Hóa diệu luận – Vương Đình Chi

Hóa diệu luận – Vương Đình Chi
Hóa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh
bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các “Lưu hóa diệu”
giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ
hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ
của đời người khá cụ thể.

       Hóa Lộc thông thường có ý
nghĩa là “tài lộc”; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là “quyền thế”; Hóa Khoa
thông thường có ý nghĩa là “danh tiếng”; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là “trở
ngại”. Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý
nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

      
Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan
sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội
hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại
thể.

       Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và
Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng
không đến mức hoa mắt.

       Nhưng khi luận đoán Lưu niên,
tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc
đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả
mắt.

       Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu
của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý,
không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

       Tứ hóa của năm
sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu
niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm
sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc
cần hiểu rõ cái lý của nó.

       Chỉ khi nào Tứ hóa của năm
sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ
hóa của năm sinh mới có tác dụng.

       Dưới đây xin đề cử vài
ví dụ cụ thể để thuyết minh:  


      Nếu “Thái dương Thái âm”
thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn
Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là “Thiên cơ Cự môn” mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp
với “Thái dương Thái âm” (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa
Kị.

       Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa
Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái “vì phục vụ mọi người mà được
lợi ích”. Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc
này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu
tư.

       Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu
niên, ý là “sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị” (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của
nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức
kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

       Hóa Kị ở nguyên cục, lại
Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là “sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao
hóa Lộc” (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận
hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa
thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

       Hai ví dụ
trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.


Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một
dạng năng lực là quảng bá.

       Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc
trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ
thể.

       Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như
các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập
miếu.

       Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập
miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như “mây trôi che nhật nguyệt”,
bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa
Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là “biến cảnh”, càng chói mắt người ta,
nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

       Thái dương Thái âm
ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn
thất.

       Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa
Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự
môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách “phản bối” (trở
mặt).

       Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa
Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh
thần.

       Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then
chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

       Như đã biết, thông
thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về
danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập
toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để
điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không
buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

       Tình hình gặp Hóa Kị ở rất
nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là “chuốc đố kị”, nhưng “không chuốc đố kị
thì phần nhiều là người tầm thường”, cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình
hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có
lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít
đi một người bạn xấu cũng hay.

       Hóa Kị dễ khiến cho người
ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt
xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

       Có lúc Khóa Kị chủ về buồn
rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của
cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình
huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

       Hóa Kị
cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc
cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên
gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

       Tình hình nghiêm trọng
nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh
hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được
vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể
nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung
hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với
lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

       Cho nên, gặp
Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng
tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà
không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được
nói là “do số mạng”.

       Hóa Quyền thuộc dương
mộc, nên phải đề phòng “cây to thì hứng gió”. Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa “Lộc
trùng điệp” mà không ưa “Quyền trùng điệp”, lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng
điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

       Nếu Hóa Quyền mà
không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn
ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó
xử.

       Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền
lực mà đắc lộc, hoặc nhờ “lộc” mà đắc “quyền”, nhưng đừng vì thấy “Lộc Quyền gặp
nhau” mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

       Cổ nhân hay
nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư
sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý
kiến này hơi phiến diện.

       Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở
nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là “cây lớn thì hứng gió”,
“địa vị cao thì thế nguy”, nhất là lúc “Quyền trùng điệp”, bị sao Kị xung phá,
chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi
lộng quyền.

       Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở
vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ
tính chất phối hợp của toàn cục mà định. 


Gia
Thi
noreply@blogger.com
0tag:blogger.com,1999:blog-1198932845514600860.post-76307560242619165662012-11-13T10:49:00.003+07:002012-11-14T19:27:48.889+07:00      Hóa Khoa thuộc dương thủy,
chủ về “trí”, “lưu truyền”, nên là “tiếng tăm, danh dự”.

      
Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ
đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì
mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa
Khoa.

       Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới
công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ
về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương
Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh,
bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng
biến lúc biện hộ cho thân chủ.

       Nhưng thông thường, Khoa
Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất
các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa,
lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu
niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc
điều tiếng thị phi.

       Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì
tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà
thôi.

       Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như
sau:

       Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung
hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ
về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao
Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban
đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn.
Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh
danh bị tổn thương.

       Thông thường, hai trường hợp trên,
có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

       Hóa
Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung
Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là “Khoa minh Lộc ám”, chủ về nhờ khoa cử công
danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là
nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách “minh lộc ám lộc”, Lộc tồn và hóa
Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với
cách “khoa minh lộc ám” là nhờ danh mà được quý).

       Hóa
Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ
có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu
triết học tôn giáo.

       Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi
vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung,
vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là “mạ không trổ bông, sao Khoa
hãm ở cung hung”. Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn
trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý. 

 
      Phá Quân hóa Quyền không bằng hóa Lộc. Hóa Lộc có
thể khiến cho quá trình thay đổi thuận lợi, có kết quả tốt đẹp, nhưng lúc hóa
Quyền thì không thể đảm bảo một cách chắc chắn rằng sẽ tránh được thất bại.     

      Sắc thái đặc biệt của Phá quân hóa Quyền là ở phương diện phô
trương thanh thế. Nhưng thanh thế lớn có lúc chỉ có thể khiến cho người khác dễ
có khuynh hướng nghe theo ý kiến của bản thân mệnh tạo, vẫn không thể tránh được
các tình huống trắc trở, rắc rối. Thâm chí nhiều khi còn xuất hiện tình huống
này, người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có ý muốn thay đổi hoàn cảnh khách quan
(ví dụ như muốn kinh doanh thêm một ngành khác), mà bản thân mệnh tạo không nắm
chắc tình hình thực tế, nhưng sau khi mang suy nghĩ của mình nói cho người khác
nghe, người khác lại cho rằng bản thân họ đã có thành tựu và không ngừng thúc
dục, thậm chí còn trợ giúp cụ thể, rốt cuộc thành thế cưỡi lưng cọp, không tiến
hành không xong.     

      Cho nên trong đại hạn gặp Phá quân hóa
Quyền thủ cung Mệnh, cung Quan hay cung Tài thì cần phải lưu ý, lúc gặp lưu niên
không tốt thì không được mạo muội đưa ra chủ ý của mình, để tránh âm dương không
phối hợp, rốt cuộc bị buộc phải thay đổi trong hoàn cảnh đầy trắc trở.     

      Hễ Phá quân hóa Quyền thì Liêm trinh ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Lộc của
Liêm trinh có tài khí không lớn, không đủ để ỷ lại. Chỉ khi nào có kết cấu sao
Cát tường, thanh thế của Phá quân hóa Quyền mới có lợi để tiến hành sự
việc.   

       Phá quân thủ Mệnh hóa Quyền ở hai
cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là “Liêm trinh Thiên tướng” mà Liêm trinh hóa Lộc.
Cung Quan là Tham lang độc tọa. Cung Tài là Thất sát cũng độc tọa có Lộc tồn
đồng độ hoặc vây chiếu, ở tam phương tứ chính đều không gặp Kình dương và Đà la.
Tinh hệ có kết cấu dạng này khá tốt lành, có lợi về khai triển sự nghiệp, tài
lộc cũng theo đó mà tăng lên, nhưng không được có Địa không Địa kiếp Hỏa tinh
Linh tinh hội chiếu Phá quân. Tinh hệ kết cấu dạng này ở tinh bàn nguyên cục có
thể nói là cách cục đẹp, dù đại hạn hoặc lưu niên gặp kết cấu này, cũng chủ về
biến động thay đổi theo hướng cát tường. Nhưng nhóm tinh hệ này, cổ nhân lại cho
rằng không thích hợp với nữ mệnh, chủ yếu là về phương diện hôn nhân. Cung Phu
thê là Vũ khúc hóa Khoa hội “Tử vi Thiên phủ”, lại hội “Liêm trinh Thiên tướng”
mà Liêm trinh hóa Lộc (Phá quân ở cung Tý thì Vũ khúc còn hội Lộc tồn), kết cấu
dạng này thường dễ xảy ra tình huống thay lòng đổi dạ, bất mãn chồng, do đó ảnh
hưởng đến đời sống hôn nhân.     

      Tinh hệ “Tử
vi Phá quân” thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Phá quân hóa Quyền (đồng độ
với Đà La, hoặc hội Kình Đà). Cung Quan là “Liêm trinh Tham lang” có Liêm trinh
hóa Lộc. Cung Tài là “Vũ khúc Thất sát” có Vũ khúc hóa Khoa. Ở tam phương đều
gặp Sát tinh. Tuy gặp Kình Đà nhưng ở cung Mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này, vẫn có
thể xem là thượng cách. Nếu tam phương là Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa tụ hội,
phối trí quân bình, thì Kình Đà chỉ chủ về tình huống căng thẳng mà thôi. Đời
người không thể thập toàn thập mỹ, không thể việc gì cũng thuận lợi, vì vậy
không thể xem đây là khuyết điểm trọng đại. Nhóm tinh hệ này có biểu hiện chủ
động, còn có sở trường giao tế, có thể lợi dụng quan hệ giao du để trợ giúp cho
công việc làm ăn, cũng thường thích đầu tư vốn lớn vào sự nghiệp mới, đầu óc
linh hoạt và tinh tế sắc sảo. Chỉ có một khuyết điểm lớn, đó là người dưới quyền
không đắc lực, nên khó tránh khỏi phải vất vả, mà còn bất lợi nếu phát triển ở
tha hương.     

      Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa
Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là “Vũ
khúc Thiên tướng” mà Vũ khúc hóa Khoa. Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham
lang. Phá quân có sao Lộc được hóa Quyền, cho nên lực “xung kích” cực kỳ mạnh,
thanh thế cũng lớn, có thể nói là đời người nhiều biến đổi, nhiều đột phá,
thường không giữ một nghề. Cung Di là “Vũ khúc Thiên tướng”, mà Vũ khúc hóa
Khoa, còn có Lộc tồn hội hợp, thành cách “Lộc Quyền Khoa hội cách”, do đó rất có
lợi đối với người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có thể rời khỏi quê hương để phát
triển, hoặc có khả năng chủ động sửa đổi hoàn cảnh khách quan, thường thường có
kết quả tốt hơn ban đầu. Chỉ có một điều tệ hại là Thất sát hội sao Lộc ở cung
Tài, tài lộc vượng mà không giỏi quản lý, thêm vào đó cung Huynh và cung Nô đều
không ổn định, về phương diện quản lý tài chính lại không thể ủy thác cho người
khác, nên dễ có hiện tượng tài chính vượt khỏi tầm kiểm soát.       Tinh hệ
“Liêm trinh Phá quân” thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Liêm trinh hóa Lộc
đồng độ với Phá quân hóa Quyền. Xin tham khảo ở đoạn “Liêm trinh hóa
Lộc”.     

      Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa
Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Quan là Tham lang độc tọa, có Lộc tồn đồng
độ hoặc vây chiếu, đồng thời ắt cũng có Liêm trinh hóa Lộc vây chiếu. Cung Tài
là Thất sát độc tọa (chỉ có Thất sát tọa cung Ngọ mới hội Lộc tồn). Cung Quan có
sao Lộc nặng, cung Tài có sao Lộc nhẹ, cho nên ý nghĩa của Phá quân hóa Quyền có
thể biến thành nắm quyền tài chính, mà không thể tích lũy tiền của. Nếu kinh
doanh làm ăn, thì thường giỏi “công” mà không giỏi “thủ”, thậm chí vượt quá tầm
kiểm soát. Cần phải tích lũy cho đến lúc có tài lực kha khá, mới phát động đột
phá một lần, như vậy sẽ tốt hơn là cứ hay thay đổi lặt vặt. Đây là đạo “tìm cát
tránh hung” cải thiện vận mệnh đời người. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ
có kết cấu kiểu này, cần phải tham khảo thêm vận hạn sau để tính toán phương
cách hành động. Tinh hệ này sở trường về ra quyết sách, cho nên làm việc trong
lĩnh vực tài chính kinh tế là tốt nhất. Cung Di có Lộc Quyền Khoa tụ hội, cho
nên cũng có lợi về chuyển đi xa. Chỉ có một khuyết điểm là không giỏi xử lý theo
chế độ công ty, nên tâm chí thường có cảm giác bị rối
loạn.    

       Tinh hệ “Vũ khúc Phá quân” thủ Mệnh
ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Khoa còn Phá quân hóa Quyền. Cung Quan là
“Tử vi Tham lang” ắt sẽ có Kình Đà hội chiếu hoặc Kình dương đồng độ. Cung Tài
là “Liêm trinh Thất sát” mà Liêm trinh hóa Lộc ắt cũng có Kình Đà hội chiếu,
hoặc Đà la đồng độ. Nhóm tinh hệ này, người đời Thanh có thuyết: “Vũ khúc Phá
quân Hóa Khoa Hóa Quyền, nhậm chức về quân nhu”, do đó có thể thấy sắc thái đặc
biệt của nó. Giỏi quản lý tài chính, giỏi kiếm tiền, là hai đặc điểm lớn nhất
của tinh hệ này. Nếu kinh doanh làm ăn, thì khó tránh vì tham vọng quá lớn mà
làm tăng vất vả khổ lụy, nhưng lại dễ khiến cho người khác phải giật mình vì
thành tích của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này đồng thời cũng có một nguy cơ, đó là
do làm việc quá vất vả nên dễ ảnh hưởng đến sức khỏe. Thích hợp với những ngành
nghề kinh doanh phục vụ, có tính chất tiêu dùng. Nếu nhậm chức làm công hưởng
lương, thì nên đề phòng có quan hệ không tốt đối với thượng cấp. Vì Thái dương
hóa Kị ở cung Phụ mẫu, cũng dễ xảy ra tình huống soi bói, bới móc. “Vũ khúc Phá
quân” ở cung Hợi thì càng nặng.

      Thiên Lương tính chất có sang quý thanh
cao, khi Hóa Lộc sẽ hình thành sự mâu thuẫn về bản chất, nhưng Hóa Quyền thì
không có ảnh hưởng, trái lại còn làm mạnh thêm mức độ sang quý thanh
cao.


      Ví dụ như thiên Lương đủ sức đảm nhiệm chức
vụ quản đốc, giám đốc quản lý công tác, nếu hóa Quyền thì có thể có địa vị của
một chuyên viên như chuyên viên kiểm toán, chuyên viên khảo sát, cho đến luật
sư, .v.v… 

      Thiên Lương hóa Quyền mà có nhiều sao phụ
tá hội chiếu hoặc đồng độ, không những là tượng trưng cho quyền lực, mà còn
tượng trưng cho địa vị. “Địa vị” nói ở đây không phải nói về “địa vị” do sự giầu
có (xã hội ngày nay có phong khí xem trọng “phú” mà không xem trọng “quý”, do đó
mới xảy ra hiện tượng phân biệt như vậy), mà là nói “địa vị” của người được tôn
trọng, được tôn sùng. Ví dụ như giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu học thuật, hoặc
các chuyên viên cao cấp được xem trọng trong các lĩnh vực,
.v.v…

      Ở đại hạn hoặc lưu
niên mà gặp Thiên Lương hóa Quyền, thì không mang ý nghĩa đã thuật ở trên. Bởi
vì không chỉ ở trong một đại hạn hoặc một lưu niên, mà bỗng nhiên trở thành một
giáo sư, một chuyên viên cao cấp, .v.v… nhưng vẫn chủ về uy tín trong một lĩnh
vực nào đó. Ví dụ như một thương nhân, đại hạn gặp Thiên Lương hóa Quyền, có thể
trong 10 năm đó sẽ làm cho thương hiệu của mệnh tạo có tiếng tăm hơn. Ở lưu niên
cũng chủ về đây là năm có thanh danh
hơn.

      Nhưng tính chất của Thiên
lương cũng mang lại những tình huống rắc rối khó xử, chẳng vì có hóa Quyền mà
hết được. Có hóa Quyền chỉ chủ về lúc hóa giải sẽ gặp ít trở lực hơn một chút,
hoặc là lúc gặp nhiều phiền phức thì mệnh tạo lập tức biết được phương hướng
giải quyết, đồng thời còn được trợ lực rất hữu dụng.

      Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối
cung là Thái dương, hội “Thiên cơ Thái âm” mà Thiên cơ hóa Lộc còn Thái âm hóa
Kị, lại hội Thiên đồng độc tọa; hai nhóm sao này ắt sẽ gặp Kình dương Đà la. Nếu
nguyên cục gặp kết cấu dạng này, có thể nhờ nghiệp dư để kiếm tiền, hoặc đương
số nên làm những nghề có tính “cô khắc và hình kị” (như khoa dược, khoa y, trật
đả, tư pháp, .v.v… ), đồng thời tài lộc của người này cũng sẽ có ý vị hao tổn
tinh thần, hơn nữa dù thừa kế sự nghiệp của bậc trưởng bối, ắt cũng sẽ trải qua
sự biến động thay đổi triệt để, biến đổi thành cục mới hoàn toàn, giống như tay
trắng sáng lập sự nghiệp. Thời cổ đại không ưa nữ mệnh gặp kết cấu dạng này, bởi
vì dễ vì áp lực của hoàn cảnh khách quan mà thành trụy lạc. Nếu ở lưu niên hay
đại hạn mà gặp tổ hợp tinh hệ này thì ý nghĩa sẽ khác, gặp Cát tinh là tượng
trưng cho cạnh tranh trong sự nghiệp, gặp các Sát tinh tụ tập thì có thể vướng
vào kiện tụng, cũng có thể bị người ta gây trở ngại về phương diện nguồn tiền
bạc, khiến phải hao tổn tinh thần để ứng phó, rốt cuộc cũng có thể hóa giải
phiền phức. Trong các tình huống thông thường, Thiên lương hóa Quyền ở cung Tý
sẽ ưu hơn ở cung Ngọ.

      Thiên
lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì Thiên
lương có thể hội Lộc tồn), đối cung là Thiên cơ đồng thời cũng hóa Lộc, hội hợp
với Thái dương độc tọa và Thái âm hóa Kị độc tọa. Tính chất của nhóm tinh hệ này
bất lợi về “tài bạch”, về cơ bản có thể định nghĩa là “danh lớn hơn lợi”. Bởi vì
Thái âm hóa Kị ở cung Tài, nhẹ nhất thì “tài bạch” cũng khó mà tích lũy được.
Nhưng hai sao Thiên cơ và Thiên lương hóa thành Lộc và Quyền, nên không ảnh
hưởng đến thành tựu và địa vị của mệnh tạo. Trong tình hình gặp Cát tinh và Sát
tinh lẫn lộn, thường lại chủ về tính chất đặc thù như sau: phải có liên quan đến
tình hình rối ren về tài chính. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp thực tế,
người này có địa vị trong nghề nghiệp, nhưng chỉ thu nhập bình thường, về sau
phải bán hạ giá để tuyên bố phá sản. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp mà gặp nhóm
tinh hệ này, không tuyệt đối chủ về tiền của. Nếu Sát tinh nặng, thường cũng bất
lợi về sức khỏe. Tính chất cơ bản bất lợi về “tài bạch” là do nhìn quá cao, hoặc
tự tin quá đáng, vì vậy mà bị dẫn dụ đầu tư rồi thất bại, về sức khỏe là do quá
lo nghĩ về sự nghiệp và tiền tài mà mắc bệnh liên quan đến hệ thần
kinh.

      Tinh hệ “Thiên đồng Thiên
lương” thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên lương hóa Quyền. Cung Quan là
Thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Cung Tài là Thái âm đồng thời cũng hóa Kị. Ba nhóm
tinh hệ này tất phải gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ “Thiên đồng Thiên lương”
vốn là những sao tâm trạng hóa cực nặng. Sau khi Thiên lương hóa Quyền thì tâm
trạng có thể ổn định hơn, nhưng lại dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm, khiến
ảnh hưởng đến sự thành tựu trong sự nghiệp. Nhưng phần nhiều đương số lại thích
thú trong những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm này, và quy về triết lý
coi cuộc đời là hư ảo. Nếu chúng gặp những sao hiếu động, trôi nổi, như các sao
Thiên hư, Thiên không, Thiên mã, Hỏa tinh, thì sẽ chủ về lãng đãng giang hồ. Ở
lưu niên hay đại hạn mà gặp các tổ hợp sao này, thì sự nghiệp và tiền bạc đều
không ổn định.

      Tinh hệ “Thái dương Thiên
lương” thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Lộc tồn đồng độ vây chiếu. Thiên
lương hóa Quyền thì sao hội hợp là Thái âm ắt sẽ đồng thời  hóa Kị (Hóa Kị ở
cung Hợi thì tốt), hai sao hội hợp khác là mượn “Thiên đồng Cự môn” nhập cung.
Nếu thành cách “Dương Lương Xương Khúc” thì lợi về thi cử và cạnh tranh, đồng
thời cũng thích hợp tạo dựng tiếng tăm hoặc thương hiệu. Nhưng nếu gặp các sao
Sát – Hình, thì nhóm tinh hệ này sẽ ngầm mang lại những tình huống rắc rối khó
xử. Ví dụ như vốn đang có một kế hoạch có lợi, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà
quyết định hủy bỏ, hủy bỏ rồi vẫn chưa biết là có tổn thất, một thời gian khá
lâu sau mới biết đó là thất sách. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có
kết cấu kiểu này, thì tính chất đã thuật ở trên càng rõ nét. Nếu các Sát tinh –
Hình tinh nặng, lại gặp thêm Đại hao, Âm sát ở niên hạn thì gặp kiện tụng, phạm
pháp. Thiên lương hóa Quyền chỉ chủ về rốt cuộc cũng hóa giải được tai
nạn.

      Tinh hệ “Thiên cơ Thiên
lương” thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên lương hóa Quyền thì đồng thời
thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Xin tham khảo đoạn “Thiên cơ hóa Lộc” đã thuật ở
trên.

      Thiên lương độc tọa thủ
Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên đồng, cung tam hợp mượn
“Thiên cơ Cự môn” mà Thiên cơ hóa Lộc gặp Lộc tồn, hai sao hội hợp khác là “Thái
dương Thái âm” mà Thái âm hóa Kị. Thiên lương hóa Quyền ở cung độ này, tuy có
năng lực tiêu giải tai nạn, nhưng đồng thời cũng làm tăng tai nạn trong cuộc
đời. Nhất là Mệnh an tại cung Tị thì tính chất hung hiểm càng lớn. Thiên lương
hóa Quyền bất quá chỉ khiến lúc xảy ra hoạn nạn, thì mệnh tạo sẽ biết cách hóa
giải mà thôi. Đối với nữ mệnh thì phần nhiều gặp rắc rối về tình cảm, còn có sắc
thái độc đoán, vì vậy các tình huống rắc rối khó xử là do bản thân mệnh tạo gây
ra. Thiên lương hóa Quyền ở cung Tị, cũng làm mạnh thêm sắc thái thần bí của
công việc


      Thiên Cơ bản chất là hiếu động, trôi nổi,
sau khi hóa Quyền sẽ biến nó thành khá ổn định. Thiên cơ có bản chất linh động,
sau khi hóa Quyền khiến bản chất linh động của nó càng có hiệu suất. Nhưng tăng
hiệu suất, không nhất định sẽ cải thiện hoàn toàn hiệu quả lối xử
sự.


      Trong các tình huống thông thường, Thiên cơ
thích hóa Quyền. Khi hóa Quyền ở cung Mệnh của nguyên cục, thường sẽ khiến mệnh
tạo trở nên uyển chuyển, khéo ăn khéo ở, có chí tiến thủ, sống có mục
đích.

      Thiên cơ vốn không chủ về quyền lực, chỉ
trong tình huống hóa Quyền mới có biểu hiện quyền lực một cách vừa phải, nhưng
vẫn không chủ về có thực quyền. Ví dụ như ý kiến của bản thân mệnh tạo được
người ta xem trọng, tạo nên hiệu quả trong công việc, nhưng mệnh lệnh thực hiện
trong thực tế lại không phải là do mệnh tạo đưa ra.

      Thiên Cơ mang lại sự biến đông thay đổi, thoạt nhìn thì giống như
được quyền chủ động, nhưng trên thực tế lại là bị động. Sau khi Thiên Cơ hóa làm
sao Quyền, lực chủ động sẽ được tăng lên nhiều. Vì vậy cũng có khả năng khống
chế được sự phát triển của tình thế. Giả dụ như Thiên cơ vốn là hóa Kị ở nguyên
cục, rồi sau lại hóa làm sao Quyền, đây là tổ hợp sao có tính chất khá xấu.
Trong lưu niên hoặc đại hạn, thường bị chủ động dẫn đến những thay đổi không cần
thiết, hoặc chủ về lạm quyền, lộng quyền mà chuốc lấy sự phiền phức , thường
muốn tiến thì lại thành thoái, cầu vinh thì lại bị
nhục.

      Thiên cơ độc tọa thủ
Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Tài là “Thiên đồng Thiên lương” mà
Thiên đồng ắt cũng hóa Lộc. Hội hợp cung Quan là Thái âm độc tọa, đối cung với
Thiên cơ là Cự môn cũng độc tọa, tất sẽ hội Kình dương và Đà la, hoặc đồng độ
với Kình dương. Thiên cơ hóa Quyền trong nhóm tinh hệ này có tính chất khá tốt
lành, có thể làm mạnh thêm ý vị “quyền bính và giầu có”, nhất là lúc Thiên cơ
thủ Mệnh ở cung Ngọ, càng quyền cao lộc càng trọng, thuộc cách “Cơ Nguyệt Đồng
Lương”. Nhưng Thiên cơ hóa Quyền đồng thời làm tăng tính trôi nổi, không thiết
thực của Thiên cơ, chủ về người có thể trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng,
giỏi chi phối người khác, hoặc mượn lực của người khác mà thành việc. Ở đại hạn
hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có tính chất thuật như ở trên, thông
thường chỉ chủ về có biến động theo chiều hướng tốt
đẹp.

      Thiên cơ độc tọa thủ mệnh, hóa Quyền ở
hai cung Sửu hoặc Mùi (Thiên cơ ở cung Sửu còn đồng thời hội Lộc tồn), có Thiên
Lương ở đối cung. Cung Quan có Cự môn độc tọa. Cung Tài có Thiên đồng cũng độc 
tọa hóa Lộc hội hợp cung Mệnh. Nhóm tinh hệ này chủ về dễ xảy ra biến động thay
đổi trong cuộc đời, thường sau khi xảy ra biến động thay đổi, cục diện sẽ thay
đổi hoàn toàn, không như dự liệu ban đầu. Cho nên cần phải xem xét từng đại hạn
một cách tỉ mỉ, mới có thể luận đoán tốt xấu, cát hung. Thông thường, Thiên cơ
hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có tính chất bôn ba vất vả, khổ lụy, nhưng vất
vả khổ lụy chỉ là vì mục tiêu tạm thời của đời người mà
thôi.

      Tinh hệ “Thái âm Thiên
cơ” thủ mệnh, mà Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Dần hoặc Thân. Cung Quan có Thiên
lương. Cung Tài có Thiên đồng hóa Lộc. “Cơ Nguyệt Đồng Lương cách” của nguyên
cục vốn không đủ lực tiến thủ, lúc Thiên cơ hóa Quyền và Thiên đồng hóa Lộc
tương hội, sẽ cải thiện tính chất này, không những làm mạnh thêm lực tiến thủ,
đồng thời còn làm mạnh thêm năng lực vạch kế sách và hiệu suất của công việc.
Khi có Văn xương hóa Khoa đến hội, sẽ tạo thành tính chất khá tốt cho “Cơ Nguyệt
Đồng Lương cách” của tinh hệ Thiên cơ hóa Quyền, có thể tay trắng thành sự
nghiệp, tuy vẫn không thoát khỏi tính chất phải làm việc cho người khác, cũng
không nên tự kinh doanh làm ăn, nhưng vẫn thuộc cách cục rất phú quý.. Nếu đại
hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về tiến thủ trong sự
nghiệp.

      Tinh hệ “Thiên cơ Cự
môn” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội hợp với Thiên đồng cư Tài và mượn
“Thái Dương Thái Âm” nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì ắt Thiên
đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Nếu Thiên cơ ở cung Dậu hội Thiên đồng thì có Lộc tồn
đồng độ, hoặc có cách “Lộc trùng điệp”. Nhưng bất kể Thiên cơ hóa quyền thuộc
loại “Quyền Lộc” trùng điệp, hay “Cơ Cự đồng lâm”, thông thường đều thiếu lực
tiến thủ, cho nên Thiên cơ Hóa Quyền cũng chỉ có thể phát huy mưu trí và quyền
biến, tính cơ động, làm tăng hiệu suất hoạt động của nó. Muốn luận đoán đánh giá
cách cục của nhóm tinh hệ này, cần phải đồng thời xem xét Thiên lương của cung
Phúc mà định. Nếu Thiên lương hội hợp với các sao không tốt, thì đời người thiếu
mục tiêu. Hơn nữa còn phải xem xét cung có Thái dương đồng độ. Nếu đó là cung ưu
thì có thể vinh thân, nếu không tuy chủ về dư giả, thì cũng khá trôi nổi và
không thiết thực.

      Tinh hệ “Thiên cơ Thiên
lương” đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, tương hội “Thiên đồng Thái
âm” thủ cung Tài, và mượn “Cự môn Thái dương” nhập cung Quan để hội hợp. Thiên
cơ hóa Quyền thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Thiên cơ cũng dẽ hội hợp với
Sát tinh. Nhóm sao có kết cấu kiểu này thích Thiên cơ hóa Quyền, thường có thể
nhờ các quyết định chính xác mà giảm được bớt áp lực của những biến đông thay
đổi trong cuộc đời, đồng thời còn làm tăng năng lực vạch kế sách và năng lực
lãnh đạo của bản thân mệnh tạo. Nếu có Văn xương hóa Khoa đồng thời đến hội, thì
đây lại là cách “Cơ Nguyệt Đồng Lương” có tính chất tốt nhất. Ban đầu vốn có bản
chất phú quý không lâu bền, đến đây thì coi như đã được giải quyết. Bản chất
“phú quý không lâu bền” phần nhiều nguyên nhân vì có những biến động thay đổi
không thực sự cần thiết. Nhưng lúc Thiên cơ hóa Quyền mà còn thành “Lộc Quyền
Khoa hội cách”, thì những biến động thay đổi không cần thiết sẽ bị triệt tiêu,
mà chỉ có những biến đông thay đổi với biên độ lớn dẫn đến thành
công.

      Thiên cơ độc tọa thủ
Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tương hội
“Thiên đồng Cự môn” thủ cung Tài và mượn “Thái dương Thiên lương” nhập cung Quan
để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung Tài
là Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Những nhóm sao này, do bản thân Thiên cơ ở
hai cung Tị hoặc Hợi là hai cung thiếu lực tiến thủ, cho nên tuy Quyền Lộc giao
nhau, cũng không thể tích cực tiến thủ, bất quá đời người chỉ khá ổn định, đồng
thời có địa vị mà thôi. Hơn nữa khi đạt tới một địa vị nào đó, thì mệnh tạo có
thể chìm đắm trong thành tựu, nếu có Hỏa Linh Không Kiếp đồng độ với Thiên cơ,
gặp hai sao Hỏa Linh có thể phát triển thành lộng quyền, gặp hai sao Không Kiếp
thì dễ xảy ra trắc trở một cách cô cớ. Nhưng đại hạn và lưu niên mà gặp nhóm sao
này thì không có tính chất như đã thuật ở trên, vẫn chủ về biến đông thay đổi
theo hướng cát
lợi.
      Rất khó xác định tính chất cơ bản của Thiên
Đồng hóa Quyền, nên cần phải quan sát các sao mà Thiên đồng hội hợp, xem nó là
Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, hay Tạp diệu để luận đoán cụ thể. Dưới đây là trinh
bày các nguyên tắc thông thường.

      Bản thân Thiên đồng thiếu năng lực khai
sáng, khi hóa Quyền có thể làm tăng sức mạnh của nó, nhưng tình hình “phá tổ
thành gia” (phá tổ nghiệp phải tự lập), “ly tổ tự hưng” (rời quê hương tự làm
nên) thì vẫn khó tránh.
      Thiên đồng có sắc thái hưởng lạc, lúc hóa
Quyền có thể biến thành năng lực theo đuổi sự hưởng lạc, suốt ngày chìm đắm
trong dục lạc, không còn thời gian nghĩ đến sự tiến
thủ.
      Thiên đồng hóa Quyền, có lúc sẽ phát triển
thành tính dựa vào quyền thế, đi đường tắt để cầu thành
tựu.
      Nữ mệnh Thiên đồng hóa Quyền cũng khó luận
đoán, bởi vì lúc có các sao ác sát giao hội, tụ tập, thì Hóa Quyền sẽ dễ khiến
mệnh tạo bị cuốn vào cuộc sống hưởng thụ trụy lạc nhiều. Hơn nữa đây không phải
là bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, mà thường là do bản thân quyết định.
Nhưng lúc các sao Cát tường hội hợp, thì đây là mạng được hưởng phước thanh
nhàn, nhưng lại dễ bị tình trạng suốt ngày không có việc gì làm, nên phải tìm
cách tiêu khiển để giết thời gian. Chỉ trong tình hình có hai sao Sát tinh và
Cát tinh phối hợp thích đáng, thì mới bắt đầu tạo dựng sự nghiệp của riêng mình,
lúc này đời người mới có mục đích.

      Tinh hệ “Thiên đồng Thái âm” thủ mệnh ở hai
cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên đồng hóa Quyền thì Thái âm đồng thời hóa Lộc. Xin
tham khảo ở đoạn “Thái âm hóa Lộc”.

      Tinh hệ “Thiên đồng Cự môn” đồng độ thủ
mệnh ở cung Mùi (hoặc Sửu), mà Thiên đồng hóa Quyền thì Cự môn sẽ đồng thời hóa
Lộc. Cung Quan hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa. Cung Tài mượn “Thái dương Thiên
lương” nhập cung để hội hợp, đồng thời có Kình Đà hội hợp, hoặc đồng cung với
Kình dương. Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là Thái âm hóa Lộc ở cung Phu
thê. Thái âm hóa Lộc ở cung Hợi là cát, còn cách tứ hóa “Lộc Quyền Khoa Kị” đều
gặp đủ, cho nên tuy chủ về có ngoại tình, nhưng về phương diện hôn nhân lại có
khuynh hướng lấy vợ đẹp, được vợ trợ lực. Nữ mệnh thì chủ về chồng có sự nghiệp
tốt, nhưng cũng dễ có tình nhân bên ngoài. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm
tinh hệ này, sẽ chủ về dễ xảy ra tình huống ngầm có rắc rối về tình cảm. Thiên
đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản
thân.

      Tinh hệ “Thiên đồng Thiên lương” thủ mệnh ở
hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Quyền (ở cung Dần còn đồng độ Lộc
tồn), ắt sẽ đồng thời hội Thái âm độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và hội Thiên cơ
độc tọa hóa Khoa  ở cung Quan, thành cách “Lộc Quyền Khoa hội”, thông thường đều
là cách cục tốt lành. Nhưng nhóm tinh hệ này lại hoàn toàn có khuynh hướng làm
mạnh thêm đặc tính của Thiên lương. Cho nên thông thường đều chủ về nhiệt tâm
đối với việc công ích, hoặc thích giúp đỡ người khác mà không ngại vất vả, đồng
thời bản thân cũng có sinh hoạt hưởng thụ lành mạnh. Khuyết điểm của tinh hệ này
là Cự môn hóa Kị ở cung Phu thê, nên thường xảy ra tranh cãi ồn ào không càn
thiết, có thể dẫn đến có tình cảm với người bên ngoài, nhưng không vì vậy mà ảnh
hưởng đến sự nghiệp. Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này thì không mang ý
nghĩa ngoại tình và vợ chồng tranh cãi ồn ào như gặp ở nguyên cục. Mà chủ về
sáng lập sự nghiệp và có công trạng, chí ít cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo
hướng tốt lành.

      Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh
ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Thái dương ở đối cung hóa
Lộc, có Thiên cơ hóa Khoa và Cự môn hóa Kị hội hợp. Đây là cách tứ hóa “Lộc
Quyền Khoa Kị” đều gặp đủ, chủ về làm những nghề mang tính phục vụ , cần đến tài
ăn nói để kiếm tiền, đây là phương hướng phát triển tốt nhất. Thiên đồng hóa
Quyền ở cung Mệnh không chủ về phát đột ngột, chỉ chủ về sự nghiệp phát triển
vững chắc, thông thường cuộc sống cũng nhàn hạ. Ở thời hiện đại, tinh hệ này
cũng thích hợp với nghề bán lẻ. Thông thường “Cơ Nguyệt Đồng Lương” không thích
hợp tự kinh doanh làm ăn, nhưng gặp tinh hệ kết cấu kiểu này thì cũng có thể suy
tính đến việc kinh doanh bán lẻ. Có điều không nên đầu cơ, không nên hợp tác với
người khác.

      Thiên đồng độc tọa
thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ưa Cự môn hóa Kị ở đối cung “kích phát”, hội
hợp Thiên lương và “Thái âm Thiên cơ” hóa Lộc hóa Khoa. Thiên đồng ở cung Tuất
rất ưa gặp Lộc tồn bay đến cung Ngọ, gọi là “phản bối”, chủ về “qua cơn mưa trời
lại sáng”. Dù Thiên đồng ở cung Thìn cũng chủ về phát vượt lên. Vì vậy, trong
các tình huống thông thường, có thể nói Thiên đồng rất ưa cung hạn Hóa Quyền.
Đặc biệt cần phải chú ý cung Phúc đức, Thái dương độc tọa tương hội Thiên lương,
chủ về thích hợp nghiên cứu học thuật, ý nghĩa sâu hơn nữa là, thích hợp với
những công việc đòi hỏi lao tâm nhiều hơn lao lực. Nhưng ở đại hạn hoặc lưu niên
mà gặp nhóm tinh hệ có dạng kết cấu này, thì không có những tính chất như đã
thuật ở trên. Còn rất ngại Cự môn hóa Kị, mang lại quấy nhiễu, gây khó khăn,
thường chủ về gặp những tình huống rắc rối khó xử về tình
cảm.

      Thiên đồng độc tọa thủ
Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Kình Đà hoặc đồng độ với Đà La,
Thiên lương độc tọa ở đối cung. Mượn “Thái dương Thái âm” mà Thái âm hóa Lộc để
hội hợp, và hai sao hội hợp khác là “Thiên cơ Cự môn” hóa Khao hóa Kị. Đây cũng
thành cách “Lộc Quyền Khoa Kị” đều gặp đủ, nhưng do vị trí hội hợp có khác nhau
nên tính chất cũng khác nhau. Nếu so sánh thì đây là kết cấu bất lợi về hôn
nhân, “Thiên cơ Cự môn” ở cung Phu thê, mà Cự môn hóa Kị làm mạnh thêm ý vị “phá
sạch”. Nói về sự nghiệp thì vẫn có thể luận đoán là tốt lành, nhưng muốn trong
sự nghiệp không bị đố kị, thị phi, oán trách, thì nên trọn những ngành nghề cần
tài ăn nói để kiếm tiền, sẽ có hiệu quả với đạo “tìm cát tránh hung”. Ưa đi
đường tắt, vốn là biểu hiện rất cụ thể của nhóm tinh hệ này, đây cũng là nhân tố
dẫn đến oán trách thị phi.

  

      Thông thường Thái Âm hóa Quyền có thể mang
lại tính chất Cát Lợi. Ý nghĩa trực tiếp nhất là làm mạnh thêm quyền kiểm soát
tài chính. Nhưng cần chú ý, “tài tinh” Thái âm khác với “tài tinh” Vũ khúc. Nếu
so sánh, thì Thái âm mang ý nghĩa trìu tượng, nên “quyền tài chính” không phải
là giầu có, mà là nói mệnh tạo có thể vận dụng tiền bạc (ở xã hội hiện đại,
người trong giới làm ăn kinh doanh thường có tính chất
này).

       Đối với Thái âm lạc hãm, lúc hóa Quyền sẽ
giúp cải thiện một số tính chất xấu. Ví dụ: vốn bất lợi đối với mẹ, chị em gái,
hoặc vợ và con gái, nhưng khi hóa Quyền thì giảm nhẹ tình huống bất lợi, như
“sinh ly”  thì biến thành “gặp nhau ít mà xa nhau nhiều”, .v.v… Cần phải xem
tình hình cụ thể của từng vận hạn mà định. Có điều, nếu Thái âm lạc hãm bị hóa
thành sao Kị ở nguyên cục, mà lúc ở đại hạn hoặc lưu niên lại hóa thành sao
Quyền, thì thường sẽ biến thành lực “kích phát” rất bất
lợi.
      Nam mệnh Thái âm hóa Quyền sẽ có sức hút
đặc biệt đối với người khác giới. Nhưng tình cảm dành cho người khác giới vẫn có
lý trí, không giống như Thái âm hóa Lộc quá thiên nạng về tình
cảm.
      Nữ mệnh Thái âm hóa Quyền, chủ về có
“thuật”  chế ngự chồng, tuy chế ngự chồng, nhưng người ngoài khác không nhận
thấy đó là chế ngự chồng, mà vẫn chỉ thấy họ là người phụ nữ hiền thục. Nữ mệnh
mà cung Phúc đức là Thái âm hóa Quyền thì có tính chất khác, đó là tình cảm dành
cho chồng thường kém mặn nồng (lạnh nhạt), khác với Thái âm hóa Quyền ở cung
Mệnh có tình cảm vợ chồng tốt đẹp hơn.

      Tinh hệ “Thiên đồng Thái âm” đồng độ thủ
Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái âm hóa Quyền hội với “Thiên cơ Thiên lương”
cư Quan mà Thiên cơ hóa Kị, và mượn “Thái dương Cự môn” nhập cung Tài để hội hợp
có Thái dương hóa Khoa. Cung Mệnh gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình
dương.  Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Quyền có Thái dương hóa Khoa hội chiếu,
thông thường đều có biểu hiện tốt lành. Cung Quan Thiên cơ hóa Kị, chủ về sự
nghiệp có nhiều biến động thay đổi, dù ở cùng một nơi làm việc cũng chủ về liên
tiếp bị điều động sang nhiều cương vị công tác khác nhau. Hơn nữa trong nhiều
tình huống, mệnh tạo sẽ không chuyên một nghề, cũng chính vì bị thay đổi quá
nhiều lần, nên dù có khéo thay đổi thì thu nhập thực tế cũng không nhiều. Chỉ
trong tình hình có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp có tác động tích cực thì sự
nghiệp mới hơi ổn định, thu nhập cũng khá hơn, những vẫn thuộc tính chất “danh
lớn hơn lợi”. Ở lưu niên hay đại hạn gặp nhóm tinh hệ này, thường thường chuyển
biến thành vận trình có tính sáng tạo. Có lúc còn tốt hơn so với gặp nhóm tinh
hệ này ở nguyên cục.

      Tinh hệ “Thái dương
Thái âm” đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái âm hóa Quyền còn Thái
dương hóa Khoa, tương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, và mượn “Thiên cơ Cự môn”
nhập cung Tài để hội hợp, mà thiên cơ hóa Kị. Trường hợp ở cung Sửu thì “Thái
dương Thái âm” có thể gặp Lộc tồn. Nhật Nguyệt đồng độ với đã có ý nghĩa “chợt
âm chợt dương”, có ý vị mâu thuẫn, lúc thì tích cực, lúc thì tiêu cực. Thái âm
hóa Quyền làm tăng thu hoạch, Thái dương hóa Khoa làm tăng sự phát tán, hai tính
chất này dễ gây ra xung đột mâu thuẫn về tâm trạng. Do cung Quan là Thiên lương,
vì vậy cũng dễ xuất hiện biến động thay đổi và bị quấy nhiễu, gây khó khăn về
phương diện sự nghiệp. Cung Tài là Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Cự môn, chủ về
lao tâm tổn thần cực độ, cho dù ở đại hạn hay lưu niên cũng thường có hiện tượng
đồng dạng.

      Tinh hệ “Thiên cơ
Thái âm” đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Kị, Thái âm
hóa Quyền, gặp Đà La, các sao hội hợp là Thiên lương độc tọa cư Quan và Thiên
đồng độc tọa cư Tài. Do hai sao Hóa của Cơ Âm có tính chất xung đột nhau, Thái
âm hóa Quyền chủ về ổn định, Thiên cơ hóa Kị lại chủ về biến thiên, do vậy
thường diễn hóa thành bất ổn trong công việc bình thường, thích đi đường tắc để
tìm sự thay đổi, nhất là dễ theo đuổi hư danh, làm ảnh hưởng đến sự thành tựu
của bản thân. Tinh hệ này còn bất lợi về tình cảm, nhất là nữ mệnh, tuy giỏi
“chế ngự” chồng, nhưng tình cảm vợ chồng lại rất ngăn cách. Có điều, người ngoài
lại vẫn cứ tưởng hai vợ chồng rất ân ái, tính chất này càng nặng nếu “Thiên cơ
Thái âm” ở cung Thân. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, thường
thường là mất cơ hội thay đổi.

     
Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở Dậu thì Thái âm có
thể hội Lộc tồn ở cung Tị), Thiên đồng ở đối cung, có Thái dương hóa Khoa cư Tài
và Thiên lương độc tọa cư Quan. Thái dương và Thái âm ở riêng hai cung, sự xung
đột ít hơn, do đó tính chất không ổn định cũng ít hơn. Nhưng lại dễ biến thành
an phận trong hiện trạng, kế hoạch của bản thân không thông suốt, nên ảnh hưởng
đến sự thành tựu. Muốn luận đoán thực tế mệnh cách là cao hay thấp, cần phải xem
xét kỹ các đại hạn mà định, từ đó có thể nắm được “tiên cơ” để tiến hành phép
“tìm cát tránh hung”. Thông thường tinh hệ này bất lợi về tình cảm và hôn nhân,
thường có khuynh hướng tái hôn. Người vợ nguyên phối dễ bị tình trạng tính cách
không hợp nhau. Kết hôn muộn cũng là phép “tìm cát tránh hung” nên tính đến. Ở
đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này, nên nắm chắc cơ hội phát
triển.

      Thái âm độc tọa thủ
Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thái dương hóa Khoa ở đối cung, gặp
Kình Đà, hoặc có Đà La hội chiếu, hội hợp với “Thiên đồng thiên lương” cư Quan
và Thiên cơ hóa Kị cư Tài. Thái âm ở hai cung độ này là rơi vào “thiên la địa
võng”, còn có bản chất không điều hòa với Thái dương, gây ra ý vị xung đột, hơi
giống tình trạng hai sao này đồng cung ở Sửu Mùi, chỉ khác nhau là không xung
đột trực tiếp. Vì vậy người Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có thể
bỗng nhiên lập ra một kế hoạch, rồi cũng bỗng nhiên hủy bỏ kế hoạch đó. Nhưng ở
hai cung Thìn hoặc Tuất, thì lại hay trì hoãn, kéo dài, không thực hiện ngay kế
hoạch, mà cũng không hủy bỏ kế hoạch. Trì hoãn ở đây còn mang hàm nghĩa “đầu voi
đuôi chuột”. Thêm vào đó cung Tài là Thiên cơ hóa Kị, chủ về có được đồng tiền
thì rất hao tâm tổn lực, khác với Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi.
“Thiên đồng Thiên lương” ở cung Quan chủ về phải rất vất vả về ăn nói, thuyết
phục, giải trình. Đây là đặc điểm của Thái âm hóa Quyền ở “Thiên la Địa võng”.
Trong vận hạn mà gặp tinh hệ này, thì không có bản chất như đã thuật ở trên, cần
phải xét kỹ các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, hội hợp thực tế để
định cát – hung.

      Thái âm hóa
Quyền thủ Mệnh, độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Lộc tồn và đối nhau
với Thiên cơ hóa Kị. Mượn “Thiên đồng Cự môn” nhập cung Tài để hội hợp, cùng hội
hợp “Thái dương Thiên lương” ở cung Quan mà Thái dương hóa Khoa. Trong hai cung,
Thái âm ở cung Hợi tốt hơn nhiều so với ở cung Tị. Có điều bất kể là cung Tị hay
cung Hợi, đều là cách “Lộc gặp Thái âm”, chủ về gặp nhiều rắc rối về tình cảm,
nhưng giỏi quản lý tài chính. Sau khi sự nghiệp ổn định thì tình cảm và sự
nghiệp lại đều không ổn định, nhưng nguồn tiền tài lại cực kỳ thịnh vượng. Sự
nghiệp không ổn định ở đây cũng chưa hẳn là khuyết điểm, bởi vì khi Thái âm hóa
Quyền thì chủ động tìm sự thay đổi, thường có thể phát triển tốt hơn. Ở đại hạn
hay lưu niên cũng có ý vị thay đổi theo hướng
tốt.

      Ý nghĩa cơ bản của
Tham Lang hóa Quyền là làm tăng dục vọng của nó, bất kể là ham muốn vật chất hay
ham muốn dục tình đều như vậy.

      Trên đời, không thể
không làm gì mà có được điều mình muốn. Do đó Tham lang hóa Quyền luôn có ý
thức, cần phải cạnh tranh ở từng lĩnh vực một, ngay cả những sự việc nhỏ mọn,
lặt vặt cũng vẫn mất nhiều thời gian để tranh chấp hơn thua. Hơn nữa, có thể còn
có biểu hiện không từ một thủ đoạn nào, đương nhiên sẽ làm tăng khổ lụy cho thân
tâm.
      Tham lang có thiên
hướng trong “giao tế thù tạc”, sau khi hóa Quyền thì biến thành ưa lấy “giao tế
thù tạc” làm thủ đoạn để tiến hành cạnh tranh, môi trường giao tế thù tạc lại
không thể tránh được tình cảnh “phong hoa tuyết nguyệt”, do bản thân Tham lang
cũng nặng về dục tình, nên dễ xảy ra sự cố.
      Nữ mệnh Tham lang
hóa Quyền, nếu thiếu tu thân dưỡng mệnh, sẽ dễ hy sinh thân xác để theo đuổi mục
đích. Nếu có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, mà cung Phúc đức không có các
sao đào hoa, thì phần nhiều sẽ dốc toàn lực để theo đuổi sự nghiệp, càng gặp
phải cạnh tranh càng tăng thêm sức mạnh, tới mức độ có thể quên cả chuyện gia
đình vì không còn thời gian để chăm lo tới. Vì vậy, cung Điền trạch, cung Phu
thê, và cung Tử tức không nên gặp Thiên cơ hóa Kị, cung nào gặp Thiên cơ hóa Kị
sẽ là phương diện biểu hiện những khiếm khuyết trong cuộc đời. Nam mệnh tuy cũng
có cùng một tính chất, nhưng do hoàn cảnh xã hội, biểu hiện cụ thể thường được
hòa hoãn hơn.

      Tham lang hóa Quyền đồng độ với Hỏa
tinh Linh tinh, chủ về phát đột ngột, thường chỉ phát đột ngột về sự nghiệp mà
không chủ về phát tài. Còn có nguy cơ phát lên một cách nhanh chóng và suy sụp
cũng rất nhanh chóng. Nhất là đối với người làm việc trong chính giới cần phải
xử sự cẩn thận, rất dễ thân bại danh
liệt.

      Tham lang
thủ Mệnh hóa quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Phá quân và Thất sát hội hợp, đối
cung là Tử vi độc tọa, Tham lang còn được đồng độ với Lộc tồn hoặc được Lộc tồn
chiếu xạ. Tham lang hóa Quyền ở cung Tý, thì ham muốn dục tình nặng hơn ham muốn
vật chất, ở cung Ngọ thì ham muốn vật chất nặng hơn ham muốn dục tình. Do hóa
Quyền mà còn gặp Lộc tồn, nên làm mạnh thêm tính chất theo đuổi dục vọng, vì vậy
chỉ thích hợp làm ăn kinh doanh một cách độc lập, không nên hợp tác với người
khác, càng không nên chủ về làm việc cho người khác. Tham lang hóa Quyền rất kị
đồng độ với Văn khúc hóa Kị (can Kỷ tứ hóa = Vũ khúc – Tham lang – Thiên lương –
Văn khúc), tuy xử lý rất ổn thỏa mà kết quả lại mất công vô ích, hao tổn tinh
thần và tiền tài một cách uổng phí, mục tiêu theo đuổi không được như ý nguyện.
Nếu cung Phúc đức hoặc cung Phu thê gặp các sao đào hoa, đồng thời còn gặp các
Sát tinh, Hình tinh, Địa không, Địa kiếp, thì sẽ nhuyễn hóa thành cuộc đời bị
lầm lẫn vì tình, cũng có thể bị lừa đảo vì tình, tiền bạc cũng vì vậy mà phá
tán.

      Tham lang
thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ có Vũ khúc hóa Lộc đồng độ,
xin tham khảo ở đoạn “Vũ khúc hóa Lộc”.

      Tham lang
độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với Liêm trinh, hội hợp với
Thất sát độc tọa cư Quan và Phá quân độc tọa cư Tài. Tham lang ở cung Dần còn
được hội Lộc tồn. Đặc điểm của nhóm tinh hệ này là cung Phu thê có sao Lộc quá
nặng, “Vũ khúc Thiên phủ” mà Vũ khúc hóa Lộc lại đồng thời còn gặp Lộc tồn, nên
cuộc đời thường được biểu trưng ở người phối ngẫu. Nam mệnh Tham lang hóa Quyền
tuy có sự nghiệp của riêng mình, nhưng ý vị “vợ đoạt quyền chồng” quá nặng. Lúc
cung Thê đồng thời gặp sao Văn, tuy có khuynh hướng được tiền bạc của vợ, nhưng
vẫn khó tránh bị vợ lấn át. Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền chủ về dễ bị người giầu
đã có vợ theo đuổi, thường vì vậy mà vận mệnh cuộc đời thay
đổi.
      Tinh hệ “Tử vi Tham
lang” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tham lang hóa Quyền, hội “Vũ khúc Phá
quân” cư Tài mà Vũ khúc hóa Lộc, và hội “Liêm trinh Thất sát” cư Quan, lại gặp
Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Đây là nhóm tinh hệ có ham muốn
vật chất rất mạnh mẽ. Do cung Tài là “Vũ khúc Phá quân” mà Vũ khúc hóa Lộc, nên
tài khí không yếu, nhưng thường có biểu hiện lãng phí và thích trang điểm bề
ngoài, phấn son lòe loẹt, áo quân bảnh bao, mà nội tâm lại “trống rỗng”. Tinh hệ
Tử Tham đồng độ mà Tham lang hóa Quyền, còn là biểu trưng của tính thích dùng
thủ đoạn, không cần làm việc trong chính giới, dù hoạt động trong lĩnh vực
thương nghiệp cũng có khuynh hướng này. Nếu có Văn khúc hóa Kị đồng độ hoặc vậy
chiếu, thì vì nguyên nhân lộng quyền thủ đoạn, nên bản thân phải chịu cảnh thất
bại.

      Tham lang
độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Vũ khúc hóa
Lộc, hội Thất sát độc tọa cư Quan, và hội Phá quân độc tọa cư Tài. Do sức mạnh
của “Quyền Lộc tượng hội”, khiến cho Tham lang ở “thiên la địa võng” có thể phá
được cảnh khốn khó, đột nhiên có biểu hiện vượt bậc. Có thêm Hỏa tinh hoặc Linh
tinh đồng độ, thì càng chủ về phát lên một cách nhanh chóng. Cũng chính vì vậy,
mệnh tạo cần phải lưu ý đến vận thế nào thì có thể sụp đổ, để tìm cách “tìm cát
tránh hung”. Mỗi một vận hạn, cần phải lưu ý đến cát – hung của cung Phúc đức.
Cung Phúc đức của nguyên cục là “Liêm trinh Thiên tướng” đối nhau với Phá quân,
về kết cấu tinh hệ là đã có thiếu xót. Nếu cung Phúc đức của đại hạn hoặc lưu
niên có các Sát tinh, Kị tinh, Hình tinh quấy nhiễu, gây khó khăn, thì đây là
điềm dẫn đến suy sụp một cách nhanh chóng, mà sự cố suy sụp thì nguyên nhân
thường do tình cảm gây ra.

      Tinh hệ
“Liên trinh Tham lang” thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Quyền,
đồng thời hội “Vũ khúc Thất sát” mà Vũ khúc hóa Lộc ở cung Quan, và hội “Tử vi
Phá quân” ở cung Tài bạch. Nhóm tinh hệ này có tính chất biến hóa thay đổi cực
kỳ lớn, do có Kình dương Đà la hội hợp, hoặc có Đà La đồng cung. Nếu gặp thêm
Địa không Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, sẽ dễ vì tham ô mà dẫn đến tai
họa lao ngục. Nếu gặp các sao Văn và các sao đào hoa, là biểu trưng cho cho nghệ
thuật, giải trí, vui chơi, tạo mẫu thiết kế, thì Tham lang hóa Quyền có thể làm
tăng mức độ mỹ quan. Đây chỉ cử ra những ví dụ có tính cực đoan, ở đại hạn hoặc
lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu theo dạng này, sẽ chủ về đột nhiên xuất hiện
cơ hội chuyển biến theo hướng tốt. Nhưng nếu có Văn khúc hóa Kị cùng đồng độ với
cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên, thì nên đề phòng bị lừa, cũng chủ về vì sắc
mà chuốc
họa.

      Vũ Khúc là sao tiền tài, sau khi hóa Quyền
sẽ làm tăng sự hiển hách của thanh thế. Do Vũ Khúc chủ về hành động, tức là có
biểu hiện cụ thể, nên sau khi hóa Quyền càng chủ về hành động quả cảm và quyết
đoán.

      Nhưng đồng thời Vũ khúc còn có biểu hiện
bạc tình, nên sau khi hóa Quyền sẽ chủ về không từ một thủ đoạn nào. Khác với
thủ đoạn của Tham Lang hóa Quyền, người Vũ khúc hóa Quyền về căn bản sẽ không
cần biết phản ứng của người khác sẽ như thế nào, muốn làm thì làm, do đó không
có thâm ý. Ở xã hội hiện đại, tính chất này thường thích hợp với người trong
giới kinh doanh, có thể phát huy sức quyết đoán, mà ít nhiều thì cũng có người
đố kị.
      Do Vũ khúc mang theo tính “cô độc và hình
khắc”, nên nữ mệnh không ưa hóa Quyền, dễ gặp trở ngại về hôn nhân, hoặc không
có duyên với con cái, biểu trưng cho mẫu người phụ nữ có sự
nghiệp.

      Tinh hệ “Vũ khúc
Thiên phủ” thủ Mệnh ở hai cung cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Quyền còn Thiên
phủ hóa Khoa, ở cung Tý còn có Lộc tồn đồng cung, tam phương hội cung có Liêm
trinh độc tọa cư Tài, “Tử vi Thiên tướng” cư Quan, đối cung là Thất sát độc
tọa.

      Vũ khúc ở Tý hoặc Ngọ, đây là hai cung độ khá
đẹp khi Vũ khúc hóa Quyền, biểu trưng cho tài khí rất vượng, có năng lực khiếm
tiền, mà bản thân còn có thể mượn tiền để vận dụng. Khuyết điểm của nó là Thiên
đồng hóa Kị ở cung Huynh đệ, vì vậy thiếu trợ thủ đắc lực. Lúc giao cho trợ thủ
sự lý việc, mệnh tạo thường không vừa ý, do đó trở thành không có người trợ giúp
để giảm sự vất vả của bản thân.

      Người gặp tinh hệ
này, nên làm việc ở công ty lớn, tập đoàn lớn, thì danh dự, địa vị và quyền lực
cùng thăng tiến, dễ được cấp trên trọng dụng.

      Nữ mệnh
bất lợi về hôn nhân, quan hệ với chồng dễ biến thành “ngó đứt mà tơ vương”, đồng
thời còn dễ được người đã có gia đinh theo
đuổi.

      Tinh hệ “Vũ khúc Tham
lang” thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Quyền, ắt sẽ hội hợp với
Kình dương, Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương hội cung “Liêm trinh Phá
quân” cư Tài, và hội “Tử vi Thất sát” cư Quan.

      Vũ
khúc hóa Quyền đồng độ với Tham lang, chủ về làm tăng dục vọng về tiền tài. Ở
đây không chỉ nói về kiếm tiền, mà còn nói về dục vọng chi phối tiền bạc. Cho
nên nắm quyền tài chính là nguyện vọng lớn nhất của người có kết cấu tinh hệ Vũ
Tham thủ Mệnh, và đây cũng là thành tựu lớn nhất của
họ.

      Trải qua cạnh tranh và nỗ lực (bao gồm cả thủ
đoạn), họ có thể nắm quyền tài chính, nhờ vào đó mà dần dần cải biến sự nghiệp
của bản thân. Có lúc còn mượn sự trợ giúp của quyền lực tài chính để thay đổi
chức nghiệp của mình, tức là lấy tiền của người khác để làm bàn đạp tiến
thân.

      Nữ mệnh nếu không có nghề nghiệp, thì “bà quản
gia” được coi là “chức nghiệp”.

      Đại hạn hoặc lưu niên
gặp tinh hệ này, cũng là điềm tiến thủ, chủ về nhờ tranh chấp mà tạo ra chuyển
biến.

      Tinh hệ “Vũ khúc Thiên
tướng” thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Lộc tồn đồng
độ hoặc vây chiếu, đối nhau với Phá quân, tam phương hội cung có “Liêm trinh
Thiên phủ” cư Tài mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội hợp Tử vi độc tọa cư
Quan.

      Nhóm tinh hệ này xem ra có vẻ như toàn mỹ, “Lộc
Quyền Khoa” hội hợp, thanh thế hiển hách. Nhưng cần chú ý “Vũ khúc Thiên tướng”
luôn luôn bị Thiên đồng hóa Kị và Thiên Lương giáp cung. Ở cung Thân còn bị thêm
Kình dương và Đà la giáp cung, do đó cần phải nhẫn nhịn để cầu toàn, không tốt
bằng Vũ Tướng ở cung Dần.

      Nói “nhẫn nhịn để cầu
toàn”, có nghĩa là cần phải tình nguyện ở vị trí thứ hai, còn phải tránh để xảy
ra tranh chấp thị phi với đồng sự. Đến đại hạn hoặc lưu niên có các sao Sát – Kị
– Hình nặng, thì lại cần phải lưu ý đạo “tìm cát tránh
hung”.

      Nữ mệnh tuy có sự nghiệp riêng, nhưng phần
nhiều cũng chủ về làm nhị phòng, kế thất, nếu không sẽ dễ đổ
vỡ.

      Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, là
điềm hợp tác với người khác để kiếm tiền, cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo
hướng có lợi.

      Tinh hệ “Vũ khúc
Thất sát” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Quyền, đồng độ với
Kình dương, hoặc hội hợp với Kình dương, Đà la, đối cung là Thiên phủ đồng thời
hóa Khoa, tam phương hội “Tử vi Phá quân” cư Quan và hội “Liêm trinh Tham lang”
cư Tài.

      Nhóm tinh hệ này nữ mệnh bất lợi về hôn nhân,
cuộc đời gặp nhiều rắc rối về tình cảm, sau trung niên phần nhiều cảm thấy cuộc
đời là hư ảo, buồn rầu, dễ đem lòng yêu thương người đã có gia thất mà không thể
kết hợp, do đó càng có nhiều nỗi đau thầm kín, thế là phần nhiều đều dốc tâm vào
sự nghiệp.

      Nói về sự nghiệp thì đây là kết cấu có
quyền lực quá mạnh mẽ, thường có thể phát triển thành lộng quyền hoặc lạm quyền,
người dưới quyền cũng vì vậy mà li tán.

      Có một đặc
điểm khá rõ rệt, đó là phải nhờ cải biến sự nghiệp thì tài khí mới được tăng
cao, ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị
này.

      Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh
ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), Tham lang độc tọa ở đối
cung, tam phương có “Tử vi Thiên phủ” cư Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và “Liên
trinh Thiên tướng” cư Tài.

      Sắc thái đặc biệt của nhóm
tinh hệ này là sau khi trải qua gian nan, tạo dựng dược uy tín và danh tiếng,
thì mới có phát triển mang tính đột phá, nhờ đó bước vào vận tốt của cuộc đời.
Nếu đối cung gặp “Hỏa Tham cách” hay “Linh Tham cách”, thì càng phát triển một
cách đột ngột. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về phát đột
ngột.

      Nữ mệnh chủ về lấy chồng lớn tuổi, và kết hôn
muộn, nếu không sẽ dễ sinh ly.

     
Tinh hệ “Vũ khúc Phá quân” thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa
Quyền, có Kình dương hoặc Đà là hội chiếu, đối cung là Thiên tướng, tam phương
hội có “Tử vi Tham lang” cư Quan, và “Liêm trinh Thất sát” cư
Tài.

      Do có Phá quân đồng độ, nên Vũ khúc hóa Quyền
thường vì xảy ra biến động quá đáng, mà gây ảnh hưởng đến năng lực quản lý tài
tính. Vì vậy thích hợp với những nghề có tính tiêu dùng, hưởng thụ (nhất là
ngành ẩm thực, giải trí, vui chơi). Nếu cung Quan cung Tài gặp Sát tinh, mà cung
Mệnh không có Sát tinh thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát. Nếu cung
Mệnh có Sát tinh thì thích hợp với những nghề có liên quan đến dao
kéo.

      Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này,
thì đây là hạn biến động thay đổi kịch liệt, thường có kết quản
tốt.
       Thái Dương hóa Quyền chủ về tăng năng lực
sáng tạo và tài lãnh đạo, nhưng chỉ chủ về nâng cao địa vị, mà không chủ về
chuyển biến có tính đột ngột về tài lộc, bởi vì tài lộc chỉ tăng theo địa
vị.

      Vấn đề “miếu vượng lạc hãm” có ảnh hưởng
khá lớn đến Thái dương hóa Quyền. Thái dương ở cung lạc hãm, thường thường có
chức mà không có thực quyền. Nếu cực lực tranh thủ quyền thế, không biết tiến
thoái, thì dễ vì vậy mà dẫn đến thất bại.
      Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền thường thường
là biểu trưng cho tính độc đoán. Cho nên rất kị gặp Văn xương hóa Kị đồng độ,
thường vì xử sự chủ quan mà gây ra tổn thất. Do người Thái dương thủ Mệnh tự tin
một cách quá đáng, nên tổn thất có thể theo thời gian càng lúc càng
lớn.
      Người có Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, thì
cần phải đồng thời quan sát cung Huynh đệ và cung Nô bộc để xem xét mối quan hệ
với đồng sự và người dưới quyền. Đây là phương diện có ảnh hưởng khá lớn đối với
đời người.
      Lúc Thái dương hóa Quyền, có Cự môn hóa Lộc
hội hợp, sẽ chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) tin cậy và đề
bạt, cũng chủ về nhờ tài ăn nói để kiếm tiền. Nếu có các sao hiển hách hội hợp
đồng thời với các sao Sát Kị Hình, thì vẫn nên đề phòng đột nhiên xảy ra phá tán
thất bại.
      Nữ mệnh Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, nếu
có Văn xương hóa Kị đồng độ, chủ về lấy chồng không có nghi lễ chính
thức.

      Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền
ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung với Thiên lương. Tam phương hội Cự môn hóa Lộc
cư Quan, và mượn “Thiên cơ Thái âm” nhập cung Tài.

     
Nhóm tinh hệ này ở cung Ngọ đẹp hơn, nhưng cần phải chú ý không được phô trương
thanh thế quá đáng, nếu không sẽ dễ khiến cho người ta nhận thấy sự trống rỗng
của bản thân. Nếu có hành động thiết thực, chuyên chú trong một phạm vi nhất
định (ví dụ đang công tác về pháp luật, thì không được đổi thành làm việc trong
chính giới), sẽ dễ được người ta biết đến danh tiếng hơn, vì vậy đời người cũng
không bị quá vất vả.

      Thái dương hóa Quyền ở cung Tý
dễ trở thành “hữu hanh vô thực”. Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ, hoặc ở đối
cung thì thích hợp có một nghề, chỉ cần phát triển một cách thiết thực, thì
thanh thế tuy không hiển hách, nhưng vẫn có thể thăng tiến về sự nghiệp và tiền
bạc.

      Ở đại hạn và lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này,
là điềm tượng người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt, cũng chủ về địa vị
thăng tiến.

      Tinh hệ
“Thái âm Thái dương” thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Quyền,
tam phương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, mượn “Thiên cơ Cự môn” nhập cung Tài
để hội hợp, mà Cự môn đồng thời hóa Lộc, và còn gặp Lộc
tồn.

      Do “Thiên cơ Cự môn” ở cung Phúc đức, lúc Cự môn
hóa Lộc, thường có biểu hiện lời nói dễ nghe, khéo ăn khéo ở, xử sự uyển chuyển,
là đặc trưng của mưu thần và thuyết khách. Vì vậy Thái dương hóa quyền chỉ biểu
trưng cho địa vị (ở cung Sửu thì càng như vậy), tích cực làm việc sẽ có địa vị
cao, nhưng không được tranh thủ địa vị lãnh đạo thực tế, nếu không ắt sẽ vì vậy
mà sinh phá sản, thất bại.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà
gặp tình hệ này, sẽ chủ về địa vị được thăng chuyển, không chủ về sáng lập sự
nghiệp.

      Tinh hệ “Thái
dương Cự môn” thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Quyền ắt Cự
môn sẽ đồng thời hóa Lộc, tham khảo ở đoạn Cự môn hóa
Lộc.

      Tinh hệ “Thái
dương Thiên lương” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Quyền ắt
sẽ có Lộc tồn hội hợp, tam phương có Thái âm độc tọa cư Tài, và mượn “Thiên đồng
Cự môn” nhập cung Quan mà Cự môn hóa Lộc.

      Nhóm tinh
hệ này rất ưa ham muốn về quyền lộc, quyền lộc rất nặng, nên thường thường ở địa
vị lãnh đạo có tiếng thanh cao (ở cung Mão thì càng tốt). Nói “có tiếng thanh
cao” là bao gồm lãnh vực học thuật, hoặc quan thanh liêm. Cần phải chú ý kết cấu
này, Tài bạch sẽ tăng theo địa vị, khi địa vị tăng cao thì cần phải có cống hiến
thực tế, từ đó sẽ xác định được phương hướng phát triển của đời người. Đây cũng
là đạo “tìm cát tránh hung” vậy.

      Ở đại hạn hoặc lưu
niên mà gặp kết cấu tinh hệ này, thì nên chọn sách lược tạo dựng uy tín (bao gồm
thương hiệu và tín nhiệm) là tốt
nhất.

      Thái dương hóa
Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Thái âm, tam
phương hội có Cự môn hóa Lộc độc tọa ở cung Tài, và mượn “Thiên đồng Thiên
lương” nhập cung Quan để hội cung, cung Mệnh còn đồng thời gặp Kình Đà, hoặc
đồng độ với Kình dương.

      Thái dương hóa Quyền ở hai
cung độ này, tuy có năng lực đột phá “Thiên la Địa võng”, nhưng lại thường vì
vậy mà hy sinh hạnh phúc hôn nhân. Thái dương và Thái âm đối nhau, cũng ví như
bình đẳng trong hôn nhân, nhưng một khi Thái dương hóa Quyền thì lập tức xảy ra
xung đột. Nhất là nữ mệnh, cần lưu tâm ý vị này.

      Thái
dương hóa Quyền ở cung Thìn có nhiều “triêu khí” (khí ban ngày), nhân sinh quan
khá cởi mở, tính tích cực cao, đồng thời cũng dễ thích ứng với xu thế phát triển
của xã hội. Thái dương hóa Quyền ở cung Tuất, lại có nhiều “mộ khí” (khí ban
đêm), biểu hiện tính chủ quan cực nặng, rất khó thích ứng theo sự chuyển biến
của hoàn cảnh, cho nên lúc vận hạn không cát tường thì hay tự mình sinh ra cảm
giác “không gặp thời”, dễ biến thành tiêu cực.

      Ở đại
hạn hay lưu niên mà gặp kết cấu sao kiểu này, trong xã hội hiện đại, thì nên
mượn lực của người ở nơi xa (hay người ngoại quốc), nhờ vả mong họ ủng hộ giúp
đỡ để tiến thủ. Nếu ở trong giới học thuật thì nên phát biểu chính kiến của
mình, hay tạo cơ hội để diễn giảng để nâng cao địa
vị.

      Thái dương hóa
Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Cự môn độc tọa hóa
Lộc, tam phương hội cung có Thiên lương độc tọa ở cung Tài và Thái âm độc tọa ở
cung Quan. Ở cung Tị còn gặp Lộc tồn, vì vậy ưu hơn ở cung Hợi là Thái dương lạc
hãm.

      Thái dương ở cung Tị mà hóa Quyền, chủ về có
tài lãnh đạo rất mạnh, đồng thời mệnh lệnh ban phát ra cũng khiến cho mọi người
vui vẻ tuân thủ nghe theo. Thái dương ở cung Hợi thì chỉ nên lợi dụng sức mạnh
của Thiên Lương, lui về phòng thủ, hoặc bảo tồn giữ nguyên cục diện hiện có,
không nên chủ động mở rộng, cũng không nên chủ động đứng đầu chịu trách nhiệm
thực thi sự việc. Người kinh doanh làm ăn nên chú ý tạo dựng thương hiệu, người
trong giới học thuật hoặc giới chuyên nghiệp thì nên chú ý cống hiến trong lãnh
vực của mình. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có cùng một ý vị như
vậy.

      Tử Vi hóa Quyền, giống như Hoàng đế đích
thân chủ trì xử lý chính sự, cho nên thường khiến cho bàng nhân không xử sự
nghiêm cẩn là không thể được. Ở một góc độ khác, đó là khí thế bức người, bầu
không khí thường căng thẳng, nặng nề, dễ tạo thành áp lực trong quan hệ. Đây là
một đặc điểm lớn nhất của Tử vi hóa
quyền.

      Do có đặc điểm này, nên Tử vi thủ Mệnh hóa
Quyền rất vất vả, mà lại ít có duyên với người, bởi vì khi giao lưu quan hệ mà
mọi người ở bên cạnh sẽ bị áp lực. Bất kể là thượng cấp hay người dưới quyền,
đều cảm thấy không được thoải mái, chỉ có người ngoài cuộc mới có thể tán thưởng
mà thôi. Người có Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền thường hay oán trách sao mình quá vất
vả mà chẳng được gì. Nguyên nhân là ở đây !

      Hóa Quyền
là chủ về quyền lực thực tế, cho nên khi Tử vi hóa Quyền sẽ gánh vác công việc
rất cụ thể, tất nhiên mệnh tạo cũng có đủ năng lực một mình đảm trách công việc.
Nhưng hễ cung Mệnh là Tử vi hóa Quyền, thì cung Tài bạch ắt sẽ là Vũ khúc hóa
Kị, công việc bị ảnh hưởng vì Hóa Kị nên không thích hợp trong kinh doanh làm
ăn, nhất là khi mình tự chủ. Đây là khuyết điểm lớn nhất của Tử vi hóa Quyền,
bởi vì bản thân người Tử Vi khi hóa Quyền dám làm dám chịu. Trong hoàn cảnh
không thể tự chủ, phải làm việc dưới quyền người khác, thì người Tử vi hóa Quyền
lại phải chịu áp lực một cách miễn cưỡng, tâm lý lao động không nhiệt tình, mà
không thể mang thông minh tài chí của mình ra mưu cầu lợi ích cho bản thân. Đây
cũng là một nguyên nhân gây nên nhiều biến cố, để lại những hậu quả bất lợi một
cách không cần thiết, nhất là trong môi trường giao lưu thù
tạc.

      Bản thân Tử Vi vốn đã có sắc thái độc đoán, yêu
ghét đều có tính kích động, sau khi hóa Quyền thì tính dễ bị kích động càng
tăng, do đó thường ảnh hưởng đến tính lãnh đạo của họ. Bởi vì người giỏi phát
huy tài lãnh đạo thì không nên kích động và ương
bướng.

      Bản thân Tử vi vốn có đặc tính nổi bật nhất là
bao dung chịu đựng, sau khi hóa Quyền thì đặc tính này càng được phát huy, cho
nên dễ tha thứ cho đối phương, khiến người ta nhiều lúc cảm thấy bất
ngờ.

      Tử Vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở
hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương,
có Tham Lang độc tọa ở đối cung, tam phương hội “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung
Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội “Vũ khúc Thiên tướng” ở cung Tài mà Vũ khúc
hóa Kị.

      Ngoài những đặc điểm của Tử Vi hóa Quyền, về
phương diện sự nghiệp còn có sắc thái của Thiên Phủ hóa Khoa, đó là rất xem
trọng uy tín, ở một mức độ nhất định nào đó, thì có thể biến thành người bảo
thủ, nhờ vậy mà đã giảm bớt nguy hại do Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tài mang lại. Chỉ
có biểu hiện tiêu xài lãng phí.

      Tử Vi hóa Quyền ở
cung Ngọ còn có đặc điểm bất lợi về hôn nhân, đặc biệt là đối với nữ mệnh. Đây
là vì bị ảnh hưởng bởi Tham Lang ở đối cung, trở thành cách “Phiếm thủy đào hoa”
dễ có tình mà lại không có duyên, có duyên mà lại không có
tình.

      Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này,
là biểu trưng cho sự phát triển quyền lực. Nhưng cần phải chú ý điều độ về mặt
tài chính, nếu không dễ bị túng
thiếu.

      Tinh hệ “Tử vi
Phá Quân” thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Quyền (ở cung Mùi còn
gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có “Liên trinh Tham
lang” ở cung Quan, và “Vũ khúc Thất sát” ở cung Tài mà Vũ khúc hóa
Kị.

      Do ảnh hưởng của Phá Quân đồng độ, nên so với Tử
Vi hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Tử vi hóa Quyền ở Sửu hoặc Mùi ít thận
trọng hơn. Vì vậy mà do sự cải biến của người này có biên độ quá lớn, dẫn đến
xảy ra khó khăn về mặt tài chính, nhưng họ lại vẫn cố tình chống đỡ, khiến cho
tâm lực vất vả. Đạo “tìm cát tránh hung” chính là đừng tìm và không thể cầu “thể
hiện sắc thái đặc tính của bản thân”, khi bộc lộ sắc thái cá nhân hoặc đặc tính
một cách thái quá thì sẽ bất lợi, duy chỉ có thể làm việc một cách thiết thực,
thì mới được bàng nhân quan tâm ủng hộ và tán thưởng.

     
Do Tử vi có đặc tính “kích phát”, “kích động”, nên khi gặp Tử phụ Hữu bật đồng
cung, hoặc Tả Hữu giáp cung, sẽ mang lại ảnh hưởng rất lớn đối với kết cấu Mệnh
cục này.

      Ở lưu niên hay đại hạn thông thường có ý vị
làm tăng chuyển biến về quyền lực, nhưng vẫn phải tự lượng sức mình. Nhất là
phải chú ý tính chất của cung Huynh đệ và cung Giao hữu (cung
Nô).

      Tinh hệ “Tử vi
Thiên phủ” thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Quyền thì Thiên phủ
ắt sẽ hóa Khoa, tam phương hội cung có “Liêm trinh Thiên tướng” ở cung Quan, và
Vũ khúc độc tọa mà Hóa Kị ở cung Tài. Đối cung là Thất sát, cung Mệnh còn gặp
Kình dương và Đà la.

      Nhóm tinh hệ kết cấu này, tuy có
ảnh hưởng của Thiên phủ hóa Khoa, nhưng đối cung là Thất sát, sẽ khiến cho quyền
lực của Tử vi khi hóa Quyền thêm nạng, do đó dễ vì có quyền lực mà hành động một
cách bất cẩn, làm cho sức mạnh của Thiên phủ hóa Khoa không thể phát
huy.

      Hơn nữa, Tử vi hóa Quyền mà đồng độ với Thiên
phủ hóa Khoa, một “công” một “thủ” có mâu thuẫn quá lớn, cho nên có lúc phản ứng
sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, nên lại không được toàn
mỹ.

      Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này,
cũng thường bị tình cảnh do dự giữa tiến và thoái. Cần phải xem ở vận sau kế
tiếp là “cát” hay “hung”, để quyết định  nên như thế nào, tiếp tục hành động hay
là nên dừng lại.

      Tinh hệ “Tử vi Tham lang”
thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Quyền ở cung Mão sẽ gặp Lộc tồn,
tam phương hội cung có “Vũ khúc Phá quân” ở cung Tài mà Vũ khúc đồng thời hóa
Kị, và “Liêm trinh Thất sát” ở cung Quan.

      Tử Tham
gặp Quyền Lộc, chủ về cực lực theo đuổi ham muốn vật chất, cũng đồng thời theo
đuổi ham muốn quyền lực, cho nên dễ khiến nhìn bề ngoài thì tích cực, nhưng trên
thực tế lại cảm thấy trống rỗng. Nhất là tổ hợp “Vũ khúc Phá quân” hóa Kị,
thường sẽ khiến cho lý tưởng của mệnh tạo không thực hiện được, cuộc sống vì
tiền bạc khống chế, nên nội tâm càng buồn rầu lo lắng. Tuy bề ngoài vẫn duy trì
vẻ tôn nghiêm, lạc quan, mà về mặt tinh thần thường luôn không ổn định (rắc
rối).

      Tinh hệ “Tử vi
Thiên tướng” thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Quyện bị Kình Đà
hội chiếu, hoặc có Đà La đồng cung, đối cung có Phá quân, tam phương hội cung có
“Vũ khúc Thiên phủ” ở cung Tài, phân ra một sao hóa Kị một sao hóa Khoa, và Liêm
trinh độc tọa cư Quan.

      Nhóm tinh hệ này bị “Vũ khúc
Thiên phủ” gây ảnh hưởng rất lớn. Trong các tình huống thông thường, chủ về tính
tự tôn cực nặng. Nhưng để giữ tính tự tôn, trên thực tế thường thường lại không
cần thiết phải trả giá như vậy.

      Gặp nhóm tinh hệ này
trên vận trình, phần nhiều lại xảy ra trắc trở đột ngột. Sức mạnh ở của Tử vi
hóa Quyền có thể chịu đựng trắc trở, nhưng nội tâm lại đau khổ. Vì vậy mệnh tạo
càng có biểu hiện cực kỳ xung động, thường gây ra nhưng biến động thay đổi khiến
người ta phải bất ngờ.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên còn
cần lưu ý, trong vận hạn không được sống độc lập một cách quá đáng, hoặc quá lộ
sự sắc xảo, nếu không sẽ xảy ra trắc
trở.

      Tinh hệ “Tử vi
Thất sát” thủ Mệnh mà Tử vi hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ
hoặc vậy chiếu. Tam phương hội hợp có “Liêm trinh Phá quân” ở cung Quan, và “Vũ
khúc Tham lang” có Vũ khúc hóa Kị ở cung Tài.

      “Tử vi
Thất sát” vốn đã có ý vị quyền lực, sau khi Tử vi hóa Quyền thì tính chất quyền
lực càng nặng. Nhưng ở cung Tài do Vũ khúc hóa Kị khiến cho quyền lực bị khống
chế, cung Quan lại thường hay đổi ý bất nhất, may mà đối cung là Thiên di có
Thiên phủ hóa Khoa có thể điều hòa.

      Do đó có thể
biết, nhóm tinh hệ này đầy sắc thái mâu thuẫn, hành động thuộc Hậu thiên có ảnh
hưởng rất lớn đối với mệnh tạo. Nếu có các sao Cát hội hợp, thì có thể làm những
ngành nghề có thể bộc lộ sự sắc sảo để dễ có cảm giác thỏa mãn. Còn nếu các sao
không hợp không cát tường, có thể phát triển thành “cọp mà ăn thức ăn của mèo”
hoặc thậm chí tủ tiền trống rỗng.

      Đại hạn hoặc lưu
niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường là cơ hội chuyển biến, nhưng không
được triển khai cục diện lớn
quá.
       Cự Môn là sao điều
tiếng thị phi, sau khi hóa làm sao Quyền, sẽ khiến “điều tiếng thị phi” biến
thành lời nói có sức thuyết phục. Cho nên Cự môn hóa Quyền ưu hơn Cự môn hóa
Lộc. Hóa Lộc bất quá chỉ làm cho lời ngon tiếng ngọt, ngôn từ dễ nghe mà thôi.
Cự môn không hóa Khoa cũng vì cái Lý này, bởi vì lời nói biện luận trước hay sau
thì cũng như nhau, chẳng thể tin được.


      Cự Môn hóa Quyền
thích hợp với những nghề cần đến tài nói chuyện như luật sư, ngoại giao, giáo
dục, bán hàng, chào hàng, đại lý bán lẻ, .v.v… cũng nên suy tính đến những
nghề biểu trưng cho trạng thái xã hội như người điều khiển trương trình, ca sỹ,
diễn viên, .v.v… 
      
      Nữ mệnh vốn không ưa
Cự Môn, vì dễ xảy ra sóng gió, trắc trở trong tình cảm. Khi Cự môn hóa Lộc không
thể cải thiện được đặc tính này, nhưng sau khi hóa làm sao Quyền thì lại có thể
giảm bớt sóng gió trắc trở, bởi vì hóa thành sao Quyền có thể tự khống chế tâm
trạng của mình.

      Cự Môn là “ám tinh”,
thường có khuynh hướng biểu hiện “cái tôi” (ngã), nhưng sau khi hóa Quyền thì
lối biểu hiện “cái tôi” sẽ dễ khiến cho người ta chấp nhận hơn. Hoặc có thể nói,
dễ làm cho người ta tiếp nhận sự vẻ vang của mệnh tạo. Do duyên có này, Cự môn
hóa Quyền có thể làm tăng sức ảnh hưởng đối với những người xung quanh và tăng
sự ảnh hưởng địa vị xã hội của người này. Tùy theo mức độ của tầm ảnh hưởng mà
thu vào tài phú nhiều hay ít, địa vị xã hội cũng theo đó mà được nang
cao.

      Cự môn hóa Quyền hội
Thái dương chưa chắc chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) phù
trợ, chỉ chủ về làm tăng mức độ tiếp nhận của mọi người bề những cái bộc lộ biểu
hiện của mệnh tạo. Khác với Thái dương hóa Quyền hội Cự môn hóa
Lộc.

      Cự môn độc tọa thủ
Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu,
đối cung là Thiên cơ, tam phương tương hội có Thái dương độc tọa ở cung Quan, và
mượn “Thiên đồng Thiên lương” để nhập cung
Tài.
      Nhóm tinh hệ này đã
cấu tạo thành cách “Thạch trung ẩn ngọc”, nhất là khi Cự môn ở cung Tý được Lộc
tồn đồng độ, có Thái dương ở cung Vượng hội hợp. Vì vậy tốt hơn Cự môn ở cung
Ngọ. Ở cung Ngọ thường thường chủ về nên rời xa quê hương, phát phúc ở tha
hương. Liên quan đến tính chất của tinh hệ này, đã thuật nhiều ở các mục nói về
“Thạch trung ẩn ngọc cách”, ở đây cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, phàm là
cách “Thạch trung ẩn ngọc”, thì trong đời người không nên ngồi ở vị trí
cao.
      Lưu niên hay đại hạn
mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về có cơ hội để thể hiện bản thân, mà còn được
người ta dễ tiếp nhận, nhưng không được vì quá thỏa mãn mà dương dương đắc
ý.

      Tinh hệ “Thiên đồng
Cự môn” thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội
cung có Thiên cơ độc tọa ở cung Quan, và mượn “Thái dương Thiên lương” nhập cung
Tài để hội hợp. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc có Kình dương Đà là hội
chiếu.

      Nhóm tinh hệ này, chủ về tay trắng làm nên,
phải trải qua gian khổ mới có thành tựu, mức độ thành công cũng tùy thuộc vào
mực độ biểu hiện của bản thân mệnh tạo. Vì vậy, đang âm thầm lặng lẽ đột nhiên
phát lộ ánh sáng rực rỡ, là đặc điểm của tinh hệ
này.

      Cần chú ý “Thiên đồng Cự môn” ở cung Sửu, thì
cung Huynh đệ là Tham lang hóa Kị, còn bị Kình Đà giáp cung, dó đó còn chủ sau
khi phát vượt lên, ắt sẽ chuốc lấy đố kị, dẫn đến bất hòa với đồng sự hoặc người
hợp tác.

      Nữ mệnh gặp nhóm sao này dễ bị người khác
đoạt tình, nên cần phải lưu ý đến sinh hoạt hôn
nhân.

      Tinh hệ
“Thái dương Cự môn” thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Cự môn hóa Quyền, tam
phương hội cung mượn “Thiên đồng Thái âm” nhập cung mà Thái âm ắt hóa Khoa ở
cung Quan, và mượn “Thiên cơ Thiên lương” nhập cung Tài, có kèm Lộc tồn đến hội
chiếu.

      Nhóm kết cấu tinh hệ này đặc biệt lợi về phát
huy tài ăn nói. Nữ mệnh vốn bất lợi về hôn nhân, nhưng nhờ lực của Cự môn hóa
Quyền khiến hôn nhân trở thành tốt đẹp, còn giảm bớt rắc rối về tình cảm, nhưng
vẫn chủ về kết hôn muộn, không nên chọn lầm đối tượng lúc còn quá
trẻ.

      Nếu nam mệnh cung Phu thê gặp Văn xương Văn Khúc
và Lộc tồn, sẽ chủ về nhờ vợ mà có tiền của, hoặc được nhạc gia nâng đỡ mà phát
triển sự nghiệp.

      “Thái dương Cự môn” trong nhóm tinh
hệ này, ý nghĩa cơ bản là tài ăn nói, còn là người ngoại quốc (hay người ở
phương xa). Tính chất của tinh hệ biến hóa rất lớn, nên rất thích hợp công việc
ngoại giao, nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể thích hợp với nghệ thuật biểu
diễn, gặp các sao khoa văn thì thích hợp làm việc trong giới quảng
bá.

      Tinh hệ
“Thiên cơ Cự môn” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Quyền ắt sẽ
gặp Kình dương hoặc Đà la. Tam phương hội hợp mượn “Thái dương Thái âm” nhập
cung Quan mà Thái âm hóa Khoa, và Thiên đồng độc tọa ở cung
Tài.

      Nhóm tinh hệ có kết cấu đặc biệt lợi về thăng
chức và cạnh tranh. Sau khi hóa Quyền, thậm chí có thể lấy cách “Dương Lương
Xương Lộc” để so sánh, hoàn toàn thiếu bản chất nghiên cứu thâm trầm, vì vậy
cũng không có ý vị cạnh tranh học thuật.

      Cự môn hóa
Quyền ở cung độ này, đối với nữ mệnh, cũng có thể khiến cho hôn nhân trở thành
ổn định, nhưng vẫn bất lợi nếu kết hôn sớm.

      Ở đại hạn
hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường nhờ “ám lực” (lực ngầm) mà
chuyển biến theo hướng tốt lành, vì vậy không nên truy cầu địa vị cao, nếu không
sẽ không được lâu dài.

      Cự môn độc
tọa lạc hãm thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (Cự môn ở cung Thìn gặp Lộc tồn),
có Thiên đồng ở đối cung, tam phương hội hợp Thái dương độc tọa ở cung Tài, và
mượn “Thiên cơ Thái âm” có Thái âm hóa Khoa để nhập cung
Quan.

      Cự môn rất kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thường
thường bản thân vất vả mà lại ít có người trợ lực. Sau khi hóa Quyền, có thể cải
thiện tính chất lạc hãm ở “thiên la địa võng”. Vì vậy sau khi trải qua gian khổ
thì có thành tựu, mà vãn còn cần phải nỗ lực. Nếu chỉ trông chờ cơ hội phát đột
ngột, thì cảnh tốt cũng không được lâu dài.

      Điều đáng
chú ý là “Thiên cơ Cự môn” đồng độ ở cung Phu Thê mà Thái âm hóa Khoa, có thể
thành cách “Đan trì Quế trì”, tức là trong cung gặp Văn xương Văn khúc, chủ về
được nhạc gia nâng đỡ.

      Cự môn độc
tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tam phương hội hợp
Thiên cơ độc tọa ở cung Tài và Thiên đồng độc tọa ở cung Quan. Cung Mệnh ắt sẽ
gặp Kình Đà, hoặc Đà la cùng bay đến.

      Kết cấu sao
dạng này cũng chủ về phát huy tài ăn nói, nhưng không tốt bằng Cự Nhật đồng
cung. Cự môn hóa Quyền chỉ cải thiện tính chất bất lợi đối với cha, khiến lúc
nhỏ phần nhiều đều có đường đời gập gềnh, có lúc lại biểu trưng cho sinh ly tử
biệt đối với cha, nhưng vẫn được tài sản của cha nuôi
dưỡng.

      Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Cự môn hóa
Quyền ở cung Tị hoặc Hợi, thì không có cát lợi đặc biệt gì, có lúc chỉ là cơ hội
biểu hiện bản thân



Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *