Hầu bóng ( lên đồng )

Hầu bóng ( lên đồng )  

Hầu bóng (lên đồng)
Hầu bóng là nghi lễ chính của thờ Mẫu Tam phủ, Tứ Phủ. Đó là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tam phủ, Tứ Phủ vào thân xác các ông Đồng, bà Đồng, là sự tái hiện lại hình ảnh các vị Thánh, nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín đồ đạo Mẫu. Nghi lễ hầu bóng (lên đồng) mang những sắc thái địa phương, trong đó có thể kể đến Hà Nội, Huế và Sài Gòn.
Hầu đồng hay Hầu bóng là hiện tượng nhập hồn nhiều lần của nhiều vị thần linh. Trong đó, mỗi lần một vị thần linh nhập hồn (nhập đồng, giáng đồng), rồi làm việc quan (tức thời gian thực hiện các nghi lễ, nhảy múa, ban lộc, phán truyền) và xuất hồn (thăng đồng), được gọi là một giá đồng (tức thời gian thần linh ngự trị trên cái giá của mình là các ông Đồng bà Đồng).
Hầu đồng thường diễn ra vào nhiều dịp trong một năm. Với những thầy Đồng đền, trong một năm có các lễ: hầu xông đền (sau lễ giao thừa năm mới), lễ hầu Thượng nguyên (tháng giêng), lễ hầu Nhập hạ (tháng tư), lễ Tán hạ (tháng bảy), lễ Tất niên (tháng chạp), lễ Chạp ấn (25 tháng Chạp)… Trong các dịp trên hai lần được coi là quan trọng hơn cả là vào tháng Ba giỗ Thánh Mẫu và tháng Tám là dịp giỗ Vua Cha Bát Hải, Đức Thánh Trần. Đối với mỗi đền hay mỗi Ông Đồng và Bà Đồng thì các dịp hầu đồng còn nhiều hơn nữa, như đầu tiên là lễ trình đồng, lễ hầu bản mệnh, lễ hầu ngày tiệc của các vị thánh, như tiệc Cô Bơ (12-6), tiệc quan Tam phủ (24-6), tiệc Ông Hoàng Bảy (17/7), tiệc Trần Triều (20-8), tiệc Đức Vua Cha (22-8), tiệc Chầu Bắc Lệ (tháng 9), tiệc Ông Hoàng Mười (10-10), tiệc Quan Đệ Nhị (11-11). Các nghi lễ lên đồng trên đều được thực hiện ở các đền, phủ, điện lớn hay ở các điện thờ tại gia.
Trước khi hầu, ông Đồng hay bà Đồng thông qua người chủ đền phải làm lế Chúng sinh và lễ Thánh. Đồ lễ chúng sinh được đặt trên một cái mâm, trên đó có các đồ vàng mã cắt thành hình quần áo, tiền, lá vàng, thỏi bạc, những bát cháo, bánh trái và những thức ăn khác. Có khi trên mâm còn có mấy đồng tiền bỏ vào chậu nước dành cho những vong hồn chết đuối. Lễ chúng sinh có mặt trong tất cả các nghi lễ của tín ngưỡng Tam phủ, Tứ Phủ và các tín ngưỡng dân gian khác, dành cho những vong hồn chết dữ hay không có người thừa nhận, không có người hương khói cúng giỗ…
Giúp trực tiếp cho ông Đồng và bà Đồng trong buổi lên đồng là Hầu dâng và Cung vănNgười hầu dâng thường cũng là những người đã từng lên đồng. Họ giúp ông Đồng và bà Đồng trong việc hầu Thánh, như thắp hương, dâng các loại vũ khí, dâng thuốc lá, rượu, trầu…, đặc biệt giúp người hầu trong việc thay lễ phục khi chuyển từ giá đồng này sang giá đồng khác. Hai hay bốn người Hầu dâng ngồi hai bên Ông đồng hay Bà đồng trước bàn thờ Thánh, họ mặc áo dài đen, quần trắng, đội khăn xếp (nếu là nam), áo dài màu (nếu là nữ).
Cung văn giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong hầu đồng. Họ xướng nhạc và hát cho việc trình diễn của Ông đồng hay Bà đồng khi Thánh nhập. Nhạc cụ chủ đạo của cung văn là đàn nguyệt, ngoài ra còn có trống ban (trống nhỏ), cảnh đồng, phách, thanh la… Trong cung văn, có người gảy đàn, gõ trống, phách… nhưng cũng có thể họ vừa chơi nhạc vừa hát, chỉ dừng lại những lúc Thánh nhập, Thánh xuất, lúc dâng hương. Đặc biệt trong khi múa đồng, ban phát lộc, thưởng thơ phú… thì cung văn phải vừa chơi nhạc vừa hát. Cung văn hát hay, đàn giỏi, mở đầu và dừng ngắt đúng lúc đều được người hầu đồng thưởng tiền và ban lộc. Nếu như các Thày đồng (thàyShaman) ở nhiều dân tộc vừa nhập đồng vừa hát, tấu nhạc (trống, đàn) thì với các ông đồng, Bà đồng người Việt, người hát và tấu nhạc lại là cung văn, chứ không phải các thày đồng.
Theo trật tự thời gian, có thể phân một buổi hầu đồng thành các bước: Thánh giáng và Thánh thăng, thay lễ phục, thắp hương làm phép, múa đồng, ban lộc và nghe văn chầu, Thánh thăng.
Sau khi đứng lên làm lễ và xin phép mọi người được nhập đồng, ông Đồng hay bà Đồng trùm khăn đỏ phủ diện lên đầu để thực hiện nghi thức Thánh giáng, Thánh nhập, một nghi thức quan trọng bậc nhất trong hầu đồng. Bà Đồng hay ông Đồng trùm khăn phủ diện, hai tay chắp dâng nén hương, đầu và thân lắc lư cho tới khi nào Thánh giáng (nhập) thì buông các nén hương, rùng mình, tay ra hiệu Thánh thuộc hàng thứ bậc nào đã giáng, đã nhập vào thân xác Ông đồng, Bà đồng. Lúc đó cung văn tấu nhạc và xướng văn chầu phù hợp với vị Thánh vừa giáng.
Có hai hình thức Thánh giáng, giáng trùm khăn (gọi là hầu tráng mạn) và giáng mở khăn, tức là Thánh vừa giáng vừa nhập đồng. Các giá Thánh Mẫu đều hầu theo hình thức Thánh giáng trùm khăn (tráng mạn). Khi Mẫu Đệ Nhất giáng, thì người hầu giơ ngón tay lên báo hiệu Mẫu đã giáng, cung văn chỉ tụng kinh theo tiếng chuông và mõ. Khi người hầu khẽ rùng mình, bắt chéo tay trước trán báo hiệu Mẫu đã thăng (xa giá), cung văn chuyển sang hát điệu xa giá hồi cung.
Hình thức hầu mở khăn, tức Thánh nhập thực sự và xuất hiện trước mặt mọi người, là hình thức hầu đồng dành cho phần lớn các giá hầu từ hàng Quan trở xuống. Tuy nhiên, trong một buổi hầu đồng, không phải ai cũng hầu tất cả các giá của các vị Thánh, mà chỉ một số các vị Thánh nào đó mà Ông đồng hay Bà đồng muốn thỉnh nhập để được phù trợ. Cũng tuỳ các Ông đồng, Bà đồng, tuỳ theo từng dịp nghi lễ mà có thể có các vị thánh giáng mà không nhập, lúc đó ông đồng, bà đồng vẫn trùm khăn đỏ, chứ không mở khăn như trường hợp các Thánh nhập. Ngay trong số các vị Thánh mà nhiều người thường hầu, tuỳ theo căn đồng của mỗi ông Đồng hay bà Đồng (căn Quan, căn Cô, căn Cậu, căn Ông Hoàng…), họ thường xuyên hầu một số vị Thánh nào đó.
Ngoài ba vị Thánh Mẫu bao giờ cũng giáng, tuy dưới hình thức không mở khăn, thì các vị Thánh giáng và nhập nhiều hơn cả, như các Quan Lớn Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Ngũ; Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục; ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bảy và Hoàng Mười; Cô Bơ Thoải, cô Bé Thượng Ngàn, Cậu Bơ… Trong quan niệm của các con nhang đệ tử, các vị thánh trên khi giáng thường ban lộc cho những người cầu xin.
Trong một buổi hầu đồng, thường là có nhiều vị thánh giáng, ít nhất cũng khoảng trên 10 lần giáng của các vị Thánh, bình thường cũng 15 vị giáng, còn nhiều thì trên 20. Việc giáng của các vị Thánh phải theo thứ tự, từ Thánh Mẫu tới các hàng Quan, hàng Chầu, hàng ông Hoàng, rồi hàng Cô và Cậu. Thánh Ngũ Hổ, ông Lốt, vong linh tổ tiên giáng sau cùng, tuy cũng ít thấy xẩy ra.
Trùm khăn phủ diện có ý nghĩa quan trọng nhất trong nghi lễ Thánh giáng. Từ quan niệm cho rằng người hầu đồng chỉ là cái xác, cái giá, cái ghế để Thánh nhập vào, nên khi ông Đồng và bà Đồng trùm khăn lên đầu, thì họ được coi như người chỉ còn là cái “giá”. Có lẽ vì thế mà khi người đã tắt thở, người ta bao giờ cũng phủ khăn lên mặt, còn với người đang sống mà lấy khăn che mặt là điều cấm kỵ.
Người ta thường phân biệt hai trường hợp trong nghi lễ nhập hồn này, là Thánh giáng và Thánh nhập. Thánh nhập tức là bước thứ hai sau khi giáng, bởi vậy, cũng có trường hợp thánh chỉ giáng chứ không nhập. Trong trường hợp như vậy, bằng dấu hiệu tay, ông Đồng hay bà Đồng ra hiệu cho người hầu dâng và những người ngồi quanh biết vị Thánh nào vừa giáng đã thăng ngay, không chịu nhập hồn và họ lại làm nghi thức cầu khẩn vị Thánh tiếp theo.
Khi thánh đã giáng và nhập đồng, lúc đó ông Đồng, bà Đồng không còn là mình nữa, mà là hiện thân của thần linh, những người ngồi quanh thưa gửi bằng những cung cách tôn kính nhất, như người trần gian xưng hô với vua quan thời phong kiến.
Khi thánh đã nhập, ông Đồng hay bà Đồng dùng tay ra hiệu (Thánh nam nhập thì ra hiệu tay trái, thánh nữ nhập thì ra hiệu tay phải) và tung khăn phủ diện. Lúc này, hai người hầu dâng giúp người hầu đồng thay lễ phục phù hợp với vị Thánh đã nhập ấy. Việc thay lễ phục khá mất thời gian. Mỗi vị Thánh đều có lễ phục riêng phù hợp với vị trí và tính cách từng người. Nói chung, các Thánh ở cùng một hàng, như hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô… đều mặc theo một kiểu, sự khác biệt chính là mầu sắc lễ phục sao cho phù hợp với Phủ của từng vị, phù hợp với gốc tích dân tộc là Dao, Thổ, Mường…, phù hợp với vị thế là bên văn hay bên võ… Sau khi thay đổi lễ phục, ông Đồng hay bà Đồng làm lễ dâng hương. Đó là nghi thức không thể thiếu được của bất cứ sự hiện diện nào của các vị Thánh. Các ông Đồng hay bà Đồng nhận một số nén hương hay một bó hương từ tay người hầu dâng (còn gọi là tay hương), rút một nén hương cầm trong tay phải, huơ lên phía các nén hương khác làm động tác phù phép, mà những người hầu đồng gọi là “”khai quang“” (nói chệch đi là khai cuông), tức là xua đuổi đi cái trần tục, ma quỷ, làm thanh sạch để dâng cho các vị Thánh. Sau khi làm phép “khai quang””, ông Đồng hay bà Đồng ném hương xuống đất hay đưa cho người hầu dâng, rồi cầm bó hương tiến đến tới trước bàn thờ Thánh làm lễ dâng hương.
Nghi thức dâng hương có sự khác biệt giữa Thánh nam và Thánh nữ. Thánh nữ quỳ dâng dâng hương, rập trán xuống đất ba lần. Các Thánh nam thì quỳ lạy, giơ cao bó hương trước trán. Mỗi lần vái lạy của Thánh như vậy thì người ta lại đánh một tiếng chuông. Việc dâng hương là một hành vi tôn kính, một lời cầu nguyện thầm lặng biểu hiện bằng làn khói hương bốc lên trời. Hương cũng như các màu sắc chói lọi, mùi hương thơm của nước hoa, mùi trái cây… không những làm cho các vị thần linh hài lòng, mà còn có tác dụng xua đuổi ma tà, chống lại những cái gì chết chóc, không có sự sống.
Sự nhập hồn và tái sinh của Thánh vào cơ thể các ông Đồng, bà Đồng còn được biểu hiện sống động bằng các động tác múa. Động tác múa của người hầu đồng kết hợp nhịp nhàng theo âm nhạc và lời hát, tạo nên không khí nhộng nhịp, lúc hào hùng, khi duyên dáng. Tuỳ theo vị trí và tính cách của mỗi vị Thánh mà động tác múa cũng khác nhau. Múa xong, Thánh lại ngồi xuống. Lúc này, cung văn hát những bài chầu văn kể lại sự tích, lai lịch và ca ngợi tài năng, sắc đẹp, công đức của vị Thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng, cung văn ngâm các bài thơ cổ theo điệu phú, những đoạn hay các vị Thánh hài lòng, biểu lộ bằng cách vỗ gối đang tựa và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này, hai người hầu dâng cũng dâng lên Thánh rượu, thuốc lá, trầu, nước… Trước khi Thánh dùng các đồ dâng đó, đều phải làm nghi thức “”khai quang””, tức làm thanh sạch hóa các đồ dâng cúng cho thần linh. Những chất kích thích như rượu, thuốc, trầu có tác dụng trực tiếp tới trạng thái ngây ngất của các ông Đồng và bà Đồng, một trạng thái cần thiết cho Thánh nhập. Mặt khác, theo các quan niệm rất cổ xưa, nước uống vào cơ thể coi như máu tiếp thêm sức sống làm các vị thần linh sống lại trong cơ thể các ông Đồng và bà Đồng.
Đây cũng là lúc những người ngồi dự xung quanh xán lại bên các ông Đồng hay bà Đồng nghe Thánh phán truyền về tương lai hay dâng lễ vật cầu xin bảo hộ, cầu tài lộc, xin chữa bệnh… Cũng có những ông Đồng, bà Đồng đáp lại những lời cầu xin, phán truyền bằng lời, hay chỉ bằng ánh mắt, điệu bộ bởi vì họ nhập đồng theo kiểu “”cấm khẩu””.
Trong lúc Thánh ngồi nghe hát chầu văn, truyền phán thì cũng là lúc Thánh phát lộc. Người hầu đồng cũng như các con nhang, đệ tử đi dự hầu đồng đều với ước muốn được Thánh thần ban lộc cho bản thân và gia đình mình, khác với đi tu niệm Phật là để cầu phúc cho đời sau. Trong hầu đồng, lộc thánh gồm nhiều thứ, từ nén nhang cháy dở, đoạn mồi khi Thánh múa đến điếu thuốc, lá trầu, quả cau, các thứ bánh trái, hoa quả, một vài thứ vật dụng (như gương, lược, khăn tay, cặp tóc) tiền bạc… Đó là những thứ quà thiêng liêng của Thánh ban cho những ông Đồng, bà Đồng, cho những con nhang đệ tử tới dự cuộc hầu Thánh.Tùy theo từng vị Thánh hay sở thích của từng ông Đồng, bà Đồng mà việc truyền phán, phát lộc nhanh hay lâu, rồi sau đó Thánh thăng, tức Thánh xe giá hồi cung. Dấu hiệu Thánh thăng thường là lúc ông Đồng, bà Đồng ngồi yên, khẽ rùng mình, hai tay bắt chéo trước trán, hay che quạt lên đỉnh đầu… thì lúc đó hai người hầu dâng phải nhanh chóng phủ khăn đỏ lên hầu ông Đồng, bà Đồng, những người cung văn tấu nhạc và hát điệu Thánh xe giá hồi cung. Cũng từ đó ông Đồng và bà Đồng lại chuẩn bị nhập đồng vị Thánh khác. Khi vị thánh cuối cùng ra đi, thường là Thánh cậu hay Quan Hổ, Ông Lốt, thì ông Đồng hay bà Đồng cởi bỏ trang phục Thánh, tạ ơn các Thánh Tứ phủ, rồi cảm ơn những người cùng tới dự. Các ông Đồng hay bà Đồng sau buổi hầu thường cảm thấy khoẻ mạnh, vui tươi và mãn nguyện. Ông Đồng, bà Đồng đi mời các quan khách tới dự ăn bữa cơm lộc Thánh, mà tuỳ theo tính chất buổi lễ mà món ăn có sự thay đổi chút ít. Trên các mâm cơm bao giờ cũng có những phần lộc để người ngồi ăn mang về nhà, như oản, bánh, hoa quả…
Một cách khái quát nhất, chúng ta có thể nêu các đặc trưng cơ bản của lễ nhập hồn của các ông Đồng và bà Đồng:
Trước nhất, đó là nghi lễ nhập hồn nhiều lần. Một ông Đồng hay bà Đồng thôi nhưng trong một buổi lễ, tuỳ theo tính chất của buổi lễ trong năm hay tính cách đồng (căn đồng), theo nhu cầu của từng ông Đồng và bà Đồng mà họ làm giá (ghế) để cho các vị Thánh nào nhập. Đánh dấu mỗi lần vị thánh nào nhập và thăng là căn cứ vào nghi thức trùm khăn phủ diện lên đầu và ông Đồng, bà Đổng thay lễ phục cho phù hợp với danh tính của mỗi vị thần. Trong điện thần đạo Tứ phủ, có một số vị Thánh thường hay nhập hồn vào ông Đồng, bà Đồng, còn có loại ít thấy nhập hơn, thậm chí có vị Thánh người ta không rõ lai lịch và hầu như không bao giờ nhập đồng cả.
Trong nghi thức Hầu đồng, các vị thánh nhập hồn bao giờ cũng là các vị Thánh làm những điều tốt lành,phù hộ cho ông Đồng, bà Đồng và các con nhang đệ tử làm ăn may mắn, chữa khỏi các bệnh tật, trừ đuổi rủi ro, ma quỷ quấy ám… Hơn thế nữa, các vị Thánh đó lúc sinh thời đều là những con người tài giỏi, có đức độ, có vị trí cao trong xã hội và đã từng mang lại danh tiếng, công ơn đối với dân, với nước. Điều này phân biệt với các hình thức nhập hồn khác, như nhập hồn không tự nguyện của người bị nhập hồn, nhập hồn của những ma quỷ dữ, mang lại tai hoạ cho người bị nhập và những người khác. Bởi vậy, trong nghi lễ lên đồng, bao giờ cũng có nghi thức xin thánh nhập vào bản thân mình và như chúng ta thấy, không phải bao giờ những lời cầu xin ấy cũng được các Thánh chấp nhận, khác với nghi thức đuổi ma tà, do các ma quỷ dữ ám vào người nào đó để gây bệnh tật và rủi ro…
Trong nghi thức hầu đồng, để cho Thánh nhập, người hầu phải “thoát khỏi”” trạng thái tâm sinh lý bình thường, họ không còn là họ nữa, mà chỉ là cái xác để Thánh nhập vào. Do vậy, tuỳ theo từng vị thánh mà Ông đồng, Bà đồng có những hành động, tư thế, nét mặt khác nhau sao cho phù hợp với các vị Thánh đó. Để tạo nên trạng thái tâm lý như vậy, ông Đồng và bà Đồng phải tự thôi miên bản thân tạo ra trạng thái ngây ngất. Hỗ trợ cho trạng thái ngây ngất này, ngoài bàn thờ với hương khói các màu sắc “”mạnh”” của đồ thờ, quần áo; còn có vai trò của các chất kích thích như rượu, trà, thuốc lá, trầu; rồi tiếng trống, âm nhạc và và lời hát… bởi thế, hầu đồng, đứng về phương diện tâm sinh lý, là việc tự đưa cơ thể vào trạng thái ngây ngất, giống như kiểu tôn giáo ngây ngất rất phổ biến ở thế giới Đa Đảo, mà trong tác phẩm của M.Durand, ông đã có lần nhắc tới (7).
Một chức năng cơ bản của nghi thức nhập hồn của các Thánh vào các ông Đồng và bà Đồng là để chữa bệnh, đoán số và ban phúc lộc. Có không ít trường hợp những người phải chịu đội bát nhang với tư cách là con nhang của các Thánh hay mức cao hơn phải làm lễ trình đồng là do họ bị bệnh tật lâu ngày mà chạy chữa không khỏi. Những người này tin rằng, với việc các Thánh có chức năng chữa bệnh cứu người, nhập hồn vào người hầu đồng thì bệnh tật người đó ắt là mau khỏi. Trên thực tế do chúng tôi quan sát hoặc những lời truyền tụng thì hiện tượng khỏi bệnh đã từng biết tới ở một số người dưới tác động của liệu pháp tâm lý đó. Điều này cũng không có gì là một khi chúng ta quan niệm rằng yếu tố tâm lý và tâm thần có tác dụng không nhỏ trong chữa lành bệnh cho con người. Do vậy, việc trở thành Ông đồng, Bà đồng không phải là hành động mang tính tự nguyện, mà là bắt buộc, nếu không sẽ bị Thánh hành, tức bị cơ đày.
Trong Hầu đồng, khi thánh nhập, tuỳ theo từng vị Thánh và căn đồng của từng ông Đồng hay bà Đồng, mà Thánh có thể truyền phán về tương lai của những người thỉnh ngài. Cũng có những người hầu đồng nhưng không hề hé răng truyền phán gì cả, gọi là hầu cấm khẩu.Việc hầu đồng để mưu cầu tài lộc cho bản thân mình, nhất là trước lúc làm ăn có tính chất được thua. Chẳng thế mà đối với những người buôn bán, hàng năm bỏ ra hàng nhiều tiền chi cho các buổi hầu thánh như thế. Ngày nay, việc lên đồng để mưu cầu tài lộc thường là mục tiêu hàng đầu.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *