ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ THÀNH NHÀ HỒ

HÌNH
ẢNH THÀNH NHÀ HỒ – THANH HÓA .

công trình kiến trúc quân sự bằng đá kỳ vĩ, Kinh Ðô của nhà Hồ cuối thế kỷ XIV,
thuộc địa phận 2 xã: Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố
Thanh Hoá khoảng 50 km.
Ðây
là khu thành luỹ xây toàn bằng đá, những khối đá tảng xây đều được đục đẽo vuông
thành sắc cạnh, trung bình dài 1,5m; rộng 1m; dày 0,8m. Thành Tây Ðô không chỉ
là căn cứ quân sự thủ hiểm dựa vào thế núi, thế sông để bảo vệ và củng cố chính
quyền mà còn là một công trình kiến trúc quy mô với những cửa xây cuốn ghép hình
“múi cam” cùng hàng tường bao quanh xếp đá chồng nhau hình chữ cung thẳng đứng;
lối ghép những khối đá tảng sát nhau và dùng lực nén của vật liệu để giữ thăng
bằng ở trình độ thủ công mà vẫn tồn tại được bao thế kỷ. Thành Tây Ðô, một di
sản văn hoá quý báu, một công trình kiến trúc kỳ vĩ cho thấy khả năng kiến trúc
của dân tộc ta cách đây 6 thế kỷ.

dienbatn
xin đăng lại một số ý kiến của các nhà nghiên cứu trước đây .


Thuộc địa phận hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, từ thành phố Thanh
Hóa, theo Quốc lộ 45 ngược lên phía Bắc, ngược con đường Thiên Lý xưa kia khoảng
2km là chúng ta đến thành Nhà Hồ. Được Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397, đời vua Trần
Thuận Tông (1388 – 1398), thành Nhà Hồ còn có tên gọi khác là thành Tây Đô, hay
còn gọi là thành An Tôn và chính thức được coi là kinh đô của đất nước ta thời
đó.
Để
đối phó với âm mưu xâm lược đang đe dọa, với cách nhìn của một nhà quân sự, Hồ
Quý Ly đã chọn đất An Tôn – một nơi địa hình vùng núi, thế đất chật hẹp, hẻo
lánh để xây thành. Thành được xây dựng ở khoảng giữa hai con sông – sông Mã và
sông Bưởi, phía Bắc có núi Thổ Tượng, phía Tây có núi Ngưu Ngọa, phía Đông có
núi Hắc Khuyển, phía Nam còn là nơi hội tụ của sông Mã chảy từ phía Tây về và
sông Bưởi chảy tới.

Thành
Nhà Hồ được xây dựng hết sức độc đáo – bên ngoài xây đá, còn bên trong chủ yếu
là đắp đất. Được xây dựng trên bình đồ kiến trúc gần vuông, hai mặt Nam và Bắc
của thành Nhà Hồ dài hơn 900m, Đông và Tây dài hơn 700m và tường thành bao
quanh. Độ cao trung bình của thành Nhà Hồ từ 7 – 8m, có nơi như ở cửa Nam cao
tới 10m – một bằng chứng về sức lao động và tài năng khéo léo của nhân dân ta
lúc bấy giờ.

Thành
Nhà Hồ được tạo lên bởi những tảng đá xanh đẽo vuông vức, công phu, ít nhất cũng
tạo được từ 4 đến 5 mặt phẳng, có tấm rất to ở cửa Tây dài tới 5,1m; rộng 1,59m;
cao 1,30m, được xếp chồng lên nhau thành hình chữ công. Những phiến đá to và
nặng như thế được xếp chồng lên nhau, không cần chất kết dính mà vẫn đảm bảo độ
bền vững. Qua 600 năm thử thách, cơ bản phần ốp đá bên ngoài hầu như vẫn còn
nguyên vẹn.

Thành
Nhà Hồ có 4 cửa: Đông, Tây , Nam, Bắc. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các mặt
thành kỹ thuật ghép đá đạt đến trình độ cao. Những cổng thành được xếp các phiến
đá theo hình múi cam, có kích thước rất lớn. Với hai cánh cửa dày, nặng và chắc
được thể hiện qua dấu vết để lại của những lỗ đục vào đá và những chỗ lắp ngưỡng
cửa. Xưa kia khi đóng, khi mở bởi những bộ cánh cửa gỗ có bánh xe lăn, then cài
chốt ngang. Ba mặt Đông, Tây, Bắc đều được xây một cửa cuốn, vòm giữa xây to và
cao hơn hai vòm bên. Thành Nhà Hồ – một công trình kiến trúc vững chắc, thể hiện
rõ vai trò một trung tâm quân sự. Điều đáng ngạc nhiên là một công trình kiến
trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà chỉ được xây trong vòng có 3
tháng.

Thành
Nhà Hồ đã từng được coi là trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa – xã hội nước
ta. Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi 7 năm (1400-1407) dưới triều Hồ,
nhưng đây là một kiến trúc độc đáo và thực sự là một di sản quý báu, một biểu
hiện kiệt xuất của những công trình thành cổ, đồng thời di tích thành Nhà Hồ còn
là một danh lam thắng cảnh, một tụ điểm du lịch đẹp mắt, hấp dẫn khách du lịch
tới tham quan. “
[Chỉ
thành viên mới có thể nhìn thấy links. Bạn hãy nhấn vào đây để đăng
ký…] 

Thành
nhà Hồ – SOS!

Hơn
600 năm qua, thành nhà Hồ vẫn ngày đêm hứng nắng đội mưa “thi gan” cùng trời
đất. Cách đây 3- 4 năm, công luận đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo về sự xuống
cấp của di tích nhưng nay công luận lại vẫn tiếp tục cảnh báo về sự xuống cấp
nghiêm trọng hơn của thành nhà Hồ.

Chúng
tôi tìm về di tích thành nhà Hồ vào một ngày cuối tháng 8-2004. Một số đoạn trên
bức tường Thành ở phía sau đền Bình Khương đã bị đổ. Toàn bộ đoạn sông bao quanh
Thành đã bị lấn chiếm gần hết. Cổng phía Đông của Thành có hai con rồng bằng đá
đã bị chặt mất đầu, đuôi. Lại còn cảnh trong khu di tích vẫn còn 130 hộ dân sinh
sống, ở các cổng vào Thành, tình trạng bán hàng, vứt rác bữa bãi, làm cống rãnh
ứ đọng nước bẩn khiến quang cảnh di tích bị rơi vào thảm cảnh.

Thành
nhà Hồ thuộc địa bàn hai xã Vĩnh Long và Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hoá. Theo GS sử học Lê Văn Lan, thành nhà Hồ do ông Đỗ Tỉnh (Mẫn) là Lại bộ
tượng thư của triều đình được Hồ Quý Ly cử đi xây dựng công trình này và chỉ
trong 3 tháng đã hoàn thành (từ tháng 1-1397 đến tháng 3-1397).

Nhiều
nhà khoa học lịch sử trong nước và quốc tế thống nhất nhận định: Thành nhà Hồ là
một công trình đạt tiến độ thi công nhanh ở mức kỷ lục thời bấy giờ. Hồi ấy
không có bê tông, sắt thép, phương tiện vận chuyển chủ yếu bằng xe thô sơ mà
những người thợ lại xây dựng được những bước tường thành chắn chắn, đồ sộ từ
những phiến đá nặng hàng trăm kg.

Quan
sát kỹ tường thành sẽ thấy lối kiến trúc rất khoa học của cha ông ta thời đó,
các phiến đá được xếp đan xen theo hình múi cam để tránh động đất. Chiều cao của
cổng thành là 10m, chiều dài 1km. Thành được xây dựng 4 cửa (Đông, Tây, Nam,
Bắc), mỗi cửa có 2- 3 vòm, xung quanh Thành có đường sông bao quanh để bảo
vệ.

Tương
truyền rằng, Cống sinh Trần Công Sỹ được phân công xây dựng Thành nhưng không
hiểu sao Thành cứ xây lên cao thì lại bị đổ. Hồ Quý Ly cho rằng Trần Công Sỹ có
ý đồ xấu, cố tình phá dỡ công trình này nên đã chôn sống Trần Công Sỹ. Sau đó,
nàng Bình Khương (vợ của Cống sinh Trần Công Sỹ) nghe tin chồng mất đã đập đầu
vào đá tự tử. Hiện trong đền thờ bà Bình Khương vẫn còn phiến đá
này.

Đặc
biệt bên cạnh ngôi đền còn có một hồ nước nhỏ, dù trời mưa to hoặc nắng hạn thì
quanh năm không bao giờ cạn. Sau ngôi đền này vẫn còn bia mộ của Cống sinh Trần
Công Sỹ. GS sử học Lê Văn Lan cho biết: Câu chuyện truyền thuyết này chỉ là một
sản phẩm của văn học dân gian như là một minh chứng về giá trị lịch sử và trình
độ khoa học kỹ thuật của nhân dân ta thời nhà Hồ.

Trả
lời câu hỏi của chúng tôi về sự chậm chễ trong bảo vệ và trùng tu di tích này,
ông Hoàng Minh Tường- Phó Giám đốc Sở VHTT cho rằng: “Kinh phí tu bổ quá lớn,
ngân sách địa phương không thể lo được. Ông còn cho biết “theo tôi tôn tạo lại
toàn bộ di tích thì rất khó, giải pháp trước mắt là chống xuống cấp các bức
tường thành, chọn từng hạng mục để làm, chứ không thể tham vọng phục hưng lại
toàn bộ công trình”.

Được
biết các cơ quan chức năng đang chuẩn bị lập dự án cải tạo, tu bổ Thành nhà Hồ
nhưng hiện nay mọi việc vẫn đang nằm trên giấy và chẳng biết đến bao giờ mới trở
thành hiện thực. Nếu không triển khai ngay biện pháp bảo vệ, trùng tu thành nhà
Hồ thì chắc chắn di tích này sẽ biến mất trong tương lai hoặc sẽ bị hư hỏng
nặng. Lúc đó kinh phí đầu tư cải tạo di tích càng nhiều hơn và việc tu bổ càng
khó khăn hơn.

“Toàn
bộ tòa thành được xây dựng bằng những phiến đá rất lớn (có phiến nặng trên 30
tấn) với khối lượng gần 20.000 m3. “

Khối
lượng riêng của đá xanh khoảng 3000 – 4000 Kg / m3.

Làm
một con toán nhân :

20.000
x 4 tấn = 80.000 tấn đá cần vận chuyển .

Mổi
xe tải hiệu KAMAZ hiện nay chở khoảng 15 tấn . Do vậy , cần 5.333,3 xe mới chở
hết số đá trên .

5.333
xe chia cho 3 tháng = 90 ngày . Do vậy mỗi ngày cần phải chở 59,2 chuyến xe tải
. ?????

Ta
nên nhớ là ngày xưa không có cần cẩu , việc đứa một khối đá nặng vài tấn đến cả
chục tấn lên xe là một vấn đề nan giải . Thấm chí có những viên đá nặng trên 30
tấn thì vận chuyển bằng phương tiện gì để có thể vượt qua quãng đường gần nhất
là gần 9 Km ???

Nếu
chấp nhận chở bằng thuyền hay mảng thì chỉ riêng việc bốc lên, bốc xuống cũng là
một vấn đề nan giải .

Thứ
hai là đó mới chỉ là vận chuyển . Còn phải khai thác , mài dũa từng viên đá như
hiện nay thấy để có thể đạt được 20.000 m3 đá trong ba tháng
.

Thứ
ba , khi có đá rồi , việc xếp 20.000 m3 đá được như hiện thấy , trải qua 600 năm
không thay đổi , chưa kể là những khu vực đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao như cổng
Thành .

Ngoài
ra còn làm đường , doanh trại vv … và rất nhiều công việc không tên khác nữa
.

Vậy
: Theo GS sử học Lê Văn Lan, thành nhà Hồ do ông Đỗ Tỉnh (Mẫn) là Lại bộ tượng
thư của triều đình được Hồ Quý Ly cử đi xây dựng công trình này và chỉ trong 3
tháng đã hoàn thành (từ tháng 1-1397 đến tháng 3-1397). ???????Có đúng như vậy
không ????

dienbatn
.

Nhân
đọc lại Lịch sử , trong ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ có viết :


Đinh Sửu, [Quang Thái] nămthứ 10 [1397], (Minh Hồng Vũ năm thứ 30). Mùa xuân,
tháng giêng, sai Lại bộ thượng thư kiêm Thái sư lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép là
Mẫn) đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, đắp thành đào hào, lập nhà
tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó, tháng 3
thì công việc hoàn tất.

Trước
đó, triều đình bàn bạc chưa xong, hành khiển Phạm Cự Luận khuyên nên
thôi.

Quý
Ly nói: “Ý ta đã định từ trước rồi, ngươi còn nói gì nữa!”. Đến đây thì thực
hiện.

Lúc
ấy, Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: “Ngày xưa, nhà
Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản
Viên, có sông Lô nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa, các bậc
đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ.
Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp
đầu… Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai
chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị.
Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: “Cốt ở đức chứ không cốt ở
hiểm”.

Quý
Ly không nghe. Sau đến kỳ xét công Quý Ly thấy có tên Nhữ Thuyết liền
nói:

“Người
ngày từng nói cốt ở đức không cốt ở hiểm”.



Hán Thương hạ lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành. Trước đây
xây thành Tây Đô, tải nhiều đá tới xây, ít lâu sau lại bị sụp đổ, đến đây mới
xây trên bằng gạch, dưới bằng đá.”


Nhâm Ngọ, [1402], (Hán Thương Thiệu Thành năm thứ 2, Minh Kiến Văn năm thứ
4).

Mùa
xuân, tháng 2, Hán Thương xét duyệt quân ngũ.

Tháng
3, Hán Thương đắp sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hóa Châu. Dọc đường đặt phố
xá và trạm truyền thư, gọi là đường thiên lý.”


Qua
đó , ta cần phải tìm hiểu lại quá trình xây dựng thành Nhà Hồ . Bằng cách nào họ
có thể làm được điều kỳ diệu đó .

Một
việc nữa là khi đọc trong các sách cổ sử là việc đánh giá Triều đại của HỒ QUÝ
LY .

Theo
ĐVSKTT :


Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo của tiên thánh nếu không có Khổng Tử thì không ai
phát huy được; hậu thánh sinh ra, nếu không có Khổng Tử thì không còn ai làm
khuôn phép nữa. Từ khi có sinh dân đến nay, chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử,
thế mà Quý Ly lại dám khinh suất bàn về ngài thì thực là không biết lượng sức
mình. “

Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Quý Ly đến đây tội ác đã chất đầy rồi. Trần Hãng đã đi
lại, hẹn ước với các tướng văn tướng võ từ trước, nếu biết thừa cơ quyết đoán,
vạch tội giết vua của Quý Ly, hiệp sức với Khả Vĩnh mà giết nó đi, thì danh
chính ngôn thuận, mà việc cũng xong rồi. Đánh tiếc lại do dự, sợ sệt, đến nỗi
chuốc lấy bại vong.


Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Công tử Ngữ nước Sở trước khi cướp ngôi, đặt phục chế,
bày quân hầu, kết cỏ bồ như cung vua, ngang nhiên ngạo mạn, lộ vẻ hung hăng để
làm nhụt chí mọi người. Thấy không ai dám chống lại, bấy giờ mới không còn kiêng
sợ gì nữa mà trổ hết ngón ác. Việc làm của họ Hồ cũng cùng một
duộc!.”


Phan Phu Tiên nói: Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm phóng túng, lại thêm
Chiêm Thành xâm lược, quấy rối, thì giặc cướp rất nhiều. Chúng cướp của bắt
người giữa ban ngày, pháp luật không thể ngăn cấm được. Quý Ly nắm quyền cai
trị, tìm cách lùng bắt, mới hạn chế được một phần nào! “


Phan Phu Tiên nói: Tào Tháo dời kinh đô đến đất Hứa, nắm lấy thiên tử để sai
khiến chư hầu, cơ nghiệp, nhà Hán chìm đắm thực là bắt đầu từ đó. Quý Ly dời
kinh đô đến An Tôn, giết vua và diệt họ vua, cơ nghiệp nhà Trần bị sụp đổ, chả
lẽ khôg phải bởi đó hay sao? Tuy nhiên, bọn loạn thần tặc tử đời nào mà chẳng có
chúng? Cốt ở người

làm
vua phải cương quyết mà xử đoán, sáng suốt mà tra xét để không có mối lo về sau
thôi. “

Nhìn
trong cổ sử thấy viết về Hồ Quý Ly như sau : “gian thần, chuyên quyền, xúi giục,
gièm pha, giết hại các trung thần, mưu đồ soán đoạt ngôi, lộng quyền không coi
ai ra gì, bắt Vua dời kinh về Tây Đô, lập mưu ép Vua nhường ngôi, sai người giết
Vua và chuẩn bị cướp ngôi, gian mưu , phế truất Thiếu Đế, tự xưng làm vua, chiếm
lấy ngôi nhà Trần…. “

Một
số lại viết rằng : ” có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa, tích cực,
mong muốn xây dựng một nước Việt Nam cường thịnh, tư tưởng đổi mới của ông rất
đáng trân trọng, ngoại giao mềm mỏng, có tinh thần tự chủ cao, cương quyết đề
cao công tác giám sát, chống thói xu thời , làm việc cần làm, vì quyền lợi đất
nước, chứ không vì quyền lợi của một cá nhân,v.v..”

Vậy
người Đời sau chúng ta phải hiểu như thế nào về Triều đại của HỒ QUÝ LY
???

Theo
thiển ý của người viết: Chúng ta phải dựa trên câu trả lời : TRIỀU ĐẠI ĐÓ ĐÃ LÀM
ĐƯỢC NHỮNG GÌ CHO ĐẤT NƯỚC , CHO DÂN TỘC VIỆT NAM LÀM CĂN CỨ
.

Chúng
ta thấy nhà Hồ đã làm những gì :

1.
Phát minh lớn nhất của người Việt là Thần Cơ Hỏa Sang, tức súng trường cá nhân.
Súng này do Hồ Nguyên Trừng, con trai Hồ Quý Ly chế tạo . Rất tiếc dân Việt lúc
ấy không “ưa” họ Hồ nên dân tộc Việt Nam đã vĩnh viễn mất đi một cơ hội Hai ngàn
năm có một để thoát kiếp nhược tiểu .

Cha
con họ Hồ sau đó bị bắt qua Trung Hoa . Vua Minh nhận ra sáng chế kia rất quan
trọng nên đã hậu đãi Hồ Nguyên Trừng. Cuối đời mình , Hồ Nguyên Trừng giữ chức
tương tự như Thứ trưởng Bộ Công chánh hay Công nghiệp. Tuy vậy ông vẫn đau đáu
hướng về cố quốc và tự gọi mình là “Lão già phương Nam” trong trường thiên bi ai
“Nam ông mộng lục”…

2/
Mùa hạ, tháng 4, bắt đầu phát [tiền giấy]. Thông bảo hội sao. In xong, ra lệnh
cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền
giấy.

Thể
thức [tiền giấy]: tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2
tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm
tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản

tịch
thu.

Cấm
tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì
ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm tiền
giả.

3/
Xuống chiếu qui định cách thức thi chọn nhân tài, dùng thể văn bốn kỳ, bãi bỏ
phép viết ám tả cổ văn.

Kỳ
thứ nhất thi một bài kinh nghĩa có các phần phá đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên
đề, đại giảng, kết luận, từ 500 chữ trở lên. Kỳ thứ hai thi một bài thơ Đường
luật, một bài thơ phú cổ thể, hay thể Ly tao, thể Văn tuyển, cũng từ 500 chữ trở
lên. Kỳ thứ ba thi một bài chiếu theo thể Hán, một bài chế, một bài biểu theo
thể tứ lục đời Đường. Kỳ thứ tư một bài văn sách, ra đề thì theo kinh, sử hay
thời sự, mỗi bài phải 1000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi hương thì năm sau thi
hội, người đỗ thì vua thi 1 bài văn sách để xếp bậc.

4/
Tháng 6, quy định [26a] kiểu mũ áo các quan văn võ: Quan nhất phẩm (áo) màu tía;
nhị phẩm màu đỏ thẫm; tam phẩm màu hồng nhạt; tứ phẩm màu xanh lục; ngũ phẩm,
lục phẩm, thất phẩm màu

xanh
biếc; bát phẩm, cửu phẩm màu xanh. Duy nội thị thì dùng quần hai ống, không dùng
xiêm. Người không có phần hàm và hạng hoàng nô thì dùng màu trắng. Các tụng quan
chức tước từ lục phẩm trở lên dùng mũ cao sơn, chánh lục phẩm được thắt đai, đi
hia. Về sắc mũ, chánh thì sắc đen, tòng thì sắc xanh. Người tôn thất thì đội mũ
phương thắng màu đen. Võ quan tước lục phẩm đội mũ chiết xung, tước cao mà không
có chức thì thắt đai, đội mũ giác đính, tứ thất phẩm trở xuống đội mũ thái cổ;
tòng thất phẩm đội mũ toàn hoa . Vương hầu đội mũ viễn du; ngự sử đài đội mũ
khước phi. Những quy chế về tiền giấy, về mũ áo trên đây đều làm theo lời của
thiếu bảo Vương Nhữ Chu cả.

5/
Mùa thu, tháng 8, sai tướng chỉ huy quân Long Tiệp là Trần Tùng đi đánh Chiêm
Thành, bắt được tướng nước ấy là Bố Đông đem về, ban cho họ tên là Kim Trung
Liệt, chỉ huy quân Hổ Bôn.

6/
Định quy chế quan lại trấn nhậm bên ngoài. Lộ đặt chức An phủ sứ và An phủ phó
sứ. Phủ đặt chức Trấn phủ sứ và Trấn phủ phó sứ. Châu đặt chức Thông phán và
Thiêm phán. Huyện đặt chức Lệnh úy và Chủ bạ để cai trị. Lộ thống nhiếp phủ, phủ
thống nhiếp châu, châu thống nhiếp huyện. Các việc hộ tịch, tiền thóc, ngục tụng
đều làm chung thành sổ sách của một lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng cứ
mà khảo xét. Lại đặt các phủ đô đốc, đô hộ, đô thống, tổng quản và ty thái thú
để trông coi. Lấy Phó tướng Lê Hán Thương coi phủ đô hộ lộ Đông Đô; Thái bảo
Trần Hàng coi phủ đô thống lộ Bắc Giang; Trần Nguyên Trữ1 [30a] coi phủ đô thống
lộ Tam Giang; thiếu bảo Vương Nhữ Chu làm tri Thiên Trường phủ lộ quân dân sự;
Hành khiển Hà Đức Lân làm hành Tân Yên phủ lộ thái thú. Lại đặt chức giáo thụ và
giám thư khố ở các châu trấn.

Tháng
5, xuống chiếu rằng:

“Đời
xưa, nước có nhà học, đảng có nhà tư, toại có nhà tường là để tỏ rõ giáo hóa,
giữ gìn phong tục, ý trẫm rất chuộng như vậy. Nay quy chế ở kinh đô đã đủ, mà ở
châu, huyện thì có thiếu, làm

thế
nào rộng đường giáo hóa cho dân? Nên lệnh cho các phủ lộ Sơn Nam, Kinh Bắc3, Hải
Đông, đều đặt một học quan, ban cho quan điền4 theo thứ bậc khác nhau: phủ châu
lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa thì 12 mẫu5, phủ châu nhỏ 10 mẫu để chi dùng cho
việc học trong phủ châu mình (một phần để cúng ngày mồng một, một phần cho nhà
học, một phần cho đèn sách). Lộ quan và quan đốc học hãy dạy bảo học trò cho
thành tài nghệ, cứ đến cuối năm thì chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình,
trẫm sẽ thân hành thi chọn và cất nhắc”.

Theo
ĐVSKTT.



Chân lý đã không thuộc về nhà cách mạng vĩ đại Hồ Quý Ly và những cải cách triệt
để của ông. Giữa một lục địa bao la đầy dẫy tầm chương trích cú, việc ông đưa
toán pháp vào để tuyển chọn hiền tài thật sáng suốt. Nếu không có ý chí độc lập
tự chủ, ông ban bố chính sách, văn kiện triều đình bằng chữ Nôm làm gì. Nhân dân
không theo ông, kẻ sĩ không đoàn kết bên ông chống ngoại xâm mà cứ bo bo xem
mình là tôi đòi của họ Trần mạt vận thối nát. Đất nước dưới ách chiếm đóng quân
Minh đã vĩnh viễn mất đi một cơ hội vượt qua cái huôn nhược tiểu. Đành đoạn lắm,
đoàn bô lão Kỳ La vẫn cố nguyền rủa người anh hùng thất trận, họ đọc trại Kỳ La
thành Cơ Lê nghĩa là trói họ Lê (họ cha nuôi Hồ Quý Ly) và chơi chữ Thiên Cầm là
đàn trời thành ra trời bắt. Chính xác là người Việt đã đang tâm tống cổ cha con
họ Hồ về Trung Hoa với dòng dõi nhà Ngu. Cuối đời mình, Hồ Nguyên Trừng, Edison
Việt Nam đầu thế kỷ 15 với sáng chế tiêu biểu là súng trường cá nhân, đành an
phận với chức thứ trưởng bộ Công chánh Minh triều, đau đáu hướng về cố quốc rồi
tự gọi mình là “lão già nước Nam” trong trường thiên ai oán “Nam ông mộng
lục”.


Hồ
Quý Ly cũng chẳng phủi tay giũ áo đi biệt. Ông đã đào tạo cho non nước này một
tầng lớp sĩ phu mới, ít thiển cận và có đầu óc. Họ đã giúp Lê Lợi phục quốc và
xây dựng một nhà nước Nho trị vững vàng. Đến đời cháu Lê Lợi, Việt Nam đã lớn
mạnh thành một đế quốc và tiêu diệt được Chiêm Thành, trở lực khủng khiếp nhất
trên con đường Nam tiến của dân Việt. Nguyễn Trãi nổi bật trong số ấy( NGUYỄN
TRÃI chính là người thi đỗ trong Triều đại nhà Hồ – Mùa thu, tháng 8, Quý Ly mở
khoa thi thái học sinh. Lấy đỗ bọn Lưu Thúc Kiệm 20 người. Nguyễn Trãi, Lý Tử
Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành đều đỗ kỳ này) . Là quân sư thân
cận Lê Lợi, văn võ song toàn chắc chắn họ Nguyễn đã giúp Lê Thái Tổ xây dựng màn
kịch trả gươm. Khu đầm lầy thời Lý – Trần được nạo vét, đắp đập ngăn nước và thả
giải bắt từ Lam kinh ra. Cho dù huyền thoại “hoàn kiếm” ra đời trên bất cứ nền
tảng văn hóa nào, mục đích duy nhất và cuối cùng của nó vẫn là hợp thức hóa,
chính thống hóa Lê triều. Hình ảnh rùa thần mang tính chất siêu nhiên, nó là bản
sao của “Thăng long” thời Lý Công Uẩn, và xa lạ với khái niệm “thiên tử – con
trời” trong triết lý Khổng giáo. Điều này chứng tỏ xã hội Việt Nam khi đó vẫn
còn hơi hướng thần quyền lạc hậu. Để lấy lòng dân, Lê Lợi phải làm cho họ tin
tưởng rằng mình có sự hậu thuẫn của các lực lượng siêu
nhiên.

Năm
1397, Hồ Quý Ly chọn đất An Tôn xây thành thủ hiểm. Thành được xây dựng ở khoảng
giữa sông Mã và sông Bưởi, phía Bắc có núi Thổ Tượng, phía Tây có núi Ngưu Ngoạ,
phía Đông có núi Hắc Khuyển, phía Nam là nơi hội tụ của sông Mã chảy từ phía Tây
về và sông Bưởi chảy tới. Sử cũ cho biết thành xây 3 tháng thì xong. Thành Tây
Đô được xây dựng trên bình đồ kiến trúc gần vuông. Hiện nay, thành có độ cao
trung bình 7m đến 8m, các cổng thành còn khá nguyên vẹn, riêng cửa nam cao tới
10m. Thành Tây Đô là bằng chứng về sức lao động và tài năng của nhân dân ta và
là công trình mang nhiều giá trị lịch sử văn hoá to lớn. Nét đặc sắc của tường
thành này là ở phần xây đá bên ngoài, còn bên trong đắp đất. Mặt ngoài thành
được gia cố bằng những tảng đá xanh đẽo vuông vức, công phu ít nhất có từ 4 đến
5 mặt phẳng. Nhiều phiến rất to ở cửa Tây (dài tới 5,1m, rộng 1,59m, cao 1,30m),
được xếp chồng lên nhau thành hình chữ công. Những phiến đá nặng hàng tấn chỉ
xếp lên mà không cần chất kết dính vẫn đảm bảo độ bền vững. Qua hơn 600 năm
trường tồn cùng những biến cố, thăng trầm của đất nước và tác động của thời
tiết, hệ thống tường thành còn khá nguyên vẹn cho đến ngày nay. Tường thành
không những được xây bằng đá tảng mà năm Tân Tỵ (1401), Hồ Hán Thương hạ lệnh
cho nhân dân nung gạch để xây thêm phần tường thành phía trên. Phần tường gạch
ngày nay gần như không còn nữa nhưng những viên gạch vẫn thấy nằm rải rác trong
các gia đình gần thành.


Cho
đến nay, nơi khai thác và cung cấp đá cho việc xây dựng thành Tây Đô và cả việc
chuyên chở vật liệu đang là đề tài bàn bạc. Nhân dân địa phương cho biết, người
xưa có thể lấy đá ở nhiều nơi quanh vùng Tây Đô, gần nhất là núi đá xanh Yên
Tôn, hiện còn những tảng đá xanh mang tên “An Tôn xã”. Hang Tượng dùng để nhốt
voi chuyên chở đá xây thành. Con đường phía Tây được lát đá xanh bằng phẳng từ
bờ sông Mã đến cửa Tây còn có tên gọi “Bến Đá”. Gần đây, những hộ dân xung quanh
đường còn giữ được những viên bi đá. Đá lấy từ nhiều nơi khác, chuyên chở bằng
đường sông, đường bộ, chở bằng cộ (loại xe lớn có một bánh gỗ), chở bằng voi
kéo, hoặc người ta dùng những viên bi đá cho khối đá khổng lồ trượt lên
trên.


Thành
Tây Đô có 4 cửa : Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các mặt
thành kỹ thuật ghép đá đạt đến trình độ cao. Những cổng thành được xếp các phiến
đá theo hình múi cam, có kích thước rất lớn. Với hai cánh cửa dày, nặng và chắc
được thể hiện qua dấu vết để lại của những lỗ đục vào đá và những chỗ lắp ngưỡng
cửa. Xưa kia khi đóng, khi mở bởi những bộ cánh cửa gỗ có bánh xe lăn, then cài
chốt ngang. Ba mặt thành: Đông, Tây, Bắc đều được xây một cửa cuốn vòm riêng,
cửa Nam là cửa chính được xây ba vòm cuốn, vòm giữa xây to và cao hơn hai vòm
bên. Hai cửa Đông, Tây đều xây rộng 5,8m; dài 13,40m. Những tảng đá được xây ở
vòng cuốn này được đẽo công phu, phẳng ba mặt nhưng chỉ mặt dưới được tạo nên bề
mặt ở vòm cửa và phần tiếp giáp gờ bờ thành. Riêng mặt trên đỉnh còn nhiều tảng
nhấp nhô không thành hình khối gì. Nhân dân địa phương còn cho rằng, vì mặt cửa
Đông, Tây có thể chưa làm xong hoặc hai cửa này không xây chòi canh nên không
cần gia công kỹ. Cổng Bắc chỉ có một cửa nhưng được xây công phu hơn. Toàn bộ
cửa Bắc dài 20m, rộng 12,7m. Hiện nay Vọng lâu tuy không còn nhưng qua vết tích
nền móng để lại cho biết đây là hệ thống cấu trúc khung gỗ có mái che, cột lầu
không kê chân tảng mà được cắm sâu xuống nền cửa 0,45m. Cửa Nam là cửa chính,
rộng 38m, cao hơn 10m, xây nhô ra tường thành phía ngoài 4m, ba vòm cuốn đều
rộng 5,8m, vòm giữa xây cao hơn hai vòm hai bên 7,8m. Cả ba cửa đều xây rộng
14m. Cửa nào cũng được đóng bằng hai cánh cửa gỗ dày và nặng, hiện còn gờ cửa. Ở
trên đỉnh phía nam cũng là một nền được lát đá bằng phẳng. Những lỗ đục hiện còn
cho biết lần cửa Nam này chắc chắn to và đẹp hơn cửa Bắc vì lầu cửa Nam này
không chỉ mang chức năng của một lầu canh mà còn là bộ mặt của quốc đô, nơi nhà
vua ngự mỗi lúc duyệt binh hay chủ trì các nghi lễ trọng đại. Nối liền với cửa
Nam là con đường Hoa Nhai lát đá dài khoảng 2 km hướng về đàn tế Nam Giao được
xây dựng vào tháng 8 năm 1402. Công trình này đã bị sập đổ hoàn toàn và cách đây
2 năm Viện khảo cổ kết hợp với Ban quản lý di tích, danh thắng tỉnh Thanh Hoá
tiến hành khai quật khảo cổ học bổ sung những luận cứ đánh giá về triều Hồ cũng
như góp phần soi sáng thế giới tâm linh cùng những hoạt động văn hoá cung đình
của một triều đại phong kiến ngắn ngủi.


Tây
Đô độc đáo bởi tường thành được ghép bằng các khối đá khổng lồ nhưng vẫn mang
nét chung của thành quách bấy giờ là thành được bao bọc bởi con hào vừa rộng,
vừa sâu bao quanh, bốn mặt bên ngoài tường thành có rải chông. Thời gian, sa bồi
đã lấp đầy hố sâu phòng ngự chủ động của công trình kỳ vĩ này. Dù vậy, cách
thành vài km về phía Bắc có dãy đồi tạo thành tuyến phòng ngự thiên nhiên; phía
Đông và phía Nam được phòng ngự bởi luỹ đất nối liền với đồi, phía Bắc được
phòng vệ bởi dãy núi đá xa xa. Và còn đó thế sông Mã, sông Bưởi ngăn cách kéo
vệt dài từ tây bắc qua phía nam và đông Thành Tây Đô. Bên cạnh đó, sử cũ chép
“năm 1399, sai Trần Ninh đốc suất người phủ Thanh Hoá trồng tre gai ở phía Tây
thành, phía Nam từ Đốn Sơn, phía Bắc từ An Tôn thẳng đến cửa Bào Đàm, phía Tây
từ chợ Khả Lãng ở Vực Sơn đến sông Lỗi Giang, vây bọc làm La
Thành”.


Thành
Tây Đô không chỉ nổi rõ vai trò Trung tâm quân sự, hơn thế nữa, nó là quốc đô
của nước Đại Ngu triều Hồ. Kiến trúc chính trong nội thành, sách cũ còn cho biết
: Nhà vua ngự triều ở điện Hoàng Nguyên, cung Nhân Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly)
Đông cung, tây Thái Miếu, đông Thái Miếu, cung Phù Cực. Ngoài ra còn một số kiến
trúc tuy không được ghi vào sử sách như nhà ngục, Ao Gạo, Ao Vàng, Đọi Đèn, cồn
Súng Bắn v.v… Những kiến trúc ấy giờ đây không còn nữa nhưng tên gọi của nó
còn ứng với từng thửa ruộng nông dân hiện nay đang cấy trồng. Những khoảnh đất
cao nổi lên cân đối là nền móng của các công trình kiến trúc, lâu đài đồ sộ vẫn
âm thầm nói với thế hệ hậu sinh nhiệm vụ của nó thuở ban sơ. Và Thành Tây Đô, di
tích lịch sử văn hoá tiêu biểu, công trình kiến trúc vững chắc, đồ sộ, độc đáo
đang đệ trình UNESCO công nhận di sản văn hoá còn ôm trong mình những bí ẩn cần
tiếp tục được nghiên cứu, khám phá và đầu tư thoả đáng cho công tác quản lý, bảo
vệ, trùng tu, phát huy giá trị của di tích để nơi đây luôn là địa chỉ du lịch
hấp dẫn bạn bè và khách thập phương.


Nguồn
Báo Thanh Hoá

Ngày
21/8/2006, 14:13

Năm
1397, để chuẩn bị chiến đấu chống quân Minh xâm lược, vua Hồ Quý Ly (1336-1407)
đã cho xây dựng một tòa thành bằng đá với quy mô kiến trúc độc đáo tại làng An
Tôn, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hóa hơn 50 km về phía Tây. Tòa thành
này có nhiều tên gọi như Yên Tôn, Tây Đô, Tây Giai, Tây Kinh… nhưng nhân dân
quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành được xây dựng theo hình chữ nhật với chiều dài
900 m, rộng 700 m, cao trung bình 5-6 m. Toàn bộ tòa thành được xây dựng bằng
những phiến đá rất lớn (có phiến nặng trên 30 tấn) với khối lượng gần 20.000
m3.



Thành
có 4 cổng Đông, Tây, Nam, Bắc – cả 4 cửa này đều xây hình vòm cuốn được liên kết
với nhau bởi những phiến đá hình múi bưởi nêm khít nhau với độ cong cân đối đến
kỳ diệu. Không chỉ có tường đá bao bọc kinh đô, Hồ Quý Ly còn cho xây dựng phía
ngoài tòa thành một la thành bằng tre gai bao bọc quen thuộc và độc đáo phong
cách Việt Nam. Vành đai này chạy suốt xung quanh thành từ Đôn Sơn qua cửa Bảo
Đàm, qua chợ Khải Lăng đến sông Lỗ Giang. Tòa thành đá Tây Đô qua hơn 600 năm bị
tàn phá của thiên nhiên, chiến tranh đã phần nào giảm đi vẻ uy nghiêm, vững chãi
nhưng những gì còn lại đến hôm nay vẫn là niềm tự hào của hậu thế về nghệ thuật
kiến trúc độc đáo.

Năm
1994, Bộ Văn hoá Thông tin và tỉnh Thanh Hoá đã đầu tư 200 triệu đồng cho việc
tôn tạo lại Thành nhà Hồ. Năm 1997, công trình lịch sử này được UNESCO hỗ trợ
20.000 USD.


[Chỉ
thành viên mới có thể nhìn thấy links. Bạn hãy nhấn vào đây để đăng
ký…] 

VÀI
NÉT VỀ HỒ QUÝ LY .


Hồ
Quý Ly (còn có tên là Lê Quý Ly; chữ Hán: 胡季犛; 1336–1407) là một vị vua Việt
Nam, người đã tiến thân từ một đại quan nhà Trần để khởi đầu nhà Hồ của lịch sử
Việt Nam. Trong thời gian nắm quyền hành, ông đã thực hiện nhiều cải cách quan
trọng, nhưng ông đã thất bại trong việc hợp sức toàn dân chống lại nhà
Minh.

Tiểu
sử

Tổ
tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang (Trung Quốc), đời Hậu Hán
thời Ngũ Quý năm 1273 sang làm Thái thú Diễn Châu (nay là Nghệ An). Sau đó, họ
Hồ làm nhà ở hương Bào Đột châu này, rồi là trại chủ. Đến đời Lý, có người trong
họ lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 là
Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ
đấy lấy Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn đời của Huấn.[1]

Ông
có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ
hai vua nhà Trần, do đó ông sớm được đưa vào triều đình.

Năm
1371, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng cục Chi hậu. Sau, vua Trần Nghệ Tông
đưa ông lên làm Khu mật đại sứ, lại gả con gái là công chúa Huy
Ninh.

Năm
1395 Trần Nghệ Tông mất, ông được phong làm Phụ chính Thái sư nhiếp chính, tước
Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong
nước.

Tháng
4 năm 1396[2], Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy (thông bảo hội sao). Đây là lần đầu
trong chính sử Việt Nam, tiền giấy được lưu thông.

Sau
khi bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần
trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của
Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà
Hồ.

Chưa
được một năm, Hồ Quý Ly theo cách nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán
Thương, làm Thái Thượng Hoàng.

Năm
1403[2], ông ban hành các đồ đo lường (cân, thước, đấu, thưng) để làm chuẩn
trong việc buôn bán.

Năm
1404, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương quy định các người đỗ thi Hương phải qua kỳ thi
làm toán pháp mới được tiếp tục thi Hội.

Trước
sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây
thành, đóng thuyền chiến, v.v.

Năm
Ất Dậu (1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng chịu lép vế không kết quả,
cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo: đối phó với cuộc xâm
lược của nhà Minh. Hồ Quý Ly giao cho con cả là Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đắp
thành Đa Bang, lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc (Việt Trì) và đưa quân đóng giữ
các nơi.

Trước
các mũi tiến quân của địch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút
về giữ phòng tuyến nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực
vượt sông Hồng đánh chiếm Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất (ngày 20 tháng 1 năm 1407)
thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng.
Từ Đa Bang ngày 22 tháng 1 năm 1407, quân nhà Minh tràn xuống chiếm kinh thành
Thăng Long. Quân nhà Hồ một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau
một vài trận phản công thất bại Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo thuộc hạ
chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa.

Đến
Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Quân Minh
tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt.
Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi (1407).

Sự
nghiệp và nhận định

Hồ
Quý Ly là người có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn
hóa.

Khi
còn là một đại quan nhà Trần, trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất
nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, Hồ Quý Ly đã cương quyết đề cao công tác
giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc
pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách
nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:


Ô
đài cửu hỹ, cấm vô thanh

Đốn
sử triều đình phong hiến khinh


vấn Tử Trừng nhu Trung úy

Thư
sinh hà sự phụ bình sinh

Đài
gián từ lâu tiếng lặng thinh

Triều
đình để phép bị coi khinh

Tử
Trừng, Trung úy sao mềm yếu?

Kẻ
sĩ không nên bỏ chí mình!


Khi
thấy nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ, lập nên nhà Hồ thay thế
nhà Trần. Ông có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân) như
sau:


Tiền
hữu dung ám quân

Hôn
Đức cập Linh Đức


bất tảo an bài

Đồ
sử lao nhân lực


Được
Tuấn Nghi dịch là:

Cũng
một duộc vua hèn

Hôn
Đức và Linh Đức

Sao
chẳng sớm liệu đi?

Chỉ
để người nhọc sức!

Ông
là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân
tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên “Vô dật” để dạy
cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi
trước.

Về
mặt xã hội, ông thiết lập sở Quản tế (như ty y tế ngày nay). Ở các lộ, ông đều
lập một kho lúa gọi là Thường bình, lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những
năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.

Ông
thực thi lại chính sách phân phối ruộng đất, quy định trong nước chỉ trừ đại
vương và trưởng công chúa, còn không người nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số
ruộng thừa phải nộp lại cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà
quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không
được quá số quy định.

Nhìn
chung, những cải cách của Hồ Quý Ly nhằm mục đích xây dựng một nước Việt Nam
cường thịnh. Tuy nhiên, tư tưởng đổi mới của Hồ Quý Ly và những cải cách của
ông, nhiều trong một thời gian ngắn, không đạt kết quả như mong đợi và gây ra sự
phẫn nộ trong nhân dân; đặc biệt là với các sĩ phu trung thành với nhà
Trần.

Nguyên
nhân chính dẫn đến thất bại của Hồ Quý Ly chống lại thế lực ngoại bang của nhà
Minh là sự mất lòng dân. Như Hồ Nguyên Trừng, khi được Hồ Quý Ly giao phó việc
quân sự, nói “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà
thôi”.

Hồ
Quy Ly là người có tinh thần tự chủ cao. Khi đã bị nhà Minh bắt giữ, ông đáp lời
người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam bằng một bài
thơ:

Dục
vấn An Nam sự

An
Nam phong tục thuần

Y
quan Đường chế độ

Lễ
nhạc Hán quân thần

Ngọc
ủng khai tân tửu

Kim
đao chước tế lân

Niên
niên nhị tam nguyệt

Đào
lý nhất ban xuân

An
Nam muốn hỏi rõ

Xin
đáp: phong tục thuần

Y
quan chẳng kém Đường

Lễ
nhạc nghiêm như Hán

Bình
ngọc rượu lừng hương

Dao
vàng cá nhỏ vẩy

Mỗi
độ mùa xuân tới

Mận
đào nở chật vườn


Tác
phẩm

Hồ
Quý Ly đã viết các tác phẩm sau:


Quốc ngữ thi nghĩa (viết về chủ đề giáo dục, nay đã thất
truyền).


Minh đạo lục (sách lý thuyết, 14 thiên, nay đã thất
truyền).


Nhà
cải cách Hồ Quý Ly


Hồ
Quý Ly (1336-1407) quê gốc ở Quỳnh Lưu (Nghệ An). Ông có hai người cô đều được
vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ nhà vua Trần, do đó ông
sớm được đưa vào triều đình. Ban đầu, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng cục
Chi hậu (1371), đến vua Trần Nghệ Tông đưa lên làm Khu mật đại sứ, lại gả con
gái là công chúa Huy Ninh. Ông là người có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế,
văn hóa. Làm việc trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng
ngả, nhân dân cực khổ, ông không chịu nổi. Ông được cử giữ chức cao nhất trong
triều. Năm 1395 Thượng hoàng Trần Nghệ Tông chết, ông được cử làm Phụ chính Thái
sư, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong
nước.


Năm
1400, ông truất ngôi vua Trần, lập nên nhà Hồ, chấn chỉnh bộ máy quan lại. Chưa
được một năm, Hồ Quý Ly theo cách nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán
Thương, làm Thái Thượng Hoàng.


Hồ
Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn
hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên ” vô dật”
để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông
khi trước. Về mặt xã hội, ông thiết lập sở ” Quản tế” (như ty y tế ngày nay). Ở
các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là ” Thường bình” , lấy tiền công mua lúa
trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.


Ông
thực thi lại chính sách phân phối ruộng đất, quy định trong nước chỉ trừ đại
vương và trưởng công chúa, còn không người nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số
ruộng thừa phải nộp lại cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà
quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không
được quá số quy định. Hồ Quý Ly cũng là người đề xướng việc phát hành tiền giấy
đầu tiên ở Việt Nam. Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực
chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v… Nhìn chung, những cải
cách của Hồ Quý Ly là tích cực, với mong muốn xây dựng một nước Việt Nam cường
thịnh, tư tưởng đổi mới của ông cũng rất đáng trân trọng song những cải cách của
ông chưa mang lại những kết quả đáng kể. Triều Hồ thành lập chưa được mấy năm
thì quân Minh tràn sang xâm lược. Hồ Quý Ly tổ chức cuộc kháng chiến, song ”
quân nhà Hồ trăm vạn nhưng không một lòng” , Hồ Quý Ly không thể cố thủ bằng
cách dựa vào thành quách, cho nên sau 6 tháng kháng cự, ông và con cháu bị giặc
Minh bắt đưa về Trung Quốc. Tuy thất bại, nhưng ông là người có tinh thần tự chủ
cao. Đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam, ông tự hào viết nên một
bài thơ:



Dục vấn An Nam sự

An
Nam phong tục thuần

Y
quan Đường chế độ

Lễ
nhạc Hán quân thần

Ngọc
ủng khai tâm tửu

Kim
đao chước tế lân

Niên
niên nhị tam nguyệt

Đào
lý nhất ban xuân”


Tạm
dịch:



An Nam muốn hỏi rõ

Xin
đáp: phong tục thuần

Lễ
nhạc nghiêm như Hán

Y
quan chẳng kém Đường

Dao
vàng cá nhỏ vẩy

Bình
ngọc rượu lừng hương

Mỗi
độ mùa xuân tới

Mận
đào nở chật vườn” .


Khi
còn nắm chính quyền, ông cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu
thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với
quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách
cứ trong một bài thơ:



Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh

Đốn
sử triều đình phong hiến khinh


vấn Tử Trừng nhu Trung úy

Thư
sinh hà sự phụ bình sinh”


Tạm
dịch:



Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh

Triều
đình để phép bị coi khinh

Tử
Trừng, Trung úy sao mềm yếủ

Kẻ
sĩ không nên bỏ chí mình!”


Với
nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ. Kẻ giáo điều theo chính thống
thì cho rằng thế là thoán nghịch, nhưng nhà sử học công minh thì không thể không
thừa nhận đó là việc cần làm, nếu đứng trên lập trường vì quyền lợi đất nước,
chứ không vì quyền lợi của một cá nhân, một dòng họ. Đối với nhà vua bất tài mà
tham quyền cố vị, ông có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân) viết như
sau:



Tiền hữu dung ám quân

Hôn
Đức cập Linh Đức


bất tảo an bài

Đồ
sử lao nhân lực”


Dịch
là:



Cũng một duộc vua hèn

Hôn
Đức và Linh Đức

Sao
chẳng sớm liệu đỉ

Chỉ
để người nhọc sức!” .


(Bản
dịch của Tuấn Nghi)


Thái
Anh

Đi
tìm mộ Hồ Quý Ly


TTCN
– Cách nay gần nửa thế kỷ, một thanh niên VN đã qua Trung Quốc, lặn lội lần tìm
dấu vết Hồ Quý Ly và hậu duệ.

Cuộc
tìm kiếm bất thành, đành làm bài thơ trên khóc tế nhân vật lịch sử này của nước
Việt rồi thề rằng: “Người ôm mối hận vong quốc, gửi nắm xương tàn xa đất nước
gần 600 năm. Tôi nguyện đời này sẽ cố gắng tìm kiếm được nơi an nghỉ của Người,
và dù chỉ còn là nắm đất cũng đưa về quê hương…”. Rồi nay khi tóc râu đã bạc
trắng, người đó mới thực hiện được một phần lời thề của
mình.

Người
đó là nhà khảo cổ và chuyên gia mộ táng Đỗ Đình Truật. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã
say mê nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly trong những buổi ê a Việt sử dưới mái trường
Lê Khiết, Quảng Ngãi. Mặc dù các nhà sử học có nhiều cách nhìn khác nhau về Hồ
Quý Ly, thậm chí kết tội phản thần, giết vua, nhưng cậu học sinh Truật khi ấy
vẫn cho rằng đó là nhân vật anh hùng. “Một kẻ khác người, có tầm vóc thời cuộc,
có công vực dậy, canh tân và bảo vệ đất nước, nhưng tiếc thay vận mệnh ngắn
ngủi, để lại mối nghi hoài cho lịch sử…”.




Mộ
Hồ Văn Hải ở núi Lão Hổ Sơn, nơi ông Truật cho rằng đó là hậu duệ của Hồ Quý Ly
và được chôn trong khu mộ của dòng họ nhà Hồ

Để
tìm hiểu sự thật về Hồ Quý Ly, ông suốt ngày chìm đắm trong lịch sử và dần dần
mê sử học lúc nào không biết. Năm 1954 ông ra Bắc, rồi được gửi sang Trung Quốc
du học ở thành phố Nam Ninh, Quảng Tây. Cơ hội nghiên cứu lịch sử lại càng đến
với ông khi được thọ giáo chính thầy Trần Văn Giáp, trợ lý của Viện Viễn Đông
Bác cổ và là người mà chính nhiều trí thức Trung Quốc cũng phải tôn phong là
Quách Mạt Nhược thứ hai.

Những
ngày nghỉ cuối tuần, thầy Giáp và ông thường lang thang khắp nơi, tìm kiếm dấu
vết sinh sống, lưu đày và nơi gửi nắm xương tàn của các nhân vật lịch sử VN. Lúc
ấy ở Trung Quốc việc đi lại của các du học sinh VN cực kỳ khó khăn. Nhiều lần
ông và thầy phải đi bộ, phải ghé nhà dân bên đường, xin nước uống và chén cơm
cầm hơi.


Quảng Tây ông đã phát hiện được di mộ của nhà yêu nước Nguyễn Thiện Thuật và làm
thơ khóc tế người: “Đá bia u uẩn tình đất nước. Ái quốc yêu dân buổi đoạn
trường. Rừng lau bãi sậy quân một nhóm. Chính nghĩa không mờ với nước non …”.
Nhưng dấu vết nhân vật lịch sử mà ông say mê nhất là Hồ Quý Ly thì vẫn mịt
mờ.

Sau
khi thật sự tin rằng thông tin về Hồ Quý Ly bị bắt cùng bộ tướng ở cửa Kỳ La (Hà
Tĩnh), rồi phải chịu lưu đày và chết bệnh ở Quảng Tây là không chính xác, ông
lại tiếp tục đi tìm dấu vết ở các địa phương khác. Bước chân ông đã đặt đến rất
nhiều nơi, thậm chí cả dinh Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, tư gia tướng giặc
Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, tàng thư cổ của nước Việt ở Côn Minh, Vân Nam nhưng vẫn
hoài công. Đến khi lần mò trong Minh sử và Mộc Thạnh cố truyện, Trương Phụ cố
truyện (những vị tướng Tàu từng đánh nhau với nhà Hồ)…, le lói được chút dấu
vết Hồ Quý Ly thì ông phải về nước. Tâm nguyện không thành, trước khi ra về ông
đã thắp nén nhang, làm bài thơ “Anh hùng thất thế trơ thành quách …” khóc tế
Hồ Quý Ly và thề sẽ có ngày trở lại…




Ông
Truật (thứ hai từ phải sang) cùng hậu duệ họ Hồ dưới chân núi Lão Hổ
Sơn

Năm
1961 ông về VN, tham gia nhóm khảo cổ đầu tiên của miền Bắc, nhưng hễ có thời
gian rảnh rỗi là lại mày mò nghiên cứu, tìm kiếm dấu vết nhà Hồ. Không biết bao
nhiêu lần ông đã về thành Tây Gia, Thanh Hóa, đứng trước phế tích của thành nhà
Hồ mà bồi hồi suy ngẫm thế sự bi hùng của một nhân vật chịu quá nhiều oan khiên
trong miệng tiếng người đời.

Chính
tại đây ông đã không cầm được nước mắt khi phủi bụi mờ, đọc văn bia của thái tử
Trịnh Cán và vua Bảo Đại còn lưu lại trong những chuyến viếng thành. Hai con
người này mặc dù vẫn theo chính sử phong kiến cho rằng Hồ Quý Ly là phản thần,
nhưng phải thốt lên lời ca ngợi trước những gì nhà Hồ đã làm được. Cũng chính
tại đây, ông đã từng bị công an địa phương bắt giải về trụ sở vì “hành vi cứ
suốt ngày mò mẫm ở thành cổ”. Đến khi nhận ra danh tính và ý nguyện của nhà khảo
cổ, họ đã hết lời xin lỗi và bố trí cả cơm nước cho ông.

Trong
các dấu vết còn lưu lại, ông đặc biệt quan tâm đến di chỉ và gia phả của hậu duệ
cũng như bộ tướng của Hồ Quý Ly còn lại ở VN. Trong đó có người cháu Hồ Quý Ly
là Hồ Quý Công chạy được vào đất Tư Nghĩa, mà bây giờ còn miếu thờ ở huyện Duy
Xuyên, Quảng Nam. Riêng ở huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi cũng còn di mộ Đỗ Đình Hầu,
một võ tướng nổi tiếng đã từng nhiều lần cùng nhà Hồ chinh phạt quân Lâm Ấp…
Ông đã lần mò chắp nối hàng trăm bản đồ cổ từ những chuyến đi sứ hay bị lưu đày
của các bậc quan tướng Việt trên đất Trung Quốc và trao đổi thêm thông tin với
nhiều nhà sử học uy tín. Dấu vết người xưa dần dần sáng tỏ ở một địa danh núi
Lão Hổ Sơn, thôn Kim Lăng, thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang
Tô.

Năm
2004, ông Truật đã sang tuổi 74 và hiểu rằng mình không còn nhiều thời gian để
thực hiện tâm nguyện. Trong lúc đang loay hoay thì ông nhận được sự tài trợ của
một cơ quan cho chuyến đi Trung Quốc tìm mộ Hồ Quý Ly của mình. Đêm trước ngày
đi ông mừng vui lẫn nôn nao khó tả. Mặc dù đã cả đời nghiên cứu Hồ Quý Ly, nhưng
ông vẫn chong đèn lần giở sách cũ, lặng lẽ đọc lại từng lời khen, chê đối với
nhân vật lịch sử này. Gió lạnh đêm khuya lùa qua khe cửa thổi tung trang
sách.

Trên
chuyến bay từ TP.HCM qua Bắc Kinh, ông có cảm giác như mình đang đi ngược lại
lịch sử. Cô sinh viên VN tên Thu Vân du học ở Trung Quốc đã tự nguyện làm người
hướng dẫn đợi ông ở ngay cổng sân bay. Ngay đêm đó, hai người tiếp tục đi xe lửa
từ Bắc Kinh sang Nam Kinh. Chuyến đi mệt mỏi nhưng ông vẫn không thể chợp mắt.
Cô gái Việt luôn miệng cứ hỏi chuyện sử Hồ. Tình cờ một hành khách người Trung
Quốc ngồi cùng toa xe nghe chuyện, tình nguyện giúp đỡ. Anh nói: “Tôi cũng họ
Hồ, nhưng không biết có phải là con cháu nhà Hồ nước Việt mà ông tìm kiếm hay
không…”.

Đến
Nam Kinh, người này đã đưa ông và Thu Vân đến núi Lão Hổ Sơn. Núi Lão Hổ Sơn là
một cụm gồm ba ngọn núi nhỏ cao khoảng 100m với diện tích hơn 80ha nằm bên bờ
Nam sông Dương Tử. Trên núi, cây cối rậm rạp bao quanh một bãi nghĩa trang cổ
vẫn còn được người nay chôn cất.

Đường
lên núi gập ghềnh khó đi. Ông phải nhặt một cây gậy bên đường để leo núi. Suốt
cả ngày hôm đó ông vạch cây cỏ, tìm kiếm từng ngôi mộ. Có mộ còn bia ghi tên
tuổi, nhiều mộ đã hoang phế vô danh. Đặc biệt, trên núi còn các lô cốt được Nhật
xây dựng trong cuộc chiến tranh Trung – Nhật. Những người già địa phương kể rằng
nhiều mộ cổ, kể cả lăng mộ và cái miếu rất lớn thờ một “người họ Hồ” đã bị quân
Nhật san bằng làm lô cốt.

Ngày
hôm sau ông trở lại núi, cặm cụi ngồi đọc từng bia mộ còn lại và bất ngờ phát
hiện nấm mộ của một người tên Hồ Văn Hải mất cách đây hơn 100 năm nằm dưới tán
cây rừng, mà ông tin rằng có thể là hậu duệ của Hồ Quý Ly



Hai
nắm đất ông Truật mang về từ nơi lưu đày Hồ Quý Ly

Ông
mở chiếc túi lúc nào cũng ôm khư khư bên người lấy ra một chai rượu trắng, bánh
kẹo, đèn cầy và bó nhang được mang từ VN sang. Lặng lẽ sắp đồ cúng ngay trên
đỉnh núi, ông thắp nén nhang khấn vái: “Thuở giang sơn suy vi, giặc cường bạo
xâm chiếm, Ngài phát tiết chí khí anh hùng mưu đồ chuyện lớn cho dân tộc. Tiếc
thay thời thế chưa thuận, vận hùng ngắn ngủi, Ngài phải chịu cảnh lưu đày, rồi
vong thân ở xứ người. Hôm nay, tôi cũng là con cháu tổ tiên Lạc Hồng sang đây
thắp cho Ngài nén nhang với vài món quê nhà, khấn báo Tổ quốc đã hoàn toàn độc
lập…”. Cúng xong, ông lặng lẽ tưới rượu lên đỉnh núi và cắm hết những nén
nhang còn lại ở các nấm mồ vô danh…

Dưới
chân núi có cả một làng họ Hồ. Ngay trong đêm đó, ông tìm thẳng đến ngôi làng
này. Những người già ở đây đã bật khóc khi nghe ông kể chuyện lưu đày của Hồ Quý
Ly gần 600 năm trước. Một số người cho biết ngày xưa ông bà của họ hay lên cúng
tế ở ngôi miếu trên đỉnh núi.

Vượt
qua hàng ngàn kilômet đến nơi lưu đày Hồ Quý Ly, nhưng không tìm ra được chính
xác mộ phần của người, ông Truật đành bồi hồi đào nắm đất trên đỉnh Lão Hổ Sơn,
bỏ vào túi nâng niu mang về. Từ đây ông trở nên ít nói, trầm lắng khác thường.
Cả đời say mê nghiên cứu nhà Hồ, ông thuộc nằm lòng đến từng chi tiết về nhân
vật này. Năm 1407, Hồ Quý Ly cùng gia quyến, các bộ tướng… bị quân Minh bắt và
đưa về Nam Kinh.

Tuy
nhiên, tại đây hoàng đế nhà Minh đã nhận ra khả năng của họ nên đã trọng dụng.
Theo tài liệu của ông Truật, Hồ Quý Ly sau khi trải qua đường lưu đày gian khổ
đã chết ở Nam Kinh và được xây lăng mộ trên núi Lão Hổ Sơn. Còn Nguyễn An, Hồ
Nguyên Trừng được mời tham gia Bộ công, có công rất lớn trong việc thiết kế, xây
dựng thành Bắc Kinh và đúc súng thần công cho nhà Minh. Còn Hồ Hán Thương thì
được đế triều vời ra dạy Kinh dịch cho hoàng gia. Một số người trong họ về sau
lấy vợ người Trung Quốc và hậu duệ nhà Hồ nước Việt tiếp tục nối
dài.

Thắp
nén nhang cuối cùng bái lạy Hồ Quý Ly trước khi lên đường về nước, ông nguyện
rằng sẽ có ngày trở lại, “tìm chính xác nơi Ngài yên nghỉ và đưa Ngài về cố
quốc”.

Người
viết xin nhắc lại một số ý chính cần quan tâm suy nghĩ :


Năm 1397, để chuẩn bị chiến đấu chống quân Minh xâm lược, vua Hồ Quý Ly
(1336-1407) đã cho xây dựng một tòa thành bằng đá với quy mô kiến trúc độc đáo
tại làng An Tôn, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hóa hơn 50 km về phía Tây.
Tòa thành này có nhiều tên gọi như Yên Tôn, Tây Đô, Tây Giai, Tây Kinh… nhưng
nhân dân quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành được xây dựng theo hình chữ nhật với
chiều dài 900 m, rộng 700 m, cao trung bình 5-6 m. Toàn bộ tòa thành được xây
dựng bằng những phiến đá rất lớn (có phiến nặng trên 30 tấn) với khối lượng gần
20.000 m3. “



Thành Nhà Hồ được xây dựng hết sức độc đáo – bên ngoài xây đá, còn bên
trong

chủ
yếu là đắp đất. Được xây dựng trên bình đồ kiến trúc gần vuông, hai mặt Nam và
Bắc của thành Nhà Hồ dài hơn 900m, Đông và Tây dài hơn 700m và tường thành bao
quanh. Độ cao trung bình của thành Nhà Hồ từ 7 – 8m, có nơi như ở cửa Nam cao
tới 10m – một bằng chứng về sức lao động và tài năng khéo léo của nhân dân ta
lúc bấy giờ.


Thành
Nhà Hồ được tạo lên bởi những tảng đá xanh đẽo vuông vức, công phu, ít nhất cũng
tạo được từ 4 đến 5 mặt phẳng, có tấm rất to ở cửa Tây dài tới 5,1m; rộng 1,59m;
cao 1,30m, được xếp chồng lên nhau thành hình chữ công. Những phiến đá to và
nặng như thế được xếp chồng lên nhau, không cần chất kết dính mà vẫn đảm bảo độ
bền vững. Qua 600 năm thử thách, cơ bản phần ốp đá bên ngoài hầu như vẫn còn
nguyên vẹn.


Thành
Nhà Hồ có 4 cửa: Đông, Tây , Nam, Bắc. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các mặt
thành kỹ thuật ghép đá đạt đến trình độ cao. Những cổng thành được xếp các phiến
đá theo hình múi cam, có kích thước rất lớn. Với hai cánh cửa dày, nặng và chắc
được thể hiện qua dấu vết để lại của những lỗ đục vào đá và những chỗ lắp ngưỡng
cửa. Xưa kia khi đóng, khi mở bởi những bộ cánh cửa gỗ có bánh xe lăn, then cài
chốt ngang. Ba mặt Đông, Tây, Bắc đều được xây một cửa cuốn, vòm giữa xây to và
cao hơn hai vòm bên. Thành Nhà Hồ – một công trình kiến trúc vững chắc, thể hiện
rõ vai trò một trung tâm quân sự. Điều đáng ngạc nhiên là một công trình kiến
trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà chỉ được xây trong vòng có 3
tháng.”



Thành nhà Hồ thuộc địa bàn hai xã Vĩnh Long và Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh Hoá. Theo GS sử học Lê Văn Lan, thành nhà Hồ do ông Đỗ Tỉnh (Mẫn) là Lại
bộ tượng thư của triều đình được Hồ Quý Ly cử đi xây dựng công trình này và chỉ
trong 3 tháng đã hoàn thành (từ tháng 1-1397 đến tháng
3-1397).


Nhiều
nhà khoa học lịch sử trong nước và quốc tế thống nhất nhận định: Thành nhà Hồ là
một công trình đạt tiến độ thi công nhanh ở mức kỷ lục thời bấy giờ. Hồi ấy
không có bê tông, sắt thép, phương tiện vận chuyển chủ yếu bằng xe thô sơ mà
những người thợ lại xây dựng được những bước tường thành chắn chắn, đồ sộ từ
những phiến đá nặng hàng trăm kg.


Cho đến nay, nơi khai thác và cung cấp đá cho việc xây dựng thành Tây Đô và cả
việc chuyên chở vật liệu đang là đề tài bàn bạc. Nhân dân địa phương cho biết,
người xưa có thể lấy đá ở nhiều nơi quanh vùng Tây Đô, gần nhất là núi đá xanh
Yên Tôn, hiện còn những tảng đá xanh mang tên “An Tôn xã”. Hang Tượng dùng để
nhốt voi chuyên chở đá xây thành. Con đường phía Tây được lát đá xanh bằng phẳng
từ bờ sông Mã đến cửa Tây còn có tên gọi “Bến Đá”. Gần đây, những hộ dân xung
quanh đường còn giữ được những viên bi đá. Đá lấy từ nhiều nơi khác, chuyên chở
bằng đường sông, đường bộ, chở bằng cộ (loại xe lớn có một bánh gỗ), chở bằng
voi kéo, hoặc người ta dùng những viên bi đá cho khối đá khổng lồ trượt lên
trên.


Thành
Tây Đô có 4 cửa : Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các mặt
thành kỹ thuật ghép đá đạt đến trình độ cao. Những cổng thành được xếp các phiến
đá theo hình múi cam, có kích thước rất lớn. Với hai cánh cửa dày, nặng và chắc
được thể hiện qua dấu vết để lại của những lỗ đục vào đá và những chỗ lắp ngưỡng
cửa. Xưa kia khi đóng, khi mở bởi những bộ cánh cửa gỗ có bánh xe lăn, then cài
chốt ngang. Ba mặt thành: Đông, Tây, Bắc đều được xây một cửa cuốn vòm riêng,
cửa Nam là cửa chính được xây ba vòm cuốn, vòm giữa xây to và cao hơn hai vòm
bên. Hai cửa Đông, Tây đều xây rộng 5,8m; dài 13,40m. Những tảng đá được xây ở
vòng cuốn này được đẽo công phu, phẳng ba mặt nhưng chỉ mặt dưới được tạo nên bề
mặt ở vòm cửa và phần tiếp giáp gờ bờ thành. Riêng mặt trên đỉnh còn nhiều tảng
nhấp nhô không thành hình khối gì. Nhân dân địa phương còn cho rằng, vì mặt cửa
Đông, Tây có thể chưa làm xong hoặc hai cửa này không xây chòi canh nên không
cần gia công kỹ. Cổng Bắc chỉ có một cửa nhưng được xây công phu hơn. Toàn bộ
cửa Bắc dài 20m, rộng 12,7m. Hiện nay Vọng lâu tuy không còn nhưng qua vết tích
nền móng để lại cho biết đây là hệ thống cấu trúc khung gỗ có mái che, cột lầu
không kê chân tảng mà được cắm sâu xuống nền cửa 0,45m. Cửa Nam là cửa chính,
rộng 38m, cao hơn 10m, xây nhô ra tường thành phía ngoài 4m, ba vòm cuốn đều
rộng 5,8m, vòm giữa xây cao hơn hai vòm hai bên 7,8m. Cả ba cửa đều xây rộng
14m. Cửa nào cũng được đóng bằng hai cánh cửa gỗ dày và nặng, hiện còn gờ cửa. Ở
trên đỉnh phía nam cũng là một nền được lát đá bằng phẳng. Những lỗ đục hiện còn
cho biết lần cửa Nam này chắc chắn to và đẹp hơn cửa Bắc vì lầu cửa Nam này
không chỉ mang chức năng của một lầu canh mà còn là bộ mặt của quốc đô, nơi nhà
vua ngự mỗi lúc duyệt binh hay chủ trì các nghi lễ trọng đại. Nối liền với cửa
Nam là con đường Hoa Nhai lát đá dài khoảng 2 km hướng về đàn tế Nam Giao được
xây dựng vào tháng 8 năm 1402. “


Để đối phó với âm mưu xâm lược đang đe dọa, với cách nhìn của một nhà quân sự,
Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn – một nơi địa hình vùng núi, thế đất chật hẹp, hẻo
lánh để xây thành. Thành được xây dựng ở khoảng giữa hai con sông – sông Mã và
sông Bưởi, phía Bắc có núi Thổ Tượng, phía Tây có núi Ngưu Ngọa, phía Đông có
núi Hắc Khuyển, phía Nam còn là nơi hội tụ của sông Mã chảy từ phía Tây về và
sông Bưởi chảy tới.”


Như
vậy tất cả các chuyên khảo về THÀNH NHÀ HỒ đều kết luận tác dụng của nó là một
thành trì vững chắc để chống giặc như biết bao thành trì khác trên Thế giới .
Khi đi khảo sát THÀNH NHÀ HỒ nhiều lần , người viết mạo muội đứa ra những kiến
giải khác hẳn theo con mắt một người nghiên cứu PHONG THỦY và TÂM LINH
.

dienbatn
.

“Toàn
bộ tòa thành được xây dựng bằng những phiến đá rất lớn (có phiến nặng trên 30
tấn) với khối lượng gần 20.000 m3. “

Khối
lượng riêng của đá xanh khoảng 3000 – 4000 Kg / m3.

Làm
một con toán nhân :

20.000
x 4 tấn = 80.000 tấn đá cần vận chuyển .

Mổi
xe tải hiệu KAMAZ hiện nay chở khoảng 15 tấn . Do vậy , cần 5.333,3 xe mới chở
hết số đá trên .

5.333
xe chia cho 3 tháng = 90 ngày . Do vậy mỗi ngày cần phải chở 59,2 chuyến xe tải
. ?????

Ta
nên nhớ là ngày xưa không có cần cẩu , việc đứa một khối đá nặng vài tấn đến cả
chục tấn lên xe là một vấn đề nan giải . Thấm chí có những viên đá nặng trên 30
tấn thì vận chuyển bằng phương tiện gì để có thể vượt qua quãng đường gần nhất
là gần 9 Km ???

Nếu
chấp nhận chở bằng thuyền hay mảng thì chỉ riêng việc bốc lên, bốc xuống cũng là
một vấn đề nan giải .

Thứ
hai là đó mới chỉ là vận chuyển . Còn phải khai thác , mài dũa từng viên đá như
hiện nay thấy để có thể đạt được 20.000 m3 đá trong ba tháng
.

Thứ
ba , khi có đá rồi , việc xếp 20.000 m3 đá được như hiện thấy , trải qua 600 năm
không thay đổi , chưa kể là những khu vực đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao như cổng
Thành .

Ngoài
ra còn làm đường , doanh trại vv … và rất nhiều công việc không tên khác nữa
.

Vậy
: Theo GS sử học Lê Văn Lan, thành nhà Hồ do ông Đỗ Tỉnh (Mẫn) là Lại bộ tượng
thư của triều đình được Hồ Quý Ly cử đi xây dựng công trình này và chỉ trong 3
tháng đã hoàn thành (từ tháng 1-1397 đến tháng 3-1397). ???????Có đúng như vậy
không ????

dienbatn
.

Nhân
đọc lại Lịch sử , trong ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ có viết :


Đinh Sửu, [Quang Thái] nămthứ 10 [1397], (Minh Hồng Vũ năm thứ 30). Mùa xuân,
tháng giêng, sai Lại bộ thượng thư kiêm Thái sư lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép là
Mẫn) đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, đắp thành đào hào, lập nhà
tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó, tháng 3
thì công việc hoàn tất.

Trước
đó, triều đình bàn bạc chưa xong, hành khiển Phạm Cự Luận khuyên nên
thôi.

Quý
Ly nói: “Ý ta đã định từ trước rồi, ngươi còn nói gì nữa!”. Đến đây thì thực
hiện.

Lúc
ấy, Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: “Ngày xưa, nhà
Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có núi Tản
Viên, có sông Lô nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa, các bậc
đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ.
Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp
đầu… Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất đai
chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị.
Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: “Cốt ở đức chứ không cốt ở
hiểm”.

Quý
Ly không nghe. Sau đến kỳ xét công Quý Ly thấy có tên Nhữ Thuyết liền
nói:

“Người
ngày từng nói cốt ở đức không cốt ở hiểm”.



Hán Thương hạ lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành. Trước đây
xây thành Tây Đô, tải nhiều đá tới xây, ít lâu sau lại bị sụp đổ, đến đây mới
xây trên bằng gạch, dưới bằng đá.”


Nhâm Ngọ, [1402], (Hán Thương Thiệu Thành năm thứ 2, Minh Kiến Văn năm thứ
4).

Mùa
xuân, tháng 2, Hán Thương xét duyệt quân ngũ.

Tháng
3, Hán Thương đắp sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hóa Châu. Dọc đường đặt phố
xá và trạm truyền thư, gọi là đường thiên lý.”


Qua
đó , ta cần phải tìm hiểu lại quá trình xây dựng thành Nhà Hồ . Bằng cách nào họ
có thể làm được điều kỳ diệu đó .

Một
việc nữa là khi đọc trong các sách cổ sử là việc đánh giá Triều đại của HỒ QUÝ
LY .

Theo
ĐVSKTT :


Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo của tiên thánh nếu không có Khổng Tử thì không ai
phát huy được; hậu thánh sinh ra, nếu không có Khổng Tử thì không còn ai làm
khuôn phép nữa. Từ khi có sinh dân đến nay, chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử,
thế mà Quý Ly lại dám khinh suất bàn về ngài thì thực là không biết lượng sức
mình. “

Sử
thần Ngô Sĩ Liên nói: Quý Ly đến đây tội ác đã chất đầy rồi. Trần Hãng đã đi
lại, hẹn ước với các tướng văn tướng võ từ trước, nếu biết thừa cơ quyết đoán,
vạch tội giết vua của Quý Ly, hiệp sức với Khả Vĩnh mà giết nó đi, thì danh
chính ngôn thuận, mà việc cũng xong rồi. Đánh tiếc lại do dự, sợ sệt, đến nỗi
chuốc lấy bại vong.


Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Công tử Ngữ nước Sở trước khi cướp ngôi, đặt phục chế,
bày quân hầu, kết cỏ bồ như cung vua, ngang nhiên ngạo mạn, lộ vẻ hung hăng để
làm nhụt chí mọi người. Thấy không ai dám chống lại, bấy giờ mới không còn kiêng
sợ gì nữa mà trổ hết ngón ác. Việc làm của họ Hồ cũng cùng một
duộc!.”


Phan Phu Tiên nói: Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm phóng túng, lại thêm
Chiêm Thành xâm lược, quấy rối, thì giặc cướp rất nhiều. Chúng cướp của bắt
người giữa ban ngày, pháp luật không thể ngăn cấm được. Quý Ly nắm quyền cai
trị, tìm cách lùng bắt, mới hạn chế được một phần nào! “


Phan Phu Tiên nói: Tào Tháo dời kinh đô đến đất Hứa, nắm lấy thiên tử để sai
khiến chư hầu, cơ nghiệp, nhà Hán chìm đắm thực là bắt đầu từ đó. Quý Ly dời
kinh đô đến An Tôn, giết vua và diệt họ vua, cơ nghiệp nhà Trần bị sụp đổ, chả
lẽ khôg phải bởi đó hay sao? Tuy nhiên, bọn loạn thần tặc tử đời nào mà chẳng có
chúng? Cốt ở người

làm
vua phải cương quyết mà xử đoán, sáng suốt mà tra xét để không có mối lo về sau
thôi. “

Nhìn
trong cổ sử thấy viết về Hồ Quý Ly như sau : “gian thần, chuyên quyền, xúi giục,
gièm pha, giết hại các trung thần, mưu đồ soán đoạt ngôi, lộng quyền không coi
ai ra gì, bắt Vua dời kinh về Tây Đô, lập mưu ép Vua nhường ngôi, sai người giết
Vua và chuẩn bị cướp ngôi, gian mưu , phế truất Thiếu Đế, tự xưng làm vua, chiếm
lấy ngôi nhà Trần…. “

Một
số lại viết rằng : ” có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa, tích cực,
mong muốn xây dựng một nước Việt Nam cường thịnh, tư tưởng đổi mới của ông rất
đáng trân trọng, ngoại giao mềm mỏng, có tinh thần tự chủ cao, cương quyết đề
cao công tác giám sát, chống thói xu thời , làm việc cần làm, vì quyền lợi đất
nước, chứ không vì quyền lợi của một cá nhân,v.v..”

Vậy
người Đời sau chúng ta phải hiểu như thế nào về Triều đại của HỒ QUÝ LY
???

Theo
thiển ý của người viết: Chúng ta phải dựa trên câu trả lời : TRIỀU ĐẠI ĐÓ ĐÃ LÀM
ĐƯỢC NHỮNG GÌ CHO ĐẤT NƯỚC , CHO DÂN TỘC VIỆT NAM LÀM CĂN CỨ
.

Chúng
ta thấy nhà Hồ đã làm những gì :

1.
Phát minh lớn nhất của người Việt là Thần Cơ Hỏa Sang, tức súng trường cá nhân.
Súng này do Hồ Nguyên Trừng, con trai Hồ Quý Ly chế tạo . Rất tiếc dân Việt lúc
ấy không “ưa” họ Hồ nên dân tộc Việt Nam đã vĩnh viễn mất đi một cơ hội Hai ngàn
năm có một để thoát kiếp nhược tiểu .

Cha
con họ Hồ sau đó bị bắt qua Trung Hoa . Vua Minh nhận ra sáng chế kia rất quan
trọng nên đã hậu đãi Hồ Nguyên Trừng. Cuối đời mình , Hồ Nguyên Trừng giữ chức
tương tự như Thứ trưởng Bộ Công chánh hay Công nghiệp. Tuy vậy ông vẫn đau đáu
hướng về cố quốc và tự gọi mình là “Lão già phương Nam” trong trường thiên bi ai
“Nam ông mộng lục”…

2/
Mùa hạ, tháng 4, bắt đầu phát [tiền giấy]. Thông bảo hội sao. In xong, ra lệnh
cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền
giấy.

Thể
thức [tiền giấy]: tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2
tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm
tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản

tịch
thu.

Cấm
tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì
ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm tiền
giả.

3/
Xuống chiếu qui định cách thức thi chọn nhân tài, dùng thể văn bốn kỳ, bãi bỏ
phép viết ám tả cổ văn.

Kỳ
thứ nhất thi một bài kinh nghĩa có các phần phá đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên
đề, đại giảng, kết luận, từ 500 chữ trở lên. Kỳ thứ hai thi một bài thơ Đường
luật, một bài thơ phú cổ thể, hay thể Ly tao, thể Văn tuyển, cũng từ 500 chữ trở
lên. Kỳ thứ ba thi một bài chiếu theo thể Hán, một bài chế, một bài biểu theo
thể tứ lục đời Đường. Kỳ thứ tư một bài văn sách, ra đề thì theo kinh, sử hay
thời sự, mỗi bài phải 1000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi hương thì năm sau thi
hội, người đỗ thì vua thi 1 bài văn sách để xếp bậc.

4/
Tháng 6, quy định [26a] kiểu mũ áo các quan văn võ: Quan nhất phẩm (áo) màu tía;
nhị phẩm màu đỏ thẫm; tam phẩm màu hồng nhạt; tứ phẩm màu xanh lục; ngũ phẩm,
lục phẩm, thất phẩm màu

xanh
biếc; bát phẩm, cửu phẩm màu xanh. Duy nội thị thì dùng quần hai ống, không dùng
xiêm. Người không có phần hàm và hạng hoàng nô thì dùng màu trắng. Các tụng quan
chức tước từ lục phẩm trở lên dùng mũ cao sơn, chánh lục phẩm được thắt đai, đi
hia. Về sắc mũ, chánh thì sắc đen, tòng thì sắc xanh. Người tôn thất thì đội mũ
phương thắng màu đen. Võ quan tước lục phẩm đội mũ chiết xung, tước cao mà không
có chức thì thắt đai, đội mũ giác đính, tứ thất phẩm trở xuống đội mũ thái cổ;
tòng thất phẩm đội mũ toàn hoa . Vương hầu đội mũ viễn du; ngự sử đài đội mũ
khước phi. Những quy chế về tiền giấy, về mũ áo trên đây đều làm theo lời của
thiếu bảo Vương Nhữ Chu cả.

5/
Mùa thu, tháng 8, sai tướng chỉ huy quân Long Tiệp là Trần Tùng đi đánh Chiêm
Thành, bắt được tướng nước ấy là Bố Đông đem về, ban cho họ tên là Kim Trung
Liệt, chỉ huy quân Hổ Bôn.

6/
Định quy chế quan lại trấn nhậm bên ngoài. Lộ đặt chức An phủ sứ và An phủ phó
sứ. Phủ đặt chức Trấn phủ sứ và Trấn phủ phó sứ. Châu đặt chức Thông phán và
Thiêm phán. Huyện đặt chức Lệnh úy và Chủ bạ để cai trị. Lộ thống nhiếp phủ, phủ
thống nhiếp châu, châu thống nhiếp huyện. Các việc hộ tịch, tiền thóc, ngục tụng
đều làm chung thành sổ sách của một lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng cứ
mà khảo xét. Lại đặt các phủ đô đốc, đô hộ, đô thống, tổng quản và ty thái thú
để trông coi. Lấy Phó tướng Lê Hán Thương coi phủ đô hộ lộ Đông Đô; Thái bảo
Trần Hàng coi phủ đô thống lộ Bắc Giang; Trần Nguyên Trữ1 [30a] coi phủ đô thống
lộ Tam Giang; thiếu bảo Vương Nhữ Chu làm tri Thiên Trường phủ lộ quân dân sự;
Hành khiển Hà Đức Lân làm hành Tân Yên phủ lộ thái thú. Lại đặt chức giáo thụ và
giám thư khố ở các châu trấn.

Tháng
5, xuống chiếu rằng:

“Đời
xưa, nước có nhà học, đảng có nhà tư, toại có nhà tường là để tỏ rõ giáo hóa,
giữ gìn phong tục, ý trẫm rất chuộng như vậy. Nay quy chế ở kinh đô đã đủ, mà ở
châu, huyện thì có thiếu, làm

thế
nào rộng đường giáo hóa cho dân? Nên lệnh cho các phủ lộ Sơn Nam, Kinh Bắc3, Hải
Đông, đều đặt một học quan, ban cho quan điền4 theo thứ bậc khác nhau: phủ châu
lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa thì 12 mẫu5, phủ châu nhỏ 10 mẫu để chi dùng cho
việc học trong phủ châu mình (một phần để cúng ngày mồng một, một phần cho nhà
học, một phần cho đèn sách). Lộ quan và quan đốc học hãy dạy bảo học trò cho
thành tài nghệ, cứ đến cuối năm thì chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình,
trẫm sẽ thân hành thi chọn và cất nhắc”.

Theo
ĐVSKTT.



Chân lý đã không thuộc về nhà cách mạng vĩ đại Hồ Quý Ly và những cải cách triệt
để của ông. Giữa một lục địa bao la đầy dẫy tầm chương trích cú, việc ông đưa
toán pháp vào để tuyển chọn hiền tài thật sáng suốt. Nếu không có ý chí độc lập
tự chủ, ông ban bố chính sách, văn kiện triều đình bằng chữ Nôm làm gì. Nhân dân
không theo ông, kẻ sĩ không đoàn kết bên ông chống ngoại xâm mà cứ bo bo xem
mình là tôi đòi của họ Trần mạt vận thối nát. Đất nước dưới ách chiếm đóng quân
Minh đã vĩnh viễn mất đi một cơ hội vượt qua cái huôn nhược tiểu. Đành đoạn lắm,
đoàn bô lão Kỳ La vẫn cố nguyền rủa người anh hùng thất trận, họ đọc trại Kỳ La
thành Cơ Lê nghĩa là trói họ Lê (họ cha nuôi Hồ Quý Ly) và chơi chữ Thiên Cầm là
đàn trời thành ra trời bắt. Chính xác là người Việt đã đang tâm tống cổ cha con
họ Hồ về Trung Hoa với dòng dõi nhà Ngu. Cuối đời mình, Hồ Nguyên Trừng, Edison
Việt Nam đầu thế kỷ 15 với sáng chế tiêu biểu là súng trường cá nhân, đành an
phận với chức thứ trưởng bộ Công chánh Minh triều, đau đáu hướng về cố quốc rồi
tự gọi mình là “lão già nước Nam” trong trường thiên ai oán “Nam ông mộng
lục”.


Hồ
Quý Ly cũng chẳng phủi tay giũ áo đi biệt. Ông đã đào tạo cho non nước này một
tầng lớp sĩ phu mới, ít thiển cận và có đầu óc. Họ đã giúp Lê Lợi phục quốc và
xây dựng một nhà nước Nho trị vững vàng. Đến đời cháu Lê Lợi, Việt Nam đã lớn
mạnh thành một đế quốc và tiêu diệt được Chiêm Thành, trở lực khủng khiếp nhất
trên con đường Nam tiến của dân Việt. Nguyễn Trãi nổi bật trong số ấy( NGUYỄN
TRÃI chính là người thi đỗ trong Triều đại nhà Hồ – Mùa thu, tháng 8, Quý Ly mở
khoa thi thái học sinh. Lấy đỗ bọn Lưu Thúc Kiệm 20 người. Nguyễn Trãi, Lý Tử
Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành đều đỗ kỳ này) . Là quân sư thân
cận Lê Lợi, văn võ song toàn chắc chắn họ Nguyễn đã giúp Lê Thái Tổ xây dựng màn
kịch trả gươm. Khu đầm lầy thời Lý – Trần được nạo vét, đắp đập ngăn nước và thả
giải bắt từ Lam kinh ra. Cho dù huyền thoại “hoàn kiếm” ra đời trên bất cứ nền
tảng văn hóa nào, mục đích duy nhất và cuối cùng của nó vẫn là hợp thức hóa,
chính thống hóa Lê triều. Hình ảnh rùa thần mang tính chất siêu nhiên, nó là bản
sao của “Thăng long” thời Lý Công Uẩn, và xa lạ với khái niệm “thiên tử – con
trời” trong triết lý Khổng giáo. Điều này chứng tỏ xã hội Việt Nam khi đó vẫn
còn hơi hướng thần quyền lạc hậu. Để lấy lòng dân, Lê Lợi phải làm cho họ tin
tưởng rằng mình có sự hậu thuẫn của các lực lượng siêu
nhiên.


Trong nghiên cứu di sản Hán Nôm có khi chúng ta thực hiện chẳng hạn một sưu tập
văn bản thư tịch văn bia theo một chuyên đề nào đó xuyên suốt lịch đại, do ít
văn bản nên các triều Lý -Trần- Hồ thường gộp chung vào một giai đoạn, hết Trần
phần nhiều phải chuyển sang Lê. Nghĩ lại triều Hồ tồn tại rất ngắn trong chưa
đầy 7 năm. Hồ Quý Ly tuy có những ý tưởng táo bạo nhưng lên ngôi chưa kịp làm
được chuyện gì cho văn hoá nuớc nhà đã phải đối phó ngay

với
cuộc xâm lược của nhà Minh. Kháng chiến thất bại, nước mất, cha con vua Hồ bị
bắt giải về Kim Lăng. Đến đầu đời Lê, hình ảnh nhà Hồ cũng rất thảm hại: “Khoảnh
nhân Hồ chính chi phiền hà, chí sử nhân tâm chi oán bạn…” (Bình Ngô đại cáo).
Nhà Hồ bị nhiều nhà sử nhà văn đời sau phê phán. Ngay cả họ Hồ ở Quỳnh Lưu mà Hồ
Quý Ly đã cho xây dựng lăng tẩm ở hương Bào Đột, dày công thu xếp nhận họ để đổi
từ họ Lê sang họ Hồ mà về sau gia phả họ này cũng không một câu nhắc đến. Nhà
Mạc vì chuyện lấy ngôi của nhà Lê, bị Nho gia các đời lên án gay gắt, nhưng sau
còn may được Lê Quý Đôn ghi chép ít nhiều. Thành ra nhà Hồ chẳng những không có
sử riêng của triều đại mà ngay phả riêng của gia tộc cũng không còn, trong dân
gian nếu ai có ghi chép được gì thì về sau hầu như cũng đã mất
sạch.

Các
triều Đinh-Lý-Trần mỗi đời tuy ít cũng có được từ một vài đến vài chục văn bản
để nghiên cứu. Đến như triều Hồ thì cho đến nay mới biết và hiện cũng chỉ có một
văn bản duy nhất là cuốn Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng do mấy bộ tùng thư
của Trung Quốc thu lục.

Thời
Bắc thuộc tuy ít cũng còn có vài bia chuông như Bia Tuỳ Đại Nghiệp, Chuông Nhật
Tảo, v.v. Đời Đinh còn 14 cột bia (kinh chàng) ở Hoa Lư, Lý-Trần văn bia đã khá
nhiều, từ Lê sơ càng về sau số lượng càng tăng tiến. Riêng đời Hồ thì cho đến
nay ngay cả văn bia ta không có một đơn vị nào, thư tịch thì ngoài 1 cuốn nói
trên in ở Trung Quốc còn trong nước thì dù là thần tích, sắc phong, gia phả, địa
bạ, v.v. tất cả đều vắng bóng!”


những thời đại trước Triều nhà Hồ rất xa , nhưng lại được Lịch sử ghi lại đầy đủ
. Riêng Triều đại nhà Hồ thì hầu như không còn tư liệu nào ngoại trừ cuốn ” Nam
ông Mộng lục ” của HỒ NGUYÊN TRỪNG , lại được truyền vọng từ Trung quốc về
.

Qua
những nhận xét ở trên , kết hợp với nghiên cứu thực địa , người viết liền nẩy ra
sự hoài nghi về công dụng thực chất của thành Nhà Hồ . Theo nhận xét chủ quan
của người viết : THÀNH NHÀ HỒ THỰC CHẤT KHÔNG PHẢI CÓ TÁC DỤNG NHƯ MỘT CĂN CỨ
QUÂN SỰ NHƯ BẤT KỲ THÀNH TRÌ NÀO KHÁC MÀ GIỐNG NHƯ KIM TỰ THÁP AI CẬP – THÀNH
NHÀ HỒ LÀ NƠI CẤT DẤU , TỒN TRỮ NHỮNG TRI THỨC ĐỈNH CAO CỦA DÂN TỘC KHI BIẾT
CUỘC CHIẾN SẮP ĐẾN HỒI VÃN CUỘC .

Người
viết xin phân tích nhận định của mình ở phần tiếp theo
.

Trước hết
ta tìm hiểu thêm về con đường từ một người tầm thường , đã nhanh chóng tiến lên
ngôi vị tối thượng : Vua .
Theo VIỆT SỬ TOÀN THƯ thì con đường công
danh của HỒ QUÝ LY như sau :
Hồ Quý Ly xuất thân chỉ là Chỉ Hậu Chánh
Trưởng, một chức quan hầu trong cung điện, tháng 5 năm Tân Hợi (Thiệu Khánh thứ
hai – 1371) dưới đời Nghệ Tông. Bước tiến trên hoạn lộ của họ Hồ đã nhanh như
gió, chẳng bao lâu Quý Ly được thăng tới chức Đại Sứ Khu Mật và được kết duyên
với em gái vua là Huy Ninh Công Chúa, vợ góa của tông thất Trần Nhân
Vinh.
Tháng chín
năm ấy Quý Ly được cử đi vỗ yên dân Nghệ An và được gia phong Trung Tuyên Quốc
Thượng Hầu.
Tháng
giêng năm Ất Mão (Long Khánh thứ ba – 1375) Duệ Tông cử Quý Ly kiêm chức Tham
Mưu quân sự được toàn quyền định đoạt các việc quân và xếp đặt các thứ vị về võ,
chỉ huy từ các tông thất trở xuống.
Năm Bính Thìn (1376) tháng chạp, cùng Duệ
Tông đi đánh Chiêm, Quý Ly đảm nhận việc đôn đốc lộ Nghệ An, phủ Tân Bình, các
châu Thuận, Hóa, vận lương thực cho quân đội đến cửa bể Di Luân (thuộc Quảng
Bình).
Tháng giêng
năm Kỷ Mùi (năm Xương Phù thứ ba – 1379) dưới đời vua Đế Nghiễn (Hiễn) Quý Ly
thăng chức Tư Không kiêm Khu Mật Đại Sứ.
Tháng hai năm Canh Thân (1380) Chiêm Thành
cướp phá mấy tỉnh đường trong, Quý Ly lĩnh thủy quân, Đổ Tử Bình lĩnh lục quân
đi dẹp. Quý Ly đại thắng quân Chiêm ở Ngu Giang (phân lưu sông Mã nay thuộc phủ
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Đỗ Tử Bình cáo ốm trả binh quyền. Quý Ly giữ luôn cả
lục quân với danh hiệu Đô Thống Chế đạo
Hải Tây.
Tháng ba năm Đinh Mão (1387), Quý Ly thăng
chức Đồng Bình Chương Sự (tể tướng) được Nghệ Tông ban cho cờ kiếm đề hai câu:
“Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”.
Tháng hai năm Giáp Tuất (năm Quang Thái
thứ bảy – 1394) dưới đời vua Thuận Tông, Thượng Hoàng Nghệ Tông cho vẽ tranh Tứ
Phụ ca tụng Quý Ly (Tranh Tứ Phụ vẽ bốn người hiền đời xưa có tài đức giúp vua
giúp nước là Chu Công giúp vua Thành
Vương nhà Chu, Hoắc Quang giúp vua Chiêu
Đế nhà Hán, Gia Cát Lượng giúp vua Hậu Chúa nhà Thục Hán, và Tô Hiến Thành giúp
vua Cao Tông nhà Lý).
Tháng hai năm Ất Hợi (Quang Thái thứ tám –
1395) đời Thuận Tông, Quý Ly lên chức cao hơn hết trong triều đình là Nhập Nội
Phụ Chính Thái Sư Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, tước Tuyên Trung Vệ Quốc Đại
Vương.
Tháng ba năm
Mậu Dần (Quang Thái thứ mười một – 1398) Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt
Đại Vương Quốc Tổ Nhiếp Chính.
Xét cái niên biểu trên đây, Quý Ly tiến
nhanh không thể nói được và cũng không hề bao giờ bị giáng trong 27 năm, được
Nghệ Tông và các vua nhà Trần trọng dụng mặc dầu gặp nhiều lực lượng phản động
rất mạnh mấy phen định lật nhào họ Hồ trên cái thang danh
vọng.
Nguyên Nhân Thất Bại Của Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly bước chân vào
trường chính trị từ năm Tân Hợi (1371), đến năm Đinh Mão (1387), giữ chức Đồng
bình chương sự nắm hết quyền chính trong tay. Đến năm Canh Thìn (1400) Quý Ly
phế bỏ Thiếu Đế và lên làm vua. Từ cuối năm Bính Tuất qua năm Đinh Hợi, Quý Ly
phải đương đầu với quân xâm lăng, sau 9 tháng chiến tranh, họ Hồ thất bại một
cách đau đớn, thảm thương.
Vì đâu họ Hồ đã đi tới cái kết quả bi đát đó? Các vua
chúa mất ngai vàng, nghiệp bá, các nhà chính trị ngã gục trên nẻo đường danh
vọng xưa nay không ngoài lý do thất nhân tâm. Ta hiểu câu thất nhân tâm là mất
lòng dân và trí thức trong nước là hai thành phần quan hệ của nền tảng quốc gia.
Đây là một lẽ chung. Họ Hồ cũng không thoát khỏi công lệ đó trong khi đổ
sụp.
Những
hành động nào đã làm họ Hồ thất nhân tâm?
1) Họ Hồ đã tiến quá nhanh
trên con đường danh vọng, quyền thế lẫy lừng, dẫu không va chạm vào quyền lợi
của ai cũng dễ khiến nhiều kẻ ghét ghen, huống chi họ Hồ đã thi hành nhiều việc
cách mạng xã hội nghịch với quyền lợi của nhiều giai cấp. Tỉ dụ: hạn chế quyền
tư hữu tài sản do việc cải cách điền địa có lợi cho dân nhưng có hại cho quý
tộc. Việc cách mạng hết sức táo bạo này lại kèm thêm việc hạn chế gia đồng đã
kìm hãm và giảm hẳn thế lực của đẳng cấp phong kiến khiến họ phải tìm cách chống
lại họ Hồ để bảo vệ tương lai của họ.
2) Việc cải cách tăng đạo cũng có tính cách hạn chế ảnh
hưởng của một giai cấp rất gần dân chúng. Sự chống trả của giai cấp này không
phải là không nguy hiểm, nhất là về mặt tuyên truyền.
3) Việc cải cách tiền tệ, tuy
có thuận tiện cho việc mua bán của dân chúng nhưng quá mới nên dân chúng chưa
hiểu được lợi ích. Thấy tiền bạc của mình bắt buộc phải đổi lấy tiền giấy, dân
chúng sao khỏi được sự hoang mang, hờn giận.
4) Việc giết hại con cháu nhà
Trần, nhất là vua Thuận Thông, con rể của Quý Ly, và việc hạ sát trên 370 vương
hầu, tướng lĩnh, đại thần trong vụ âm mưu ngày hội thề ở Đốn Sơn xúc động dân
chúng rất mạnh không kể các giai cấp quyền quý đang bị họ Hồ uy hiếp. Ngay từ
khi Quý Ly thi hành các việc cải cách, Quý Ly đã bị những cuộc phản tuyên truyền
rất dữ dội, việc thẳng tay đàn áp đối phương và lưu huyết sau này lại càng gia
tăng hiệu lực cho cuộc phản tuyên tryền của phe đối lập. Nhân dân vào đời Lý,
Trần lại đang được hun đúc trong cái lò Phật giáo và Khổng giáo, thấy việc giết
vua triệt hạ đại thần không khỏi có sự công phẫn và nghi ngờ. Trước vấn đề này,
nhà chính trị đại tài đó đã thiếu xót một cách tai hại một kỹ thuật trọng yếu là
vận động nhân dân, lấy nhân dân làm hậu thuẫn. Việc làm càng bạo động càng phải
sửa soạn dư luận, họ Hồ quả đã rất khinh xuất, kể từ các việc cải cách quốc gia
có lợi cho nhân dân đến
việc bước lên ngôi cửu ngũ. Họ Hồ đã không hấp thụ được
bài học thân dân và dân vận của Trần triều thuở trước, có lẽ vì không để ý đến
nhân dân, có lẽ ông cho rằng chỉ cần hướng mọi công cuộc cải cách quốc gia về
quyền lợi đại chúng là đủ. Bởi sự thiếu sót này người ta đã nghĩ rằng việc làm
của ông không vì công ích, trái lại có mục đích, có cứu cánh hoàn toàn tư
lợi.
Bàn về
việc đàn áp phong kiến đời bấy giờ, ta nghĩ thế nào về Hồ Quý Ly? Họ Hồ tàn nhẫn
lắm chăng?
Xét các việc đã xảy ra, quả họ Hồ đã tàn nhẫn thật
nhưng bình tĩnh và khách quan
mà nói nhà làm chính trị như họ Hồ giữa một thời vua
hèn, tôi đốn, đẳng cấp phong kiến lại quá ngoan cố, tham tàn, chống lại mọi việc
cải cách cấp tiến vì nghịch với quyền lợi của họ thì nhà làm chính trị đó nếu
muốn thành công hay đứng vững không thể không có những cử chỉ quyết liệt mạnh
bạo.
Nói một
cách khác, xã hội Việt Nam bấy giờ đang bị một bạo bệnh, Hồ Quý Ly đã phải dùng
bạo phương vì không còn thể trì hoãn được với tình thế. Họ Hồ ngồi trên lưng
cọp, lên đã khó xuống còn khó gấp bội, có ở vào hoàn cảnh của họ Hồ mới biết,
ngoài ra đứng trên quan điểm nhân dân và cách mạng, ta còn lý gì để thương tiếc
đám
vua quan
bất lực, mục nát đời Trần? Thương tiếc bọn này để mất nước với ngoại địch, để
dân hao mòn vì đói khổ, ý niệm này vào thời nào cũng phải coi là một sự phản bội
quốc gia và phản tiến hóa!
Hồ Quý Ly Có Làm Mất Nước Không?
Bình luận về Hồ Quý Ly, Trần
Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược trang 120 nói:
“Xem công việc của Hồ Quý Ly
làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay, một người kinh tế
như thế mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung thì dầu giặc Minh có mạnh
thế đến đâu đi nữa cũng chưa hầu dễ đã ăn cướp được nước Nam mà mình lại được
tiếng thơm để lại ngàn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến,
hễ
đã có thế
lực thì sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế, Hồ Quý Ly mới làm sự
thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Mà cũng vì
cái cớ ấy cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà theo giặc để đến nỗi cha con họ Hồ
thua chạy bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục nước người!
Nhưng đấy là một cái tội làm
hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác
cho Hồ Quý Ly? …”
Không riêng sử gia họ Trần, … nhiều nhà viết sử từ
trước đến nay thường quy tội làm mất nước về tay nhà Minh cho Hồ Quý Ly và cũng
viện cớ một cách giản dị rằng Hồ Quý Ly đã giết vua cướp nước nên người trong
nước mới đi cầu cứu Minh triều. Trước vấn đề này, để tìm ra lẽ phải, ta cần đặt
hai câu hỏi dưới đây:
1) Tình trạng bang giao giữa nước ta và nhà Minh thuở
đó thế nào? Nếu Hồ Quý Ly không “thí quân thoán quốc” nạn xâm lăng liệu có thể
tránh được không?
2) Bọn Trần Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ sang cầu quân “điếu
phạt” của nhà Minh có ảnh hưởng gì đến sự suy vong của quốc gia thuở đó
không?
Câu
hỏi trên nhắc ta rằng khi nhà Hồ ra đời, Minh Thành Tổ đã có ý nhòm ngó nước ta
rồi, sau đó lại thêm sự tố cáo của bọn hoạn giả Nguyễn Toán giỏi nghề nấu bếp mà
triều Trần đem tiến Minh Đế trước đây, Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ chỉ là những kẻ
đến sau để thúc đẩy cuộc xâm lăng cho thêm phần nhanh chóng.
Bảo rằng việc đảo chính của
Hồ Quý Ly đã giúp cho nhà Minh cái cớ xuất binh qua đất Việt cũng không đúng.
Nhà Minh muốn chiếm nước ta không thiếu cơ hội, cũng không thiếu duyên cớ nữa.
Đây chỉ là chuyện con chó sói với con cừu non của Lã Phụng Tiên (La Fontaine) mà
thôi. Một việc xâm lăng bao giờ cũng phải tính toán đầy đủ điều
kiện thực tế. Đó là việc ta
cần phải suy xét kỹ lưỡng. Nhà Minh trước khi mang quân sang nước ta phải hiểu
rõ dân ta đã suy yếu từ bao giờ, vua quan của chúng ta như thế nào. Như vậy mọi
việc bại hoại của mấy triều đại cuối cùng của dòng họ Đông A đều đã ghi trong
cuốn sổ tay của họ. Cuộc xâm lăng bấy giờ đâu có phải căn cứ vào cái nguyên nhân
gần gũi nhất là vụ đảo chính của Hồ Quý Ly, nhất là cuộc đảo chính ấy đã thành
công, một cách êm thắm. Có thể nhà Minh hiểu thực lực nước ta bị suy giảm từ
lâu, lòng dân Việt Nam chia rẽ, Hồ Quý Ly tuy có cải cách nhiều việc trong nước
nhưng vẫn chưa phục hồi được nguyên khí quốc gia. Đó là duyên cớ mất nước của
dân ta cũng như duyên cớ xâm lăng của quân Minh.
Tóm lại đời Trần Mạt do đám
vua quan bạc nhược, ham ăn chơi đàng điếm đã tạo cho Bắc phương một hoàn cảnh
tốt đẹp để xâm chiếm đất đai của chúng ta. Cái nguyên nhân xã hội này mới là
nguyên nhân chính. Các nhà làm sử hay các người đọc sử xưa nay thường chỉ nhìn
vào việc trước mắt mà buông lời phê phán chẳng khỏi có sự quá
đáng và thiếu công bình với
người xưa.
Nhưng nhà đọc sử và viết sử ngày nay hiểu Quý Ly một
cách công bằng và thực tế hơn. Trong Nam Sử Liệt Truyện khảo cứu ở Tạp chí Nam
Phong số 100, ông Lê Thúc Thông viết: “Xem Quý Ly đương buổi Tây Lịch 1411, khi
ấy các nước Âu Châu chưa đến trình độ bán khai mà nước ta đã có Quý Ly bầy đặt
các việc trước đã khêu đèn văn
minh, phỏng Bá Kỳ chẳng đưa quân Minh về trở ngạnh để
cho Quý Ly hết sức kinh lý giang sơn, trùng tân nhật nguyệt, nước ta hẳn kéo cờ
văn minh, thủ xuất trước các nước ở Á Châu …”
Trong Việt Nam Cổ Văn Học Sử
(do nhà Hàn Thuyên Hà Nội xuất bản năm 1942) ông Nguyễn Đổng Chi cũng
viết:
“Tư
tưởng và hành vi của nhà độc tài ấy có thể sánh với Vương An Thạch (1021- 1086)
đời Tống bên Tàu. Vương cũng có một độ bài xích những lối học huấn hỗ và chú sở
của tiên nho cùng là chủ trương những vấn đề cải lương Trung Quốc. Họ Hồ đã
chịu
mạnh
cái tinh thần đó nên quyết tâm mở một lối thực học đi đôi với nền tảng quốc gia
xã hội mong làm cường thịnh nước nhà. Người sau này còn hơn người trước về chỗ
chiếm lấy chiếc ngai vàng cho tiện bề hành động.
“Nhưng đáng tiếc cho chiếc
ngai vàng ấy không bao lâu bị sụp đổ và lôi cuốn mọi thứ đi mất. Bàn tay phá
hoại ấy chính là người Minh, nhưng một số đông người Việt Nam lấy cớ phục hồi
nhà Trần mở đường đón giặc, họ phải chịu một phần trách nhiệm.”
Tin Mới số 1406 ra ngày
31-10-1944, trong bài Đọc Sử ông T.N. cũng viết:
“Đọc Nam Sử, những cuộc cải
tạo về chính trị, xã hội, học thuật không phải là ít, nhưng điều khiến cho chúng
ta phải ngạc nhiên và nhớ tiếc hơn cả là chính sách táo bạo có thể coi như một
cuộc cách mạng của họ Hồ và cuối thập tứ và đầu thập ngũ thế
kỷ.
“Đem đối
chiếu những chính sách của Hồ Quý Ly với lịch sử quốc tế hồi bấy giờ và nhất là
đem đối chiếu với hoàn cảnh Á Đông lúc ấy cuộc cải cách kia thực là lớn lao về
cả tinh thần lẫn phạm vi của nó.
“Cuộc cải cách ấy nếu được tiếp tục trong một thời gian
khá lâu, tất phải đem dân tộc Việt Nam, một dân tộc lúc ấy thiếu tổ chức, đến
một mức phú cường.
“Nhưng đem reo rắc vào một đám dân chúng chưa giác ngộ,
những chủ trương không gặp được một sức hậu thuẫn đầy đủ cho nên trước cuộc âm
mưu của bọn Việt gian làm bung sung cho quân đội nhà Minh, sự nghiệp của họ Hồ
đã tan tác sau một cuộc thất bại đau đớn”.

( VIỆT SỬ TOÀN THƯ
)
THAM
KHẢO THÊM VỀ HUYỀN KHÔNG :

NỘI: là thành phố nằm gần như ngay tại trung tâm của đồng bằng Bắc Việt, trên
dải đất hẹp giữa con sông Hồng ở phía Ðông và sông Tô Lịch ở phía Tây. Ðối với
Phong thủy, dải đất này chính là chân long, là nơi kết tụ được nhiều nguyên khí
của địa hình sông, núi ở chung quanh. Nhờ vậy, Hà Nội sẽ luôn luôn nắm được
những vai trò quan trọng về chính trị và kinh tế đối với đất nước, chẳng những
thế, trong các thời kỳ hưng vượng còn sản sinh ra những lãnh tụ tài ba, những
anh hùng kiệt xuất. Nếu nhìn lên bản đồ miền Bắc, ta sẽ thấy những con sông lớn
như sông Cầu, sông Gầm, sông Lô ở phía Bắc; sông Ðà, ở phía Tây, sau khi chảy
qua nhiều nơi cuối cùng đều nhập vào sông Nhị Hà chảy về Hà Nội. Xa xa, dọc theo
biên giới Việt-Hoa, những dãy núi trùng trùng, điệp điệp xuất phát từ miền Nam
Trung Hoa đâm thẳng xuống dọc theo các phía Tây Bắc, Bắc và Ðông Bắc, tất cả
cũng đều như muốn hướng về. Ðây chính là thế “núi sông chầu phục” của Hà Nội,
một địa thế Phong thủy tuyệt đẹp đến nỗi không một thủ đô nào của các nước trong
vùng Ðông Nam Á Châu, (kể cả thành Bắc Kinh của Trung Hoa) có thể so sánh được.
Không những thế, ngoài xa nơi phía Ðông và Ðông Nam, Hà Nội còn được đại thủy
của vịnh Bắc Việt và Thái Bình Dương chiếu tới nên thần lực rất lớn, xứng đáng
là thủ đô muôn đời của một quốc gia văn hiến hùng mạnh.

Nếu đem địa thế núi, sông, biển cả vừa kể trên đối
chiếu với Lạc Thư, ta sẽ thấyVận 1 chỉ là giai đoạn trung bình của Hà Nội. Vì
mặc dù khu vực phía Bắc có nhiều sông ngòi tức là phạm phải cách “Phục Ngâm”, bị
sát khí xâm phạm, nên sẽ đem đến nhiều tai ương, loạn lạc. Nhưng tại đây cũng có
nhiều dãy núi đâm thẳng xuống đem theo nhiều vượng khí nên chưa đến nỗi, vẫn còn
nhân tài có khả năng ổn định, xoay chuyển được thời cuộc. Bước sang Vận 2, tình
thế mỗi lúc một suy thoái hơn, vì khu vực phía Tây Nam của Hà Nội tuy chỉ có
sông Mã tức là bị “Phục Ngâm” trong trường hợp nhẹ. Nhưng phía đối diện (Ðông
Bắc) lại có núi đồi trùng điệp tức là bị “Phản Ngâm”, sát khí từ nơi đó sẽ tràn
tới, khiến cho đất nước ngày càng trở nên hỗn loạn. May mà tại đây (khu vực phía
Ðông Bắc) cũng có nhiều sông ngòi chằng chịt tức là đắc “Chính thủy”, vượng khí
vẫn còn đến với Hà Nội nên chưa đến nỗi bị suy vong. Qua các Vận 3, 4, đại thủy
của vịnh Bắc bộ và Thái bình Dương nơi phía Ðông và Ðông Nam sẽ tạo ra cách
“Phục Ngâm”, sát khí quá nặng nề, nên sẽ đưa đất nước ta vào tình trạng yếu kém,
tàn tạ hơn bao giờ hết. Phải đến khi bước vào Vận 5, nhờ địa thế “núi sông chầu
phục”, vượng khí của Hà Nội mới bắt đầu bùng lên mãnh liệt, và cùng với nó là
sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc. Qua Vận 6, Hà Nội sẽ phải đương đầu
với những cuộc chiến tranh cực kỳ ác liệt, do các sông lớn như Nhị Hà, sông Ðà
đều bắt nguồn từ phía Tây Bắc, nguồn nước lại rất lớn nên phạm phải cách “Phục
Ngâm” rất nặng. May là cũng tại phía Tây Bắc lại có những mạch núi rất dài, rất
cao tiến xuống, cuốn theo vượng khí ngút trời, đủ sức để trấn áp sát khí nên Hà
Nội sẽ vượt qua được mọi thử thách để đi đến chiến thắng. Nói chung là trong Vận
6, ngay cả những thế lực hùng mạnh bậc nhất trên thế giới mà đụng đến Hà Nội
cũng đều sẽ rước lấy những thất bại thảm hại, ê chề. Ðến Vận 7, những con sông
Ðà, sông Mã ở phía Tây Hà Nội sẽ tạo ra nhiều sát khí (bị “Phục Ngâm”). Nhưng
ngoài xa nơi phía Ðông lại có vượng khí của đại thủy mênh mông chiếu tới, lấn át
được sát khí, nên tuy hay bị những biến động về chính trị, nhưng là một giai
đoạn tương đối yên lành, sung túc. Sang Vận 8, Hà Nội sẽ bước vào giai đoạn cực
thịnh, sản sinh ra những lãnh tụ tài ba đem lại thanh bình và vinh quang cho đất
nước.?Trong giai đoạn này tuy cũng có chiến tranh xảy ra, do khu vực phiá Ðông
Bắc có rất nhiều sông ngòi chằng chịt. Nhưng cảnh thái bình, thịnh trị, sẽ nhanh
chóng được tái lập vì vượng khí của các dãy núi trong khu vực Ðông Triều-Cẩm Phả
sẽ đem đến cho Hà Nội rất nhiều may mắn, thuận lợi. Sang tới Vận 9, thời kỳ hưng
vượng vẫn tiếp tục được duy trì, cho tới khi bước sang Vận 1 thì những mầm mống
loạn lạc mới bắt đầu tái diễn trở lại.
…….
Khi Hồ quý Ly lên ngôi, việc đầu tiên của ông là cho
dời thủ đô về Tây Ðô ở Thanh Hóa, rồi cho tiến hành nhiều cải cách táo bạo về
chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và quân sự. Nhưng vào năm 1407, đầu Vận 5,
khi nhà Minh mượn tiếng “phù Trần diệt Hồ” đem quân sang xâm lăng nước ta thì
nhà Hồ bị tan rã và sụp đổ nhanh chóng. Một lần nữa, dân tộc ta lại nằm dưới ách
cai trị của người Tàu.

Nếu xét về phương diện Phong thủy và vận khí thì sự sụp
đổ của nhà Hồ là do 2 nguyên nhân chính. Thứ nhất là khi Hồ quý Ly cướp ngôi nhà
Trần, vận khí của thủ đô Thăng Long đang ở trong giai đoạn tàn tạ, suy yếu đến
tột độ (Vận 4). Nên dù ông có cố công canh tân, cải cách thế nào đi nữa, nước ta
yếu vẫn hoàn yếu, mà lòng người dân lại càng không phục, bất mãn. Thứ hai là
việc ông lập Tây Ðô (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa bây giờ) làm thủ đô
mới của nước ta. Ðây là một vùng đất chật hẹp, lại bị long mạch của dãy Hoàng
liên Sơn tiến tới đâm sát vào. Ðối với Phong thủy, địa thế như vậy không được
coi là có Long (núi) chầu phục, mà chính là thế bị Long tiến tới bức bách, áp
chế, khiến cho vượng khí bị thất tán, còn sát khí thì tràn ngập cả kinh đô. Bởi
thế nên ngay từ khi lên ngôi, Hồ quý Ly đã gặp phải những áp lực nặng nề từ
trong và ngoài nước, để rồi đến khi quân Minh sang đánh nước ta thì nhà Hồ liền
bị sụp đổ nhanh chóng. Mặt khác, vào lúc đó, vận khí của Bắc Kinh đang ở trong
giai đoạn cực kỳ hưng vượng (thành Bắc Kinh chủ phát vào các Vận 5, 6, và 7). Do
đó, nếu đem vận khí của Tây Ðô đối chọi với vận khí của Bắc Kinh lúc đó thì làm
sao nhà Hồ không lãnh lấy cái hậu quả diệt vong, mất nước được. Nếu như Hồ quý
Ly không dời đô, thì tuy ông sẽ gặp nhiều khó khăn trong những năm đầu, nhưng
khi bước vào Vận 5 (1404) vượng khí sẽ trở lại với Thăng Long. Lúc đó, sức mạnh
và tinh thần quật khởi của dân tộc lại trào dâng mạnh mẽ thì thử hỏi nhà Minh
làm sao có thể đánh chiếm và đô hộ nước ta ngót 20 năm
được?

Nhưng cũng may dân tộc ta, khi quân Minh thiết lập nền
đô hộ, chúng lại lấy Thăng Long (lúc đó đã đổi tên là Ðông Ðô) làm trung tâm
điều hành việc cai trị, trực tiếp nhận lệnh điều khiển từ Bắc Kinh. Nhưng chúng
không biết rằng trong các Vận 5, 6, 8, nếu là một trung tâm quyền lực chính trị
thì Thăng Long sẽ không bao giờ là chư hầu của bất cứ một thành phố nào trên thế
giới. Do đó, những phong trào kháng chiến bùng nổ khắp nơi, cho đến khi Lê Lợi
tụ tập được anh hùng hào kiệt, phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn thì nền độ hộ của
quân Minh đã bước vào thời kỳ tàn cuộc. Vào năm 1426, đầu Vận 6, nhà Minh sai
Vương Thông đem 5 vạn quân sang nước ta để đối phó với phong trào kháng chiến
của Lê Lợi, nhưng đạo quân này bị ta đánh tan ở Tuy Ðộng. Năm sau, cũng trong
Vận 6, nhà Minh lại phái Liễu Thăng và Mộc Thạnh đem 15 vạn quân sang nước ta
hòng cứu vãn tình thế. Nhưng khi 10 vạn quân của Liễu Thăng bị quân ta tiêu diệt
hoàn toàn trong các trận đánh Chi Lăng, Tốt Ðộng-Chúc Ðộng, nhà Minh không còn
cách gì khác hơn là rút hết quân về nước và thừa nhận nền độc lập của dân tộc
ta.
Nguồn : Địa thế Phong thủy
của dân tộc VN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *