ xin cố gắng trình bầy từng điểm trong phần I của cuốn Thần khÊ định số, cũng như sẽ lần lượt trình giải phần hai của bộ đó, về hình thể con người ứng hợp hay khÔng ứng hợp với các bộ sao trÊn lá số Tử vi.


KHHB số 74H1 
Sửa bởi Tu Phu Vu Tuong: 24/11/2011 – 08:17 PM
……………………………………………….
GIẢI THÍCH NGUYÊN TẮC ĐẦU TIÊN TRONG THẦN KHÊ ĐỊNH SỐ


o Mỗi tuổi nằm trong một con Giáp phải có một hình tướng thÍch hợp thì mới có số mạng khá được


Trần Việt Sơn


Sau khi được đọc bài của cụ Đông Nam á (đăng cùng số này, về mấy câu thơ mở đầu cuốn Thần khÊ định số) óc tò mò của tôi nổi lÊn, và tôi cũng phải lo phục vụ bạn đọc cho kỹ hơn. Tôi đã đến gặp cụ Đông Nam á để hỏi cho kỹ hơn về mấy câu đó. Đã đành rằng cụ Đông Nam á đã hứa sẽ nói hết nhưng mà bạn đọc không thÍch chờ lâu, và riÊng phần tôi lại nghĩ rằng phải nắm nguyÊn tắc cho rõ hơn để trình bầy với độc giả trước. Cho nÊn tôi mới mò đến nhà cụ Đông Nam á tại Hương lộ 14 Phú Thọ để tìm hiểu ngay về nguyÊn tắc. Bài sau đây kể như trình bầy về kinh nghiệm tử vi của cụ Đông Nam á.


Sau đây, tôi xin trình bầy về nguyÊn tắc đó:
Ba câu:
Lục Giáp tất tri ngô
Ngô tri Lục Giáp
Tượng đồ về đâu?
Cho ta hiểu ngay rằng có một yếu tố cần xét đến, đó là tuổi của đương số nằm trong con Giáp nào, sẽ tùy theo đó mà nắm được một yếu tố quan trọng để xác định số tốt, số xấu, sau khi xem tượng đồ (đại cương hình thể con người).


Không có sách Tử vi nào nói đến sự quan trọng của 6 con Giáp, ngoài việc xử dụng 6 con Giáp để an sao Tuần (tùy theo tuổi nằm trong con Giáp nào mà có một vị trÍ để an sao Tuần). Ngoài ra, người ta biết rằng, mỗi tuổi có một Hành (như người Hỏa, người Thủy…) dùng để xem trÊn lá số chứ không biết sự quan trọng của Hành đó ở trong con Giáp như thế nào.


Cứ theo Dịch học thì lại khác. Sự kết hợp 10 ThiÊn can và 12 Địa chi, cho chúng ta 60 năm, và 60 năm là xong một chu kỳ, cứ mỗi chu kỳ 60 năm thì “tấn tuồng thiÊn diễn” lại diễn lại. Dịch học cũng cho biết sự quan trọng của từng chu kỳ nhỏ 10 năm trong chu kỳ lớn 60 năm, nói cách khác là các chu kỳ của các con Giáp 10 năm cũng đóng phần quan trọng của chúng.


Con nhà Giáp…


Trong các sách Tử vi, chúng ta đều biết những con Giáp đó, nhiều sách gọi là con nhà Giáp…Như 10 năm mở đầu bằng Giáp Dần tức là từ Giáp Dần đến Quý Hợi được gọi là thuộc “con nhà Giáp Dần”


Tại sao lại gọi là “con nhà Giáp Dần”. Điều này hẳn có một ý nghĩa quan trọng. Đó là sanh vào một trong 10 năm đó là thuộc vào gia đình Giáp Dần và có sự hay dở tùy theo vị thế của mình trong gia đình đó.


Bây giờ xin lấy một thÍ dụ để dẫn giải về nguyÊn tắc trong Thần khÊ định số.
Giáp Dần, mạng Thủy, 61 tuổi
Ất Mão,mạng Thủy, 60 tuổi
BÍnh Thìn, mạng Thổ, 59 tuổi
Đinh Tị, mạng Thổ, 58 tuổi
Mậu Ngọ, mạng Hỏa, 57 tuổi
Kỷ Mùi, mạng Hỏa, 56 tuổi
Canh Thân, mạng Mộc, 55 tuổi
Tân Dậu, mạng Mộc, 54 tuổi
Nhâm Tuất, mạng Thủy, 53 tuổi
Quý Hợi, mạng Thủy, 52 tuổi.


Đó là 10 năm thuộc “con nhà Giáp Dần”, bắt đầu bằng năm Giáp Dần có các con giáp là
Giáp Tý
Giáp Tuất
Giáp Thân
Giáp Ngọ
Giáp Thìn
Giáp Dần
(Các sách Tử vi đều có nÊu lÊn 6 họ Giáp đó).


Bây giờ ta trở về gia đình Giáp Dần. Mở đầu là Giáp Dần thuộc Thủy, vậy các đương số sinh trong gia đình Giáp Dần, đó phải chịu ảnh hưởng của hành Thủy và tùy hành mạng của mình so với hành Thủy đó mà xét, lại phải nhìn qua tượng đồ để biết rằng là thắng hay bại.


ThÍ dụ về tuổi Quý Hợi


Tuổi Quý Hợi, Mạng Thủy (Đại hải Thủy), là con nhà Giáp Dần thuộc Thủy. Người Quý Hợi, mạng Thủy, ở trong nhà Thủy, có thể cho là hợp, tức là Thủy được Thủy nuôi, tức là khá thÊm.


Tuy nhiÊn, như ta vẫn biết trong thuyết sinh khắc Ngũ hành và về phần các hành đồng nhau. Thủy gặp Thủy có thể tốt là vì hai Thủy nhỏ thành sông lớn; nhưng cũng có thể Thủy gặp Thủy là bị tai hại, bởi vì Thủy lớn có thể đánh bạt con đÊ (Lưỡng Thủy Thủy Kiệt).


Vậy phải xét xem tuổi Quý Hợi mạng Thủy, ở là con nhà Giáp Dần thuộc Thủy, thì hai Thủy đó tốt hay xấu.
Muốn biết là tốt hay xấu, cần phải xem “tượng đồ về đâu”, sau khi “ngô tri Lục giáp”


1)Nếu tuổi Quý Hợi là người trông mập mạp (thân hình trông mập mạp, vững vàng) thì như thế là được Thủy nuôi dưỡng Thủy thÊm, hai sông nhỏ thành sông lớn, đời sống tốt đẹp, hanh thông.


2)Nếu tuổi Quý Hợi là người gầy ốm, thì đó là gặp thế “Lưỡng Thủy, Thủy Kiệt”, hai cái Thủy gây tai hại, vận mạng người này kém cỏi, bớt đi so với số mạng trÊn lá số.


ThÍ dụ về tuổi Kỷ Mùi trong con giáp Giáp Dần


Tuổi Kỷ Mùi (hay Mậu Ngọ) thuộc Hỏa (thiÊn Thượng Hỏa) ở trong con Giáp Giáp Dần thuộc Thủy, tức là bị Thủy khắc Hỏa. Mạng mình ở trong một nhà có Hành khắc lại mình, thì mình phải bị kém. Tuy nhiÊn, đó chỉ là cái lý trÊn nguyÊn tắc, còn phải xem hình tượng (tượng đồ về đâu) mới xác định được.


Đó là vì Thủy gặp Hỏa, Thủy có thể khắc được Hỏa trong trường hợp đổ nước làm tắt lửa – nhưng cũng có thể Thủy đổ vào Hỏa mà Hỏa càng phừng lÊn to, đó là trường hợp có đám cháy lớn mà chỉ có Ít nước, không dập tắt được mà Thủy còn bị phân tÍch thành dưỡng khÍ và khinh khÍ, cả hai thứ này cùng bốc cháy to.


Nhưng làm sao để biết được người Kỷ Mùi đó có mạng Hỏa bị Thủy của nhà Giáp Dần dập tắt đi, hay là được nuôi dưỡng, hoặc là thắng lại Thủy. Muốn biết phải xem hình tượng.


Nếu người Kỷ Mùi đó mà hồng hào, sắc sáng (tất nhiÊn là Hỏa vượng) thì đó là mạng Hỏa của người đó thắng được nhà Thủy. Vận mạng người đó khá được.


Nếu người Kỷ Mùi đó mà có sắc đen (mầu da xậm đen) thì đó là mạng Hỏa của người đó bị nhà Thủy vùi dập, không khá lÊn được (hoặc là những cái đẹp trÊn lá số bị giảm đi).


Những bài sau


Những bài sau phải luận rộng vì 6 nhà Giáp, và các tuổi nằm trong đó, mỗi giáp 10 tuổi (nhưng 10 tuổi mà chỉ thu vào 5 hành hay 4 hành)


Chúng tôi sẽ xin cố gắng để trình bầy nguyÊn tắc này, được coi là một bÍ quyết Tử vi do cụ Bảng LÊ Quý Đôn ghi lại được truyền vào tay cụ bói Lợn, và nay cụ Đông Nam á phổ biến ra với một tâm hồn rộng rãi để khoa Tử vi khỏi bị thất truyền.


KHHB số 74H1 
Sửa bởi Tu Phu Vu Tuong: 24/11/2011 – 08:14 PM
Trích: tuvilyso.org
………………………….
Từ đây ta có thể hiểu muốn đoán thật sát Tử vi không có con đường nào tốt hơn là khảo luận về Nhân tướng học (Hình tướng là chủ yếu)

Mở đầu là thuộc nằm lòng mấy câu sau:
– Thành:
Lưỡng Hỏa thành Viêm (sức nóng)
Lưỡng Mộc thành Lâm (rừng)
Lưỡng Thổ thành Sơn (núi)
Lưỡng Kim thành Khí (món đồ dùng)
Lưỡng Thủy thành Giang (sông)
 Bại:
Lưỡng Kim, Kim khuyết (bị sức mẻ)
Lưỡng Mộc, Mộc chiết (bị gãy)
Lưỡng Hỏa, Hỏa diệt (bị tàn lụi)
Lưỡng Thủy, Thủy kiệt (bị hết nước)
Lưỡng Thổ, Thổ kiệt (bị cạn khô)
COLOR]Ví dụ:

Sa Trung Kim – Vàng trong cát (Giáp Ngọ, Ất Mùi) và Kiếm Phong Kim – Vàng mũi kiếm (Nhâm Thân, Qúi Dậu) gặp nhau thì tốt, gọi là Lưỡng Kim thành Khí.

Bình Địa Mộc – Cây bình địa (Mậu Tuất, Kỷ Hợi) và Đại Lâm Mộc – Cây rừng lớn (Mậu Thìn, Kỷ Tỵ) gặp nhau thì tốt (Lưỡng Mộc thành Lâm).

Thiên Hà Thủy – Nước thiên hà (Bính Ngọ, Đinh Mùi) và Đại Hải Thủy – Nước biển lớn (Nhâm Tuất, Quí Hợi) gặp nhau thì tốt (Lưỡng Thủy thành Giang).

Lư Trung Hỏa – Lửa trong lò (Bính Dần, Đinh Mão) và Phú Đăng Hỏa – Lửa ngọn đèn (Giáp Thìn, Ất Tỵ) gặp nhau thì tốt (Lưỡng Hỏa thành Viêm).

Bích Thượng Thổ – Đất trên tường (Canh Tí, Tân Sửu) và Đại Trạch Thổ – Đất đường lớn (Mậu Thân, Kỷ Dậu) gặp nhau thì tốt (Lưỡng Thổ thành Sơn).

 THẦN KHÊ ĐỊNH SỐ
Tuổi đời nay ngoại ngũ tuần.
Mới tường số mạng chuyển vần nghiệm thay.
Nhớ thưở nhỏ tài hay, học giỏi.
Sách thánh hiền theo đuổi công danh.
Rừng nho, bể học ai bằng.
Thông minh đáng bậc tài năng hơn đời.
Nghe Khổng Tử : than trời ! cầu thọ.
Để san xong Dịch số huyền vi.
Ta cười : “Khổng Tử ngu si”.
Khôn ngoan tất thắng ! mà khờ thì thua !
Môn tướng số, để đồ mê tín.
Đoán ba hoa, bàn chuyện vu vơ.
Các điều di bại ! còn kia.
Kẻ thì bỏ vợ, người thì gia vong.
Nào Trần Đoàn, Tử Bình, Tứ Tự.
Đọc càng nhiều, trí lự hoang mang.
Cho nên ở thưở thiếu niên,
Ta không tin tưởng các môn học này.
Giầu, sang đều do tay mình tạo.
Nào ai cho ? mà bảo tại trời.
Chẳng qua mê tín đó thôi.
Tài hèn, ngu muội bảo trời không cho !
Học lười, dốt, nên thi chẳng đỗ.
Buôn vụng suy, giầu có làm sao ?
Thế nhân tin tưởng tào lao.
Đem câu số mạng thay vào bình phong .
Nay xét lại trong vòng quá khứ,
Bạn đồng liêu kẻ dở, người hay.
Giầu, nghèo, thọ, yểu lạ thay !
Khó đem hoàn cảnh giãi bày cho thông.
Sức Hạng Võ, sao không hưởng thọ ?
Lại sớm về, bởi gió nhập xâm !
Giầu như Vương Khải, Thạch Sùng,
Chỉ trong khoảng khắc tay không, than trời !
Vấn tâm, lòng vẫn u hoài.
Bách khoa Chư Tử đương thời ai hơn !
Chữ “ Vô tri vấn Bảng Đôn” !
Nay coi lại số, tủi hờn mới vơi,
Thấy Xương Khúc ở nơi hãm địa.
Và Quan cung, Khôi ngộ Kình, Hình.
Vướng câu : “ lạc hãm văn tinh” .
Mới tường số mạng muôn phần đa đoan.
Tuổi cao rồi liệu toan Dịch số,
Và đem câu “ luận cổ suy kim”.
Trần Đoàn đẩu số khảo xem,
Qua bao kinh nghiệm viết nên sách này.

Tử Vi mà gặp Lộc Tồn
Hoặc Long Phượng chiếu, các phương triều về 
Dạ hành đắc cách cẩm y 
Nên coi thần sắc, thuộc về mẩu chi 
Thân đầy, nét mặt phương phi 
Tam đình câu hãm, phát về phú thôi 
Lại phải xem nếu người mặt trắng 
Thân như que, liếng thoáng, mồm loe 
Ấy phường gian yếu, kể chi 
Giàu sang giấc mộng, đức kia liệu bàn
Người nào Song Lộc triều viên 
Lưng đầy thân mập, đầu tròn, tóc thưa 
Mắt sáng quắc, mi như lưỡi kiếm 
Sớm công danh, cận kiến cửu trùng 
Hoặc là Tử Phủ đồng cung 
Phải y hình Tướng, mới không sai lầm 
Nếu tiếng nhỏ, mặt không thần sắc 
Da trắng xanh, môi tím thâm thâm 
Mắt to, tai mỏng, lẹm cằm 
Nhan Hồi số, hoặc thọ trong bần hàn

Thiên Phủ ngộ Kình – Đà – Hao 
Thiên Phủ mà ngộ Đà, Kình
Hoặc cư hoặc chiếu kém phần giàu sang
Nếu thần tướng gia đen mũi lộ
Mắt đỏ lồi hoặc có mây che
Mặt Đại, mặt Tiểu ra chi
Phi bần yểu tất có khi duyên đồ
Tiếng vang thân gấm mắt to
Mi như lưỡi mắc, thần phô dữ dằn
Ấy là Hao, hoặc Kình, Đà nhập
Theo võ công đao nghiệp tử nàn
Mạng Thân có Tử Phủ


Mạng Thân có Tử Phủ
 
Kiêm Lộc Mã Khoa Quyền

Ngũ trường hoặc ngũ đoản

Trán cao, tiếng vang vang

Tuy đạt phần quý hiển

Trên mức trung chi gian

….

Tử Phủ, Khoa Quyền Hao

Tuần Triệt ngộ Hồng Đào

Tam đÌnh không cân xứng

Da xanh, thân lộ hầu

Miệng hở, ngủ mở mắt,

Phòng tử nghiệp, thương đao.

Mạng có Nhật Nguyệt tại Sửu Mùi 
Những người mạng có Âm Dương,
Phải xem ngay mặt, thần quang thế nào.
Nếu mặt tròn không hao chẳng khuyết,
Thì tánh hiền và biết thủy chung.
Lại như thêm cặp mắt trong,
Trên đường khoa bảng, có công đạt thành.
—————————————-
Những người hứa hẹn khoe màu,
Mặt thường khuyết hãm, mắt sâu, nhọn mồm,
Phải coi số lại cho tường,
Kẻo lầm: Không, Kiếp, Âm, Dương, Kỵ, Hình,
Nên suy đoán cho tinh mọi lẽ,
Thì mới tường nội rễ sâu nông,
Bởi chưng Nhật Nguyệt ngộ Không,
Tham tàn, e lại bạo hung không lường,
Dầu thêm có Khúc, Xương thủ chiếu,
Càng cơ mưu lắm mẹo hại đời …
Người nào thuộc tuổi Tân Canh
Âm Dương Mùi Sửu, tượng hình diệp thanh
Mắt ti hí, môi thâm, vai nhỏ
Chân tay thô, như vẻ nông phu.
Nói năng đi đứng lầm lì,
Lòng ti tiện, lại có bề tham lam.
Tiền tài, công tựa dạ tràng.
Đời đa lao lực, tân toan khó lường.

Khởi tự Giáp đến hàng chữ Quý
Sửu Mùi cung, định vị Âm Dương,
Mặt tròn, da trắng, thần hiền
Ấy là Tấu Cái Khúc Xương phò trì,
Lòng nhân đức, chăm lo đèn sách
Tình đệ huynh, rất mực thuận hòa
Mã Hình Kị có giao gia
Long hành, Hổ bộ, cùng là kiếm mi,
Công danh cận chốn đơn trì,
Có tài tướng soái, bộ hình đảm đương


Sát Phá Liêm Tham 
Người nào Sát Phá Liêm Tham
Phải uy nghi, phải hiên ngang mới hùng
Nếu tóc rậm, đầu không vuông vức
Mắt đỏ hoe, miệng tựa thiềm thừ
Như say, như tỉnh đôi khi
Ất Canh Đinh Bính liệu bề lo toan
Có Thiên Đức lòng hiền khả phú
Ngộ Đà, Kình e khó thọ trường 

Dần Thân mạng có Tham Lang
Hổ, Long, Linh, Hỏa hiên ngang anh hùng
Tham ngộ Tuế, dễ lòng tửu sắc
Râu rậm xanh, thê thiếp đa phòng
Tham, Hình mặt đỏ môi cong
Nên tu nhân đức, mới mong thọ trường.

(Tham Lang thủ Mệnh) Tham Lang mà ngộ Lộc, Quyền,
sức như Phàn Khoái, tửu nhường Lưu Linh.
Nếu lại có Mã, Hình, Ấn chiếu,
tài tướng quân danh trấn biên cương,
vai to, nhãn lộ, tiếng vang,
râu hùm, hàm én, ngang tàng cường hung.
Tuổi Mậu, Kỷ, Quý, cùng với GiÁp,
Có tướng trên mới được Vương hầu.
Thất Sát Triều Đẩu 
Thất Sát đóng tại Dần Thân
Lộc Quyền Giáp Quý nhiều phần chắc nên
Hợp với các tuổi mạng Kim
Người cao da trắng thần hiền mới hay
Nếu môi đỏ tóc mây thưa thớt
Đường công danh văn nghiệp dễ thành
Kị thay tuổi Bính tuổi Đinh
Vì e Hao, Hổ, Kình, Hình lại lâm
Người xương xẩu, lẹm cằm, mũi hếch
Phải nên phòng bệnh tật hiểm nguy
Đức nhàn, may giải mọi bề
Trán cao, da tía, thiên về phú thương
Nhưng lòng hiểu dạ toan sâu sắc
Thì chín e chữ Phúc suy vong
Như cây càn bị gió rung
Tử toàn bất khả, long dong tuổi già.
Nam bất nhân, Phá Quân Thìn Tuất? 
Phá Thìn Tuất thân hình phì đại
…………………………………..
Phá Quân vốn chủ về thủy tinh
Ở Tuất Thìn La Võng đa đoan
…………………………………..
Tuổi Quý, Giáp vai ngang mắt lộ
Mặt chữ Vương, thân thế điêu linh
Đời hay gây chuyện bất bình
Đa tài mà ít, nên danh phận gì
Phá Thìn Tuất thân phì da trắng
Thủy hợp Kim sự nghiệp đạt thành

Mắt hay liếc, nói năng nhân nghĩa
Chính thuộc hàng, giả trá hiểm sâu
Công danh e khó bền lâu
Kình, Hình, Tuần, Triệt đương đầu dễ nguy
Xét thanh sắc, dáng đi sẽ luận
Nói hụt hơi, chuyển vận nhẹ nhàng
Nên phòng tai nạn hình thương
Không tu nhân đức, khó đường giải nguy

Phá Quân cực Bất Nhân 
Phá Thìn Tuất uy nghi thô đại
Bụng tròn vo, lưng lại vông đầy
Đi nhanh, ngực ưỡn, vung tay
Trán cao, võng lệch, tóc dầy cứng đen
Râu quai nón, mắt tròn như ốc
Ma ảo thanh, hoặc đục hay nhàn
Đi ngoảnh lại lúc liếc ngang
Lòng gian hiểm, dạ mưu toan khôn lường
Thời ly loạn gặp thường phát hiển
Tài điều quân, quyền biến cơ mưu
Gian tham, tà ác lựa chiều
Bạn đồng liêu khó giữ điều thủy chung
Nặng danh lợi mà không tình nghĩa
Ruột thịt kia, coi tựa quân thù
Cuộc đời như thể cây khô
Tử tôn khó giữ lưu cơ lưu truyền
Cơ Nguyệt Đồng Lương 
Người nào Cơ Nguyệt Đồng Lương
Thân hình phải được như hàng nho sinh
Mặt tròn, da trắng, môi hồng
Thiếu niên khoa bảng, sân rồng có phen
Nhưng cũng phải nhìn vào thần mắt
Như sao băng mới được công khanh
Cổ cao, tiếng nói thanh thanh
Văn chương lỗi lạc, luật thình đắc nghi
Nếu mắt lé, răng chìa, mũi nhọn
Trán rộng cao, tóc gọn mà thưa
Thân thô, cổ rụt, lưng gù
Nói năng nhân nghĩa, đón đưa ngọt ngào
Xin chớ vợi tin vào mà hỏng
Thử dò xem lòng rộng, hẹp sao?
Mới tường mọi lẽ thấp cao
Đồng Lương hạng ấy thuộc vào lại nhân

Cự Cơ Mão Dậu 
Thủy Hỏa Mộc cũng là Kim vị
Có Cự Cơ lưu ý kẻo lầm
Vì TÀi, Quan thuộc đất không
Ất Tân Đinh Bính lại cùng tuổi Canh
Kình Đà Hổ Hao Hình đồng chiếu
Mặt trái xoan, dáng điệu uy nghi
Da trắng, môi đỏ, tóc thưa
Văn chương, công nghệ, kiêm bề giao thương
Hình tướng hoặc ngũ trường, ngũ đoản
Thì công hầu khanh tướng vang danh
Còn người mắt cú, sát thanh
Mưu mô gian xảo, tính tình đổi thay
Đường cư xử, tựa bàn tay
Lật lên úp xuống, phút giây cạn tình
Nên xem Hình Triệt Đà Kình
Tài Quan Di ắt khó lành vận giao
Mãn phần, tử nghiệp thương đao
Những ai định kết tương giao liệu chừng

Số Tướng – Mã 
Sao Thiên Tướng đi cùng Thiên Mã
Gặp Trường Sanh răng ngựa, chân dài
Đi mau như gió ấy tài
Nam nhân vượng tướng, nữ thời truân chuyên
Nhưng phải có da đen, mắt lớn (mắt lộ)
Mã diện thời Khanh tướng, công hầu
Mã mà Tuần Triệt, khác nhau
Vai so, cổ rút, chân cao, ống đồng
Đi như cò long tong ngoài ruộng
Thì cơ hàn, khó hưởng thọ trường
Cuộc đời sống kiếp tha hương
Đường nhân duyên khó châu toàn một phen

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *