Can Giáp – Liêm trinh hóa Lộc – Vương Đình chi

Can Giáp – Liêm trinh hóa Lộc – Vương Đình chi
 Liêm trinh là sao thuộc về cảm tính, cho nên không đại biểu cho ham muốn vật
chất. Khi Liêm trinh hóa Lộc, tính chất hưởng thụ tinh thần vẫn nhiều hơn tính
chất hưởng thụ vật chất. Do đó trong sinh hoạt ắt sẽ chịu tiêu sài, lấy mức sống
cao để tạo sự thuận lợi về hưởng thụ tinh thần, tất nhiên sẽ không keo
kiệt.

  
      Nhìn bề ngoài, Liêm trinh
thích tiêu xài giống Tham lang, nhưng thực ra bản chất khác nhau. Sự tiêu xài
của Tham lang thuần túy thuộc tửu sắc, còn sự tiêu xài của Liêm trinh thì thuộc
“phong hoa tuyết nguyệt”, tính chất thanh nhã hơn, khá xem trong tinh thần và
cảm tính.

      Liêm trinh thường có sắc
thái thủ đoạn, cho nên khi Liêm trinh hóa Lộc, cũng chủ về dùng thủ đoạn để tiến
thủ, như giao tế thù tạc, kết bè bết phái, .v.v…
 
 
      Lúc Liêm trinh hóa Lộc,
lại gặp các sao Hung – Sát – Hình, sẽ chủ về tửu sắc. Dùng thủ đoạn càng nhiều
thì thù tạc càng nhiều, nhưng cuối cùng chẳng thu hoạch được gì, mà trong công
việc làm ăn, còn bị rơi vào tình trạng thiếu hụt tiền bạc. Nếu lại còn gặp các
sao đào hoa, thường thường sẽ vì sắc mà phá tài. Nhưng lúc Liêm trinh hóa Lộc
gặp đào hoa, mà không có các sao Sát – Kị, thì lại chủ về nhờ có thù tạc trăng
gió, mà được hiến thân hoặc đắc tài lộc.

      Liêm trinh hóa Kị ở nguyên
cục (can Bính), lại hóa Lộc ở đại vận hoặc lưu niên, thường chủ về có hoạnh tài
(như đầu tư, đầu cơ, cờ bạc, .v.v…), nhờ có tài lộc nên rất vui vẻ hạnh
phúc.

      Tinh hệ “Liêm trinh Thiên
tướng” có Liêm trinh hóa Lộc thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung ắt sẽ là
Phá quân hóa Quyền, cung Quan là Vũ khúc hóa Khoa, thì chủ về tuy làm chức phó,
nhưng lại thường kiêm nhiệm trọng trách và nắm giữ quyền
hành.

      Đại hạn hoặc lưu niên đến
cung hạn này, thường sẽ chủ về chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng nếu Thái
dương hãm tại cung Tị hóa Kị (can Giáp) ở cung Nô, xung chiếu Cự môn ở Hợi cư
Huynh đệ, thì cũng đồng thời chủ về quan hệ giao tế chuyển biến theo hướng xấu.
Tinh hệ “Liêm trinh Thiên tướng” mang đậm sắc thái chính trị, nên quan hệ giao
tế càng thêm quan trọng. Không thể không chú ý các sao phối
hợp.

      Tinh hệ “Liêm trinh Thất
sát” có Liêm trinh hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu Mùi, có Đà la đồng độ, hoặc
có Kình Đà vây chiếu, ắt cũng sẽ đồng thời có Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp đủ
Khoa Quyền Lộc, cung Quan là Phá quân hóa Quyền, Vũ khúc hóa Khoa ở cung Tị hoặc
Hợi, thanh thế cũng cực hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ lớn hơn “Liêm trinh
Thiên tướng”. Đối cung mệnh ở Sửu là Thiên phủ ở Mùi có bản chất ổn định, cung
Tài có “Tử vi Tham lang” chủ về tiêu xài, cho nên toàn bộ kết cấu tinh hệ có mức
độ tài lộc rồi dào hơn tinh hệ “Liêm trinh Thiên tướng”. Đà la thì sinh lần nữa,
nhưng lúc này cung Huynh là Thiên lương cư Tý, đối cung với cung Nô là Thái
dương cư Ngọ hóa Kị, quan hệ giao tế so với mệnh “Liêm trinh Thiên tướng” thì
lại cần phải chú ý hơn, thường dễ phạm pháp, tranh chấp, cho đến âm mưu

      Liêm trinh độc tọa thủ
mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà hóa Lộc, có Lộc tồn cùng bay đến hoặc vây
chiếu, cung Quan tại Ngọ hoặc Tý là tinh hệ “Thiên phủ Vũ khúc” trong đó Vũ khúc
hóa Khoa (can Giáp), thì chủ về tiền bạc có uy tín, hoặc thích hợp nắm quyền tài
chính. Nhưng Liêm trinh đối nhau với Tham lang (Dần Thân), làm nặng thêm tính
ham muốn vật chất của Liêm trinh, vì vậy cũng dễ thành xem trọng hưởng thụ vật
chất. Về sự nghiệp thì thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, giải
trí, vui chơi, tiêu dùng, làm việc trong chính giới hoặc mậu dịch càng tốt. Tinh
hệ “Thái dương Thái âm” thủ cung Nô tại Sửu Mùi, mượn nhập cung Huynh đệ, chủ về
người dưới quyền nhiều mà không ổn định.

      Tinh hệ “Liêm trinh Phá
quân” thủ mệnh ở hai cung Mão Dậu, trong đó Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá
quân hóa Quyền, có Kình dương đồng cung, hoặc Kình Đà vây chiếu. Quyền Lộc gặp
nhau, chủ về cảnh ngộ thay đổi, cung Quan là tinh hệ “Vũ khúc Tham lang” mà Vũ
khúc hóa Khoa, càng làm mạnh thêm tài vận của “Liêm trinh Phá quân”, cung Tài là
tinh hệ “Tử vi Thất sát” cũng hữu lực, tam phương có Quyền Lộc rất nặng. Đối
cung Mệnh là Thiên tướng tại Mão, bị “Cự môn Thái dương” có Thái dương hóa Kị,
và Thiên lương của Cơ Lương tại Thìn giáp cung gây ảnh hưởng, khiến “Liêm trinh
Phá quân” cũng dễ bị các tình huống trắc trở ngầm mai phục. Nhân tố chắc trở của
cung mệnh này chủ yếu là tình cảm. Đặc biệt là Thiên phủ ở cung Phúc (Tị Hợi)
hội hợp với Thiên tướng bị sao Hình – Kị giáp cung, chủ về khó giữ được sự thận
trọng. Vì vậy cần phải duy trì thành tựu đã đạt được mới cát
lợi.

      Tinh hệ “Liêm trinh Thiên
phủ” khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Vũ khúc hóa Khoa của
tinh hệ “Vũ khúc Thiên tướng” ở cung Quan tương hội, đối cung là Thất sát, Tài
cung là Tử vi độc tọa. Tính chất của toàn bộ tinh hệ này, thích hợp làm việc
trong chính giới, hay trong quân đội, cảnh sát, vì mệnh tạo này ứng với người
kiêm văn võ, có thể công và có thể thủ, còn giỏi quản lý tài chính. Có điều cung
Quan thiếu lực để ngồi ở vị trí tối cao mà thôi.

      Tinh hệ này còn có một đặc
điểm, vận tuổi trẻ bát lợi, đến 5 năm cuối của đại hạn thứ 3 mới bắt đầu khởi
sắc. Cứ mỗi đại hạn, thì 5 năm cuối sẽ tốt hơn 5 năm đầu, thậm chí mỗi năm, nửa
năm cuối cũng tốt hơn nửa năm đầu. Đây là vì “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung
“thiên la địa võng”, cho nên mọi lợi ích đều chủ về từ
từ.

      Khuyết điểm của mệnh bàn
này là ở cung Huynh đệ, cung Nô và cung Phu thê. Đặc biệt đối với nữ mệnh, thì
cần phải xem trọng tâm trạng của người phối ngẫu.
Tinh hệ “Liêm trinh Tham lang”
khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Tị Hợi, cung Quan có “Vũ khúc Thất sát” hóa
Khoa, cung Tài là “Tử vi Phá quân” hóa Quyền có kèm Đà la hoặc hội hợp với Kình
Đà, chủ về tính chất không giữ được đất đai nhà cửa của ông bà, cha mẹ, mà phải
tự lập. Cho nên ở đại hạn tốt hơn ở tam phương của nguyên
cục.

      Kết cấu tinh hệ này thích
hợp với các nghề nghiệp liên quan đến nghệ thuật, hoặc công nghệ, gặp đào hoa
cũng có thể thích hợp với sự nghiệp nghệ thuật, hoặc ngành giải trí, vui chơi,
tiêu dùng. Có điều cung Tài là “Tử vi Phá quân” đồng độ với Đà la, chủ về kiếm
được tiền nhưng có hiện tượng kéo dài và khó tích lũy, còn chủ về bản thân không
muốn thù tạc mà phải tiêu xài quá lớn. Cung Phu thê là Thiên phủ, nếu cung Mệnh
hoặc cung Phúc có các sao “đào hoa”, cũng chủ về tái hôn nhưng vợ chồng cũ vẫn
còn vương vấn tình cảm, chưa dứt khoát. Thái dương hóa Kị đến cung Nô (cung giao
hữu) chủ về không đắc lực, mà còn có tranh chấp
ngầm.

      Bổ thuyết Liêm trinh Hóa Lộc

– Liêm trinh
hóa Lộc ở cung Mệnh, ở cung Tài bạch, ở cung Sự nghiệp đều chủ về Mệnh cách có
nguồn Tài Khí mới, lợi cho việc kiếm tiền, dễ được giầu có.


Liêm trinh hóa Lộc ở cung Phúc đức, chủ về ưa thích theo đuổi cuộc sống hưởng
thụ, lòng coi nhẹ sự nghiệp, có dục vọng mạnh hưởng thụ cuộc đời, có điều nhiều
lúc vì ham hưởng thụ mà dấn thân liều mạng làm việc.

– Liêm
trinh hóa Lộc ở các cung viên Lục thân, thì chủ về quan hệ tình cảm thâm sâu hài
hòa với nhau, ở cung Phụ mẫu thì cha từ con hiếu, ở Phu thê thì tình cảm vợ
chồng đều vui vẻ, ở Huynh đệ thì thủ túc tinh thâm, ở Tử nữ thì con cái hiếu
thuận, ở cung Nô thì thuộc hạ trung thành, bạn bè tăng thêm niềm vui hữu
nghị.

– Liên trinh hóa Lộc ở cung Thiên di thì chủ về ở hải
ngoại hay nơi xa có nhiều lạc thú, nhiều thuận lợi dễ kiếm
tiền.

– Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tật ách chủ về bệnh đường hô
hấp.

– Liêm trinh hóa Lộc ở cung Điền trạch thì chủ về có thể
mua bất động sản, hoặc giữ được cơ nghiệp, hoặc có thể đầu tư bất động sản, nhờ
đó mà tiền tài tích tụ thành giầu có.


      Bản chất của Thiên
cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén (can Bính hóa Quyền – nếu
không có Quyền thì khó có thể linh động quyền biến). Cho nên khi Thiên cơ hóa
Lộc ắt sẽ “chủ động” (đây là lợi thế) tìm được ra cơ hội để tạo thành sự nghiệp,
vì vậy mà được lợi ích.

        Nhưng
mưu trí và linh động quyền biến của mệnh tạo ít có phách lực (kim chứa phách)
khai sáng sự nghiệp lớn, mà thường thành người khéo đầu cơ, cho nên vẫn bị giới
hạn khá lớn, ảnh hưởng đến thành tựu của sự nghiệp và tiền bạc. Thiên cơ hóa
Lộc, chỉ là nhân tài tham mưu, cố vấn chiến lược, chủ về kế hoạch, thiết kế,
hoặc làm công việc đi đây đi đó cho người khác (như làm môi giới, thuyết khách,
…)

         Do
bản chất thích biến động, nên cũng khó giữ một nghề, ưa đứng núi này trong núi
nọ. Cho nên hễ Thiên cơ hóa Lộc ở cung mệnh, cần phải đồng thời lưu ý các sao ở
cung Phúc và các sao ở cung Quan, các sao này phải có tính chất ổn định và có
lực tiến thủ mới tốt. Nếu tính chất các sao thuộc loại không ổn định mà còn mang
tính do dự, thiếu quyết đoán, sẽ ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Lộc ở cung Mệnh,
khiến thành tựu của người này bị nhiều hạn
chế.

        
“Tiền tài” của Thiên cơ hóa Lộc không thể giữ được lâu, vì vậy, nếu cung điền
trạch tốt, thì nên chú ý cơ hội mua thêm nhà cửa đất đai, nếu không phải xem
cung Phu thê có các sao chủ về tài phú hay
không.

        
Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Cự môn, cung Tài là
tinh hệ “Thiên đồng Thiên lương” có Thiên lương hóa Quyền (can Ất), cung Quan là
Thái âm độc tọa hóa Kị hoặc kèm có Kình dương (Canh Tân). Tổ hợp kết cấu nhóm
tinh hệ này, vì thành “Cơ Nguyệt Đồng Lương cách”, cho nên bất lợi về kinh doanh
làm ăn. Tuy Thiên cơ hóa Lộc, nhưng “Thiên đồng Thiên lương” lại không phải tổ
hợp sao chủ về giầu có, còn Thiên lương hóa quyền bất quá chỉ trợ giúp Thiên cơ
có thể thành tựu khá lớn. Các sao ở cung Quan không ổn định, thường dễ bị lung
lạc dụ dỗ mà sinh thay đổi, điều này phải dựa vào sức mạnh của Thiên lương hóa
Quyền để tạo quân bình. Tìm sự ổn định như thế nào, là trọng điểm mà người có
nhóm tinh hệ này thủ mệnh phải lưu
ý.

        
Thiên cơ hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên lương hóa
Quyền, hội hợp với Cự môn ở cung Quan, cung Tài có Thiên đồng thì đối xung với
Thái âm lạc hãm hóa Kị ở cung Mão. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này hoàn toàn
nằm ở cung Tài Bạch, chủ về tay trắng kiếm tiền, mà nguồn tiền tài lại không
rộng, tài khí không vượng, lại còn tiêu pha lãng phí, chi tiêu không đúng mục
đích. Cho nên, tuy Thiên cơ hóa Lộc, thì vẫn không chủ về tài lộc dồi dào, mà
chỉ chủ về có nhiều cơ hội, có thể dựa vào công tác kế hoạch mà thu nhập cũng
khá cao, hoặc làm môi giới để kiếm tiền, thì lực cạnh tranh của Thiên cơ có thể
phát huy.

         Tinh
hệ “Thiên cơ Thái âm” ở hai cung Dần hoặc Thân, có Đà la cùng bay đến, hoặc bị
Kình Đà hội chiếu, Thiên cơ hóa Lộc Thái âm hóa Kị, hội hợp với Thiên lương độc
tọa hóa Quyền ở cung Quan cư Ngọ, cung Tài là Thiên đồng độc tọa, có thể bị Kình
Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Kình Đà. Nhóm tinh hệ này cũng là cách “Cơ Nguyệt
Đồng Lương”, cung Mệnh và cung Tài đều có khuyết điểm, rất có thể thành người
thích dùng thủ đoạn, kế vặt để kiếm tiền, thiếu khí khái gánh vác trọng trách.
Vì vậy về sự nghiệp phần nhiều không ra gì, tiền bạc cũng bị nhiều trở ngại. Đạo
“tìm cát tránh hung” là tránh có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy lợi nhỏ trước mắt,
và phải có lòng chân thành trong đối nhân xử thế để được “nhân hòa”, thì mới có
thể tự nhiên gặp cơ duyên tiến thân.

         
Tinh hệ “Thiên cơ Cự môn” ở hai cung Mão hoặc Dậu thủ mệnh có Thiên cơ hóa Lộc,
lại có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung mệnh Tài khí rất vượng, cung Tài có
Thiên đồng cư Hợi, cung Quan thì mượn “Thái dương Thái âm” an cung có Thái âm
hóa Kị. Kết cấu tinh hệ Cự Cơ này tài lộc vượng, thích hợp dùng tài ăn nói để
kiếm tiền, nhất là các nghề nghiệp có tính phục vụ, như nhà hàng, khách sạn, du
lịch, môi giới, .v.v… Nếu có thêm Văn tinh, có thể đảm nhiệm công việc quảng
bá.

          Các
sao của cung Quan không ổn định (ở Sửu Mùi vô chính diệu), dễ thay đổi nghề
nghiệp, hoặc hoán chuyển hoàn cảnh công tác, nhưng rất kị đầu tư hay đầu cơ, nếu
không ắt sẽ bị tổn thất. Đây là vì “Thái dương Thái âm” hiếu động, trôi nổi, mà
Thái âm hóa Kị thì thường ít suy tính trước khi đầu
tư.

        Thiên
đồng độc tọa cư Tài ở cung Hợi, có sao Lộc đồng độ, chủ về tay trắng làm nên,
nhưng Thiên lương ở đối cung hóa Quyền, có thể vì lý tưởng quá cao mà bị tổn
thất, hoặc chủ về chuốc đố kị, oán trách dẫn đến tranh chấp, gặp trở
lực.

         
Tinh hệ “Thiên cơ Thiên lương” ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thiên cơ hóa Lộc và
Thiên Lương hóa Quyền, có Kình dương hội hợp, hoặc bị Kình dương Đà la cùng
chiếu. Cung Quan mượn “Thái dương Cự môn” an cung hội hợp, lại có Sát tinh đồng
cung. Cung Tài là “Thiên đồng Thái âm” mà Thái âm hóa Kị, còn có Đà la hoặc Kình
dương chiếu xạ. Nhóm tinh hệ này, cung mệnh Cơ Lương hóa Lộc hóa Quyền, tuy lợi
về công tác kế hoạch, quản lý, giám sát, nhưng có Kình Đà hội hợp, thì lý tưởng
hơi khó thực hiện. Vì vậy cơ hội tuy nhiều, nhưng thường khó nắm chắc, cũng khó
phát huy. Các sao cung Tài có bản chất hiếu động, trôi nổi, mà còn bị Đà là hoặc
Kình dương quấy nhiễu gây khó khăn, nên chỉ lợi về tiền bạc trước mắt, không
được quá tham vọng. Nếu có kế hoạch kiếm tiền lâu dài thì khó tránh gặp sóng
gió, trắc trở, nếu kinh doanh làm ăn thì còn có nguy cơ vỡ nợ. Cung Quan chủ về
dễ được người ở phương xa, hay người ngoại quốc tạm thời ủng hộ (Cự
Nhật)

         
Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thái âm hóa Kị,
cung Tài là “Thiên đồng Cự môn”. Cung Quan mượn “Thái dương Thiên lương” an cung
hội hợp, có Lộc tồn đồng cung. Nhóm tinh hệ này, tài lộc không vượng, rất nên
chỉ dùng sở học để kiếm tiền, tiến hành nghiên cứu học thuật, hoặc tiếp nối tổ
nghiệp chớ đừng thay đổi nghề, nếu không sẽ phí tâm lực, hoặc phí lời
nói.

        Thiên
cơ bị Thái âm hóa Kị gây ảnh hưởng, có thể gặp cơ hội nhưng lại bỏ qua mà không
biết tại sao, cũng chủ về bị dụ dỗ đầu tư mà tổn thất, hoặc nhận lầm cơ hội,
vọng động thay đổi công việc nên bị trắc
trở.

         
Tinh hệ “Thiên đồng Cự môn” thủ cung Tài, tuy có Thiên cơ hóa Lộc hội hợp, lại
có Lộc tồn cung hội hợp, cũng chỉ chủ về chức cao lương nhiều, mà vẫn cần phải
hao tổn tinh thần, hơn nữa mỗi lần thu nhập tăng thì thị phi phiền nhiễu cũng
kéo đến, khó mà yên thân


      Thiên đồng chủ về tay
trắng làm nên, khi Thiên đồng hóa Lộc chủ về làm tăng tài lộc, mà còn thường có
cơ duyên bất ngờ.

      Nhưng nếu có các sao khoa văn đồng
cung, thì tổ hợp sao thành quá phong nhã, dễ mê đắm trong “thanh vận thơ phú”
hoặc âm nhạc, ưa hưởng thụ tinh thần mà ít có ý chí tiến thủ. Tình hình này
không mấy thích hợp với xã hội canh tranh khốc liệt của thời hiện đại.      Nếu
có các sao đào hoa đồng độ, phần nhiều cảm thấy tinh thần trống rỗng, nên dễ
chuốc lấy những rắc rối về tình cảm.

      Thiên đồng không sợ
Sát tinh, nhiều lúc còn thành lực kích phát, cho nên có cách “phản bối” và “Mã
đầu đới kiếm”. Dù không thành cách, nhưng có gặp một hai Sát tinh cũng không
ngại, phần nhiều chủ về trung niên vất vả, đến vãn niên mới có thể hưởng
thụ.

 

       Sau khi hóa
Lộc, Thiên đồng dễ chìm đắm trong dục lạc, nên ở vận hạn mà hóa Lộc thì tốt hơn
là hóa Lộc ở tinh bàn của nguyên cục. Bởi vì ở đại hạn hoặc lưu niên, bản chất
chìm đắm dục lạc sẽ không nặng (lúc này cũng không cần có sát tinh kích
phát).

  

        Tinh hệ
“Thiên đồng Thái âm” ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc,
hội với “Thiên cơ Thiên lương” ở cung Quan (tại Thìn Tuất) mà Thiên cơ hóa
Quyền. Cung Tài mượn “Thái dương Cư môn” an cung (tại Dần Thân). Ở xã hội hiên
đại, nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này, nữ mệnh thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ
được người khác giới xem trọng ưu ái, nhưng lại không phải là tốt lành, do quá
an nhàn, tình cảm phong phú, rất có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu
Văn xương hóa Khoa ở cung Mệnh hay cung Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì
mới chủ về thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên, thường phải khởi nghiệp bằng
các nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên, .v.v…), hoặc viên
chức cao cấp trong Cty lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến triển mà không
phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người có Văn xương hóa Khoa
hội hợp cung Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ
hội.

  

        Tinh hệ
“Thiên đồng Cự môn” ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc,
hoặc gặp Lộc tồn đồng cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (tại Tị hoặc Hợi). Cung
Tài mượn “Thái dương Thiên lương” an cung (ở Mão hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng
chưa chắc là hợp với “Thiên đồng Cự môn”, chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại
gặp đào hoa, hoặc “sao lẻ” phụ tá (nhất là Văn xương hoặc Văn khúc), thì chủ về
gặp rắc rối trong tình cảm, thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao
Lộc nhẹ, thì mới chủ về tài lộc dồi dào, nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian
khổ. Cung Quan là Thiên cơ “Lộc trùng điệp” thích hợp với công tác kế hoạch tài
vụ, tài chính, kinh tế, vạch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều tâm lực
trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử tức (??? kiểm)
không tốt, chủ về dễ bị người do mình đề bạt đoạt
quyền.

  

        Tinh hệ
“Thiên đồng Thiên lương” ở hai cung Dần hoặc Thân thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa
Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Tý hoặc Ngọ).
Cung Tài là Thái âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất), có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà
la đồng độ. Tinh hệ có kết cấu dạng này ưa Kình dương mà ghét Đà la. Gặp Đà la
hội chiếu sẽ dễ thành người thích tán gẫu. lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các
sao khoa văn và đào hoa, thì chú trọng sự thú vị và tính cách điệu trong sinh
hoạt tình cảm. Đối với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực. Nếu
có Kình dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn
tiền tài cũng nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái âm đồng
độ với Đà la thì kiếm được đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà nguồn tiền tài có
lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba vất vả. Nếu không có Đà la đồng
độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản chất của “Thiên đồng Thiên lương”
lợi về phục vụ, cũng chủ về danh tiếng. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp, thì
phải chú ý bồi dưỡng sự vinh dự của bản
thân.

  

        Thiên đồng
độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung là Thái âm. Cung Tài
là Cự môn, có Lộc tồn cùng hội hợp với cung mệnh (ở Hợi hoặc Tị). Cung Quan là
Thiên cơ hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp,
cho nên sự nghiệp sáng sủa. Nhưng Thiên đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng
(năm Ất Tân), sẽ chủ về dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm,
chải chuốt quá đáng, nam mệnh thì thích an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều,
thường cũng dễ mất. Cung Tài là Cự môn có sao Lộc, đối chiếu với Thái dương, chủ
về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ, thích hợp với
nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao tổn tâm lực. Cung
Tử tức tuy Liêm trinh hóa Kị, nhưng đồng cung với Thiên tướng, nếu thành cách
“Tài Ấm giáp ấn”, còn chủ về được người dưới quyền trợ lực. Nếu không thành
Cách, thường thường dễ bị gây phiền phức.

  

        Thiên đồng
thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ, hoặc bị Kình Đà
hội chiếu. Cung quan là “Thiên cơ Thái âm” mà Thiên cơ hóa Quyền (ở Thân hoặc
Dần), ắt sẽ bị Kình dương hoặc Đà la chiếu xạ. Cung Tài là Thiên lương đồng độ
với Kình dương (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc bị Kình dương Đà la chiếu xạ. Lúc Thiên
Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La, thì dễ lãng phái thời gian một cách vô ích,
tiền bạc cũng chật vật mới kiếm được. Khi thiên Đồng ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ
gây “kích phát”, nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương; Thái
Dương của đối cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà
còn bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng về
sau có thành tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng, hoặc bị
ngầm tranh chấp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ dạng này không nên
quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không nên xem trọng thái quá, nếu không ắt
sẽ gặp bất lợi.

  

        Thiên Đồng
thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Lộc tồn, hoặc có Lộc tồn
vây chiếu hay hội hợp, thành cách “Lộc trùng điệp”, thường chủ về nhờ thừa kế
của cha mẹ mà có sản nghiệp. Cung Tài mượn “Thái dương thái âm” nhập cung Sửu,
gặp Lộc tồn, lợi hơn là mượn nhập cung Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên
Thiên đồng hóa Lộc ở cung Tị thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên đồng ở cung Tị
thì “Lộc trùng điệp”, tuy có “phụ ấm”, nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu
thả. Lúc sự nghiệp có nguy cơ (thường do người dưới quyền xâm phạm). “Thiên cơ
Cự môn” của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên cơ hóa Quyền cũng mang
ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần hao tốn
nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội
hợp sẽ làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung mệnh gặp các sao đào hoa thì chủ
về thất chí, nữ mệnh càng dễ cảm thấy trống rỗng. Gặp “sao không” là danh sỹ
nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều cảm giác “trống vắng dưới trăng trước
hoa”.


      Thái Âm là sao tiền tài,
đương nhiên thích hóa thành sao Lộc, chủ về dư giả. Nhưng so với Vũ Khúc hóa
Lộc, có thể nói là Thái Âm thiếu hành động kiếm tiền, thiếu “sức” cạnh tranh. Có
thể giàu có hay không, vẫn cần phải xem có lợi về sự tiến triển hay không; hoặc
đại vận có “tài khí” dồi dào hay không mà định. Nếu không, dù Thái Âm có hóa Lộc
cũng bình thường mà thôi.

       Hơn nữa, lúc
Thái Âm hóa Lộc, thì Cự Môn tất cũng đồng thời hóa Kị ở cung Phúc, mà cung Phúc
gây ảnh hưởng đến cung Tài (hai cung này luôn luôn đối nhau). Thái Âm vốn có
“khí chất” dễ dãi, bị ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị sẽ biến thành thích tranh
chấp, tâm tình âu lo thái quá, khiến cho khí chất ban đầu thay đổi rất lớn. Lại
còn do không giỏi tranh chấp theo kiểu mạnh bạo, nên đời người đương nhiên sẽ
gặp nhiều cảnh ngộ đáng tiếc.

 

       Vì vậy Thái Âm hóa Lộc ở mệnh bàn không bằng hóa Lộc ở đại vận.
Do ở đại vận không chủ về bản chất, nên mới chủ về nguồn tiền tài thuận lợi toại
ý.

      Thái Âm hóa Lộc ở cung hãm, chủ về một loại cảm giác
sung sướng về tâm lý, nếu không có các sao khác hội hợp, thì không chủ về tài
lộc dồi dào. Có điều, Thái Âm sau khi hóa Lộc, sẽ có tính chất cải thiện về
những bất lợi đối với lục thân.

 

       Thái Âm hóa Lộc ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Kị ở lưu niên
hoặc đại hạn, có thể ví là tiền tài thấy trước mắt thèm rõ rãi, nhưng không nên
bị dụ dỗ mà đầu tư, tránh hết sức vì tình cảm dao động mà dẫn đến phá
tài.

  

       Thái Âm hóa
Kị ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Lộc ở lưu niên hoặc đại hạn, chỉ cần không bị
dụ dỗ đầu tư, thì trái lại, có thể kiếm tiền một cách thuận lợi trong bối cảnh
rối ren thị phi.

      Thái Âm hóa Lộc ở cung mệnh của nguyên
cục, cung Phúc là Cự môn hóa Kị, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều cần phải chú
trọng vấn đề tình cảm. Nếu không thể lấy ý chí khắc phục tình trạng bị dụ dỗ về
tình cảm, thì hậu quả là đời người sẽ gặp rắc rối rất khó xử trong thực tế,
nhưng lại có một thiên tình sử để nhớ !!!

  

       Tinh hệ
“Thiên đồng Thái âm”thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Thái Âm hóa Lộc, Thiên
Đồng hóa Quyền, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, như vậy là “sao Lộc”
nặng, thì vấn đề tình cảm càng thêm nghiêm trọng. Nhưng tinh hệ này thường
thường lại tượng trưng cho sự thông hôn với người nước ngoài, nữ mệnh càng đúng.
Cung Quan có “Thiên cơ Cự môn” mà Cự môn hóa Kị, chủ về giao thiệp với người
ngoại quốc (hay người ở phương xa), vì vậy cũng thích hợp làm việc cho Cty nước
ngoài, lao tâm lao lực là không tránh được. Do cung Tài và cung Phúc thiên về
vất vả, còn cung Mệnh thiên về nhàn hạ, do đó vấn đề tình cảm càng dễ biến thành
vỏ bề ngoài của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này không toàn mỹ, ngoài vấn đề tình cảm
ra, thì còn có điều tiếng thị phi.

  

       Tinh hệ “Thái
dương Thái âm” thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Thái âm hóa Lộc. Cung Quan
là Thiên lương đồng độ với Lộc tồn (ở Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn “Thiên cơ Cự
môn” nhập cung (ở Dậu hoặc Mão) có Thiên cơ hóa Khoa còn Cự môn hóa Kị. Nhóm
tinh hệ này tài lộc không vượng, khó tích lũy, vì cung Mệnh cung Tài và cung
Phúc đều không ổn định; hơn nữa trước khi kiếm được tiền ắt lại có nhiều phiền
phức, tài khí càng nhiều thì phiền phức càng lớn, nên sau khi kiếm được tiền
cũng nhiều thị phi. Cho nên gặp chúng ở lưu niên hay đại hạn thì tốt hơn ở mệnh
bàn nguyên cục. Ở niên vận bất quá chỉ rắc rối khó xử về tình cảm mà
thôi.

  

       Tinh hệ
“Thiên cơ Thái âm” thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái âm hóa Lộc còn
Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Dần (hoặc Thân) gặp Lộc tồn trùng điệp. Cung quan là
Thiên lương (ở Ngọ hoặc Tý). Cung Tài là Thiên đồng hóa Quyền (ở Tuất hoặc
Thìn). [Chú: phần này sách dịch nhầm, nên saobienden có chỉnh sửa để phù hợp
theo tinh bàn – kiểm ???]. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Lộc thì tốt hơn Thiên
cơ hóa Lộc, kết cấu khá đường đường chính chính, cung Tài có Thiên đồng hóa
Quyền càng chủ về nguồn tiền tài ổn định, tay trắng làm nên, vãn niên ắt dễ giầu
có. Cung Quan là Thiên Lương gặp hóa Lộc, hoặc cách “Lộc trùng điệp” rất thích
hợp với giới công chức ngành bảo hiểm, công chứng, .v.v… nếu làm việc trong
chính giới thường hay bị hối lộ, vì vậy nên làm chức vụ nhỏ về giám sát tài vụ,
kế hoạch. Có điều cung Phúc có Cự môn hãm ở “thiên la địa võng” nên nội tâm
thường không được yên ổn.

  

       Thái Âm độc
tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội Kình Dương hay Đà La. Cung
Quan là Thiên lương độc tọa (ở Sửu hoặc Mùi), đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình Đà
hội chiếu. Cung Tài là Thái dương độc tọa (ở Hợi hoặc Tị), đối cung là Cự môn
hóa Kị đồng độ với Đà La, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Tinh hệ này, do Thái âm hóa
Lộc và Thiên đồng hóa Quyền đối nhau, gọi là “Độc tọa tương hội”, là kết cấu khá
tốt, tuy bôn ba vất vả, không cách nào có thời gian hưởng thụ trong đời người,
nhưng mệnh tạo lại cảm thấy vinh dự và thỏa mãn, lúc vãn niên thường cho rằng
mình đã sống không uổng phí kiếp người. Nhóm tinh hệ này, nam mệnh và nữ mệnh
đều có dáng vẻ mỹ quan, dễ được người khác giới để ý, nên cũng thích hợp làm
những nghề mà đối tượng khách hàng là khác giới. Cung Phúc ở cung Hợi thì nội
tâm bình lặng hơn ở cung Tị.

  

       Thái Âm thủ
mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Tuất lại trùng điệp hội Lộc tồn,
mà còn là vượng địa, nên tốt hơn nhiều so với cung Thìn. Cung Quan là “Thiên
đồng Thiên lương” mà Thiên đồng hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần). Cung Tài là Thiên
cơ hóa Khoa (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, nhưng cũng
sẽ đồng thời vây chiếu Cự môn hóa Kị. Ở “tam phương tứ chính” có Hóa Lộc, Hóa
Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn phối trí cân xứng, do đó đây là kết cấu đẹp, chủ về
kiếm được tiền lâu dài, dù có bị tranh chấp thì cũng dễ ứng phó (nhất là Thái Âm
ở cung Tuất, cung Quan mạnh hơn cung Tài, thường có thể kế thừa sự nghiệp của
cha mà kinh doanh làm ăn, còn có thể phát dương quang đại), vẫn nên làm nghề bán
lẻ, nghề quảng bá hay phục vụ; cũng có thể làm công chức hay những nghề có sắc
thái quảng bá. Cung Phúc là Cự môn hóa Kị ở cung Ngọ ắt sẽ có Kình Đà giáp cung,
không những không được yên ổn, dễ chuốc điều tiếng thị phi chèn ép, mà còn có áp
lực “quan phi”, hôn nhân cũng thường bất lợi. Cung Phúc ở Tý có đỡ hơn nhưng mức
độ chỉ giảm nhẹ mà thôi.

  

        Thái Âm thủ
mệnh hóa Lộc ở hai Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thiên cơ hóa Khoa, mệnh ở cung Hợi
tốt hơn, ở cung Tị thì Thái âm lạc hãm, chủ về bôn ba vất vả, không ổn định để
theo giữ một nghề. Cung Quan là “Thái dương Thiên lương” được Quyền Lộc chiếu (ở
Dậu hoặc Mão), có Văn xương đồng độ thích hợp với lĩnh vực nghiên cứu học thuật,
nếu không có thể làm viên chức NN hay Cty lớn cũng phù hợp, cũng có thể theo
ngành y dược, công tác xã hội, , gặp Văn khúc thì thích hợp làm môi giới bảo
hiểm. Cung Tài là “Thiên đồng Cự môn” một hóa Quyền một hóa Kị, kiếm tiền ắt
phải hao tổn tâm lực, rất vất vả về nói năng thuyết phục. Vấn đề tình cảm cũng
là khuyết điểm của tinh hệ này.


      Bản chất của Tham
Lanh vốn đã chủ về ham muốn vật chất, nên lúc Hóa Lộc ý nghĩa của ham muốn vật
chất càng tăng. Bản chất của Tham Lang cũng giỏi giao tế thù tạc, lúc hóa Lộc có
thể nhờ thù tạc mà phát triển sự nghiệp, từ đó mà có cơ hội kiếm tiền thông qua
giao tế thù tạc.

      Tham lang hóa Lộc còn có bản chất đầu
cơ. Có Hỏa linh, Linh tinh đồng độ, thì đầu cơ có thể thu lợi, nhưng cũng cần
chú ý xem vận hạn có thích hợp không. Nếu có Kình dương, Đà la đồng độ hoặc hội
chiếu, thì không nên đầu cơ.

      Tham lang hóa
Lộc mà có các sao đào hoa hội hợp, thì ham muôn vật chất và sắc dục đều nặng.
Cần lưu ý vận hạn, đề phòng vì sắc mà phá
tài.

      Nếu tham lang hóa Lộc mà có Kình Đà
Không Kiếm đồng độ, sẽ chủ về vì giao tế thù tạc mà phá tài, hao tốn tiền bạc
không chỉ vì thù tạc trong công việc, mà còn vì giao du với bạn
xấu.

      Tham lang hóa Lộc thành cách “Hỏa Tham”, “Linh
Tham”, ắt sẽ có khoảng tiền lớn bất ngờ, nhưng sau khi phát tài cũng chủ về dễ
thất bại. Vì vậy không nên cứ mãi chuyên chú ở nguồn tiền bất
ngờ.

       Tham lang độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở
hai cung Tý hoặc Ngọ, đối nhau với Tử vi. Cung Tài là Phá quân. Cung Quan là
Thất sát. Trong hai cung Tý Ngọ, ở cung Tý thì có ý vị “phiếm thủy đào hoa”, vì
vậy ở cung Ngọ tốt hơn và là cách “Mộc Hỏa thông minh”. Cho nên tuy cùng là Hóa
Lộc, mà ở cung Ngọ thì kiếm tiền khá nhiều, cũng dễ tích lũy, còn ở cung Tý thì
thường dễ tiêu xài, hao tổn vì người khác giới. Phá quân thủ cung Tài, ưa đầu cơ
mạo hiểm, giầu năng lực sáng lập sự nghiệp, hoặc ưa làm những công việc có tính
khai sáng hay có tính độc lập. Nhưng khả năng giữ tiền không được tốt, đây là
khuyết điểm của nó. Tinh hệ này, Thiên cơ hóa Kị ở cung Nô, hội chiếu cung
Huynh, vì vậy không nên hợp tác với người khác để gây dựng sự nghiệp, người dưới
quyền cũng thiếu trợ lực.

      Tinh hệ “Vũ khúc Tham lang”
đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tham lang thủ mệnh hóa Lộc, ở cung Sửu còn
hội Lộc tồn tốt hơn cung Mùi. Cung Quan là “Tử vi Thất sát” hội hợp với Lộc tồn,
khí thế bàng bạc. Cung Tài là “Liêm trinh Phá quân” ở cung Dậu, thì “Lộc trùng
điệp”, nên an Mệnh ở cung Sửu thì “tài khí” ắt sẽ lớn hơn ở cung Mùi. Nhóm tinh
hệ này chủ về đời người biến đổi đa đoan, tài vận cũng biến đổi vô thường, nhưng
đủ sức kiếm tiền, còn nhờ giao tế thù tạc mà có cơ hội tốt, nên ắt sẽ dư giả.
Mệnh ở cung Sửu không những cục diện sự nghiệp lớn mà tài lộc cũng dồi dào. Tinh
hệ này có khuyết điểm là thường dễ bất cẩn, sơ sót trong việc giáo dục con cái.
Đồng thời trong nội bộ môi trường làm việc (Cty, công sở, mối quan hệ nhóm làm
ăn) cũng thiếu mạch lạc, lớp lang, thường xảy ra tệ “có người thì làm việc đoàng
hoàng, không có người thì nghỉ”, điều này cho thấy khả năng lãnh đạo và uy tín
của người Vũ Tham thủ mệnh.

       Tham lang thủ
mệnh hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, ở hai cung độ này Tham lang hóa Lộc đều
có khuyết điểm, dễ “bạo phát bạo tàn”. Cho nên ở đại vận mà gặp nó thì có lợi
hơn là gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Ở cung Dần thì khá tốt, biên độ lên xuống
nhỏ. Ở cung Thân thì tay trắng sáng lập sự nghiệp, nhưng lại bị cách “Mộc bị Kim
khắc chế”, thường phải trải qua gian khổ mới có được tiền của, rồi lại phá tán,
thất bại tiếp. Tham làn hóa Lộc chỉ chủ về sau khi phá tán, thất bại, thì vẫn
còn cục diện để đứng lên mà thôi. Cung Tài là Phá quân cũng chủ về lên xuống bất
thường, đồng độ với Đà La sẽ chủ về tài vận đến chậm. Cung Quan là Thất sát, vì
vậy không nên đầu cơ, thích hợp với những ngành nghề giải trí, vui chơi, hưởng
thụ, trang điểm, nghệ thuật, tiêu dùng.

      
Tinh hệ “Tử vi Tham lang” thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu mà Tham lang hóa Lộc.
Cung Tài là “Vũ khúc Phá quân ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Ở hai
cung độ này đã đủ tượng trưng cho lực “xung kích”, sức cạnh tranh rất mạnh, do
đó dễ có cơ hội kiếm tiền gây dựng sự nghiệp, người này đều không chịu bỏ qua.
Cung Quan là “Liêm trinh Thất sát”, cũng mang ý vị quyền lực và thủ đoạn phối
hợp hỗ tương với đặc tính của “Tử vi Tham lang”. “Vũ khúc Phá quân”thủ cung Tài,
chỉ chủ về đặc trưng dùng đồng tiền có mục đích, có chủ đích xác đáng. Nhưng đối
với người khác giới thì họ cực kỳ hào sảng. Nếu là nữ mệnh thì không có khuyết
điểm này, nên nữ mệnh ưu hơn nam mệnh. Tinh hệ này nên đề phòng người hợp tác
hay người dưới quyền xâm phạm.

       Tham lang
thủ mệnh hóa Lộc độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Thìn ắt sẽ đồng độ
với Đà la, ở cung Tuất thì bị Kình Đà hội chiếu. So sánh hai trường hợp, ở cung
Thìn thì lúc trẻ gặp nhiều hiểm trở, đường đời gập ghềnh, ở cung Tuất thì có
tinh thần tiến thủ mạnh. Cung Tài là Phá quân, cung Quan là Thất sát, chủ về
không chuyên giữ một nghề, phần nhiều đều làm nhiều công việc hay kiêm nhiều
chức vụ, hoặc thường đảm nhận thêm nhiệm vụ quan trọng. Ngoài những điều vừa
thuật ở trên, thì tinh hệ này là kết cấu Tham lang tọa mệnh khá ổn định. Nhưng
đối với nữ mệnh, dễ có bất mãn trong hôn nhân, có thể chỉ vì dựa vào kinh tế của
chồng mà phải duy trì cuộc hôn nhân.

       Tinh
hệ “Liêm trinh Tham lang” thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Lộc,
còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Tài là “Tử vi Phá quân” không chủ về
tích lũy tiền bạc, cho nên khi hội hợp hai cung độ này, sẽ có bản chất cực kỳ
chú trọng vẻ bề ngoài. Cung Quan là “Vũ khúc Thất sát”, tam phương tứ chính có
đào hoa trùng trùng, rất thích hợp với ngành có tính giải trí, vui chơi, hưởng
thụ. “Vũ khúc Thất sát” ở cung Dậu có thể theo nghề ẩm thực. Có điều nếu gặp các
sao khoa văn hội hợp, lại thường là nhân tài chuyên nghiệp, như bác sỹ khoa phụ
sản, .v.v…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *