Nguyên tắc luận 12 Cung – Vương Đình Chi

Nguyên tắc luận 12 Cung – Vương Đình Chi
  Luận Mệnh thông qua Đẩu Số quan niệm: “Bất kể sự tình nào cũng đều có thể căn
cứ vào mệnh bàn mà dự đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay
không”.

      Bộ sách Hiện đại Tử Vi quan niệm: “Đối
với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu số mới có thể luận
đoán. Nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không có cách nào luận
đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ”.

     
1- Cung Mệnh

      Trong
Đẩu Số, dùng cung Mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó
chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung Mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục
cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung Mệnh trong tinh
bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá
chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung
Mệnh.

      Cung Mệnh đối nhau với cung Thiên Di ở tứ chính, và tương
hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương hội cung. Cũng chính là nói, chúng
có thể ảnh hưởng đến thực chất của vận trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và
mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp
phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phú có được như ý hay
không, .v.v…

      Do đó cung Mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt
chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung Mệnh, hầu như đã có thể
định được đại khái vận thế của một đời người.

      Còn cung Thân, theo
thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển Hậu thiên của người đó.
Nếu cung Mệnh cát mà cung Thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi
toại ý. Nếu cung Mệnh cát nhưng cung Thân không cát, thì giống như khối ngọc
đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung Mệnh
không cát mà cung Thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu
khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu
niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu.


      2.
Thuận – Cung Phụ Mẫu:

      Trong Đẩu Số, cung Phụ mẫu có 3 ý nghĩa về
luận đoán:

      Một là, luận đoán duyên phận của mệnh tạo
đối với cha mẹ, các tình huống sống chết tồn vong, cát hung họa phúc của cha
mẹ.
      Hai là, mối quan hệ giữa mệnh tạo với
thượng cấp, hay ông như thế nào ?

      Ba là, trong xã hội
phải có quan lại quản hạt, hoặc cấp chủ quản trong công việc, họ có thể ước thúc
hành động của mệnh tạo trong một thời kỳ. Những quan lại quản hạt hoặc cấp chủ
quản trong công việc này có mối quan hệ như thế nào đối với mệnh tạo
?


      Trong ba điểm trên, cung Phụ mẫu của Thiên
bàn (hoặc Địa bàn) chủ yếu dùng để luận đoán điểm
“Một”.
      Sau khi luận đoán được tính chất chủ yếu,
vẫn cần phải căn cứ vào cung Phụ mẫu của từng Đại hạn và mỗi một lưu niên (Nhân
bàn) để luận đoán, để xác định cát hung họa phúc của cha mẹ mỗi thời
kỳ.
      Còn điểm “Hai” và “Ba” chủ yếu được dùng để
luận đoán cung Phụ mẫu của đại hạn hoặc lưu niên (Nhân bàn). Nhưng cần phải ứng
dụng một cách linh hoạt những tính chất thuật ở Tiết
này.
      Ví dụ như Thiên Cơ thủ cung Phụ Mẫu, khi có
Thiên Mã đồng độ hoặc xung chiếu, thì chủ về còn bé đã chia ly với gia đình. Lúc
gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫu của lưu niên, lại có thể là một vận trình
ly biệt do thượng cấp đề bạt mệnh tạo, hoặc chủ về mệnh tạo rời khỏi công ty
mình đang làm.
      Ví dụ khác, “Thiên đồng Cự môn” đồng độ thủ
cung Phụ mẫu chủ về cha con bất hòa. Lúc gặp kết cấu tinh hệ này ở cung Phụ mẫu
của lưu niên, thì có thể trong năm đó, chủ về có sự bất hòa với người chủ của
mình.
      
      Hiểu rõ ý nghĩa thực sự của cung Phụ mẫu
thì khi luận đoán mới phát huy tác dụng. Trong lúc ứng dụng thực tế, người
nghiên cứu nhát định sẽ cảm thấy bối rối khi gặp tổ hợp các sao ở cung Phụ mẫu
của đại hạn hoặc lưu niên, không biết tính chất của tinh hệ rốt cuộc dùng để đại
biểu cho cha mẹ, hay đại biểu cho thượng cấp, hay là đại biểu cho cơ cấu chủ
quản hoặc quan lại quản hạt?
      Theo Trung Châu phái, thông thường có thể
dùng biện pháp xem kèm cung vị khác để giải quyết, như xem kèm cung Quan để luận
đoán tình trạng quan hệ với thượng cấp, xem kèm cung Điền trạch để luận đoán
tình trạng cát hung của cha mẹ, xem kèm cung Phúc đức để luận đoán tình trạng
giao thiệp với với cơ cấu chủ quản hạt, cả ba đều nên xem kèm cung Mệnh để luận
đoán.
      Đương nhiên, cũng có một số tình hình thực
tế vốn không có gì phức tạp. Ví dụ một người qua tuổi trung niên, có thể cha mẹ
đã qua đời, bản thân lại là ông chủ, thế thì tính chất các sao ở cung Phụ mẫu
của đại hạn và lưu niên đương nhiên chỉ liên quan đến đơn vị quản lý hạt. Ví dụ
Thiên Lương nhập thủ cung Phụ mẫu của lưu niên, có Thiên Khôi Thiên Việt đồng độ
hoặc hội chiếu, vốn chủ về mệnh tạo được cha mẹ che trở, lúc này sẽ biến thành
có thể được cơ quan giúp đỡ. 
      Hiểu rõ những nguyên tác luận đoán vừa
thuật ở trên, người nghiên cứu Đẩu Số có thể luận đoán một cách linh
hoạt.

      2. Nghịch –
Cung Huynh đệ 

      Trong xã hội hiện đại, dùng
Tử Vi Đẩu Số luận đoán cung Huynh đệ, thực ra có khuyết điểm rất lớn. Ở xã hội
cổ đại, anh em không tách ra ở riêng, nên Đẩu Số có thể dựa vào các sao ở cung
Huynh đệ để luận đoán khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc. Vì vậy ở tinh bàn,
đối nhau với cung Huynh đệ là cung Nô bộc (nay đổi lại là cung Giao hữu), tương
hội ở tam phương là cung Điền Trạch và cung Tật
Ách. 

      Từ số lượng anh em nhiều hay ít, cho đến Nô Bộc nhiều
hay ít và có đắc lực hay không, thì Mệnh vận của một gia tộc có thể biết được
những tính chất sơ lược. Lại quan sát các sao của cung Tật Ách để xem gia tộc có
bệnh di truyền hay không, thì tình hình càng rõ như chỉ bàn tay. Thời cổ đại một
người phạm tội thì cả gia tộc bị liên lụy, cho nên quan sát cung Tật Ách là rất
quan trọng.

      Xã hội hiện đại đã không còn chế độ đại gia đình, anh
chị em mỗi người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không còn tình trạng bị liên lụy
người phạm tội trong gia đình. Cho nên, quan sát cung không có gì quan trọng, cổ
nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói hoàn toàn không còn hợp
thời. 

      Theo Trung Châu phái, vẫn có thể vận dụng tổ hợp các
sao của cung Huynh đệ, để luận đoán về người có cùng một xuất thân với mệnh tạo
(theo cổ pháp, Huynh đệ cũng dùng để luận đoán về bạn “đồng môn” và bạn “đồng
niên”)

      Phàm cung Huynh đệ mà gặp Tả phụ, Hữu bật thì số anh
chị em không chỉ dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều, như Tử Phủ cư Huynh
chủ về anh chị em chỉ có 3 người, nhưng gặp Tả Hữu thì có trên 3 người, nhưng
lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải xem xét kỹ các sao của cung Phụ mẫu,
xem có xuất hiện tình hình tái hôn, ngoại hôn hay không mà
định.

      Có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa
Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, thì số lượng anh chị em có thể dựa vào chính diệu để
luận đoán là nhiều. Nhưng phải có “sao đôi” hội hợp thì mới có hiệu lực, hoặc
cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người có cùng xuất
thân.

      Cung Huynh đệ không gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu,
nhưng cung Mệnh gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu tụ tập thì cũng chủ về nhiều anh
chị em.

      Phàm là Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng,
Thiên lương thủ cung Huynh đệ, về nguyên tắc chủ về anh chị hoặc bạn đồng môn,
hoặc đồng sự ngang cấp có sự hòa hợp. Nếu gặp các sao lông bông thủ cung Huynh
đệ như Tham lang, Vũ khúc, Thất sát, Phá quân, Thiên cơ, về nguyên tắc chủ về
anh chị em, hoặc bạn đồng môn, hoặc đồng sự ngang cấp không thể đồng tâm hiệp
lực. Nếu gặp thêm Sát tinh thì thường có tranh chấp, còn gặp thêm các sao Hình –
Kị thì chủ về xảy ra kiện tụng.

      Phàm cung Huynh đệ gặp các
sao Hình – Kị, lại còn gặp thêm Thiên Vu thì chủ về tranh chấp tài sản, hoặc chủ
về đồng sự tranh chấp quyền lợi. Thiên lương thủ cung Huynh đệ gặp Kình dương
đồng độ chủ về kiện tụng liên miên. [ An Thiên Vu: tháng 1 – 5 – 9 cư Tị, tháng
2 – 6 – 10 cư Thân, tháng 3 – 7 – 11 cư Dần, tháng 4 – 8 – 12 cư Hợi
].

      Cung Huynh đệ không nên gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình
dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, vì chủ về anh em ở riêng nơi khác hoặc bất
lợi, hoặc đồng sự hay đồng môn thì chủ về gặp nhiều đố kị tranh chấp. Sát tinh
nặng mà gặp thêm Thiên Hình và Hóa Kị thì chủ về có hình
thương.

      Cung Huynh đệ gặp “Lộc Quyền Khoa”, chưa chắc chủ về
anh chị em phú quý, có lúc chỉ chủ về có nhiều anh chị em. Nhưng trong số anh
chị em ắt sẽ có người được cảnh ngộ khá hơn mệnh tạo; hoặc chủ về đồng sự có
cung một xuất thân thăng tiến nhanh hơn mệnh
tạo.

      Các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, tứ Hóa cùng bay
đến cung Huynh đệ, chủ về cát hung lẫn lộn, cũng chủ về hòa hợp nhưng có “hình
thương”, hoặc chủ về hòa hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau được, hoặc chủ về anh em
nhiều nhưng hình khắc, ở riêng mà vẫn tranh chấp (luận về đồng sự, thì tuy có
trợ lực nhưng chỉ là cái vỏ bên ngoài, còn bên trong lại có khuynh hướng kết bè
kết đảng chống đối nhau). Cho nên khi luận đoán về tình hình giữa đồng sự với
nhau, cần phải vận dụng một cách linh
hoạt.

      3.
Thuận – cung Phúc Đức 

      Tác dụng của cung Phúc đức trong Đẩu Số, là dùng để
luận đoán hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần của một người. Nếu so với
cung Mệnh và cung Thân, có thể nói cung Mệnh và cung Thân là chủ về hưởng thụ
vật chất, vận trình thực tế, còn cung Phúc đức thì chủ về những thứ trừu tượng
hơn
.

      Có một số người nhìn bề
ngoài thì nhận thấy “công thành danh toại” khiến cho người ta phải ngưỡng mộ,
nhưng có thể nội tâm của người này đang đau khổ mà người ngoài cuộc không biết.
Đây là vì cung Mệnh và cung Thân người này tốt, nhưng cung Phúc đức lại có những
khiếm khuyết đáng tiếc. Hoặc ngược lại, có một số người chỉ được no ấm mà thôi,
nhưng nội tâm của họ lại rất vui vẻ, đây là do cung Mệnh và cung Thân không tốt
mấy, mà cung Phúc đức lại tốt.

      Cung Phúc đức và cung Tài
bạch đối nhau, có thể thấy sinh hoạt tinh thần vẫn không thể thoát khỏi sự ràng
buộc của tài phú, tam phương hội chiếu với cung Phu Thê cũng đủ nhận thấy sự
hưởng thụ tinh thần của một người có tương quan mật thiết với sinh hoạt hôn
nhân, tam phương cũng tương hội với cung Thiên Di, là do hoạt động tư tưởng của
con người ta, có thể ảnh hưởng đến động hướng của người đó. Ở quê nhà hay đi xa
để tìm hướng phát triển, thường chỉ quyết định trong một hoài
niệm.

      Những điều trình bầy trong “tiết” này sẽ lấy tình
trạng tốt xấu của sự hưởng thụ tinh thần làm điểm chính yếu. Còn về phương diện
hoạt động tư tưởng, do mỗi người được giáo dục ở nhiều mức độ khác nhau, thì rất
khó tiến hành giảng giải một cách cụ thể, chỉ có thể đưa ra một số điểm chính
yếu quan trọng.

      Khi luận đoán cung Phúc đức,
lấy cung Phúc đức của Thiên bàn làm chủ, dùng để luận đoán bản chất tư tưởng và
xu thế chủ yếu về phương diện hưởng thụ tinh thần của mệnh tạo. Cung Phúc đức
của đại hạn và lưu niên (Nhân bàn) dùng để xem biến thiên theo từng năm mà xác
định được sự thay đổi về tư tưởng, cách nhìn nhận về một vấn đề của người đó.
Như cung Phúc đức của Thiên bàn là sao Tử vi, có nghĩa là Tử vi là bản chất,
trong một vận trình gặp Thiên cơ ở cung Phúc đức của đại hạn hay lưu niên, thì
tinh thần đôn hậu vững vàng của Tử vi vẫn không thay đổi, nhưng lại chủ về mệnh
tạo sau khi lớn lên sẽ tăng thêm tính linh động, mưu trí và quyền biến. Như vậy
khi luận đoán nhát thiết không được xem thường tính chất chủ yếu của cung Phúc
đức nguyên cục.

      3.
Nghịch – cung Phu Thê 

      Cung Phu Thê hội hợp “tam phương tứ chính”
là cung Phúc Đức, cung Quan Lộc và cung Thiên Di. Cách phối trí
này rất logic. 

      Sự nghiệp của một người
đương nhiên chịu ảnh hưởng của sinh hoạt hôn nhân, di cư (thiên di) tha hương,
nếu không phải là vợ chồng sinh ly tử biệt thì hoặc là vợ chồng đều nên sống ở
tha hương, đây cũng là vấn đề trọng đại của đời người, còn cung Phúc đức chủ về
sinh hoạt tinh thần của con người, mà quan hệ hôn nhân có ảnh hưởng đến sinh
hoạt tinh thần, điều này không nói cũng
biết.

      Cho nên việc quan sát và luận đoán cung Phu thê, cần
phải xem xét kỹ các sao của cung Phúc đức, cung Quan lộc và cung Thiên di, các
sao của ba cung này cũng chịu ảnh hưởng các sao của cung Phu thê, đây là hiện
tượng rất hợp lý.

      Tiết này tuy dùng phương
thức trình bày giản lược về các tinh hệ của hiện tượng hôn nhân, nhưng đã suy
tính đến mối liên hệ của “tam phương tứ chính”. Để tiện cho người nghiên cứu
những ảnh hưởng của các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh đối với tính chất các
tinh hệ chính diệu, nên sau khi trình bầy tính chất của 14 tinh hệ chính diệu,
vẫn có thêm một mục trình bầy tính chất của các sao Phụ Tá Sát ở cung Phu thê,
để có thể dung hợp nó với tính chất của tinh hệ chính diệu, xem nó làm mạnh thêm
hay yếu đi, hoặc tình hình chuyển hóa như thế
nào.

      Ví dụ tinh hệ “Thiên cơ Cự môn” chủ về trước hôn nhân
có sóng gió, trắc trở, hơn nữa còn chủ về phiêu bạt, còn tính chất của Lộc tồn
là vợ chồng ân ái, chỉ dễ bị người phối ngẫu bắt nạt, hà hiếp, vì vậy mà hai
người chia ly. Nếu dung hòa hai tính chất này, thì tham khảo thêm ở đại hạn hoặc
lưu niên để luận đoán xem phần nhiều xảy ra chuyện
gì.

      Có điều khi luận đoán hôn nhân, không nên chỉ xem
cung Phu thê, mà còn nên xem kiêm tinh hệ của cung Mệnh. Trong xã hội hiện đại,
sinh hoạt hôn nhân giữa vợ và chồng, việc luận đoán không ngoài những hạng mục
như tình cảm, tài năng, dung mạo, và tài phú. Thế sự lại rất khó toàn mỹ, tài
năng và dung mạo cũng rất khó lưỡng toàn, nhưng cũng không phải là không có khả
năng tài năng, dung mạo, tài phú đều có đủ, cho tới trường hợp khi các phương
diện đều hợp với lý tưởng, thì tình cảm lại thường thường dễ xảy ra thay đổi.
Cho nên đạo của vợ chồng, quý ở chỗ biết thích ứng. Tiết này chỉ ra những hiện
tượng quan trọng, mà còn gợi ý biện pháp dùng nỗ lực hậu thiên để bổ cứu và
thích ứng với cuộc sống hôn nhân.

      Dưới đây là một số thể lể
thích hợp cho tính hình chung, dùng để luận đoán cung Phu
thê.

      Luận đoán cung Phu thê xem có mỹ mãn hay không, ngoại
trừ việc quan sát cung Phu thê ra, còn cần phải xem xét tinh hệ của cung Mệnh,
sau đó dung hòa hai tính chất này.

      Mỗi một cung Phu thê của đại
hạn đều phải chú ý xem xét, sau đó mới có thể nhìn ra sự thay đổi trong quan hệ
hôn nhân và tình cảm vợ chồng. Nhưng thông thường không cần dùng thêm tinh hệ
của cung Mệnh đại hạn để trợ giúp trong việc luận đoán, trừ khi xem tai nạn bệnh
tật.

      Muôn luận định về hôn nhân, tốt nhất là mang tinh bàn
của cả hai người nam và nữ ra quan sát một lượt, chỉ càn quan sát cặn kẽ, tỷ mỉ
thì có thể nhìn ra một số tình tiết.

      Khi luận đoán cung Phu thê,
phải lưu ý một nguyên tắc, nhiều Cát tinh chưa chắc có lợi, như Xương Khúc chủ
về người phối ngẫu quan tâm, chăm sóc, nhưng lại đồng thời có thể có tình nhân
bên ngoài. Các sao Hung, sao Ác cũng chưa chắc là không tốt, như Đà La chủ về
phối ngẫu rời xa quê hương, nhưng nếu gặp Lộc tồn, nhưng nếu gặp Lộc tồn, Thiên
mã, thì lại chủ về phát tài ở nơi xa, hơn nữa tình cảm vợ chồng có thể rất tốt.
Cho nên cần phải cân nhắc tỷ mỉ cẩn
thận.

      Luận đoán cung Phu thê của Đại hạn hoặc Lưu niên,
ngoại trừ tham khảo tiết này, còn cần phải căn cứ vào bản chất của tinh hệ thủ
cung Phu thê nguyên cục.

      4.
Thuận – cung Điền trạch 

      Trong Đẩu Số, cung Điền trạch có hai ý
nghĩa:

      Một là, quan sát các sao ở cung Điền trạch của nguyên
cục, có thể biết được vận thế địa sản của cuộc đời mệnh tạo, như cha mẹ có để
lại di sản không, sau khi thừa kế di sản có phá tán, thất bại không, và vận thế
mua thêm nhà cửa đất đai của mệnh tạo như thế
nào?

      Hai là, quan sát các sao cua cung Điền trạch của lưu
niên hoặc đại hạn, có thể biết được năm (hoặc đại hạn) nào có thể mua thêm nhà
cửa đất đai không, có dời chỗ ở
không.

     Hai điểm vừa thuật ở trên, là ý nghĩa phổ biến của
cung Điền trạch. Ngoài ra, cung Điền trạch còn có thể dùng để trợ giúp luận đoán
vận gia trạch của lưu niên. Lúc này liên quan đến tính chất của tổ hợp các sao ở
cung Điền trạch.

      4.
Nghịch – cung Tử tức 

     
Trong mệnh bàn Đẩu Số, cung Tử tức và cung Điền trạch đối nhau, cung Tử tức
tương hội với cung Phụ mẫu và cung Nô bộc. Kết cấu dạng này rõ ràng phản ảnh chế
độ đại gia tộc thời
xưa.

     
Đại gia tộc trong xã hội phong kiến, con cái là do đầy tớ (nô bộc) phục dịch, do
đó cung Nô bộc có ảnh hưởng nhất định đối với cung Tử tức. Đồng thời có thể nhìn
ra quan hệ “kế thừa sự nghiệp của cha ông” từ tổ hợp các sao của cung Phụ mẫu và
cung Tử tức, còn đối với cung Điền trạch, Đẩu Số dùng để quan sát gia trạch,
đương nhiên càng có tương quan với cung Tử
tức. 

     
Do đó nếu nói tổ hợp tinh hệ của cung Huynh đệ là phô bầy cả một đại gia tộc,
dùng để quan sát thế hệ bề ngang của mệnh tạo, thì tổ hợp tinh hệ của cung Phụ
mẫu và cung Tử tức là một biểu đồ theo chiều dọc, dùng để quan sát từ ông Tổ đến
cha mẹ, rồi từ cha mẹ đến con cái, cả một dòng họ truyền từ đời trước sang đời
sau.

     
Ngày nay, chế độ đại gia tộc theo kiểu phong kiến đã sụp đổ, kết cấu tinh hệ ở
cung Tử tức và tam phương tứ chính đương nhiên đã mất đi một số ý nghĩa ban đầu.
Nhất là cung Nô bộc, ngoại trừ để xem mối quan hệ với nhân viên làm thuê và
người trực tiếp dưới quyền, thì ngày nay còn dùng để quan sát bạn bè, đương
nhiên sẽ cảm thấy quá cách xa cung Tử tức. Vì vậy trong thực tế ứng dụng, càng
cần phải định ra một số nguyên tắc
khác.

     
Sự tương quan hợp lý thứ nhất giữa hai cung, đó là lấy sự quan sát “mối quan hệ
gia tộc” như trước kia, cải biến thành quan sát “địa vị xã hội”. Bởi vì từ các
tình trạng tốt xấu của cha mẹ, hay nhân viên làm thuê và bạn bè, cho tới con cái
của mệnh tạo, có thể luận đoán ra địa vị xã hội của đương
số.

     
Ví dụ như, nếu ba cung đều cát, thì mệnh tạo phải là người lúc còn nhỏ được cha
mẹ nuôi dạy khá tốt, bản thân cũng được bạn bè giúp đỡ ủng hộ, đồng thời còn
được nhân viên làm thuê trợ lực, đến trung niên thì phát triển sự nghiệp, đến
vãn niên thì có con cái có thể kế thừa sự nghiệp của cha ông. Người này là mẫu
người điển hình của loại “lúc nhỏ là thiếu gia, lúc già gọi là lão gia”, có địa
vị xã hội như thế nào chắc là không cần phải
nói.

     
Nếu cung Phụ mẫu và cung Nô bộc không cát tường, nhưng cung Tử tức thì có Cát
tinh tụ tập, như vậy có thể luận đoán mệnh tạo rất có khả năng phải trải quan
gian lao vất vả, rồi mới tay trắng tạo nên sự nghiệp, sau trung niên ít nhất
cũng có địa vị vào hạng trung
lưu.

     
Dựa vào điểm suy đoán này, có thể trợ giúp chúng ta luận đoán ra vận trình của
bản thân mệnh tạo. Ngược lại, từ vận trình của bản thân mệnh tạo, cũng có thể
luận đoán ra con cái của mệnh tạo có thành tựu hay không
!

     
Ví dụ như, nếu cung Phụ mẫu là Cát, cung Mệnh cũng cát, cung Nô không xấu, nhưng
cung Tử tức lại xấu, thế thì, có khả năng không có người thừa kế, cũng có thể là
con cái bất tài, phẩm hạnh quá
kém.

     
Vì vậy có thể căn cứ vào tinh bàn để tìm ra một số chỉ dẫn. Ví dụ như quan sát
sự hiển thị của cung Tử tức, để biết về tính cách con cái của mệnh tạo mà đưa ra
một số lời
khuyên

     
Đây cũng chính là nói, từ “tam phương tứ chính” của cung Tử tức ngoại trừ xem có
con nhiều hay ít, còn luận đoán về tình cảm của mệnh tạo đối với con cái, và
tính cách chủ yếu của con cái. Liên quan về những luận đoán này, ta cần kết hợp
với cung Tử tức của đại hạn và lưu niên để đánh giá về vận mệnh của con cái
đương số, để biết con cái của đương số có thành tựu hay
không?

     
5. Thuận – cung Quan lộc 

      Cung Sự nghiệp cổ nhân gọi
là cung Quan lộc, đó là vì ở thời cổ đại địa vị xã hội của những người trong
giới “công”, “thương”, “nông”, đều rất thấp, chỉ có học hành để ra làm quan mới
là con đường tốt
nhất.

      Cho nên trong tinh bàn Tử vi
Đẩu Số, cung Quan lộc và cung Phu thê phải đối nhau. Đó là vì Quan lộc sự nghiệp
của một người có thể ảnh hưởng đến địa vị của vợ
con.

      Ngày nay xã hội đã hoàn toàn
khác, địa vị của giới doanh nhân rất cao, tất cả đều coi trọng tiền bạc, có thể
nói mọi con đường đều quy tụ về tiền. Học hành để ra làm quan không còn là con
đường lý tưởng duy nhất. Người đàn ông thường lấy sự nghiệp làm trọng, vì vậy
“cung Quan lộc” được các nhà Đẩu Số hiện đại đổi lại cách gọi tên, được gọi là
cung Sự nghiệp. Mà cung Sự nghiệp và cung Phu thê xung chiếu nhau, cũng có nghĩa
là xem sự nghiệp và gia đình mâu thuẫn nhau. Vì vậy cần quan sát các sao của hai
cung này xem có điều hòa hay
không.

      Trong bối cảnh như vậy, cổ
nhân đã định ra một số nguyên tắc luận đoán “cung Quan lộc” có thể nói là không
còn hợp thời. Ví như “Thái dương nhập miếu được Cát tinh vây chiếu là quan nhất
phẩm đương triều” (Thái dương nhập miếu đắc cát củng, nhất phẩm đương
triều
), “Thiên đồng nhập miếu, chức quan văn võ tam phẩm” (Thiên đồng
nhập miếu, văn vũ tam phẩm chi chức
), “Phá quân ở cung nhàn nên làm nghề thủ
công, gặp Cát tinh thì có thể mua chức quan” (Phá quân nhàn cung nghi thủ
nghệ, kiến cát tắc khả quyên ban
). Tất cả những luận đoán này, ít nhiều đã
lỗi thời ở thời hiện
đại.

      Nói một cách thẳng thắn,
chúng ta có thể biết tính chất tổ hợp các sao phù hợp với nghề gì, nhưng lại
không thể dựa vào các sao mà nói ra nghề nghiệp cụ thể của nó. Ngoài ra, khi
phán đoán nghề nghiệp của một người, còn phải tham khảo các sao của cung Mệnh và
cung Phúc đức, điểm này cần chú
ý.

      Liên quan đến vận thế sự
nghiệp cuộc đời của một người, cũng không nên chỉ căn cứ ở cung Sự nghiệp nguyên
cục để luận đoán, mà còn cần phải quan sát sự di chuyển của đại hạn và lưu niên,
căn cứ vào cung Sự nghiệp của hành hạn, để nghiên cứu một cách tỷ mỉ, thêm vào
đó là phối hợp “Lưu diệu”, xem vận thế nghề nghiệp thuận hay nghịch như thế nào,
tự nhiên có thể đưa ra phán đoán chính xác
hơn.

      5.
Nghịch – cung Tài bạch 

       Tiền bạc (tài bạch) là tư liệu để nuôi sống, nhất là
trong xã hội thương nghiệp, địa vị xã hội của một người đầu như do tiền bạc
quyết định, vì vậy việc luận đoán tiền bạc có hay không, và chủ yếu làm nghề
nghiệp gì để kiếm tiền, đã trở thành vấn đề khá quan
trọng.

      Liên quan đến vấn đề trọn nghề nghiệp gì cho thích
hợp, đã được thảo luận khi tường thuật về tổ hợp tinh hệ của cung Mệnh, nên khi
nghiên cứu cung Tài bạch, chủ yếu tập trung về thành tố “tài khí” như thế nào,
có tiền của dần dần hay phát lên một cách nhanh chóng, sau khi có tiền của thì
có giữ được hay
không.

      “Tam phương tứ chính” của cung Tài bạch là đối cung
Phúc đức, và hai cung tam phương là cung Mệnh và cung Sự nghiệp. Cung Phúc đức
chủ về hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần. Chuyện cơm áo gạo tiền
khiến cho người ta phải lo toan nghĩ ngợi, và tình trạng nghèo hay giầu có thể
ảnh hưởng đến tinh thần của một người. Đủ thấy tính chất ảnh hưởng qua lại của
cung Phúc đức và cung Tài
bạch.

      Đối với cung Mệnh, vận thế của mệnh tạo và cách cục
chủ yếu được quyết định từ đây, đương nhiên có liên quan đến “tài bạch”. Mối
liên hệ giữa Sự nghiệp và Tài bạch, đương nhiên cũng là then chốt hỗ tương. Cung
Mệnh, cung Sự nghiệp, cung Tài bạch hội hợp, đúng là tượng trưng cho “vị thế của
lợi
lộc”.

      Nếu chỉ đơn thuần dựa vào cung Tài bạch của nguyên
cục để luận đoán tiến bạc “được mất”, thường thì chẳng đúng, bởi vì nó chỉ hiện
thị những tính chất rất giới hạn. Nếu muốn luận đoán một cách tinh tế và chính
xác, nhất định phải xem xét tới cung Tài bạch của đại hạn để luận đoán, sau đó
mới có thể biết  sự phát triển tài vận của một đời người, còn cung Tài bạch
nguyên cục chỉ chủ về xu thế chung của tài
vận.

      Điều cần chú ý là, lúc luận đoán cung Tài bạch của
đại hạn mà gặp “lưu Lộc”, “lưu Quyền”, “lưu Khoa”, “lưu Tồn”, “lưu Mã”, “lưu
Dương”, “lưu Đà”, thì tất cả chúng có cùng một tác dụng như các điều đã thuật về
tính chất cơ bản của
chúng.

      6. Thuận – cung Giao hữu
(Nô) 

     
Cung Giao hữu cổ nhân gọi là cung Nô bộc. Trong xã hội cổ đại, “nô bộc” là thành
viên của gia đình. Một đời làm “nô bộc”, đời đời là “nô bộc”, cho nên sự tốt xấu
của cung Nô bộc đúng là có liên quan đến sự thịnh suy của gia tộc. Vì vậy các
nhà Đẩu Số cổ đại khi luận đoán khá xem trọng “nô bộc” có lực hay không? nô bộc
nhiều hay ít? có phản chủ không
? có giúp đỡ chủ không? mức độ trợ
lực cho chủ là cao hay
thấp?

      Ngày nay, cung Nô bộc đổi thành cung Giao hữu là một
sự cách tân rất lớn. Về mặt lý luận, ngày nay đã không còn mối quan hệ chủ tớ
như ngày xưa, dó đó về căn bản, không cần nhìn từ “nô bộc” để suy diễn ra vận
mệnh của một gia tộc. Nhưng sự tốt xấu của các mối quan hệ giao tế là rất quan
trọng đối với người hiện đại, việc sửa đổi thành cung Giao hữu đúng là đã mang
lại cho khoa Đẩu Số cổ xưa một hàm nghĩa
mới.

      Có lẽ, nhiều người sẽ hoài nghi rằng: “Cổ nhân truyền
lại pháp môn này, sao có thể tùy tiện sửa đổi?” Thực ra Đẩu Số là đời đời tương
truyền, đã luôn luôn biến động thay đổi, từ “Thập bát phi tinh” phát triển thành
“Tử Vi Đẩu Số” chính là một biến động thay đổi cực lớn. Về sau, từ thời Nam Tống
cho đến Minh Thanh, đời nào cũng có người truyền lại không ít khẩu quyết khá hữu
dụng, đó cũng là sự biến đổi cách tân trong Đẩu Số. Vì vậy vấn đề không phải ở
chỗ có nên thay đổi hay không, mà là những thay đổi cách tân đó có hợp lý hay
không?

      Thử xét tam phương tứ chính của cung Nô bộc, đối cung
là cung Huynh đệ, cung hội hợp là cung Phụ mẫu và cung Tử tức, đây rõ ràng là
một tổ hợp tổ tông ba đời và nô bộc, cũng tức là một mô thức điển hình của gia
tộc cổ
xưa.

      Ngày nay lấy tính chất “nô bộc” biến đổi thành tính
chất “quan hệ giao tế”. Theo phái Trung Châu, cũng lấy cung Huynh đệ xem là quan
hệ với người ngang vai. Lấy cung Phụ mẫu xem là quan hệ với bậc trưởng bối. Lấy
cung Tử tức xem là quan hệ với những người thuộc vãn bối. Các sao của ba cung vị
này hội chiếu với cung Giao hữu, vì vậy sẽ phản ảnh các mối quan hệ giao tế một
cách chỉnh
thể.

      Lúc luận đoán Đẩu Số, khi lấy cung Giao hữu dùng để
luận đoán về mối quan hệ với nhân viên làm thuê hoặc người dưới quyền, cũng cần
đồng thời lấy “Phụ mẫu”xem là ông chủ, thượng cấp, hoặc bậc tiền bối trong nghề
nghiệp của mệnh tạo, lấy “Tử tức” xem là trợ thủ trực thuộc, hoặc những người
thuộc lớp vãn bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo, và lấy “Huynh đệ” xem thành
nhưng người ngang vai với mệnh tạo, còn cung Giao hữu là một phản ánh
chung.

      Người mới bắt đầu tiếp cận với Đẩu số thường mắc phải
một bệnh, đó là không quan sát toàn diện các sao của các cung có liên quan. Lấy
việc không quan sát các sao của cung “nô bộc” làm ví dụ, cổ nhân lấy cung Phụ
mẫu và cung Nô bộc có quan hệ hỗ tương như thế nào, từ đó có thể biểu thị tình
trạng “nô bộc” của đời “phụ mẫu”. Nếu cũng lấy cung Huynh đệ và cung Tử tức ra
quan sát, xem xét mối quan hệ hỗ tương của chúng với cung Nô bộc, thì có thể
biết được tình trạng “nô bộc” ba
đời.

      Ngày nay quan sát cung Giao hữu cũng có thể dùng biện
pháp như vậy. Nếu lấy cung Phụ mẫu và cung Giao hữu ra so sánh, đồng thời tiến
hành nghiên cứu mối quan hệ của chúng, thì có thể nhìn ra mối quan hệ của thượng
cấp và người dưới quyền của mệnh
tạo.

      Ví dụ như cung Phụ mẫu có Thiên lương độc tọa ở Ngọ,
cung Giao hữu có Thiên đồng độc tọa ở Tuất, còn cung Huynh đệ là Cự môn ở Thìn
có Sát tinh chiếu xạ, thế là chúng ta có một giả định tốt nhất là: thượng cấp là
một người rất thích soi bói, bới lông tìm vết, trong đồng sự có người ưa đâm bị
thóc chọc bị gạo, vì vậy mà bản thân mệnh tạo thường bị ở vào tình trạng lúng
túng, khó xử về quan hệ giao tế ở nơi làm việc, có thể sẽ bị lôi kéo vào vòng
tranh chấp, bất hòa. Điềm này có thể nhìn ra từ tính chất của Thiên đồng ở cung
Tuất.

      Nhưng nếu Thiên lương có hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa
hội hợp, thì tính chất của Thiên lương sẽ biến thành cao thượng, độ lượng, Thiên
đồng thủ cung Giao hữu cũng sẽ bị ảnh hưởng của “Lộc Quyền Khoa hội” mà được cải
thiện.

      Trung Châu phái đưa ra phương pháp luận đoán này, có
thể giúp cho người mới nghiên cứu Đẩu Số tìm ra tình trạng quan hệ nhân tế của
mỗi giai đoạn trong cuộc đời một người khá rõ
ràng.

      6.
Nghịch – cung Tật ách 

     
“Tam phương tứ chính” của cung Tật ách là cung Phụ mẫu, cung Huynh đệ và cung
Điền trạch. Tổ hợp tinh hệ này là do trong chế độ đại gia đình, bệnh tật rất dễ
lây nhiễm, thêm vào đó ở xã hội phong kiến cổ đại, thành viên của gia tộc mà
phạm tội, thường thường có thể liên lụy đến người thân, vì vậy tổ hợp “tam
phương tứ chính” này có một ý nghĩa đặc
thù.

     
Hoàn cảnh xã hội diện đại tuy đã biến đổi, nhưng cung Tật ách đối xung với cung
Phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hội phương với cung Điền trạch để xem
trạng thái sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Thậm chí quan sát các sao
thủ các cung hội hợp với cung Huynh đệ để xem “đời người” có hung ách hay
không
, theo kinh nghiệm của phái Trung Châu mà Vương Đình Chi đại
diện thì vẫn hữu
hiệu.

      Cung Tật ách chủ về bệnh tật và tai ách. Nhưng liên
quan đến vấn đề tai ách có xảy ra hay không, cung Tật ách thực ra chỉ có thể
dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách, thường thường phải phối hợp
thêm tinh hệ của cung Mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ của cung Tật ách. Còn
đối với việc luận đoán bệnh tật, thì nên xem xét cả tinh hệ của cung Mệnh lẫn
tinh hệ của cung Tật ách, hai cung đều quan trong ngang nhau. Ví dụ như “Liêm
trinh Thất sát” thông thường chủ về bệnh đường hô hấp, nếu cung Tật ách gặp tinh
hệ này thì đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật ách gặp sao Ác, mà
cung Mệnh là “Liêm trinh Thất sát”, thì cũng chủ về đường hô
hấp.

      Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ của cung Mệnh và
tinh hệ của cung Tật ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật. Ví dụ cung
Tật ách gặp “Liêm trinh Thất sát”, có Sát tinh hội chiếu, cung Mệnh gặp Hồng
loan và Thiên hỷ, theo luận giải của Vương Đình Chi có thể phát hen suyễn, hoặc
tạm thời không phát tác, đến khi cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên gặp Hồng
loan, Thiên Hỷ, lại có thêm lưu Sát tinh xung hội thì mới phát
bệnh.

      Thí dụ kể trên có thể biết, dựa vào các sao để luận
đoán tật bệnh là rất khó. Trung Châu phái chỉ trình bầy một số kinh nghiệm bí
truyền và nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệ trong vấn đề
bệnh tật và tai ách, khi nghiên cứu nên vận dụng linh hoạt, không nên quá câu
nệ. Có lúc phải mang các sao của cung Mệnh và cung Tật ách, cùng với các sao hội
hợp ở tam phương tứ chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí còn phải mang “Lưu
diệu” của đại hạn hoặc lưu niên ra phối hợp để luận đoán, mới có thể chính
xác.

      Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư vòm họng, tinh hệ
chủ yếu vẫn là “Liêm trinh Thất sát”, hành vận đến cung hạn Thiên đồng và Cự môn
đối nhau, nếu đại hạn có các sao Sát Kị cùng chiếu, mà còn gặp Long trì đồng độ
hoặc xung chiếu cung Mệnh, còn “Liêm trinh Thất sát” lại hội hợp với Hỏa tinh
Linh tinh, hoặc Thiên hình, thì trong đại hạn này sẽ phát bệnh. Lấy trường hợp
này làm ví dụ, để người nghiên cứu có thể thấy được phần nào phép tắc luận đoán
bệnh
tật.

      Dùng Đẩu Số luận bệnh tật hoàn toàn lấy nguyên lý Âm
Dương Ngũ hành của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên
gọi các bệnh theo Y học hiện
đại.

      7- Cung Thiên
Di
 

      Trong Đẩu Số, cung Thiên di dùng để luận đoán về vấn
đề từ nơi sinh ra dời đến nơi khác để ở, đồng thời cũng có thể dùng để luận đoán
tình trạng xuất ngoại để kinh doanh. Cung Thiên di của lưu niên, cũng luận đoán
về những tao ngộ khi đi đâu xa, như có vui vẻ hay không? có bị trộm cướp hay
không? có gặp điều gì bất ngờ hay
không?

     Do cung Thiên di và cung Mệnh xung chiếu nhau, vì vậy
các sao của cung Di cũng ảnh hưởng đến tính cách của mệnh tạo, đặc biệt là về
năng lực xã giao, quan hệ giao tế,
.v.v…

      Cung Di tương hội với cung Phúc, nên sự hưởng thụ
tinh thần của một người đúng là có liên quan với quan hệ giao tế và hoạt động xã
giao củ người đó. Còn việc đi ở nơi khác đem lại kết quả tốt hay xấu, đương
nhiên có thể căn cứ phần nào vào tinh trạng hưởng thụ tinh thần mà luận
đoán.

      Cung Di tương hội với cung Phu thê là rất hợp lý, bởi
vì cho dù ở thời cổ đại, một người rời đại gia đình để phát triển hoặc vẫn ở quê
hương sinh sống làm ăn, đương nhiên cũng có quan hệ với sinh hoạt vợ chồng. Các
mối quan hệ xã giao cũng không thể không bị ảnh hưởng của người phối ngẫu. Đối
với việc mang gia đinh đi nơi khác lập nghiệp thì càng có quan hệ mật thiết với
người phối
ngẫu.

      Do đó có thể thấy, tổ hợp các sao ở cung Di trong Đẩu
Số là rất quan trọng, thậm chí có thể nói chỉ kém hơn cung Mệnh và cung Thân.
Hơn nữa khi luận đoán xu thế mệnh vận của một người, có một điểm cần biết, đó là
khi một người rời nơi sinh ra, đến nơi khác để ở, xu thế vận mệnh của năm đầu
tiên, là do cung Di quyết định, mà không phải do cung Mệnh quyết định. Do đó cần
phải lấy cung Di làm cung Mệnh để xem xét, các cung vị khác vẫn không thay
đổi. 

      Giả dụ một người không ngừng di chuyển (như thuyền
viên, phi công, .v.v…), không ở cố định một nơi nào, cũng phải lấy cung Di làm
cung Mệnh để luận
đoán.


     

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *