DỊCH LÝ VIỆT NAM

DỊCH LÝ VIỆT NAM

Tư duy, Tư tưởng , Suy tư, Trầm tư, Quán tưởng …tất cả chỉ là hoạt động cuả Trí tuệ Con người với mục đích tự tìm cho mình cái Lý lẽ nào đó đã và đang cảm nhận từ trong chính nó phát sinh hay do tha nhân giới thiệu , truyền đạt ngõ hầu chọn lọc điều mà tự nó sẽ cho là Chính lý , là đúng nhất là thích hợp với tư năng và kỹ năng của chính nó . Trong diễn trình tư duy này Con người gặp phải rất nhiều chướng ngại từ nội thân lẫn ngoại cảnh tương tác hay áp chế làm ảnh hướng rất lớn đến chính đời sống con người của nó. Phản ảnh tai hại của nó là những thái trạng hoang tưởng, cuồng tín, tự tôn tự đại hay tự ti mặc cảm hoặc lãnh cảm . Vậy phải tư duy thế nào để Trí tuệ có được sự Vô Tư thanh thản độc lập chính lý chính xác và sáng tạo . SUY LUẬN VÔ TƯ LÀ GÌ ? Nghĩa là chấp nhận Vạn Hữu có Trí-Tri-Ý riêng biệt của nó. Vạn vật có Tri giác của chúng, chẳng qua con người hiểu lầm chúng Vô Tri giác, Tri giác con người khác Tri giác loài vật nên khó thông cảm mặc dù hàng ngày chung đụng mật thiết với nhau . Cho nên, Vô tư là Tư lự mà Bất Thiên Bất Nhiễm, là cố gắng triệt tiêu Thiên kiến, Định kiến . Có vô số Tri giác giống mà hơi khác nhau, vì mỗi giống loài đã Biến hoá đều có ôm ấp Tiên Thiên tính giống mà hơi khác nhau trong Chuỗi lý Biến Hoá của mình và tất cả đã và đang chịu đựng, phối hợp, giao cảm với nhau, hữu dụng lẫn cho nhau, gần gũi nhau . Sự chung đụng giữa Vạn Hữu, quả thật thường là ngoài ý muốn, vì nếu ta hỏi: Không Khí , Đất đá, Cây cối, Vi khuẩn và muôn giống loài khác, lấy Lý lẽ gì mà ở gần chúng ta, chung đụng với ta và chúng ta có trốn thoát khỏi cảnh tình tự giữa mình với chúng không? Chúng ta thường đều thiếu Đức Vô Tư ; Ví dụ Ta cầm một miếng gỗ. Tri giác của con người cho đó là Gỗ, đặt tên là “Gỗ” và coi nó là Vô tri dùng đóng bàn ghế . Nhưng nếu ta lại đả phá tư tưởng của chính ta : Có chắc đó là Gỗ không ? Nếu ta không phải loài người, nếu ta là con Mối, là Lửa, là Cây; ta sẽ lập luận ra sao? Có lẽ ta sẽ đặt tên cho Gỗ là Thức ăn, Đồ bổ dưỡng, là Da thịt của ta. Trí Tri của loài người là Gỗ. Trí Tri của Mối, Lửa là thức ăn, Trí tri của Cây là Da thịt và rồi nó thể hiện Ý của nó ; Mối, Lửa thì ăn gậm nhấm Gỗ ;Cây thì đau đớn bị cắt xẻ…Vậy là Ý có Danh ý là do Trí Tri phối hợp để có Danh Được Lý và chỉ đúng trong Phạm vi của nó. Cho nên dùng một lý lẽ ngoài ý muốn của một người hoặc một vật nào đó để bắt buộc tha nhân tha vật ấy phải theo Ý mình là thiếu Vô Tư . Và nếu còn có ý muốn can dự, can thiệp vào các Khách thể khác thì chỉ là muốn có sở đắc trong một phạm vi hạn hẹp nào đó để cưỡng bách tha nhân tha vật phục vụ cho mình mà thôi … Ngoài ra còn như những sự chung đụng hết sức hữu tình như: Sanh, Bịnh, Lão, Tử chắc không ai dám quyết đoán là mình có ý muốn tham dự, hay phản bác được rằng mình sẽ bất tử….bởi vì chúng tha hồ đến rồi đi bất chấp Ý muốn của ta , ngoài ý muốn của ta . TƯ DUY LÝ DỊCH Vạn Hữu vốn muôn hình vạn trạng, trùng trùng sắc thái, tính chất, tính lý khác nhau. Nó được Dịch Lý qui về NHẤT LÝ, thể hiện ra bằng hai hình bóng, hai Ký hiệu Âm Dương được và bị dùng làm bờ neo suy lý, lý luận luận lý . Suy tư rồi lập luận, ắt là có lý luận, có bàn luận cho vỡ lẽ cho ra lẽ . Hoạt động tự đả phá thanh lọc kiến thức, tri thức, lý tuởng, lý lẽ của chính mình, luôn luôn và liên lỉ trong nhiều ngày nghiã là tự mình thành khẩn cầu mong truy tìm sự Hữu Lý, tự mình đả phá cho đến tận cùng kỳ lý của Lý Trí, của Trí tuệ và khi không còn đả phá được cái mà Lý Trí vừa nêu ra, ắt sẽ đạt được Lý; tức là Trí tuệ đã Sở đắc về Thần Hoạt Biến (Hoạt bát Biến thông). Tuy nhiên sẽ xẩy ra trường hợp ta còn kém Lý lẽ , kiến thức ta còn giới hạn ; nghĩa là Lý lẽ vừa nêu ra còn sai lầm mà ta vẫn không đả phá nổi, để rồi hoang tưởng là ta đã đạt được Lý đã về đến tận cùng cuả mọi câu hỏi tại sao ? Tại sao của tại sao ? . Điều này vượt qua không khó, nếu ta quyết tâm , kiên trì truy tầm CHÂN LÝ. KẾT LUẬN Vậy suy luận Vô tư Lý Dịch là làm sao hiểu rõ được Vạn Vật Qui Nhất Lý : Âm Dương Biến Hoá Nhất Luật .

KẾT LUẬN Vậy suy luận Vô tư Lý Dịch là làm sao hiểu rõ được Vạn Vật Qui Nhất Lý : Âm Dương Biến Hoá Nhất Luật . Suy luận Vô Tư là để đạt đến Tận cùng kỳ Lý của Lý Trí, đạt Chân Lý, đạt cái Nhất Lý Thường hằng chi phối Vũ trụ muôn đời, muôn nơi . Lý luận Vô Tư quả thật vượt qua khỏi lối suy luận hạn hẹp của loài người. Con người chúng ta cứ mãi lẩn quẩn, cứ mãi mò mẫm hạn hẹp phạm vi mà hóa ra xa rời Chân Lý. Không nên chỉ lý luận riêng ở phạm vi con người trong chúng ta để rồi lại tồi tệ nằng nặc ý riêng ta là tuyệt đối đúng, là Chân lý để áp đặt cho muôn loài trong Vũ Trụ , vì làm như vậy là tự phủ nhận Lý Trí mà hóa ra khó tiến tới công cuộc truy tầm Chân Lý, là đánh Mất Vô Tư . Tóm lại, Chân Lý của mỗi trình độ có hơi khác nhau, hà cớ bắt buộc Chân Lý của mình phải là Chân Lý của người khác mà nên cùng nhau GMHK nhận ra Chân Lý Vũ Trụ với Nhất Lý Biến Hoá 


    Quyển Văn Minh Dịch Lý Việt Nam thuộc một trong nhiều tài liệu của Việt Nam Dịch Lý Hội, nhưng nó là nồng cốt của kỷ nguyên Tiên Hậu Thiên Trí Tri, Ý. 


    Vì muốn kịp thời đáp ứng nhu cầu Nhân loại thời đại, nên các tài liệu của Việt Nam Dịch Lý Hội với bộ mặt có vẻ gấp rút, tuy gấp nhưng cũng phải mất ba năm theo sự đã an bài.


    Sở dĩ kỷ nguyên phải khai mở, Văn Minh Dịch Lý Việt Nam phải góp mặt với thời đại là vì sau Đệ II Thế Chiến, nối tiếp theo đó, Trí Tri, Ý Nhân loại vần vũ, quần tụ ở nền Văn Minh giết người thật nhanh, thật nhiều.


    Người ta trở lại tôn sùng sự giết nhanh, giết nhiều bằng cách đề cao nguyên tử, khinh khí, ánh sáng tử thần không hề ngượng miệng.


    Đa số vì vô tình mê say với mọi cái lạ tai, lạ mắt, vì tính hiếu kỳ, kịp đến khi nó trở thành trào lưu tiến hóa trong Nhân loại, một thời trục nguy hiểm, một thiên hạ sự bắt đầu đe dọa hạnh phúc Nhân loại. Đến nỗi chính những con người tự trong lòng đất sản xuất cơ khí giết người đã phải hoảng hốt kêu la:

    – Nếu Văn Minh vật chất chẳng tìm thấy nền Văn Minh Tinh Thần tương xứng làm sự quân bình. Ôi! đường trường của khoa học cơ khí sẽ gặp sự phản chủ, tức cơ khí sẽ trở thành chủ nhân ông, biến con người trở thành nô lệ, tôn thờ cơ khí, và phục vụ cơ khí giết người.


    – Để tránh sự phản bội với chủ, vì chủ muốn nhờ nó mà được danh dự, con nhà khoa học, dĩ nhiên, phải tìm cho nó một hướng đi bằng cách trút xối xả vào đầu các dân tộc thiểu số.


    – Số người bình tĩnh nhất là số người trong các Đạo giáo xét thấy sự xoay vần của Trời Đất, nhận thấy hậu quả sâu xa tai hại đó, sẽ không thể nào mãi mãi riêng cho các dân tộc thiểu số được, nó sẽ chằng chịt, níu kéo cả đa số Nhân loại.



    Thế rồi, các giáo lý, giáo điều được canh tân phát động, các vị giáo lãnh đã làm tất cả mọi công việc với khả năng có thể được của mình.


    Riêng trên lãnh thổ Việt Nam, chưa bao giờ người Việt Nam thấy các Đạo giáo mới mọc lên nhiều như lúc này. Ắt vì tình Nhân loại nên các Đạo giáo đã ra sức đóng góp cho cán cân Đạo Lý và Khoa học khỏi chênh lệch chăng?


    Nhờ các tinh thần đó, khiến chúng tôi, rốt cuộc không thể qui trách nhiệm cho ai, ai cũng mang cả thiện chí làm việc, thế là, một nhóm Dịch học sĩ Việt Nam được triệu tập, tuy xét thấy tài sơ, đức mỏng, nhưng tự nghĩ dù sao cũng phải cố gắng riêng sức mọn của mình trước đã, thế là Việt Nam Dịch Lý Hội được chào đời.


    Trải qua ba năm, đến bây giờ chúng tôi đã hoàn tất các tài liệu sơ, trung, thượng và thái thượng đẳng làm nền tảng cho triết thuyết Trí Tri, Ý Tiên Hậu Thiên.


    Hoàn thành chúng trong môi trường nheo nhóc những tiếng nấc nghẹn ngào, những oan hồn, xương máu … đang vây phủ …


    Giai đoạn này, hầu hết các trí thức Việt Nam và chúng tôi đã phải trở thành như đui mù, câm, điếc, điên khùng, khờ dại, … cố gắng tận tụy mang tài sơ Đức mỏng của mình, để kết tinh từng giọt máu, thu nhặt chí khí tràn đầy của dân tộc, tạo thành nền Văn Minh Dịch Lý Việt Nam, trong lãnh vực Dịch Lý.


    Trong các tài liệu của Hội Việt Nam Dịch Lý đã giải thích khá đầy đủ mọi khả năng biến hóa linh động, huyền nhiệm trong chính Lý Trí, giải thích lý do tại sao có Lý Trí … và muôn loài vạn vật tại sao đang có Trí Tri, Ý Thức, đang dùng xài trong mọi ngày giờ động tĩnh. Vấn đề Tiên Hậu Thiên Trí Tri, Ý đi trong qui luật nào?


    Bạn nào có óc tò mò, muốn tìm hiểu ai cầm cân bỉnh cán trong Vũ Trụ, muốn truy tầm ánh sáng muôn thuở, muốn rõ mọi cái tại sao, nếu bạn có tinh thần Lý học, thì các quyển sách của Việt Nam Dịch Lý Hội sẽ rất trung thành, không có chuyện thất vọng hay phản bội.


    Tất nhiên, chúng tôi phải gặp vấn đề Văn, Ngôn bất tận Ý, Ý bất tận cùng kỳ Lý.


    Còn phần các bạn lại phải sẵn sàng chịu gia công thắc mắc. Quyết tâm, tôi tin rằng, sau hai năm giồi mài, bạn sẽ có được một bảo vật vô giá, bạn sẽ bắt gặp Luật Tạo Lập Vũ Trụ cao sâu, huyền nhiệm, …


    Kỷ nguyên Tiên Hậu Thiên Trí Tri, Ý, như các bạn đã rõ, chúng tôi vì tự tin tràn đầy ở dân tộc Việt Nam, nên chúng tôi cương quyết khai mở triết thuyết Trí Tri, đóng góp vào cán cân Văn Minh tinh thần và Văn Minh cơ khí được quân bình trong Nhân loại.


    Công bố các tài liệu của kỷ nguyên đã hoàn tất để trình bày một sự hiển nhiên, cũng để cho biết, tất cả các vấn đề tinh thần dân tộc Việt Nam không còn ngờ vực. Bởi trước kia, chính cá nhân tôi đây cũng đã từng hoài nghi dân tộc Việt Nam, thứ dân ấy mà biết gì.


    Giá trị của nền Văn Minh Dịch Lý Việt Nam, thiết lập một hệ thống suy luận vô tư, khúc chiết về Luật Tạo Lập Vũ Trụ.


    Trong đó, ngôn ngữ Việt, tức như văn hóa Việt là khí cụ đầu tiên dùng xài để suy diễn, giải lý cách thành lập Dịch Lý, do dân tộc Việt Nam phát minh trong phạm vi Tạo Lập Vũ Trụ. Đương nhiên, Việt ngữ trở thành giá trị Vũ Trụ ngữ.


    Người đời có thể nhơn có Vũ Trụ ngữ mà hiểu được đại ý phát âm ngầm của muôn loài vạn vật, vệ tinh, cung trăng, mặt trời, …


    Tài liệu Vũ Trụ ngữ, Văn Minh Dịch Lý Việt Nam sẽ giúp mỗi bạn có được rất nhiều điệp viên vô tư xa lạ (điệp viên Trời thượng thặng). Chúng sẽ là bạn trung kiên, trung thành suốt dọc đời bạn, bất cứ lúc nào và ở đâu.


    Cuối cùng, riêng cá nhân bạn, ngày ngày trao giồi, lẽ nào không có một triết lý sống và lẽ sống phải sống.


    Mới hay rằng: hoàn thành nền tảng kỷ nguyên Tiên Hậu Thiên Trí Tri, Ý, không phải do tài đức của riêng ai cả, mà chính vì tại có ý Trời ở trong ý nhiều nhiều người Việt Nam, nên mới kết tinh lại được, sức một người có là bao?


    Nay, hoàn toàn tin tưởng vào chí khí dân tộc Việt sẽ cố gắng về kỷ nguyên đó, nối tiếp làm sáng tỏ cái chí khí Nhân loại sáng tỏ Văn Minh Dịch Lý Việt Nam và Vũ Trụ ngữ trên đà tiến hóa vậy.
    CON NGƯỜI

    (theo quan điểm Dịch Lý)


    1. CON NGƯỜI LÀ GÌ?
    Xã hội loài người liên lạc mật thiết với con người tôi. Tôi bị và được gán một tên chung: CON NGƯỜI! Tôi muốn thật sự biết tôi là gì, những con người đồng loại với tôi là sao?
    Chúng ta từ đâu đến, để làm gì và đi đâu? Chúng ta khởi điểm từ cụ thể con người để tìm hiểu rốt ráo về “hắn”. Đó là lý do chính đáng mà tôi đề cập con người.


    Lẽ dĩ nhiên là con người rất gần gũi với con người. Nhưng khi chịu khó khảo sát rốt ráo về con người, mới hay rằng: con người rất xa lạ với con người. Con người vừa là một cụ thể vậy đó, mà đồng thời con người là một thế giới huyền vi, bí mật đối với con người, nghĩa là con người tha hồ khảo sát mãi mãi, hoài hoài về con người.


    Trong cuộc sống, ắt có ngày vui sướng hay đau khổ sao đó, mà tận trong cái tôi sâu kín và lặng lẽ, những dòng tư tưởng kỳ hoặc hé chớm nở … đó là lúc con người tôi biết thắc mắc … Thắc mắc con người là gì? Vậy, hiển nhiên con người là: cái thứ có biết thắc mắc cho chính NÓ, và mọi vật liên hệ xa gần quanh NÓ, mà nó có ý muốn biết đến.


    Kể từ lúc con người tôi chịu thắc mắc liên tiếp, theo đường lối truy nguyên thẳng, tức là đi dần vào thế giới Lý học, hầu giải đáp cho được mọi cái tại sao. Học hỏi như vậy, có ý nghĩa là học sự lý cho đến rốt ráo tận cùng kỳ lý của Lý Trí.


    Chúng ta đều biết thắc mắc và cố giải đáp cho được mọi thắc mắc, chính là nguồn gốc của hiểu biết thêm cho Trí Tri, Ý, nhờ đó mà con người ngày càng được tinh tấn thêm mãi.


    Thế rồi, mỗi khi tôi thắc mắc: tại sao có tôitại sao có vũ trụ? Tại sao lại có chúng?
    Phải thú nhận rằng: chúng ta thường bối rối trước những câu thắc mắc ấy, vì hình như những gì mà con người thắc mắc, há được đáp ứng thỏa mãn ngay? Rõ ràng: thắc mắc thường vượt quá sức hiểu biết của con người, nhưng, NÓ (nó là tánh biết thắc mắc) lại đích thực là con người.


    Bởi vì, trong khi tôi thắc mắc, hoặc con người khác thắc mắc hỏi tôi, giả sử như tôi bí tịt, xét lại chính tôi, sẽ thấy tôi đang là trầm tư mặc tưởng! À, thì ra tôi đang dùng chính Lý Trí của tôi sẵn có, để giải đáp mọi thắc mắc, cho dù có giải đáp được hay không. Rõ ràng, tôi đang dùng chính Lý Trí của tôi để suy tư. Nếu như tôi không muốn công nhận có Lý Trí, thì chính tôi cũng phải dùng Lý Trí của tôi để mà biết không công nhận Lý Trí, để phủ nhận Lý Trí của tôi[1] .Vậy thì tôi thật là ngoan cố rất đáng buồn cười!


    Con người có tánh biết thắc mắc[2], rồi phải giải đáp mọi thắc mắc sao cho thỏa đáng, con người lại phải dùng xài chính ngay Lý Trí sẵn có. Lý Trí được xem như một khí cụ siêu tuyệt cực kỳ linh động, linh diệu, sắc bén sẵn có ở con người.


    Một khi con người chấp nhận Lý Trí, là con người bắt đầu lăn xả vào con đường Truy nguyên Lý học, để tìm hiểu mọi bí mật mà con người đã thắc mắc. Sự biến hóa kinh khủng của Lý Trí, chúng ta không rờ rẫm được, không nghe thấy nó, nhưng, phải công nhận là ta đã, đang và sẽ mãi mãi khu xử nó hàng ngày, giờ, phút, giây tĩnh động, chúng ta luôn luôn phải vận dụng nó.


    2. CON NGƯỜI THEO QUAN ĐIỂM DỊCH LÝ
    Theo quan điểm Dịch Lý, thân xác có Đức Thần Minh và Thần Thức của con người đang sống động[3], tiến triển, tiến thoái hóa y như muôn ngàn sự vật khác cũng đang sống động. Tất thảy đều bình đẳng, giống nhau cùng là sống động.


    Tai, mắt, mũi, tế bào thần kinh nói chung, chúng là giác quan, là cái hiểu biết của lỗ tai thịt, mắt thịt, trí thịt (neuron), chúng là phần hạ, phần hình của Lý Trí, trí thịt là phần Hiển siêu của Lý Trí… Lý Trí là phần Siêu hiển. Lý Trí hiển siêu, siêu hiển là khí cụ duy nhất để con người nhìn biết thế giới Vô Hữu hìnhHữu Vô hình đang sống động … tức chính Lý Trí là cái thứ Siêu Linh động. Đã hẳn, khí cụ Lý Trí hoặc giác quan cũng lầm lẫn, nhưng bó buộc chúng ta phải dùng xài cái đã, phải có vận dụng đến nó luôn.


    Đến lúc nhìn biết, nhận thức được, có sự sống động trong thế giới huyền vi, lúc ấy là lúc
    Thần Thức và Đức Thần Minh chợt lóe sáng lên. Thật ra, Thần Thức trực ngự ở Trí Tri, Ý của con người, còn Đức Thần Minh là phần Âm, so với Thần Thức (xem bài Tiên Hậu Thiên Trí Tri, Ý Thức).


    Tôi chưa cần tìm hiểu sự sống của con người có cao cả hơn loài vật không, bởi e rằng phán xét “linh ư vạn vật” (con người Linh hơn muôn loài) may ra chỉ đúng hạn hẹp, chỉ đúng ở trong một phạm vi chật hẹp giữa chúng ta con người mà thôi. Chắc con người phải biết rõ: Vũ Trụ Vô Hữu cực kỳ linh thiêng mầu nhiệm chứ?


    Con người theo quan điểm Dịch Lý là: con người có Thần Trí sống động cực kỳ linh động trong qui luật Sống Động. Cũng như vạn hữu đang sống động trong và ngoài nó. Đây là câu nói, câu định nghĩa hết sức vô tư, hết sức hữu lý. Tôi đang sống động, tuy là của riêng tư, tôi tự do nhưng suy cho cùng, xét cho cạn thì tôi đang đứng giữa muôn ngàn sự sống động của loài người và vạn hữu đang vây kín trong và ngoài tôi. Vạn hữu mà tôi muốn nói, bất kể không gian, thời gian, hễ có Lý Trí của con người mon men tới đâu, là nơi đó lập tức được và bị liệt vào Vạn Hữu.


    3. CON NGƯỜI SỐNG ĐỘNG TỰ DO TRONG LUẬT TẠO LẬP VŨ TRỤ
    Tôi nghĩ rằng Vạn Hữu dù muốn, dù không, cũng đã trở thành hiện hữu. Ít nữa là giác quan tôi có tiếp nhận, tiếp cảm, và cái trở thành này ít nữa cũng phải nằm trong cái Lý thành Biến hóa4tức mọi cái trở thành hiện nay đang nhảy múa theo Biến Hóa Luật và trong Biến Hóa Luật, khởi từ Nguyên Lý Biến Hóa, tôi gọi là Luật Tạo Lập Vũ Trụ, dựa trên Yếu Lý Âm Dương Đồng Nhi Dị (xem bài Yếu Lý Âm Dương Đồng Nhi Dị).


    Nếu chúng ta không tin, cũng như phủ nhận sự hiểu biết của loài người về Luật Tạo Lập Vũ Trụ, nghĩa là: làm gì có chuyện loài người truy ra được Luật Tạo Lập Vũ Trụ? Lại là con người Việt nam tìm ra được Luật Tạo Lập Vũ Trụ? Chuyện rất ngộ và rất khó tin!?
    Không tin thời tối thiểu, chúng ta cũng biểu đồng tình: Vũ Trụ Thành phải có căn cứ và đi với Qui Luật sao đó chứ?


    Và con người tự do sống động trong Luật Tạo Lập Vũ TrụLuật Biến Hóa có tuần tự và trật tự, đã chứng minh điều đó khá rõ ràng, nếu chịu khó theo dõi đường đi dĩ nhiên của muôn loại vạn vật một cách vô tư …


    4. KẾT LUẬN
    Con người theo quan điểm Dịch Lý:
    Là chính con người đặt tên cho con người, tên CON NGƯỜI để neo ý, để phân biệt với những sinh động hơi hơi khác , hoặc quá khác Nó.


    Là một cái Thành: CON NGƯỜI, đi trong Luật Biến Hóa Hóa Thành rồi hóa thành ra CON NGƯỜI BIẾN HÓA.


    Con người, cũng như muôn loài từ trong Luật Biến Hóa Hóa Thành mà ra, mà có (xem bài Lý Thành). Điều này hiểu được rất dễ dàng bởi Lý trí của tôi, cũng như ở Lý trí mọi người, một khi tôi chấp nhận Lý trí đã có, đã thành, thì chính lúc con người tôi thắc mắc, cũng chính là lúc Lý trí biến hóa đang phối hợp Trí Tri … để mà hóa ra có cái Ý thắc mắc rồi liền lập tức biết thắc mắc … và sau đó, thì có nếp nhăn suy tư ở trán, có sự trầm tư mặc tưởng ở điệu bộ, ở nét mặt …


    Rốt lại, nếu tôi, con người Hậu Thiên hóa thành, sinh thành sau Trời Đất, đứng trong quan điểm Vũ Trụ Dịch mà suy luận, thời nhân loại đang có mặt trong thời đại hiện nay, chỉ là sự kết tinh của muôn thuở nhân loại, đã và đang đi trong Luật Tiến Thoái hóa (Biến hóa Luật) mà về đến đây. Con người chui từ Luật Cấu tạo Hóa thành mà ra, mà có và muôn loài vạn hữu cũng vậy (xem giải lý về Manh Nha Không Hoàn Toàn Không), … và con người cũng như muôn loài tiếp tục đi trong Đạo Lý Biến Hóa (xem bài Ý Niệm về Dịch Lý)


    Tất cả nhân loại đều được và bị kết tinh, gồm có đầy đủ các sự Chí Thiện và Chí Ác của muôn thuở nhân loại đã trải qua đó (Hậu Thiên ôm ấp, ấp ủ Tiên Thiên) đang thể hiện ở trong những con người thời nay.


    Nói rõ hơn, dù không có tôi, không có con người tôi sinh ra trên đời này, thì Lý Biến
    Hóa vẫn biến hóa, đi trong Luật Cấu Tạo Hóa Thành, nó cấu tạo hóa thành ra: “tôi – con người” hôm nay, cũng như nó đã cấu tạo hóa thành ra muôn vô hữu vật (tức Vạn hữu) và muôn đời, theo trong qui luật Biến hóa Hóa thành nhất định, không còn có cách gì để ngờ vực chi được nữa.


    Rõ ràng: con người là một hóa thành có sự nội hợp, hòa hợp không chia cách giữa SIÊU THỂ TINH THẦN và HỮU THỂ VẬT CHẤT, không chia cách được giữa Lý trí SIÊU HÌNH với thân xác HỮU HÌNH, và đồng thời, CÙNG LÚC CHUNG CÙNG hóa thành ra một lượt: Vô Hữu hình, Hữu Vô hình con người. Danh từ chuyên môn trong khoa Dịch Lý là ÂM DƯƠNG.


    Âm Dương hóa thành là một đơn vị Thành Âm Dương cùng lúc chung cùng, bất khả phân ly, không chia cách được.


    Con người là một Hóa thành Biến hóa


    Con người là một Biến hóa Hóa thành


    Con người là một đơn vị, một Âm Dương hóa thành


    Con người là một Tĩnh Động, Động Tĩnh tự do trong qui luật Tĩnh Động, qui luậtSống Động


    Dù muốn dù không, con người đã tựu thành và đang thật sự sốn động hết sức linh động, hòa nhịp cùng Luật Thiên Địa Tuần Hoàn đó vậy.




    Dịch Lý Sĩ XUÂN PHONG
    Biên soạn CAO THANH
    Viết xong giờ: Cấu – Thuần Kiền


    SỰ ĐẶT TÊN – SỰ ĐỊNH DANH TRÍ TRI CƠ CẤU: TƯỢNG HÌNH HÀI THANH





    1. ĐẶT TÊN LÀ GÌ?
    Đi tìm một Danh từ để gán cho sự vật này là bàn, là núi, là rừng, là sông, là con người, là thú vật, là cỏ cây, … hầu để ý thức sự cá biệt giữa Vạn Hữu. Việc làm đó được xem như bước Tiến Hóa của con người trong luật Tiến Hóa chung.


    Vậy, Đặt Tên là gán ý nghĩa cho một sự vật, sự lý, neo một ý tưởng, một ý niệm sống động. Do đó, một vật được mang Tên (Hữu Danh) chỉ có giá trị giữa con người trong chúng ta, nó là một cuộc Tiến Hóa của con người về phương diện truyền thông tư tưởng, theo lối vẽ vời trong một dân tộc hoặc nhân loại (trường hợp qui ước Quốc tế).


    Tóm lại, một danh từ hàm chứa một ngôn từ tương xứng. Tất nhiên, tùy sự Tiến Hóa chung mà Ngôn từ cùng danh từ cũng có phạm vi và đời sống của nó, ngoài ra, giá trị của nó lại còn tùy theo con người, bởi mỗi con người hiểu danh từ khác nhau ở sự lý, nghĩa là một danh từ được nêu ra (bày ra), rồi lớn lên (được thường dùng); rồi lỗi thời (trở thành danh từ cổ); hoặc cùng một danh từ mà hai người hiểu khác nhau.


    Khảo sát quá trình Tiến Hóa của Ngôn từ, thời danh từ chỉ là sự phối hợp Biến Hóa trong Ngôn ngữ (vẫn biến theo qui luật).


    Tên, thật ra chỉ là sự phát âm cách – vật cải cách của âm thanh, âm thanh Tiến Hóa đến độ ghi dấu (ký hiệu), từ đó, phát ra chữ, ra văn, để làm qui ước cho mỗi Vận Hội. Cũng từ đó, con người bèn có sự học hỏi và viết lách (viết và đọc).


    Dịch Lý học không khảo sát quá trình tiến hóa của danh từ, nhưng thắc mắc: Tại sao đã Đặt Tên cho vạn vật?


    2. TẠI SAO PHẢI ĐẶT TÊN?
    Danh từ hay sự Đặt Tên do con người bày đặt ra. Để giải quyết vấn đề: “tại sao đã Đặt Tên cho mọi vật”. Ta cần nhớ rằng: sự Đặt Tên gồm có Ý thức, Ý tưởng, Ý định của con người, tất thảy bị mang danh, mang tánh và chỉ có ý nghĩa sao đó, riêng cho phạm vi con người. Nhưng tự chúng, tánh thật của chúng, cái tánh có mãi đang đi trong vòng tiến hóa muôn đời của chúng không thuộc ở danh tánh.


    Tiến trình của ngôn từ, âm thanh, màu sắc, hình bóng sẽ chung hợp biến hóa một cách nội tại để trở thành “danh từ”. Còn tiến trình của chiều kích, số lượng, thời biến hóa thành ra số ký tự hay ký hiệu.


    Từ căn cớ sinh động trên, ta tự hỏi: tại sao có sự Đặt Tên? tại sao đã Đặt Tên cho mọi vật?


    Xin đáp: tại nhu cầu của con người thuộc về phát âm và vẽ vời mà con người bày đặt Tên và Chữ viết, để cảm thông giữa con người chúng ta và cả nhu cầu sinh động.


    Thật vậy, với ý thức rõ rệt là muốn tránh sự nhầm lẫn của nhu cầu, chẳng hạn nhu cầu của lửa khác nhu cầu của ăn uống.


    Tất nhiên, nhu cầu tiến hóa thời danh từ tiến hóa theo. Nhu cầu uống nước tiến hóa thời danh từ nước sẽ mang tên: nước cam, nước chanh, rượu, …


    Nhưng chỉ có nhu cầu không chưa đủ. Người ta sẽ thắc mắc : tại sao cùng nằm nghỉ ngơi mà vật dung dưỡng có tên là giường, là bộ ván, là ghế bố, … (thật ra, đối với Dịch lý chỉ có một lý về dung dưỡng). Vậy, cùng một nhu cầu, người ta lại bèn theo phép phân biệt để định danh khác nhau. Rốt lại, tại sự nhu cầu, tại sự phân biệt mà một vật đã được đặt một Tên để truyền thông tư tưởng. Dầu vậy, già lắm của sự trở thành Danh từ cũng chỉ có giá trị đến mức độ qui ước thôi. Danh từ được xem như bờ mốc, như chiếc neo ý tưởng, tư tưởng, thuộc về văn vẻ.


    Danh từ gợi truyền tư tưởng, chớ nó không phải là chính thực tư tưởng. Danh từ đáng là dụng cụ truyền thông tư tưởng trong vận hội hiện nay cũng như đã qua.


    Không có danh từ, con người vẫn suy tư, vẫn hiểu biết nhưng rất khó khăn trong việc truyền thông ý tưởng giữa chúng ta vậy.


    3. ĐẶT TÊN THEO MỘT LÝ NÀO?
    Tại sao gọi tên là cây viết, cây thước, cây ổi, cây mít, tại sao?
    Câu hỏi này tỏ ra ngớ ngẩn đối với những người mặc nhiên chấp nhận qui ước của tiền nhân hoặc đang bị ghì chặt, bị chết ngộp trong danh từ.


    Đối với họ, mỗi danh từ có một ý nghĩa vĩnh viễn, họ luôn luôn có quan niệm thuộc về thiên kiến và chỉ có họ là đúng lý. Đối với họ, tiền nhân gọi vật này là cái bàn, ai gọi mặt gỗ có bốn chân ghép lại với nhau ở bên dưới thì không đúng đối với họ và lập tức cho kẻ ấy là người điên, nói khác đi, cái bàn mà gọi là gỗ, họ không muốn hiểu theo lối truy nguyên, vì chính họ không muốn biết, muốn hiểu.


    Chúng ta đồng ý về sự Đặt Tên của tiền nhân với tánh cách một qui ước tiện lợi. Song đối với con nhà Dịch Lý con nhà truy nguyên sự thật, đi tìm Chân lý muôn đời thời cái gì cũng phải đạt sự hữu lý một cách tận cùng ký lý và vô tư. Phải biết lý do Vô lý, Hữu lý của sự Đặt Tên, dù là lý do của qui ước.


    Vậy, tiền nhân đã định danh theo một nguyên lý nào? Cái Lý của sự định danh là đã có Ý thức, Ý định, trước rồi mới định Danh trong phạm vi có so sánh, khi thành một danh từ là có Ý tưởng trong đó vậy.


    Trước kia, lúc chưa đặt tên, cây ổi hay cây mận có đó và con người thời trước hiểu nó nhưng chưa gọi nó là gì cả. Ban ngày, ban đêm, nhìn biết có nó, con người có hiểu nó làm sao đó, nhưng vẫn không biết phải gọi nó ra sao cho hợp lý. Nó chẳng là Tên gì. Con người có Ý thức, hoặc quan sát, hoặc nhìn biết và nhận rằng:


    Ví dụ: có một sự biến chuyển trôi qua, Trí Tri nhái lại sự kiện ấy, nghĩa là hiểu biết nó có đó và vậy đó, giống hệt tương đồng cho cả ngày và đêm.


    Ghép cả Ngày và Đêm lại thành một phạm vi rồi so sánh chúng, so sánh giữa Ngày và Đêm. Con người bèn khám phá ra một cái gì hơi khác trong cái tương đồng về sự biến chuyển trôi qua giữa Ngày với Đêm. Cái hơi khác ấy là cường độ ánh sáng khác nhau. Ý thức cái hơi khác nhau về cường độ của ánh sáng mà hóa ra muốn Định Ý, Định Danh là SÁNG, là TỐI.


    8]SÁNG là sáng có so sánh với TỐI
    8]TỐI là tối có so sánh với SÁNG


    Nếu không so sánh trong một vòng biến chuyển, thì chính trong một vòng biến chuyển trôi qua đó, chúng ta cũng chẳng làm sao mà neo cho được ý tưởng MỘT mà HAI.


    Một là cái tương đồng, là một vòng biến chuyển trôi qua, chung cho cả Ngày với Đêm.
    Hai là hai cái giống mà hơi khác nhau, là cường độ sáng, tối khác nhau.


    Một mà Hai là phạm vi hữu lý. Khi chưa biết phạm vi mà dám chấp nhận Tên, thật là mù quáng, là sai lầm, sai lầm ở chỗ chưa biết có lý hay không mà lại dám chấp nhận.


    Một là tương đồng, là nhất lý. Hai là dị biệt, là khác nhau. Một mình sáng là vô lý, là không có ý nghĩa gì. Một mình tối là vô lý, là không có ý nghĩa gì. Vì lẽ người ta sẽ hỏi rằng : lấy  gì mà cho thế đó là Tối, thế đó là Sáng? Tôi gọi là mờ, là tỏ, được không? Tôi gọi là âm, là dương được không? Ắt bạn chỉ còn trả lời bằng một lời than : Khổ quá! chấp nên làm chi cái thứ danh từ, cái danh này ban nghĩa cho cái danh kia, thành ra cả hai đều có lý, đều có ý nghĩa lẫn cho nhau. Vậy chúng tự làm căn bản cho nhau theo qui ước của con người, chớ thật ra tự chúng không có Tên đó.


    Vậy, gọi là Sáng là cường độ sáng đang trưởng, đang lớn, đang nổi bật mà ẩn hiện bên trong cái sáng là Tối, đang tiêu, đang mờ nhạt ở trong. Còn gọi là Tối là bóng tối đang trưởng, đang lớn, đang nổi bật mà ánh sáng đang ẩn, đang tiêu, đang mờ nhạt ở trong.


    Rốt lại, sẽ có ý nghĩa và được gọi là ban ngày khi có so sánh với ban đêm, và ngược lại đêm có so với ngày, cả hai chỉ là trong một vòng biến chuyển. Nhưng đôi khi so sánh quá nhanh do Thần Thức điều khiển đến nỗi ta không dè chính ta đã so sánh rồi.


    Ví dụ: bảo rằng lửa nóng là đã ý thức phạm vi giữa nước và lửa mà da thịt ta bẩm thụ hoặc va chạm, so sánh rồi cho là nóng. Sự chấp nhận này quá nhanh, quá tinh vi của Thần Thức, tuy vậy vẫn hằng sai lầm.


    Cái lý của sự Đặt Tên tỏ rõ tính chất LÝ SỰ của sự vật và nó hòa hợp đồng điều với sự định ý của ta, con người.


    Cái  định danh diễn tiến như sau :


    (1) Trước khi một vật có Tên, thời có việc ý thức, định ý của ta đối với vật gì đó, rồi bỗng nhiên vật gì đó bị con người gán lên trên đó một danh tánh (danh từ), phủ lên nó một âm thanh (ngôn từ).


    (2) Đặt một phạm vi cho sự  của một vật nào đó rồi so sánh


    (3) So sánh cái hơi khác nhau trong một sự  của một vật nào đó


    (4)  của sự vật đủ sức làm bờ neo tạm, đối với việc ý thức, ý định của ta, để truyền thông tư tưởng, giữa chúng ta, con người


    (5) Theo Lý học, định danh là để cho rõ trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Như Đức ở trong Tính, Tính ở trong Tình .


    Một ví dụ về sự Đặt Tên:
    Lúc con tôi mới có hình dáng trong bụng mẹ nó (tức là cái bào thai), tôi bèn:
    (1) Ý thức man mán về con tôi là trái hay gái, nghĩa là tôi hiểu tôi có con, nhưng chưa hiểu rõ rệt là trai hay gái. biết: có con Tôi:
    chưa biết: trai hay gái


    (2) Khi mẹ nó thọ thai, tôi có phạm vi: con tôi là con người (đồng là con người)
    25]Trai hay gái đều có chung một phạm vi con người


    (3) So sánh cái hơi khác nhau trong một phạm vi đồng là con người : trai hay gái
    TRAI …………………… so lại ……………………GÁI


    (4) Sau khi so sánh trai hay gái, và đã phù hợp với Định Ý trước kia, con trai sẽ mang Danh có tánh là trai. Hoặc con gái sẽ mang Danh có tánh là gái với hình thể sau đó.


    8]Chỉ có một bào thai, lúc nó có danh tánh trai, lúc lại có danh tánh gái. Vậy, TÊN là sao? Có nghĩa lý gì đối với con nhà học LÝ.


    4. GIÁ TRỊ CỦA SỰ ĐẶT TÊN
    Hết thảy Vạn Hữu hiện có trong Vũ Trụ này, xưa kia vốn có KHÔNG TÊN. Không là Tên gì cả, không có giàu Ý nghĩa như hiện nay.


    Về sau, sự vật bị gán Tên, bị tra cứu tùy thuộc nhu cầu nhân loại đang tiến hóa trong vận hội, nghĩa là Tên và Tính tùy thuộc vào Ý thức thời đại của con người. Ngoài ra, con người còn phân loại, định danh li ti để phân biệt, để ít lẫn lộn.


    Rồi con người lại gán cho vật mang Tên này có lợi ích, còn vật mang Tên kia gây tai hại, thật ra Một nó là lợi hại (âm dương).


    Một vật nối kết theo chuổi Lý Một mà Hai và liên hệ chằng chịt với nhau. Sự Đặt
    Tên cũng là sự tiến hóa từ HƯ đến NHƯ, từ Vô tư đến hóa Tư lự, xem ra như cũng có công dẫn dắt con người nắm được, hoặc nhìn rõ được sự phức tạp liên hệ của Vạn hữu. Sự Đặt Tên trở thành một nhu cầu và càng lúc càng phong phú. Một qui ước được mặc nhiên chấp nhận.


    Giá trị của sự Đặt Tên tương tự giá trị của một Định đề trong toán học. Chấp nhận không gian 3 chiều mặc nhiên chấp nhận định đề Euclide, chấp nhận một danh từ là mặc nhiên chấp nhận một qui ước của tiền nhân hoặc của chúng ta con người.


    Tuy nhiên, gò bó trong ý nghĩa hạn hẹp của một danh từ là điều tai hại cho chính bản thân mình trước tiên, vì sự thật trong muôn đời, muôn kiếp luôn có giá trị vượt khỏi ngôn từ, danh từ. Bám lấy danh từ như một phép màu, như một cái gì đúng  là tự dấn mình vào con đường mê lầm, nghĩa là bắt đầu xa rời CHÂN LÝ, xa rời SỰ THẬT. Một khi danh từ được con người hiểu chết nghĩa thời nó đủ sức làm thoái hóa con người và khó tiến đến Đạo Cảm Thông Thiên Địa.


    Người học Dịch Lý chỉ nhận những gì có LÝ muôn đời và mọi nơi.


    Câu chuyện được gọi là chí lý, tối thiểu phải có hai: là cái giống mà hơi khác nhau. Ví dụ: ĐỨC TÍNH, Tính hiện mà Đức ẩn (Âm Dương). Chúng tự lại làm căn bản lẫn cho nhau trong cái NHẤT LÝ. Nói khác đi, chỉ có Một là vô lý ngay tức khắc. Vậy, phải có Hai: giống mà hơi khác nhau, để chúng tự ban cho nhau nghĩa , có , chính  muôn đời.


    Hiểu được nguyên lý định danh mới sử dụng danh từ có lợi và ít khi ngộ nhận một cách sơ đẳng như ta hằng thấy.






    TẠI VÌ SAO TA TÌM HỌC DỊCH LÝ


    Xin phúc đáp:

    Tại vì nghe nói Mục đích của Khoa Dịch lý học là để tìm biết về:
    a- Nguồn gốc của Lý trí Tánh-Đức Tánh Biết Biến Hóa Hóa Thành…
    ă- Học về Vạn Vật Quy Nhất Lý-Nhất Lý là Âm-Dương lý… Nó chính thị là Khoa học Tổng tập của Nhân thế .
    â- Học về Chân lý Tuyệt đối…tức Chân Lý Mãi mãi Chân lý Tuyệt đối là Yếu lý Âm –Dương Đồng Nhi .Dị Nó là Nguồn gốc Sinh ra Lò Tạo Hóa đó vậy.
    b- Học về Thiên Địa Chí Công Vô Tư, tức học về Biến Hoá Luật Biến động , Biếnđổi , Biến Hoá , .Hóa Thành.
    c- Học về Vũ- Trụ- Ngữ để thông dịch đại ý tiếng nói của thượng cầm hạ thú và của con Người.
    d- Học về Vũ Trụ Đạo để Thuận thiên Hành Đạo và để khai vật thành vụ .
    e- Dịch không là gì cả. Dịch là cái gì đó. Dịch là tất cả Nghe nói hấp dẫn quá, nên bèn tìm học dịch lý .


    TẠI VÌ SAO CHÚNG TA ĐỀ CẬP ĐẾN CON NGƯỜI ?



    Xin phúc đáp: 

    a– Vì chúng ta mang DANH TÁNH CON NGƯỜI.Cho nên, trước tiên chúng ta phải bị và được đề cập …đến con Người cái đã .
    ă- Con Người tìm hiểu về Con Người, đề cập đến con Người – đó là VIỆC LÀM vô cùng THIẾT THỰC.
    â- Con Người “TÔI” lẽ dĩ nhiên, đương nhiên rất GẦN GŨI với chính Bản Thân Con Người “ TÔI ” có gì, có chi để đề cập? không đâu …Tôi chẳng biết TÔI là ai đâu? Từ đâu “ TÔI ” đến đây? Đến đây để làm gì ? Và rồi” “ TÔI ” sẽ đi về đâu ??? Cái “ TÔI “ đáng ghét, cho nên Tôi không hiểu “ TÔI “ ; Thật sự “ TÔI ” là ai ? Tôi cũng chẳng biết… cho nên , rất cần đề cập đến CON NGƯỜI để mang cái “TÔI ” XA LẠ về GẦN với.— với Cái Tôi CON NGƯỜI.



    CON NGƯỜI LÀ GÌ?


    Xin phúc đáp: 

    a- Khi tôi tự hỏi- Con Người là gì? Có nghĩa là tôi tự thắc mắc muốn biết: Tôi là gì? Tôi là ai?..Tôi tìm đọc hết mọi sách triết học luận bàn về Con Người. Tôi tìm đọc các sách y học về cơ thể con Người … Các sách văn chương tiểu-thuyết nói về siêu nhân, anh hùng cái thế… tôi đọc hết. Than ôi! Con Người vẫn dẫy đầy Huyền Vi, huyền bí vẫn bao phủ , bao quanh cái tôi Con Người.
    ă- Con Người Tôi- đáng Yêu biết bao…đáng bị và được Bảo vệ…Tự sát là …phạm tội rất nặng. Cái Tôi-lại đáng ghét biết bao – cái Tôi cưu mang trùng trùng tội lỗi – Đó chính là Âm-Dương lý trong một cái Tôi Con Người.
    â- Con Người theo quan điểm Văn-Minh Dịch Lý Việt Nam:- Con Người là một vật NĂNG THẮC MẮC…Thắc mắc hoài ,Thắc mắc mãi, Thắc mắc tại sao? Rồi tận dụng Lý trí sẵn có để giải đáp mọi cái tại sao…Hóa ra Chính Con Người dùng Lý trí thắc mắc về nguồn gốc của Lý trí … Lý trí giải đáp cho được tại vì sao có Lý trí ; Đó là con Người theo quan điểm Văn- Minh Dịch lý Việt-Nam.


    LÝ TRÍ LÀ GÌ?



    Xin phúc đáp:

    a- Lúc Trí óc chúng ta Chợt loé sáng lên, nó giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề gì đó…Chúng ta gọi nó là Lý Trí
    ă- Khi chúng ta suy nghĩ tới một ngôi sao xa xăm, xa tít nào…Lý trí liền tới ngôi sao đó và trở vể ngay LẬP TỨC…xem như Vô giây phút về sức phóng ra và thu về của Lý Trí…Đặc Tánh của Lý trí là Liền tức khắc , lập tức..Nó mang Tính bất chấp không thời gian , Nó độc lập với không thời gian.
    â- Tiền nhân nói: Nhanh như THẦN.Sức thu phóng của Lý trí quả thật Nhanh như Thần…Vậy, ta gọi là Lý Trí hay Thần trí thì cũng vậy.Thần trí trụ về đúng hướng , đúng chỗ, ta gọi nó là Đức Thần Minh Chí công vô tư.
    b- Lý trí khi ứng xử , nó bị và được đặt tên là Lý lẽ.
    Ví dụ : Anh nói trái banh nầy TO quá, tôi xác định nó NHỎ . Anh dùng lý lẽ nào để xác định Trái banh nầy TO quá có được không? Vậy, chỉ có 01 trái banh và chỉ có 01 mà thôi…thì chúng ta không làm sao xác định trái banh ấy To hay Nhỏ cho được .
    c- Nhưng trong một phạm vi có hai trái banh ,trái banh A và trái banh B ; Khi chúng ta so sánh xong; chúng ta kết luận trái banh A ĐƯỢC LÝ To hơn trái banh B ( hình hai trái banh A và B). Vấn đề ĐƯỢC LÝ là tối thiểu phải có hai trong 01 phạm vi nào đó.Vấn đề Được Lý tạm thời chấm dứt sự tranh cãi về Lý lẽ….Vậy Lý là có 02 trong 01…có nghĩa là Lý Trí luôn luôn ôm ấp Yếu lý Âm Dương Đồng nhi Dị đó vậy.


    Dịch lý Việt Nam của ông Nguyễn Văn Mỳ quả là khác!!! Khác hẳn với Dịch lý Trung Hoa, khác là vì khi coi không trọng dụng thần, không trọng hào từ mà đi vào cái thần trí vô tư.Tôi tuy không đi theo con đường này nhưng cũng có nghiên cứu một thời gian
    Đặc điểm thứ nhất:
    – Âm dương trong lý Dịch của ông là Đồng nhi Dị, giống mà khác, chính đó là lẽ âm dương mà có thể bao quat được bao la vạn vật.Tỷ như trong cái búa, cái đinh, cái kéo cùng có chất sắt, mà khác nhau ở hình dáng công dụng.
    Cái ứng của quẻ Dịch chính là ứng của thần trí vô tư, không câu nệ không gian thời gian, đoán chính xác thì phải hiểu được cái Đồng và cái Dị của quẻ Dịch và sự việc.
    Nói cách khác, trọng cái vô tư thần linh trí của người học Dịch, chứ không trọng qui tắc phán đoán hay công thức
    Về nhận xét: con đường này chỉ khi đã đạt kiến thức bao la, và tĩnh tâm tới mức vô tư vô lự thì mới hội nhập được.Gần như là dùng linh cảm , luyện tới mức cảm ứng , còn sơ cơ mà chọn đi theo đường này thì chỉ có sai.Đoán chơi thì còn được, chứ lúc vào việc mà động tâm thì đoán sai là chắc chắn.Nên những người theo con đường này thường là ẩn sĩ.
    Dịch lý TQ thì dựa theo: Vô sự bất cầu chiêm, động tâm tất có linh ứng
    Con này dễ theo dễ học, có qui tắc
    Có thể hiểu câu: “Muôn thứ qui một ” là Dịch lý TQ
    Còn Dịch lý VN thì : ” Một đi về đâu”, khó, khó vô cùng.Tưởng là đơn giản mà không đơn giản, tưởng là dễ mà cực khó.Tiếc là gặp nhiều người theo mà chưa thấy ai có gì nổi trội trong hệ phái này. 

    Dịch lý Việt Nam của ông Nguyễn Văn Mỳ quả là khác!!! Khác hẳn với Dịch lý Trung Hoa, khác là vì khi coi không trọng dụng thần, không trọng hào từ mà đi vào cái thần trí vô tư.Tôi tuy không đi theo con đường này nhưng cũng có nghiên cứu một thời gian
    Đặc điểm thứ nhất:
    – Âm dương trong lý Dịch của ông là Đồng nhi Dị, giống mà khác, chính đó là lẽ âm dương mà có thể bao quat được bao la vạn vật.Tỷ như trong cái búa, cái đinh, cái kéo cùng có chất sắt, mà khác nhau ở hình dáng công dụng.
    Cái ứng của quẻ Dịch chính là ứng của thần trí vô tư, không câu nệ không gian thời gian, đoán chính xác thì phải hiểu được cái Đồng và cái Dị của quẻ Dịch và sự việc.
    Nói cách khác, trọng cái vô tư thần linh trí của người học Dịch, chứ không trọng qui tắc phán đoán hay công thức
    Về nhận xét: con đường này chỉ khi đã đạt kiến thức bao la, và tĩnh tâm tới mức vô tư vô lự thì mới hội nhập được.Gần như là dùng linh cảm , luyện tới mức cảm ứng , còn sơ cơ mà chọn đi theo đường này thì chỉ có sai.Đoán chơi thì còn được, chứ lúc vào việc mà động tâm thì đoán sai là chắc chắn.Nên những người theo con đường này thường là ẩn sĩ.
    Dịch lý TQ thì dựa theo: Vô sự bất cầu chiêm, động tâm tất có linh ứng
    Con này dễ theo dễ học, có qui tắc
    Có thể hiểu câu: “Muôn thứ qui một ” là Dịch lý TQ
    Còn Dịch lý VN thì : ” Một đi về đâu”, khó, khó vô cùng.Tưởng là đơn giản mà không đơn giản, tưởng là dễ mà cực khó.Tiếc là gặp nhiều người theo mà chưa thấy ai có gì nổi trội trong hệ phái này.



    Bạn chỉ mới nghiên cứu sơ mà nói là chưa có ai nổi trội trong môn DLVN thì hơi bị lầm. Thật ra bạn nói đúng là ” DLVN ” sử dụng 2 nguyên lý cơ bản nhất là ” Đồng Nhi Dị – Dị Nhi Đồng ” & ” Danh Lý & Danh Được Lý “”.


    Trong tất cả sự biến đổi của vạn hữu vật, nếu không có ” Dị “” tất không co biến đổi, mà đã biến đổi tất có ” Dị “. Nếu chỉ có “” Đồng “” mà không có “” Dị “” thì sẽ không có vạn vật như ngày nay.


    Cái Hậu Thiên luôn ôm áp chứa đựng bên trong nó cái Tiên Thiên nhiệm nhặt chi ly. Bên trong mọi vạn vật luôn có “” Âm & Dương “” cùng lúc chung cùng, nếu như ngày nay chúng ta nói Nam là Dương & Nữ là Âm thì chẳng qua cũng đó là sự “” Liều Mạng “” của cha ông trước đó Neo ý vào sự vật hiện tưởng mà đặt danh. Vậy ngày nay hàng hậu bối chúng ta đã hiểu gì về “” danh lý & danh được lý chưa “” nếu đã hiểu Nam là Dương ( Âm – Dương ) & Nữ là Âm ( Dương – Âm ) thì sẽ quy nó về phạm vi tình lý nhiệm nhặt để tạm định danh cho nó có lý bằng cái Trí Tri Ý thức của chính mình, hay còn gọi là Đức Thần Minh Vô Tư.
    1. XIN CHO BIẾT VỀ: SỰ TỰU THÀNH-LÝ HÓA –THÀNH
    Xin phúc đáp:
    a- Sự Tựu Thành là mọi Cái Nhiên đã, đang ,sẽ bị và được Thành hình,thành tựu,hóa Thành.
    Tỉ như: Cây sẽ tạo thành bông , bông sẽ tạo thành trái
    ă- Ví dụ về Sự Tựu Thành cái bào thai để tìm hiểu về Lý Tựu-Thành

    – Hóa-thành một cái bào thai…ví dụ thai nhi con Người đó là: Con Người tôi.

    – Phân tích trong cái tôi thai nhi đó có hai: khí huyết của cha ,và khí huyết của mẹ
    – Hai thứ khí huyết nầy Cùng Giao (âm-dương tương giao) ( Xin coi hình bên dưới )
    – Vậy gồm có tối thiểu để có cái lý Tựu Thành ra tôi con Người , ít nữa phải là:

    Posted Image



    Đếm số: một là cha , hai là mẹ , ba là thai nhi con người tôi.Tựu-Thành ra 01 cái tôi con Người-trong chính con Người tôi đã , đang và sẽ mãi mãi mang cái Lý 01 là 03.
    â- Cái LÝ 01 là 03 là Lý Tựu-Thành, còn gọi là Đạo Hóa-Thành


    2. XIN NÓI RÕ VỀ LÝ SỐ 01 LÀ 03


    Xin phúc đáp:

    a- Lý lẽ của Lý số 01 là 03 là nói về Lý Biến-Hóa Hóa-Thành. Còn như bàn về Số Lý là ý muốn nói bất kể một Tựu Thành nào cũng phải bị và được mang cái số lý 01 mà 3 – một mà có ba ở trong chính cái tựu thành đó.
    Ví dụ: Tựu Thành một cục đá,trong chính nó phải có hai yếu-tố giống mà hơi khác hoặc khác hoặc quá khác,trong đó nó có-một là nhiễn thể đá, hai là khối thể đá và thành 01 cục đá .(01 mà gồm cả là 03)
    ă- Hóa Thành 01 vũ-trụ, trong chính vũ-trụ phải có hai: Vô-thể và Hữu thể. Hóa-Thành Một con Người,trong chính nó phải có hai: Khí huyết của cha và khí huyết của mẹ.
    Tóm lại: Đắc đạo là sở đắc trên con đường diễn tiến Hóa-Thành, cho nên con ruồi phải đắc đạo cái đã, tiên hậu mới Hóa-Thành ra con ruồi…
    â- 01 là 03 trong phạm-vi Lý số : Nó là một Huyền niệm và cũng là huyền nhiệm…Là sự huyền vi nhiệm mầu( trong Kinh Thánh của Đạo Thiên Chúa: Một Chúa ba ngôi-có sự trùng hợp với Dịch-lý…Đó cũng là lão tổ của Đạo Lý Hóa Thành mà cũng là lão tổ chuyên nói về Dĩ-vãng đó vậy-.).

    3. XIN CHO BIẾT CÓ BAO NHIÊU CÁI HÓA – THÀNH TỐI THIỂU 01 LÀ 03 TRONG VŨ – TRỤ VÔ-HỮU NẦY?

    Xin Phúc đáp:



    a– Trước tiên,tiền nhân LIỀU MẠNG Phân Tích gượng ép ra Hai giống mà hơi khác trong bất kể ,bất cứ Một Phạm-vi Âm-Dương nào.Vì Âm –dương vốn bất khả phân ly không chia cắt ra được.Và tiền nhân miễn cưỡng Neo Ý dịnh danh cho sự ĐƯỢC LÝ là Âm-dương (Âm),gọi vắn tắt là Âm, nhưng trong Trí hiểu thì luôn nhớ đó là âm-dương (Âm)…Và (Dương) Âm-dương ,gọi tắt là Dương,và luôn nhớ và hiểu sự thật là Âm-dương Cùng Lúc chung cùng.
    ă- Hình tượng : ký hiệu (- – ) tiền nhân tạo cho nó là Âm ( Dương – Âm ), ký hiệu ( —) tiền nhân cho nó là Dương ( Âm – Dương )
    Theo lý Tựu Thành một là BA,thì mỗi tựu thành phải đầy đủ BA VẠCH. Mỗi hình Ba Vạch ta gọi là một Đơn tượng .
    -Ta lần lượt Mò Mẫm: chồng ba vạch đứt âm lên nhau ta có hình đơn tượng Khôn ( H1).
    – Ba vạch dương liền chồng lên nhau ta có: hình tượng Kiền ( H2 )
    – Một vạch dương dưới cùng (theo thứ tự chồng chất từ dưới lên trên, thì vạch sau mới gọi là chồng lên trên vạch có trước) hai vạch âm đứt thứ tự lần lượt chồng lên trên,ta có hình tượng Chấn ( H3 )
    – Một vạch Âm ở dưới cùng,chồng lên trên lần lượt hai vạch dương, ta có hình tượng Tốn ( H4 )
    – Một vạch Dương ở dưới cùng , chồng lên một âm, rồi chồng thêm lên một dương sau cùng, ta có hình tượng Ly H5 )
    – Một hào Âm bên dưới cùng ,lần lượt phủ lên trên một hào dương ,lần thứ ba cuối cùng phủ lên trên nó một hào âm,ta có hình tượng Thuỷ ( H6 )
    – Một hào dương bên dưới,một hào dương kế tiếp phủ lên trên và cuối cùng một hào âm phủ lên sau cùng, ta có hình tượng Đoài H7 )
    – Một hào âm dưới cùng , phủ lên trên kế tiếp một hào âm và phủ lên lần cuối cùng một hào dương, ta có hình tượng Cấn ( H8 )
    â- Sau khi mò mẫm,tuân theo Lý 01 là 03, ta có 08 cái một mà ba.Ta kiểm soát thật kỹ lưỡng lại, hễ dư thì thừa hình tượng trùng lấp vô ích,mà thiếu,tức không đủ 08 hình tượng thì ta kém vô-tư trong việc Mò Mẫm tìm hiểu ,tìm biết về lý lẽ hình tượng ba vạch chồng chất liền nhau.
    b- Như vậy ,bất cứ ,bất kể Một đơn-vị âm-dương hóa Thành nào cũng phải bị và được ôm-ấp đủ cái lý 08. Đó là 08 cái Tính Lý , tám cái Đức Tánh , tám cái Thần lực…08 cái Lý 01 là 03 nầy Nó trực ngự trong mọi loài Hóa Thành. Hễ chạy khỏi Lý Hóa Thành thì liền thoát khỏi 08 cái quyền lực Hóa Thành tối thượng nầy. Rất tiếc ,cái gì ,cái chi cũng ở trong cái Lý Hoá Thành .Hóa Thành ra Vụ-Trụ ,vậy Vũ-trụ phải ở trong 08 đó.
    Posted Image


    1. HỎI XIN CHO BIẾT HÌNH ĐỒ NỔI TIẾNG VỀ VẬN –HÀNH ĐẠO – THEO CÁC VẠCH ĐỨT VÀ LIỀN


    a- Trong Kinh Dịch ,có hình đồ Thái-cực-Lưỡng nghi-Tứ tượng . Đó là hình đồ nổi tiếng về Tứ Tượng Vận –Hành Đạo . Trong Thái Cực đã sẵn có Lưỡng nghi-chứ không phải Thái cực sinh Lưỡng nghi . Trong Lưỡng nghi đã sẵn có Tứ tượng -chứ không phải Lưỡng nghi sinh Tứ tượng đâu

    Posted Image

    ă- Vi dụ: Hoá Thành ra một Thai Nhi .
    Trong thai nhi đã sẵn có hai nghi: một nghi khí huyết của mẹ và một nghi khí huyết của cha.
    Chúng hoà trộn với nhau-nội hợp với nhau – không chia cắt ra được và có 04 tính lý, 04 đức tính ,04 danh tánh:

    01- nghiêng nhiều về mẹ (giống mẹ quá) có tên Thái âm .
    02- nghiêng ít về cha (giống cha ít thôi) có tên Thiếu dương .
    03- nghiêng ít về mẹ (giống mẹ ít thôi) có tên Thiếu âm .
    04- nghiêng nhiều vế cha (giống cha quá) có tên Thái dương .


    2. XIN HỎI: XIN CHO BIẾT SƠ LƯỢC TRIẾT LÝ NGŨ HÀNH?


    a- Xuân-Hạ-Thu-Đông là 04 hình tượng trong Một Phạm-vi:THỜI MÙA.
    Vậy Gồm cả các TRỤC Phạm-vi:THỜI MÙA Là có 05 cả thảy.
    Trong TRỤC THỜI MÙA có Tứ tượng vận hành ở trong chính Nó.
    Nói khác đi, Vận-Hành Đạo phải Nằm Lăn trên TRỤC của nó .
    ă- Tiền nhân lựa các hình tượng Biến Hoá cực chậm so với đời sống con Người trong Vũ-trụ, rồi Gán danh tượng trưng nhớ về Triết lý Ngũ Hành trong Vũ trụ. Đó là các danh: THỔ-KIM-THUỶ-MỘC-HỎA.
    â- Đem vào phạm-vi Tình Đời –Tình Người chúng ta có các Danh:
    NGUYÊN-CỪU-KỴ-TIẾT-DỤNG
    diễn tả Sự giúp đỡ hoặc sự phá hoại, ân oán giang hồ trong dòng Trời-Đời-Người.
    b- Hoặc VĂN-HÓA (Hoả) giúp cho CHÍNH TRỊ (Thổ) giúp cho QUÂN SỰ QUÔC PHÒNG (Kim) giúp cho An Cư Nội An -NỘI VỤ (Thuỷ) an bình giúp cho DÂN TRÍ GIÁO DỤC phát triển (Mộc) rồi Dân Trí Cao (giáo dục) trở lại giúp cho VĂN-HOÁ Bộ Mặt Mới (BMM) Cao hơn VĂN-HOÁ Bộ Mặt Cũ (BMC) đó vậy …


    3. XIN CHO BIẾT NGHĨA LÝ CỦA CÁI LÝ 01 LÀ 05?


    Xin phúc đáp:
    a- Nó là cơ sở căn bản luận cho Lý Ngũ hành quân bình,cân xứng trong Vũ-trụ Vô-Hữu đó vậy. Bởi Lý Vận Hành Luân chuyển thì PHẢI BỊ và ĐƯỢC Vận-Hành trong Trục Vận-Hành thì mới An Toàn, Quân Bình Cân Xứng được,bằng như không có trục Vận Hành thì Đạo Vận Hành sẽ đi về đâu ?
    ă- Ta nhìn thật kỹ vào hình đồ Vận Hành –hình chữ thập hoặc hình chữ Vạn ,ta thấy ngay :Tứ tượng Xoay vần, xoay vần trên và trong Trục Vận Hành của nó, mà hóa ra nó bị và được Cân Xứng Quân Bình mãi mãi trong tình thế ĐỘNG (Tĩnh động) . Chúng ta cứ nhìn bánh xe lăn trên trục đùm của nó ắt hiểu ngay cái LÝ QUÂN BÌNH SINH-HÓA LUÂN-CHUYỂN .
    â- Chúng Ta được biết Lý Quân Bình Tối Thiểu 01 là 02 với trục của nó (Hình ảnh cái cân). Nay chúng ta biết Lý Quân Bình Tổng Quát mang nghĩa lý 01 là 05 .


    KINH LÀ SÁCH
    DỊCH LÀ BIẾN HÓA , CHUYỂN ĐỘNG
    KINH DỊCH LÀ THỨ SÁCH NÓI VỀ NGUYÊN LÝ BIẾN HÓA CHUYỂN ĐỘNG CỦA VẠN VẬT TRONG TRỜI ĐẤT
    VẬY DIỄN TẢ NÓ NHƯ THẾ NÀO… HƠI KHÓ DIỄN ĐẠT NHƯNG TA LẤY VÍ DỤ NHƯ TRONG TỰ NHIÊN QUAN SÁT NHỮNG CHIẾC LÁ BAY TRONG GIÓ DỰA VÀO ĐÓ MÀ BIẾT GIÓ ĐANG THỔI VÀO PHƯƠNG NÀO VÀ SỨC MẠNH RA SAO DÙ RẰNG GIÓ VỐN VÔ HÌNH VÔ ẢNH , TƯƠNG TỰ NHƯ THẾ Ở 1 CẤP ĐỘ CAO HƠN KHI QUAN SẤT CÁC TINH CẦU , VÌ SAO DỰA VÀO CHUYỂN ĐỘNG CỦA CHÚNG MÀ NGƯỜI TA SUY RA ĐƯỢC CÁC VŨ TRỤ LỰC ĐANG VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO…. TƯƠNG TỰ NHƯ VẬY NGƯỜI TA KHÔNG THỂ CẢM NHẬN BẰNG 5 GIÁC QUAN THÔNG THƯỜNG CÁI ĐÓ ĐANG VẬN HÀNH TIỀM NHẬP TRONG VẠN VẬT NHƯNG NHỜ QUAN SÁT VẠN VẬT MÀ BIẾT ĐƯỢC CÓ CÁI ĐÓ ĐANG TỒN TẠI……. VẺ ĐẸP CỦA MỘT CÁNH ĐỒNG HOA MUÔN NGÀN SẮC , VẺ DŨNG MÃNH CỦA CHIM ĐẠI BÀNG BAY TRÊN BẦU TRỜI BAO LA , NÉT TÌNH SI TRONG ĐÔI MẮT CỦA CHÀNG TRAI ĐANG YÊU HAY ĐÔI MÁ ỬNG HỒNG THẸN THÙNG CỦA CÔ GÁI KHI ĐƯỢC NGHE TỎ TÌNH v.v….. DÙ LÀ MUÔN VẠN HÌNH TƯỚNG KHÁC NHAU NHƯNG CHẲNG PHẢI LÀ THẤM NHẬP VÀ XUYÊN SUỐT TRONG TẤT CẢ LÀ DÒNG CHẢY SỰ SỐNG SAO…..
    NGƯỜI TA NHÂN CÁI HÌNH HÀI BÊN NGOÀI ( TƯỢNG QUẺ DỊCH) MÀ TRỰC NHẬN NẮM BẮT CÁI TINH HOA BÊN TRONG ( NGUYÊN LÝ DỊCH )……
    TÂM PHÁP TINH HOA CỦA DỊCH NẰM Ở VÒNG TRÒN LUÂN CHUYỂN CỦA VẠN VẬT ( ẤN ĐỘ KHÔNG CÓ KINH DỊCH NHƯNG HỌ CŨNG BIẾT NGUYÊN LÝ VÒNG TRÒN LUÂN CHUYỂN NÀY…. HỌ GỌI ĐÓ LÀ BÁNH XE PHÁP )….. TRỜI ĐẤT VẠN VẬT XOAY CHUYỂN TUẦN HOÀN DƯƠNG THĂNG ÂM GIÁNG , DƯƠNG TỚI ÂM LUI NHƯ TRONG 1 NGÀY THÌ CÓ SÁNG – TRƯA -CHIỀU- TỐI , 1 NĂM CÓ XUÂN -HẠ -THU-ĐÔNG TUẦN HOÀN LUÂN CHUYỂN….. MUÔN LOÀI VẠN VẬT ĐỀU BỊ CUỐN VÀO VÒNG TRÒN LUÂN CHUYỂN BẤT TẬN NÀY ( NHỎ NHƯ NGUYÊN TỬ CÓ CÁC ELECTRON BAY XUNG QUANH HẠT NHÂN TRUNG TÂM , LỚN NHƯ THÁI DƯƠNG HỆ CÓ CÁC HÀNH TINH XOAY XUNG QUANH MẶT TRỜI )…. THẤU HIỂU TRỰC NHẬN ĐƯỢC ĐIỀU ĐÓ SẼ HIỂU ĐƯỢC QUÁ KHỨ TA VỐN TỪ ĐÂU MÀ TỚI VÀ TƯƠNG LAI TA SẼ ĐI VỀ ĐÂU…. 

    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *