ĐỀN THIÊNG CỬA SÓT. BÀI 2

Thực ra chuyến
đi thăm Cửa Sót lần này của dienbatn là lần thứ hai , lần trước cũng đi cùng Lê
Phong . Mục đích chính hai chuyến đi Cửa Sót của dienbatn là tìm lại những dấu
vết của truyền thuyết Tiên Dung và Chử Đồng Tử đã thành Đạo tại đây, để nối liền
mạch lịch sử về việc hình thành Đạo của Việt Nam . Theo tài liệu của Thiền sư Lê
Mạnh Thát về truyền thuyết nhà sư Phật Quang như sau
:


” Sư Phật Quang & di tích
đầu tiên của Phật Giáo VN.

Trả lời câu
hỏi này, ta may mắn có một tài liệu viết gần cùng thời với Thiện Uyển Tập Anh là
Lĩnh Nam Trích Quái. Truyện Nhất Dạ Trạch của Lĩnh Nam Trích Quái ghi lại việc
Chữ Đồng Tử đã được nhà sư Phật Quang tại núi Quỳnh Viên (cũng có bản viết là
Quỳnh Vi) truyền dạy giáo lý Phật giáo. Xưa nay Lĩnh Nam Trích Quái thường được
xếp vào loại truyện thần thoại hay huyền sử. Thậm chí bộ Việt Nam Hán văn Tiểu
Thuyết Tùng san_1, tập I, mới xuất bản gần đây cũng làm thế. Tuy nhiên, khi đi
sâu vào nghiên cứu nội dung của Lĩnh Nam Trích Quái, ta mới thấy rõ Lĩnh Nam
Trích Quái không chỉ đơn thuần là tập hợp những chuyện thần thoại, thậm chí
những chuyện thần thoại hoang đường. Trái lại, nó chứa đựng nhiều sự kiện có
thực, mà trường hợp núi Quỳnh Viên của chúng ta đây là một thí dụ cụ
thể. 
Núi Quỳnh Viên này, những người chủ biên
Thơ văn Lý Trần đã chú thích là: “Một quả núi trong truyện thần thoại”. Dẫu thế,
nếu chịu khó đọc Minh lương cẩm tú do Lê Thánh Tông viết về 13 cửa biển của đất
nước ta trong khi tiến quân chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1470, thì ta gặp bài
thơ thứ 7, nói về Nam giới hải môn lữ thứ, trong đó có 2
câu: 
Di miếu man truyền kim Vũ Mục

Danh
sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên.

Dịch: Di miếu còn truyền nay Vũ
Mục.

Danh sơn vẫn nhắc cổ Quỳnh Viên

Vũ Mục đây tức chỉ tướng Lê
Khôi, cháu ruột của Lê Lợi. Năm Thái Hòa thứ 2 (1444) đi đánh Chiêm Thành, bắt
được vua Chiêm là Bí Cai, khi trở về đến cửa biển Nam Giới thì mất. Dân thương
nhớ, lập đền thờ tại cửa biển này. Cửa biển này còn được gọi nôm na là cửa Sót.
Còn núi Quỳnh Viên thì nằm ở phía Nam cửa bể này và từ thời Lê Thánh Tôn đã được
xác nhận là một danh sơn, tức một hòn núi có tiếng tăm của đất nước. Và tiếng
tăm này là có từ xưa, chứ không phải đợi đến thời Lê Thánh Tôn, tức từ năm 1460
trở đi mới có. Ngay cả khi ta đồng ý với Lê Quí Tôn trong Toàn Việt thi lục và
Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển và xếp các bài thơ về 13 cửa biển này
vào loại “vô danh thị”, thì việc nói “ông Vũ Mục ngày nay” (kim Vũ Mục) và “núi
Quỳnh Viên thưở xưa” (cổ Quỳnh Viên) vẫn không đánh mất ý nghĩa thời điểm của
bài thơ. Lý do nằm ở chỗ nếu đã nói Lê Khôi là ông Vũ Mục thời nay, và Lê Khôi
mất vào năm 1444, thì rõ ràng tác giả nó cũng phải sống vào thời của Lê Khôi
này, tức khoảng từ 1444 trở đi hay không lâu sau đó. 
Nói thẳng ra, vào thế kỷ thứ XV, khi Kiều
Phú và Vũ Quỳnh hiệu đính và cho ra đời hai bản Lĩnh Nam Trích Quái khác nhau,
Quỳnh Viên đã thật sự là một danh sơn, một ngọn núi nổi tiếng đối với dân ta
thời đó và trước kia. Nó dứt khoát không phải là một ngọn núi thần thoại, càng
không phải là một ngọn núi không có địa điểm cụ thể tại đất nước ta. Nó quả là
một ngọn núi nằm tại cửa Sót. Và trên núi Quỳnh Viên này còn có ngôi chùa cổ.
Bản Lĩnh Nam Trích Quái mà ta có ngày nay thì hoặc do Kiều Phú kiểu chính lại
vào năm 1490, hoặc do Vũ Quỳnh san định vài năm sau đó, vào năm 1493, từ một bản
Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp đời Trần. Như vậy, nếu Lĩnh Nam Trích Quái
mà ta có ngày nay nói tới núi Quỳnh Viên, thì dứt khoát núi Quỳnh Viên này phải
có một địa chỉ cụ thể. Vì thế, khi Chữ Đồng Tử đã được nhà sư Phật Quang truyền
dạy đạo Phật tại núi Quỳnh Viên, ta có thể chắc chắn sự việc này đã xảy ra tại
cửa biển Nam Giới hay cửa Sót. 
Ta có thể đặt vấn đề là nếu quả có ngọn
núi Quỳnh Viên tại cửa Sót, thì việc truyền dạy giáo lý của nhà sư Phật Quang
cho Chữ Đồng Tử chắc gì đã xảy ra ở đó, bởi vì việc truyền dạy đó xảy ra quá xa
cách thời điểm nó ghi lại trong Lĩnh Nam Trích Quái. Nói cụ thể ra, Lĩnh Nam
Trích Quái đã ghi lại một sự việc xảy ra cách nó gần tới cả ngàn rưỡi năm. Tất
nhiên, trừ phi ta thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ học tại núi Quỳnh Viên ở
cửa Sót và tìm thấy di vật liên hệ với Chữ Đồng Tử, thì vấn đề mới được giải
quyết một cách dứt điểm. Nhưng trước mắt, nếu chưa làm được, song qua phân tích
những truyện khác trong Lĩnh Nam Trích Quái, ta thấy dù Lĩnh Nam Trích Quái có
được Trần Thế Pháp biên tập lại vào hậu bán thế kỷ thứ 14, thì những dữ kiện
trong đó vẫn có một tính cổ sơ đáng muốn. 
Chẳng hạn, khi nghiên cứu về truyền thuyết
Trăm ứng trong truyện họ Hồng Bàng, ta thấy truyền thuyết này đã xuất hiện trong
Lục độ tập kinh 3 ĐTK152 tờ 14a26-cl8 truỵện 23 do Khương Tăng Hội dịch ra chữ
Hán vào khoảng những năm 220-250_1. Cũng một cách, truyện Tây Qua của Lĩnh Nam
Trích Quái là một dị bản của truyện 7 trong Cựu Tạp Thí Dụ Kinh, ĐTK206 tờ
512a16-b7, cũng do Khương Tăng Hội phiên dịch v.v… Nói khác đi, dù những
truyện do Trần Thế Pháp tập hợp lại trong Lĩnh Nam Trích Quái xảy ra tương đối
muộn, nhưng có những dữ kiện đã được chứng minh là xuất hiện rất sớm trong lịch
sử văn học nước ta. Do thế, truyền thuyết về Chữ Đồng Tử được nhà sư Phật Quang
dạy đạo Phật cũng có khả năng xảy ra rất sớm trong lịch sử dân tộc, chứ không
phải vì sự xuất hiện muộn màng trong Lĩnh Nam Trích Quái mà mất đi tính chân
thực và cổ sơ của nó. 
Vậy nhà sư Phật Quang này xuất hiện ở cửa
Sót vào thời nào? Qua những chứng cớ ngoại tại, gián tiếp vừa kể trên, tối thiểu
ta biết là những gì Lĩnh Nam Trích Quái ghi lại chưa hẳn là không xảy ra, hay
không có từ xưa. Cụ thể là truyện về truyền thuyết Trăm Trứng. Không kể các dã
sử hay những thông tin bên ngoài, cứ theo chính sử Trung Quốc cũng đã ghi là có
các chính quyền phương nam đi thông qua nước ta để đến phương Bắc, đó là chính
quyền nước Hoàng Chi. Bình Đế Ký trong Tiền Hán thư 12 tờ 3a3 ghi: “Nguyên thủy
thứ 2 (năm thứ 2 sdl), mùa xuân, nước Hoàng Chi dâng tê giác và bò”. Rồi đến
quyển 28 hạ, Tiền Hán Thư tờ 32b2-3, nơi chuyện Vương Mãng, cũng ghi: “Trong
khoảng Nguyên thủy (1-6sdl) của Bình đế, Vương Măng phụ chính, muốn làm rạng rỡ
uy đức của mình đã gửi biếu hậu hỷ vua Hoànt Chi khiến cho gửi sứ cống tê giác
và bò sống”. Nước Hoàng Chi này, cứ Tiên Hán thư 28 hạ, tờ 32b5-5, còn ghi tiếp:
“Từ Hoàng Chi đi thuyền có thể tám tháng đến Bì Tôn, rồi đi thuyền hai tháng có
thể đến biên giới Tượng Lâm của Nhật Nam. Phía Nam Hoàng Chi có nước Dĩ Trình
Phất. Dịch sứ của Hàn từ đó về” 
Thế rõ ràng Hoàng Chi là một nước rất xa
nước Hán, đi thuyền đến mười tháng mới đến. Ghi nhận đầu tiên của chính sử Trung
Quốc về sự liên hệ giữa chính quyền Trung Quốc và chính quyền Hoàng Chi là Hoàng
Chi ở phía Tây nước ta và phải đi thông qua nước ta mới đến Trung Quốc được.
Hoàng Chi là nước nào? Có khả năng Hoàng Chi đây là một trong những nước ở Ấn
Độ. Cho nên, nói cách khác, từ những năm đầu Dương lịch, quan hệ chính thức giữa
Ấn Độ và Trung Quốc đã có vè đường biển và đã được chính sử Trung Quốc ghi lại.
Sau đó, từ thế kỷ thứ hai trở đi thì quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã được
ghi rất rõ, cho nên khả năng trước khi có quan hệ chính thức trên bình diện
chính quyền thì phải có quan hệ nhân dân; tức quan hệ giữa hai dân tộc phải đi
với nhau rồi hai chính quyền mới đi theo, hoặc để bảo trợ quyền lợi của dân tộc
mình hoặc để thiết lập quan hệ liên lạc ngoại giao. Cho nên khả năng những
thương thuyền buôn bán của người Ấn Dộ đã đến Trung Quốc trước thời Vương Mãng
từ lâu là một sự thật. 
Thực tế thì ngay trong Sử ký ta đã tìm
thấy những từ tiếng Phạn được phiên âm ra tiếng Trung Quốc, cụ thể là từ lưu ly,
vaidurya. Tức là nước Trung Quốc đã biết nước Ấn Độ từ lâu. Nói cách khác, từ
những thế kỷ đầu Dương lịch, quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã thiết lập và có
quan hệ buôn bán giữa thương nhân hai nước. Tiền Hàn thứ 9, tờ 3a3-6 (truyện Tây
nam di, lưỡng Việt Triều tiên đã nói tới việc thương nhân đất Thục đem vải và
gậy trúc Thân độc về Trung Quốc bán vào năm Nguyên thú thứ nhất (120tdl). Và
chuyện Vương Mãng ghi vì “Muốn làm rạng rỡ uy đức của mình, [ông] đã hậu hỹ vua
nước Hoàng Chi và khiến dâng tê giác và bò sống”, có nghĩa là hai chính quyền đã
có quan hệ bang giao từ lâu. Mà trước khi Vương Mãng biết đến nước này thì người
nước này đã có quan hệ với Trung Quốc rồi, cho nên Vương Mãng mới biết để khiến
dâng vật cống với nhau. Nói cách khác là vào những thế kỷ trước và sau Dương
Lịch, đã có những quan hệ giữa Trung Quốc và các nước khác về đường biển thông
qua Việt Nam. Cho nên giả thiết sự tồn tại của nhà sư Phật Quang giữa thế kỷ thứ
III hay thứ II tdl có thể chứng thực được. 
Về nhà sư Phật Quang
[^]
Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam Trích
Quái kể lại việc Chữ Đồng Tử học được đạo Phật như sau: 
“Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán
kính thờ Tiên Dung (và) Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên
Dung rằng: “Quí nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay cùng thương nhân ra nước
ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi mười dật”. Tiên Dung vui mừng bảo Đồng
Tử: “Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên. Nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy.
Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí để sinh
sống”. Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn án lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có
núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử
lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng
Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc
thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho
Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: “Các việc linh thông đều ở đó rồi!.
Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ
cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thấy học
đạo”. 
Việc Chữ Đồng Tử và Tiên Dung, những người
Việt Nam đầu tiên mà ta biết tên tiếp thu đạo Phật là như thế. Có hai đặc điểm
mà ta cần lưu ý. Thứ nhất, việc tiếp thu này đã xảy ra tại núi Quỳnh Viên. Núi
Quỳnh Viên từ thời Lê Thánh Tôn ta đã biết là nằm tại cửa Nam Giới, hay cửa Sót.
Ngày nay, tại bờ nam của cửa Sót, còn có một hòn núi gọi là Nam Giới sơn. Phải
chăng đây là địa điểm cần tìm hiểu khảo cổ học để khai quật xem có vết tích gì
của Chữ Đồng Tử và Phật Quang chăng? Trước mắt, ít nhất ta đã xác định được là
Quỳnh Viên không phải là một ngọn núi thần thoại, mà thật sự là một hòn núi có
tên tuổi tại cửa Sót. Do những dấu vết của Chiêm Thành còn tồn tại đến ngày nay,
ta cũng hiểu thêm từ cửa Sót về nam là miền đất thuộc vương quốc Chiêm Thành.
Như thế, đất nước Việt Nam thời Hùng Vương phải chăng đã lấy cửa Sót làm một địa
điểm ở miền nam của tổ quốc ta? 
Cần lưu ý, từ vùng cửa Sót, trở ra miền
Bắc, ta không tìm thấy có bất cứ di chỉ nào liên hệ với nền văn hóa của Chiêm
Thành. Ngược lại, từ cửa Sót trở về nam, cụ thể là các vùng phía nam tỉnh Nghệ
An, tức từ Vinh trở về Nam và các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Tĩnh, Quảng Trị và Thừa
Thiên, cho đến ngày nay, vẫn còn những vết tích của nền văn hóa Chiêm Thành. Nói
thế, tức là muốn nói Phật giáo truyền vào nước ta căn cứ vào Lĩnh Nam Trích Quái
là từ phía Nam, qua trung gian nhà sư Phật Quang ở núi Quỳnh Viên, tại Nam Giới
hay cửa Sót, giáp giới với Chiêm Thành. Nhà sư này chắc hẳn không phải là ngưòi
Việt, vì rằng truyện Chữ Đồng Tử nói: “Đồng Tử linh đinh ra khắp nước ngoài (phù
du xuất hải ngoại)”. Vùng núi Quỳnh Viên này có khả năng vào thời Chữ Đồng Tử
chưa thuộc vào bản đồ của nước ta. Nhà sư Phật Quang này có thể là một người
Chiêm Thành, hoặc là người Ấn Độ, đang tìm cách truyền bá Phật giáo vào Việt
Nam. Và Chữ Đồng Tử là ngưòi Việt Nam đầu tiên đã đến tiếp xúc với ông, để rồi
sau đó, trở thành người Phật Sư Việt Nam đầu tiên có tên tuổi. Truyện Chữ Đồng
Tử này sau đó được Thiên Nam Vân Lục của một tác giả vô danh chép
lại. 
Thế thì Chữ Đồng Tử đã tiếp thu đạo Phật
như thế nào? Đây là đặc điểm thứ hai mà ta cần lưu ý. Truyện Chữ Đồng Tử chỉ nói
khi Đồng Tử trở về quê “Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón,
vừa bảo: mọi việc linh thông đều đã ở đấy cả”. Nói vậy, Lĩnh Nam Trích Quái báo
cho ta biết là truyền thống Phật Giáo mà Chữ Đồng Tử tiếp thu là một truyền
thống Phật giáo quyền năng, đề cập đến những vấn đề linh dị và thần thông (linh
thông). Truyền thống Phật giáo này, như ta sẽ thấy, xuất hiện trong Mâu Tử cũng
như trong Khương Tăng Hội, và tồn tại cho đến thời một truyền thống Phật giáo
mới ra đời, đó là truyền thống Phật giáo Thiền của Pháp Vân. Cần nhấn mạnh
truyền thống Phật giáo quyền năng này cho đến thế kỷ thứ VI được bổ sung bởi
truyền hưởng cơ bản của nó. Nó vẫn tồn tại như một lớp truyền thống Phật giáo
mới, bổ sung cho nó qua lịch sử phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Nhận thức
điều này, ta sẽ dễ dàng hiểu được những hiện tượng đặc thù của những truyền
thống khác nhau của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử. 
http://quangduc.com/…/03lspgvn1.html
 

Ta cùng xem lại sự tích của Chử đồng Tử
như sau :

Chử Đồng
Tử
Vũ Ngọc Phan
kể


Thời xưa, ở làng Chử Xá (1), có hai cha con Chử Cù Vân
và Chử Đồng Tử, nhà nghèo đến nỗi phải chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu thì
đóng. 
Cù Vân bị ốm nặng, khi sắp chết, dặn lại con
rằng: 
– Bố chết, con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ
lấy mà dùng. 
Cù Vân chết, Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng,
lấy khố đóng cho cha, rồi mới chôn. 
Ở một túp lều nhỏ ven sông, ngày ngày Chử Đồng Tử xuống
đánh cá, rồi đổi lấy gạo ở các thuyền qua lại. 
Thời bấy giờ vua Hùng Vương thứ mười tám có một nàng
công chúa tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, tuổi đã mười bảy mười tám mà
không chịu lấy chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Vua chiều con, cấp
cho con thuyền và đủ mọi người hầu hạ, mặc cho con muốn đi chơi đâu thì
đi. 
Một hôm, Tiên Dung đi chơi thuyền trên sông, thuyền của
Tiên Dung đi giữa, còn trước sau là thuyền của binh lính và thị nữ. Khi đến khúc
sông thuộc làng Chử Xá, đám thuyền làm rợp cả mặt nước. 
Chử Đồng Tử trông thấy, vội vứt vó vào bụi, chạy lên
bãi, bới cát vùi mình xuống, rồi lấy cát phủ lên. 
Thấy bãi sông rộng rãi, lại có lác đác từng bụi cây lớn
tỏa bóng mát êm dịu, Tiên Dung lấy làm ưa thích, ra lệnh cho thuyền ghé vào bãi,
rồi chọn một chỗ có bóng mát, sai thị nữ giăng màn tứ vi để tắm. Tiên Dung vào
màn, cởi áo xiêm, dội thỏa thích. Không ngờ chỗ Tiên Dung giăng màn tắm lại
chính là chỗ Chử Đồng Tử náu mình. Tiên Dung dội nước một lúc thì bỗng nhiên Chử
Đồng Tử trồi lên. Tiên Dung trông thấy giật mình, hỏi duyên cớ thì Đồng Tử nói
vì không có quần áo thấy thuyền quân quan thì sợ, nên phải vùi mình xuống cát để
ẩn. 
Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng: – Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run rủi,
lại gặp chàng ở chốn này, mới biết cưỡng không được với
trời. 
Nàng bảo Đồng Tử tắm sạch sẽ, lấy quần áo cho mặc, đưa
xuống thuyền và sai thị nữ sửa soạn tiệc hoa. Thấy thế, Chử Đồng Tử ngỏ ý chối
từ, Tiên Dung bảo chàng rằng: 
– Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ
chối! 
Đồng Tử đành phải nghe theo. Từ hôm ấy, hai người thành vợ chồng. Vua được tin nổi giận, gọi hết binh lính và người hầu
của Tiên Dung về. Tiên Dung sợ cha, đành cùng chồng ở lại với nhân dân, tìm kế
sinh nhai. Nàng làm ăn ngày một thịnh vượng, dần dần lập thành một xóm. Sau có
người khuyên nàng cho người ra biển tìm những vật lạ đem về đổi lấy các thứ
khác. Nàng nghe theo, để chồng đi. 
Đồng Tử đi qua một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, trông lên
núi thấy có cái am nhỏ. Đồng Tử trèo lên núi gặp một nhà sư xưng tên là Phật
Quang. Thấy Đồng Tử là người chân thật, Phật Quang muốn truyền phép cho Đồng Tử.
Đồng Tử không nghĩ đến việc ra biển nữa, liền ở luôn đó. Đồng Tử học được hơn
một năm thì Phật Quang cho chàng một cái gậy và một cái nón, cho phép chàng
xuống núi và dặn rằng: 
– Phép biến hóa ở cả cái gậy và cái nón
này. 
Đồng Tử về nhà, đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung,
rồi hai vợ chồng rời bỏ xóm làng, đi tìm nơi thanh vắng để ở. Một hôm đang đi
đường, trời tối mà chưa đến chỗ dân cư, hai vợ chồng chống cái gậy xuống đất và
lấy cái nón úp lên đầu gậy để che sương, rồi hai người ngồi tựa vào nhau dưới
nón mà ngủ. Đến quá nửa đêm, hai vợ chồng tỉnh dậy thì thấy mình ở trong một
cung điện lộng lẫy có đủ các thứ giường sập, màn trướng, lại có cả tiểu đồng,
thị nữ và binh lính đi lại rộn rịp ngoài hành lang. 
Sáng hôm sau, hai vợ chồng ra ngoài xem thì thấy có
thành cao bao bọc cung điện và có tướng sĩ canh gác rất đông, chẳng khác nào một
tòa thành lớn. 
Tin lạ ấy đến tai vua. Vua cho là Đồng Tử và Tiên Dung
làm loạn, liền sai quan quân đến đánh. Quân nhà vua đến gần nơi Tiên Dung và
Đồng Tử ở thì trời vừa tối, không sang sông được. Đến nửa đêm, trời nổi cơn
dông, cát bay, cây đổ, rồi toàn khu Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời, chỉ
còn lại bãi đất không ở giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự nhiên (2), còn đầm
ấy gọi là đầm Nhất Dạ (3). Thấy có sự lạ lùng như vậy, nhân dân lập miếu thờ
ngay trên bãi.
Đời sau, Triệu Việt Vương đóng quân trong đầm để chống
lại quân xâm lược nhà Lương. Lúc bị quân giặc vây nguy cấp, Triệu Việt Vương
thiết đàn, cầu thần giúp mình tiêu diệt quân địch để cứu nạn nước, bỗng thấy một
vị thần cưỡi rồng xuống đàn cho Triệu Việt Vương một cái vuốt rồng và dặn:
“Ngươi cắm cái vuốt này lên chỏm mũ đầu mâu thì đi đến đâu, giặc sẽ tan đến
đấy”. Nói xong, thần cưỡi rồng bay vụt lên trời. 
Theo lời thần dạy, Triệu Việt Vương cắm vuốt rồng lên
chỏm mũ, thấy sức khỏe tăng lên bội phần, trí óc cũng sáng suốt, thanh thế ngày
một lớn, mới đem quân phá vòng vây, chém được tướng giặc là Dương Sàn. Quân xâm
lược nhà Lương bị tan vỡ, phải rút khỏi đất nước Việt Nam. 


Vũ Ngọc Phan kể 

(1). Bây giờ thuộc huyện Châu Giang (trước thuộc Bắc
Ninh, nay thuộc Hưng Yên).

(2) Bây giờ thuộc huyện Khoái Châu, Hưng
Yên.

(3). “Nhất dạ” nghĩa là một đêm. 

LƯU Ý : Trong tất cả các truyền thuyết về thời Hùng Vương , đều luôn
có niên đại của Vua Hùng Vương thứ …. ( dienbatn )

Đền Chử Đồng
Tử

Vị trí:
Đền Chử Đồng Tử bao gồm 2 đền: đền Đa Hòa thuộc thôn Đa Hoà, xã Bình Minh, và
đền Dạ Trạch thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, Huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng
Yên.
Đặc điểm: Cả hai ngôi đền đều thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử
và nhị vị phu nhân.
 Đền thờ Chử Đồng Tử có ở nhiều nơi trên đất nước Việt
Nam. Tại huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên, cách Hà Nội chừng 25km theo đê sông
Hồng, có hai ngôi đền thờ Đức thánh Chử Đồng Tử, một ngôi đền nằm ở địa phận
thôn Đa Hoà, xã Bình Minh, bên dòng sông Hồng nhìn ra bãi Tự Nhiên nơi nàng công
chúa Tiên Dung xinh đẹp, con gái vua Hùng thứ 18 kỳ ngộ và nên duyên với chàng
Chử nghèo khó; ngôi đền thứ hai thuộc địa phận thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, nơi
chàng Chử cùng nhị vị phu nhân hoá về trời.
Tuy hai ngôi đền đều thờ đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị
phu nhân, kiểu dáng kiến trúc truyền thống nhưng có sự khác biệt đáng
kể.
Ngôi đền Ða Hoà (được nhà nước xếp hạng di tích văn hoá
năm 1962) nằm trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng hình chữ nhật có diện tích
18.720m² , cảnh quan đẹp, mặt quay hướng chính tây nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên.
Tổng thể kiến trúc có 18 ngôi nhà mái ngói cổ như 18 con thuyền mũi cong tượng
trưng cho 18 đời vua Hùng.
  Ngọ môn gồm 3 cửa. Cửa chính là toà nhà 3 gian cao rộng,
trên đỉnh nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt (chỉ mở cửa vào đại lễ). Hai cửa bên để
đón khách gần xa. Qua sân Ðại là đến Ðại tế, toà Thiêu hương, cung Ðệ Nhị, cung
Ðệ Tam và cuối cùng là Hậu cung. Toà Thiêu hương có kiến trúc cao, thoáng, trang
nghiêm. Các đầu đao, bờ nóc chạm trổ tinh vi, đắp gọt tỉ mỉ, màu sắc rực rỡ cùng
nhiều hình trang trí khác như rồng, sư tử. Cửa võng ở cung Ðệ nhị đều được chạm
hình chim phượng, hoa cúc mãn khai và các hoa quả được sơn son thiếp vàng lộng
lẫy. Ðặc biệt các pho tượng đức thánh Chử Ðồng Tử và phu nhân được đúc bằng đồng
rất đẹp.
Hiện nay đền Ða Hoà còn bảo tồn được nhiều di vật quý
hiếm, trong đó có đôi lọ Bách thọ (một trăm chữ thọ không chữ nào giống chữ nào,
khắc trên thành lọ bằng gốm), một cổ vật vô giá của dân tộc.
 Đền Dạ Trạch nằm trong không gian thoáng đãng cạnh đầm
Dạ Trạch (được nhà nước xếp hạng di tích năm 1989). Kết cấu chính từ ngoài vào
trong gồm có lầu chuông, hồ bán nguyệt, qua sân là đến điện thờ gồm ba toà nhà.
Toàn bộ nội, ngoại thất, kiến trúc ngôi đền toát lên nét cổ kính, linh
thiêng.
Lễ hội Chử Đồng Tử được tổ chức từ ngày 10 đến 12 tháng
hai âm lịch hàng năm ở cả hai ngôi đền này. ( Sưu tầm ) .
dienbatn xin chu thích câu : Cả hai ngôi
đền đều thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân. Hai vi phu nhân của Chử
Đồng Tử ở đây là : 
Tiên Dung và Nội Trạch
Tây Cung ( Sự tích Chử Đồng Tử: Chử Đồng Tử quê ở Đa Hòa, H. Đông An, đạo Sơn
Nam, sau là H. Khoái Châu, Hưng Yên, nhà nghèo, nhưng thông minh, tuấn tú, làm
nghề câu cá ở bến Chử Gia. Công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng dạo thuyền đi
chơi, qua bến Chử Gia, gặp Chử Đồng Tử, hai người lấy nhau. Đồng Tử lại lấy Tây
Cung Tiên Nữ làm vợ hai. Hùng Vương được tin, sai quân đi bắt Tiên Dung và Chử
Đồng Tử. Nhưng qua một đêm, khi đội quân đó tới nơi thì cả vợ chồng Chử Đồng tử
cùng cung điện, lâu đài của họ đều đã biến mất. Chỗ đất cũ chỉ còn là một cái
đầm, nay là đầm Dạ Trạch. – Trích từ Chử Đồng Tử cập Tiên Dung Tây cung nhị vị
tiên Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn năm Hồng Phúc thứ
nhất (1572). Sao lại năm Vĩnh Hựu 2 (1730) theo bản chính của Bộ Lễ. 1 bản viết,
26 tr., 27 x 16. A. 2468.

Paris. EFEO. MF. I/1/74.
) Theo Hưng Yên tỉnh nhất thống chí ( A.963, 14  DNNTC(
A. 69/4 ), Bắc thành địa dư chi lục ( A.1565, 111a) , Đồng Khánh địa dư chí ( A.
537/8 ) , ĐẠI VIỆT ĐỊA CHÍ ( A.973/1, 25a ) có viết : “…Riêng ở đền Đa Hòa ,
có thêm huyền tích : ở làng Đông Minh Huyện Đông Yên có người con gái xinh đẹp,
một hôm đi làm đồng gặp mưa to gió lớn , khi tạnh mưa thì biến mất . Chử Đồng Tử
Đế Quân báo mộng cho biết đã đón người con gái ấy về Trời làm vợ thứ gọi là Hữu
Hoàng hậu “.
 Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và
kết thúc vào 258 TCN. Tổng cộng 2622 năm . Nếu theo Tây lich hiện nay là năm
2008 thì Thế đại các Vương Triều Vua Hùng từ khi kết thúc đến nay là 2266 năm .
Còn theo Việt lich thì năm nay là năm 4887.
 GIỚI THIỆU VỀ NÚI NAM GIỚI . Núi Nam Giới ở trên bờ biển xã
Dương Luật , Huyện Thạch Hà . Ngày trước phía Nam nước ta giáp giới nước Chiêm
Thành , nên đặt núi là Núi Nam Giới ( Dân địa phương còn gọi là Núi Bể ) . Mạch
đi từ núi Nhật Lệ lại , cao lớn , đẹp đẽ . Nơi cao nhất của núi phía Đông Bắc
như trán Rồng . Liền ở dưới có một dải sống núi như mũi Rồng . Hai bên tả hữu có
hai tảng đá tròn như mắt Rồng . Dưới mũi đột ngột nổi lên một ngọn núi tròn như
hình mũi Rồng ( Long chuẩn ) . Dưới đầu mũi có một cái ao Trời rộng độ vài mẫu
như miệng Rồng , sâu thăm thẳm . Bốn bên ao nước , cỏ lầy lội không thể vào được
. Hai bên ao có hai ngọn nhánh ôm lại như râu Rồng Nước ao chảy quanh co trong
đó ra phía Bắc , ra biển rồi đổ xuống . Nhánh núi bên trái thấp xuống chạy ra
đến bể thì đột ngột nổi lên một ngọn chắn ngang , sóng gió đánh vào như muôn
tiếng sấm , gọi là ngọn Long Ngâm ( Cũng gọi là Núi Sót hoặc mũi Sót . Lịch
Triều hiến chương loại chí gọi là núi Thù Sơn ) . Trên bờ ao có hai nên nhà .
Tục truyền vào thời Hùng Vương , Chử Đồng Tử và Tiên Dung tu Đạo ở đấy , gọi là
núi Quỳnh Viên . Lê Thánh Tông Hoàng Đế đi tuần du phương Nam có câu thơ
:
 ” Danh Sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên ” ( Kể về núi danh
tiếng , còn nói đến núi Quỳnh Viên xưa ” .
 Nhưng sự việc hoang đường ấy không đáng tin , nên nhà
lại không phải là vật ngàn , vạn năm gì . Xét Sử Ký Toàn Thư : Năm Thuận Thiên
thứ 6 [ 1025] Lý Thái Tổ xuống chiếu , lập ra trại Định Phiên ở biên giới phía
Nam , lấy quản Giáp Lý Thai Giai làm trại chủ , thì hai nền nhà ấy có thể là nền
trại . Ngọn núi phía Tây còn có miếu thờ Vũ Mục công Lê Khôi ( Lê Khôi , con
người anh thứ hai của Lê Lợi , làm đến chức Kiểm hiệu tư không bình chương sự ,
đi đánh Chiêm Thành về , chết tại Nghệ An , tên thụy là Vũ Mục ) . Thám Hoa
Nguyễn Như Đổ , người Huyện Thanh Đàm ( Thanh Trì – Hà Nội ) soạn bài ký khắc
vào đá ở miếu . Về phía Nam vài dặm có suối Hau Hau , nước rất ngon ngọt . Trong
những tháng mùa hè , dân quanh vùng ghé thuyền vào chân núi bắc máng tre dẫn
nước vào thuyền chở đi bán . Những người quanh vùng đều lấy làm quý
.
 Sách Ốc lâu Thoại có bài thơ vịnh núi Nam Giới
:
Phiên âm : Hồng Đức Nam tuần nhật
.
 Linh trường ngự chế thi
.
Thùy chi Nam Giới hải
.
Diệc hữu thạch Long nhi
.
Tị bàng tình khai giáp
,
Tu phân khẩu hối trì
.
 Như Long nguyên bất thiểu
,
Tao ngộ tự nam kỳ
.
 Dịch nghĩa :Ngày Vua Hồng Đức đi tuần du ở phương
Nam ,
 Vua đề thơ ở Linh Trường
.
Mói biết biển Nam Giới
,
Cũng có con Rồng đá
.
Mũi ngăn đôi con người theo hiểm núi
,
 Râu Rồng chia ra nơi miệng Rồng thành
ao .
 Hình tượng đá giống Rồng không hiếm
,
 Nhưng gặp gỡ như thế này cũng là khó
.
 Dịch thơ : Thủa Vua Hồng Đức Nam chinh
,
Ngự thi còn dấu tại Linh Trường này
.
 Cửa Nam Giới chính là đây
,
 Men theo cửa bể , núi xây hình Rồng
.
 Kia là chiếc mũi cong cong
,
Râu Rồng ôm lấy miệng Rồng là ao
.
Núi Rồng thiên hạ cũng nhiều
,
Nhân duyên gặp gỡ là điều khó thay
.
( Mai Xuân hải dịch )
.
 ( Trích trong NGHỆ AN KÝ của BÙI DƯƠNG LỊCH
).
 Ghi chú : Mặc dù Bùi Dương Lịch cho truyền thuyết nền
nhà của Chử Đồng Tử và Kim Dung là hoang đường , nhưng theo dienbatn , biết đâu
trại của Lý Thái Giai cũng làm trên nền cũ nơi Chử Đồng Tử và Kim Dung học Đạo .
Mặt khác chi tiết về thuyền của Chử Đồng tử khi đi buôn có ghé qua lấy nước , có
khả năng là lấy nước tại suối Hau Hau chăng ???
 GIỚI
THIỆU VỀ CỬA SÓT .
 Cửa
Sót ( Nam Giới) , tại nơi giáp giới hai Huyện Thiên Lộc và Thạch Hà , nước sông
Hà Hoàng chảy ra . Nguồn sông gần và nông , nước triều mặn dâng ngược rất xa .
Cửa biển sâu rông . Ngày trước các thuyền buôn của người tàu sang ta đều vào cửa
ấy . Lê Thánh Tông tuần thú phương Nam , có thơ vịnh cửa Nam Giới rằng
:
 Nam Giới triều đầu tuyết loạn phiên
,
Đình châu bả lãm vận vân căn . Kiểu biên thương bạc Long Tê hỏa ,Châu ngoại nhân cao độc ty côn .Di miếu mạn truyền kim Vũ Mục ,Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên .Xạ lai ngẫu tỉnh giang hồ mộng Chuẩn nghĩ thùa xà khấu đế hôn . Dịch
nghĩa :
Sóng đầu Cửa Sót như ntuyết bay tán loạn
,
Dừng thuyền và buộc dây vào mây .Bến cầu các thuyền buôn đốt lửa ở Long Tê
.
Ngoài bãi người dân phơi những chiếc quần cộc
.
Miếu còn lại ngày nay truyền rằng thờ Vũ Mục
,
Kể núi có danh tiếng , còn gọi là Vườn Quỳnh xưa
,
Vừa đến nơi thì chợt tỉnh mộng giang hồ ,Nghĩ mình đang cưỡi bè lên gõ cửa Thượng Đế
.
Dịch
thơ :
 Nam Giới triều dâng , tuyết rộn
bay,
Dừng chèo , dây gấm buộc chân mây .Bên cầu , thuyền Khách ” cao Rồng” thắp,Ngoài bãi ven rào ” mũi nghé ” phơi .Vũ Mục đời nay , tòa miếu dựng .Quỳnh Viên chuyện cũ núi Tiên ngồi .Mộng giang hồ bỗng tàn đâu hết ,Tưởng cưỡi bè lên gõ cửa Trời .( Ngô Ngọc Linh dịch ) [ Trích từ NGHỆ AN KÝ của Bùi
Dương Lịch ] .
 Bài thơ Lê Thánh Tông khắc tại đền thờ Lê Khôi ( Ảnh dienbatn chụp
)
 

Posted Image


Phần này dienbatn xin giới
thiệu một bài viết của NGUYỄN VŨ TUẤN ANH đăng trong cuốn 
Thời Hùng Vương
qua truyền thuyết và huyền thoại
 
về Chử Đồng Tử – Tiên Dung và phản biện của ông đối với Thiền sư Lê
mạnh Thát . Đây là ý kiến của riêng Nguyễn Vũ Tuấn Anh , dienbatn xin phản biện
ở phần sau .

Thời Hùng Vương qua truyền
thuyết và huyền thoại – Nguyễn Vũ
Tuấn Anh
Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

NXB
Văn hóa thông tin
Sự tích Đầm Nhất
Dạ

Sự hình thành tín ngưỡng và y phục của người Lạc
Việt

Vấn đề nội dung truyền thuyết
“ Đầm Nhất Dạ“
 

Truyền thuyết Đầm Nhất Dạ nói về một trong bốn vị thần hộ quốc vào
hàng bất tử trong thần thoại Việt Nam. Bốn vị thần đó là: Phù Đổng Thiên Vương,
Chử Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh và Công chúa Liễu Hạnh. Trừ Công chúa Liễu Hạnh
thì ba vị thần bất tử đều là nam thần và có nguồn gốc từ thời Hùng
Vương. 

Do đó truyền thuyết về Chử Đồng
Tử, một trong những truyền thuyết phổ biến trong dân gian, chắc chắn không phải
chỉ để giải thích về nguyên nhân cái đầm nằm ở Hải Dương bây giờ. Vì vậy, muốn
có một sự phân tích chu đáo về truyền thuyết này cũng phải lược lại những yếu tố
do đời sau thêm vào, để tìm đến nội dung ban đầu đích thực của nó. Trước hết,
xin độc giả xem lại toàn bộ truyền thuyết của truyện “Nhất Dạ Trạch” trong Lĩnh
Nam chích quái (sách đã dẫn):
Truyện Nhất Dạ trạch
Hùng
Vương truyền tới đời thứ III (Truyền thuyết Hùng Vương – thần thoại Vĩnh Phú,
sách đã dẫn và truyền thuyết còn lưu truyền trong dân gian nói: Vào đời Hùng
Vương thứ XVIII) thì hạ sinh được con gái tên là Tiên Dung – Mỵ Nương đến tuổi
18 dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy chồng, chỉ mải vui chơi chu du khắp thiên hạ.
Vua cũng không cấm. Mỗi năm vào khoảng tháng hai, tháng ba lại sắm sửa thuyền bè
chèo chơi ở ngoài bể vui quên trở về.

Hồi đó, ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân
sinh hạ được Chử Đồng Tử (có nghĩa là người con trai ở bến sông), cha từ con
hiếu. Nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn một khố vải cha con ra vào thay
nhau mà mặc. Kịp tới lúc cha già ốm, bảo con rằng: “Cha chết cứ để trần mà chôn,
giữ khố lại cho con”. Con không nỡ làm theo, dùng khố mà liệm bố.

Đồng
Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở bên sông, hễ nhìn thấy thuyền
buôn qua lại thì đứng dưới nước mà ăn xin, rồi lại câu cá độ thân. Không ngờ
thuyền Tiên Dung tới, chiêng trống đàn sáo, kẻ hầu người hạ rất đông. Đồng Tử
rất kinh sợ.

Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm ba cây. Đồng Tử
bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên mình. Thoắt sau,
Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây màn trướng ở khóm lau mà
tắm. Tiên Dung vào màn cởi áo dội nước, cát trôi mất, trông thấy Đồng Tử. Tiên
Dung kinh sợ hồi lâu, thấy con trai bèn nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay
lại gặp người này, cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là trời xui nên
vậy. Người hãy đứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng ta xuống thuyền
mở tiệc ăn mừng”. Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa
từng có. Đồng Tử nói là tại sao mà lại nấp ở đấy. Tiên Dung ta thán rồi ép làm
vợ chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: “Đây là do trời chắp nối, sao cứ chối
từ?”.

Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng Vương nói: “Tiên Dung
không thiết danh tiết, không màng của cải của ta, ngao du bên ngoài, hạ mình lấy
kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa”.

Tiên Dung nghe thấy, sợ
không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ, lập phố xá, cùng dân buôn bán, dần
dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ Thám, còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương
ngoại quốc tới buôn bán, thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu
nói rằng: “Quí nhân bỏ một dật vàng ra ngoài biển mua vật quí, sang năm có thể
thành mười dật”. Tiên Dung cả mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng chúng ta do trời tác
thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho, hãy đem vàng cùng phú thương ra hải ngoại
buôn bán”.

Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường
ghé thuyền ở đó lấy nước ngọt. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên gọi là
Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử lưu học ở đó, giao hàng cho lái
buôn mua hàng. Sau lái buôn quay lại am chở Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây
trượng và một chiếc nón (Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam thì là “cây gậy và
chiếc nón” – người viết.) mà nói rằng: “Linh thiêng ở những vật này
đây”.

Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật, Tiên Dung giác ngộ, bỏ phố
phường, cơ nghiệp, rồi cả hai tìm thầy học đạo. Trên đường viễn hành, trời tối
mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ ở giữa đường, cắm trượng, che nón mà
trú thân. Đến canh ba thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài
dinh thự, phủ kho miếu xã, vàng bạc châu báu, giường chiếu chăn màn, tiên đồng
ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước mắt. Sáng hôm sau ai trông cũng kinh lạ,
đem hương hoa, thức ăn quý tới mà xin làm bầy tôi. Có văn võ bá quan chia túc
quân vệ, lập thành nước riêng.

Hùng Vương nghe tin cho rằng con gái làm
loạn, bèn sai quân tới đánh. Quần thần xin đem quân ra phân nhau chống giữ. Tiên
Dung cười mà bảo: “Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó thôi, sinh tử tại
trời, há đâu dám chống lại cha, chỉ xin nhận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm
chém giết”.

Lúc đó dân mới đến đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân cũ ở lại.
Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì trời tối không
kịp tiến quân.

Nửa đêm gió thổi bay cát nhổ cây, quan quân hỗn loạn.
Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay tản lên trời, chỗ đất đó tuột
xuống thành cái chằm lớn. Dân bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi chằm là
chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù (bãi Màn
Trướng), gọi chợ là chợ Thám còn gọi là chợ Hà Lương.

Sau vua Hậu Lương
là Diễn sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược phương Nam. Lý Nam Đế sai Triệu
Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục sai quân nấp ở chằm. Chằm sâu mà rộng,
lầy lội, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp
lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn năm không hề
đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: “Ngày xưa đây là chằm một đêm bay về
trời, nay lại là chằm một đêm cướp một người”.

Nhân gặp loạn Hầu Cảnh
vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tùy tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ
tốt. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần
nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: “Hiển linh còn đó,
người có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn”. Dứt lời, tháo vuốt rồng cho
Quang Phục, bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt”.
Đoạn bay lên trời mà đi.

Quang Phục được vật đó, reo mừng vang động,
xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn trước trận, giặc Lương
phải lùi. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Việt Vương, xây thành ở
Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh. (Có chỗ viết là Châu Quỳnh Viên Sơn tức Kim Mộc Sơn ở
cửa Nam Giới, huyện Thạch Hà).

Như vấn đề sự tam sao thất bản
đã trình bày ở trên, qua “Sự tích Đầm Nhất Dạ”, bạn đọc có thể nhận ngay những
yếu tố do đời sau thêm vào, đó là:

@ Toàn bộ đoạn nói về cuộc
chiến do ngài Triệu Quang Phục lãnh đạo với quân nhà Lương.

@ Chử Đồng
Tử đi học đạo Phật ở núi Quỳnh Viên. Được sư thầy tặng bảo bối là cây trượng và
chiếc nón. Sau đó về giảng lại đạo Phật cho Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ đạo
Phật.

Đây là một yếu tố do đời sau thêm vào. Bởi vì lịch sử Phật giáo đã
ghi nhận: Phật giáo truyền vào Giao Chỉ ở đầu thế kỷ thứ II sau CN, tức là sau
khi kết thúc thời Hùng Vương hơn 400 năm. Do đó, không thể Tiên Dung và Chử Đồng
Tử đi học đạo Phật được, cho dù đó là cuối thời Hùng Vương thứ XVIII. Hơn nữa,
giáo lý của đạo Phật nhằm hướng dẫn con người trở về với bản tính – còn gọi là
Như Lai tạng tính – để đi đến một sự hòa nhập với bản nguyên chân như, tức là
đạt đến sự giải thoát hoàn toàn (cõi Niết Bàn), không thể có việc sử dụng bảo
bối, bùa phép thần thông biến hóa như đạo Giáo. Vì vậy, có thể khẳng định rằng
việc đưa đạo Phật vào nội dung “Sự Tích Đầm Nhất Dạ” hoàn toàn do đời sau thêm
vào. Trong đền thờ ngài Chử Đồng Tử cũng có biểu tượng cây gậy và chiếc nón, chứ
không phải cây thiền trượng của Phật giáo.

Một yếu tố nữa thể hiện quan
điểm của Hán Nho, đặc biệt là Tống Nho cũng được gán vào trong câu chuyện này.
Đó là khi nghe tin Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử, vua Hùng Vương nói: “Tiên Dung
không thiết danh tiết…”. Ý niệm về danh tiết chỉ bắt đầu từ ý thức hệ trong xã
hội phong kiến Trung Hoa kể từ khi Nho học có ảnh hưởng mạnh, đặc biệt là Tống
Nho. Trước đó, vào thời Xuân Thu Chiến quốc, ý niệm này không được tôn trọng
(thời điểm ra đời của cuốn Lĩnh Nam chích quái là lúc Nho giáo được xiển dương
dưới triều Hồng Đức và ảnh hưởng của Phật giáo trước đó là quốc giáo vẫn còn rất
mạnh).

Sau khi loại trừ yếu tố Hán Nho và Phật học nói trên, thì cốt
truyện này được tóm lược để tìm đến ý tưởng của tác giả như
sau:

@ Chử Đồng Tử rất có hiếu và nhà nghèo, chỉ có một cái khố
duy nhất.
@
Công chúa đi du ngoạn, tắm ở mé sông, gặp Chử Đồng Tử trong một tình trạng khó
xử. Hai người lấy nhau.

@ Họ ra riêng và tạo dựng được cơ nghiệp, đem
lại sự trù phú cho cả một vùng.

@ Chử Đồng Tử đi học đạo, đắc đạo và
truyền lại cho Tiên Dung.

@ Hai vợ chồng bỏ cơ nghiệp đi học đạo tiếp
tục. Do thần thông, tạo dựng nên một quốc gia riêng.

@ Vua Hùng đem quân
tới. Toàn bộ nhà cửa thành quách biến mất chỉ trong một đêm. Hai vợ chồng bay
lên trời.

Với nội dung như trên thì yếu
tố đầu tiên dễ nhận thấy là: sự phù hoa chỉ là hư ảo. Chử Đồng Tử rất nghèo “cái
khố không có mà mặc”. Lấy được công chúa, tự tạo nên sự phú túc cho mình. Bỏ đi
học đạo. Tạo nên sự phú quý tột đỉnh (làm vua). Rồi lại bỏ đi hết để vào cõi bất
tử. Có lẽ nội dung câu chuyện đầy tính huyền thoại này có một số yếu tố rất gần
với quan niệm Phật giáo. Do đó, đã có sự thay thế giữa vị đạo sĩ (như “Truyền
thuyết Trầu Cau” – Đạo sĩ họ Lưu) bằng vị Phật hoặc sư theo đạo Phật. Nhưng nếu
là đạo sĩ tất nhiên không phải là tín đồ Lão – Trang mà là chỉ nói tới con người
uyên bác (sĩ) và cái học hướng tới một đỉnh cao nào đó (đạo). Về sau từ đạo sĩ
để chỉ những người tu tiên. Như vậy, với nội dung gần gũi thì “Truyền thuyết Đầm
Nhất Dạ” nói về sự vô thường của cuộc đời và đề cao giá trị tâm
linh.

Câu chuyện này về mặt nghệ thuật còn có những hình tượng và kết
cấu rất huyền ảo, độc đáo. Hình ảnh người nghèo đến nỗi không có cái khố để mặc,
lấy một cô công chúa kiều diễm trong một hoàn cảnh đặc biệt. Đây là một sự tuyệt
đỉnh của tính hư cấu hợp lý, hầu như không có khảo dị cho những trường hợp tương
tự ở bất cứ một truyện cổ tích nào trên thế giới. Trong những truyện cổ tích phổ
biến của thế giới, chúng ta hay gặp những hình ảnh: một chàng trai nghèo khổ nào
đó, tình cờ gặp bầy tiên tắm bên suối, rồi giấu quần áo, cánh… để lấy làm vợ
thì nhiều vô kể. Nhưng để đạt đến quan hệ vợ chồng với lối kết cấu đó lại nặng
tính cưỡng chế, thoả mãn dục vọng. Hoặc cũng có nhiều chuyện cổ tích miêu tả
những chàng trai con nhà nghèo, gặp may mắn, hay nhờ sự hỗ trợ của thần thánh,
lập chiến công rồi lấy công chúa… Còn ở hoàn cảnh của Chử Đồng Tử và Tiên Dung
thì lại có sự hài hòa của bản tính tự nhiên của con người với những giá trị đạo
lý giàu chất nhân bản. Mặc dù trước đó, Chử Đồng Tử nghèo đến mức khó có thể lấy
vợ; công chúa Tiên Dung thì lại không muốn lấy chồng. Đó cũng là một cách giải
quyết tài tình, có hậu cho một người con chí hiếu. Như vậy, qua đoạn mở đầu với
những hình ảnh đối lập đầy ấn tượng giữa sự phú quý tột đỉnh của công chúa Tiên
Dung và cái nghèo nàn đói khó đến cùng cực của Chử Đồng Tử; diễn biến sự kiện
đầy kịch tính và sự hư cấu cao độ, nhưng hoàn toàn hợp lý và giầu chất nhân bản;
đã cho thấy trí tưởng tuợng rất phong phú, giầu chất lãng mạn của những tác gia
thời Hùng Vương. Có thể nói, những tác gia đời Hùng đã đạt đến trình độ bậc thầy
về tuyệt kỹ trong văn học (rất tiếc trải qua hơn 2000 năm thăng trầm của lịch
sử, câu chuyện chỉ còn lại cốt lõi của nó; nếu không, chắc chắn sẽ vô cùng hấp
dẫn).

Những vấn đề cần phải minh chứng liên quan đến thực trạng xã hội
Văn Lang trong truyện này, bắt đầu từ hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ nhất, đó
chính là sự chí hiếu của Chử Đồng Tử: nhường cái khố cuối cùng cho cha để chấp
nhận “Nghèo đến không có khố mà mang”. Câu thành ngữ vẫn còn được phổ biến trong
dân gian Việt Nam cho đến nửa đầu thế kỷ 20 này, phải chăng có xuất xứ từ “Sự
tích Đầm Nhất Dạ” . Từ đó đặt ra một vấn đề: người giàu mặc cái
gì?

Chử Đồng Tử và Tiên DungTranh lụa màu
của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh

Chử Đồng
Tử – Tiên Dung

Tạo dựng tín ngưỡng thời Hùng
Vương

Chử Đồng Tử là một trong bốn vị
thần hộ quốc thuộc hàng bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, đương nhiên
không phải vì lấy công chúa Tiên Dung và làm phò mã của vua. Ông xuất thân từ
địa vị một người nghèo và đạt đến đỉnh cao của sự phú quý, nhưng vẫn sẵn sàng bỏ
hết để tầm sư học đạo. Chỉ cần như vậy, cũng đủ để ông có sự tín nhiệm của người
đương thời với những giá trị tinh thần mà ông hướng
tới.
 


Lý Ngư vọng NguyệtTranh dân gian Hàng
Trống
Phải chăng
đây là một bức tranh

mang màu sắc Đạo
giáo

của Chử Đồng Tử, miêu tả
những ảo vọng

của cuộc đời qua bòng trăng
soi đáy nước?

Qua cuộc đời của ông cho
thấy ít nhất căn bản quan niệm nhân sinh quan của Chử Đồng Tử là: của cải thế
nhân và sự thăng trầm của cuộc đời chỉ là phù du. Trong truyền thuyết Đầm Nhất Dạ nói tới sự kiện Chử Đồng Tử, Tiên Dung đắc đạo và tạo
dựng một vương quốc hư ảo cho mình bằng quyền năng của thần thánh. Đây là hình
ảnh của một thế giới tâm linh tạo nên tín ngưỡng của người dân Lạc Việt thời
Hùng.

Hình ảnh cuối cùng của truyền thuyết này là lâu đài, cung điện
nguy nga biến mất chỉ trong một đêm, để lại cho thế nhân một đầm nước long lanh,
phản chiếu những hình ảnh hư ảo của cuộc đời qua hàng thiên niên kỷ.

Như
những chương trên đã trình bày: thuyết Âm Dương Ngũ hành là hệ tư tưởng vũ trụ
quan chính thống của thời Hùng Vương, giải thích từ bản nguyên vũ trụ là Thái
Cực đến sự vận động của nó là Âm Dương Ngũ hành. Tính bao trùm về mọi mặt và sự
ứng dụng rộng rãi trên thực tế đã chứng tỏ sự thuyết phục của học thuyết này. Do
đó, không thể có cơ sở từ ngay trong tâm lý để phát sinh và tồn tại một hệ tư
tưởng tôn giáo vượt ra ngoài giá trị của nó. Nhưng về nhân sinh quan, xuất phát
từ những giá trị đạo lý đề cao tình người và tính nhân bản, cộng với tri thức
sâu sắc trong thiên văn qua sự vận động của những tinh tú ảnh hưởng đến chu kỳ
sinh học của con người – tức là sự chi phối của sức mạnh thiên nhiên. Đồng thời
nền văn minh đó cũng thừa nhận khả năng của con người trong sự tương tác giữa
con người với thiên nhiên (Sự tích Dưa Hấu). Do đó, tín ngưỡng mà ngài Chử Đồng
Tử và công chúa Tiên Dung tạo dựng, chỉ có thể hướng con người vươn tới sự hòa
nhập với thiên nhiên hoặc đạt tới những quyền năng của thiên nhiên trong sự vận
động của Âm Dương Ngũ hành. Trên thực tế, truyền thuyết về các thánh thần ở Việt
Nam cho thấy: mỗi thần đều có chức năng riêng trong việc chi phối vận động của
tự nhiên. Như: Thiên Lôi làm sấm sét, Long vương làm mưa…Sự khác biệt so sánh
với hệ thống đa thần của các nền văn minh cổ đại khác như Ai Cập, Hy Lạp
là:

@ Các thần của hệ thống đa thần trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian
Việt Nam không có quyền, hoặc quyền năng rất hạn chế, trong việc quyết định thay
đổi định mệnh con người. Ngược lại, trong thần thoại Ai Cập , Hy Lạp hầu như mỗi
vị thần đều có quyền năng thay đổi số phận con người.

@ Tổ chức trong hệ
thống bách thần ở Việt Nam rất chặt chẽ, có thứ bậc; trong đó Ngọc Hoàng Thượng
đế có quyền năng tối cao. Ngược lại, trong thần thoại Hy Lạp quyền năng của thần
Dớt rất hạn chế với các vị thần dưới quyền. Hoặc trong thần thoại Ai Cập, quyền
năng của các vi thần thượng đẳng như : thần Rê, thần Tho… gần ngang
nhau.Điều này là cơ sở để chứng tỏ hệ thống thần thoại Việt Nam
đã ra đời rất lâu sau khi hình thành một quốc gia có tổ chức chặt chẽ. Từ đó,
trên cơ sở của những giá trị tư tưởng chính thống chi phối toàn bộ xã hội Văn
Lang là thuyết Âm dương Ngũ hành và cuộc đời của ngài Chử Đồng Tử, thì hoàn toàn
có cơ sở để đặt giả thuyết về khả năng hình thành một tín ngưỡng đa thần vào
cuối thời Hùng Vương mà vị khởi xướng là ngài Chử Đồng Tử. Tín ngưỡng này phản
ảnh thực trạng xã hội Văn Lang ở tính tổ chức và quyền năng hạn chế của các vị
thần, hướng giá trị tâm linh con người trở về với Thái Cực, hoặc đạt tới Thái
Cực để thoát ly khỏi cuộc sống đầy vướng bận trần gian.

Hình tượng vua
Hùng đem quân tới mà không có sự trấn áp, đã chứng tỏ vua Hùng không thừa nhận
những giá trị tín ngưỡng được hình thành từ chính những giá trị tư tưởng chính
thống của Văn Lang, nhưng cũng không phản ứng mạnh mẽ. Mặc dù như vậy, nhưng sự
hiện diện của công chúa Tiên Dung – con vua Hùng – bên cạnh Chử Đồng Tử, vị sáng
lập ra một hệ thống tín ngưỡng của người Lạc Việt cũng chứng tỏ khả năng phát
triển sâu rộng của nó trong xã hội Văn Lang.
Đạo đức kinh và tín ngưỡng
của người Lạc Việt

Hình ảnh cuối cùng trước khi vào cõi bất tử của
ngài Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung là chiếc nón và cây gậy đã tạo nên một
vương quốc tâm linh hư ảo của ngài. Đây chính là hình tượng của sự vươn lên đạt
tới Thái Cực, tức là sự hòa nhập hoàn toàn với vũ trụ (theo truyền thuyết kể lại
thì không phải ông sư tặng cho Chử Đồng Tử cây trượng, mà là tiên tặng cho cây
gậy và cái nón).

Trên cơ sở vấn đề được đặt ra, đã trình bày ở phần trên
về giá trị tín ngưỡng của ngài Chử Đồng Tử; nếu so sánh với tư tưởng của Lão tử
qua cuốn “Đạo Đức Kinh” có thể đi đến một nhận xét về sự
tương đồng giữa tư tưởng của Lão tử và Chử Đồng Tử. Trong “Đạo Đức
Kinh”
 – tương truyền là của Lão tử – có thể cho rằng: nếu “Mẹ
tròn, con vuông”
 là Lý của Thái Cực và sự khởi nguyên của Âm Dương theo
quan niệm vũ trụ quan Văn Lang, thì Đạo Đức Kinh chính là Lý
của Âm Dương. Bạn đọc có thể tìm thấy những ý tưởng tương tự qua những đoạn văn
sau đây:

Sang (Dương) lấy
hèn
 (Âm) làm gốc; Cao (Dương) lấy
thấp
 (Âm) làm nền (*).

Hoặc:

Không muốn được
quí như ngọc
 (không Dương), bị khinh như sỏi (tất Âm) (*)

* Chú thích: trích
dẫn trong “Lão Tử – Đạo Đức Kinh”. Nguyễn Hiến Lê. Nxb VHTT
1994.



Lão tử

Nếu như tư
tưởng “Đạo Đức Kinh” hướng con người trở về với bản thể thì
cuộc đời và sự nghiệp của ngài Chử Đồng Tử, trong một bối cảnh xã hội đã coi
thuyết Âm Dương Ngũ hành có nguồn gốc Thái Cực (Đạo) là ý thức hệ chính thống
thì hoàn toàn có khả năng dẫn đến một lý thuyết tương tự.

Từ trước thời
nhà Tần và kết thúc vào năm 208 tr.CN – ngọai trừ Đạo Đức Kinh – các nhà Lý học
Trung Hoa không có trước tác nào nói đến sự khởi nguyên của vũ trụ. Mặc dù theo
truyền thuyết và cổ thư Trung Hoa có đặt vấn đề này trong kinh Dịch: Thái Cực
sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Nhưng đây chỉ là một hiện tượng,
không thể coi là một học thuyết. Trong Đạo Đức Kinh, Lão tử bàn đến những vấn đề
căn nguyên của vũ trụ. Ngài quan niệm về khởi nguyên của vũ trụ: Không – là cái bản thủy của trời đất;  – là mẹ sinh ra vạn vật”

(Vô – danh thiên hạ chi thủy. Hữu – danh thiên hạ chi mẫu)
(*)

So sánh quan điểm vũ trụ quan của Lão tử qua đoạn
trích dẫn ở trên với quan điểm vũ trụ quan của Văn Lang qua câu tục ngữ “Mẹ tròn
con vuông” và hình tượng bánh Chưng bánh Dầy thì hai quan điểm này nếu không
phải là hoàn toàn, cũng gần như hoàn toàn trùng khớp.

Thái Cực – Dương
tương ứng với cái “Không” của Lão tử.

Âm – lý của Ngũ hành nằm trong
bánh Chưng là nguồn gốc của vạn vật, tương ứng với cái “Có” là mẹ sinh ra vạn
vật.

Có thể nói rằng: quan điểm vũ trụ quan của Lão tử chính là sự diễn
đạt dưới một hình thức khác quan điểm vũ trụ quan của Văn Lang; hoặc chính là sự
bổ sung làm rõ hơn ý nghĩa của câu tục ngữ “Mẹ tròn con
vuông”
 và hình tượng bánh chưng, bánh dầy.

Nếu như thuyết Âm Dương
Ngũ hành lý giải hiện tượng khởi thủy của vũ trụ thì Lão tử nói về năng lực chi
phối sự vận động, hình thành và phát triển của vũ trụ. Ngài cho rằng năng lực đó
là Đạo và đây là nền tảng cơ bản để hình thành Đạo giáo sau này. Ngài cho
rằng:

“Đạo là cái gì chỉ mập mờ thấp thoáng, thấp thoáng mập mờ mà bên trong
có hình tượng; mập mờ thấp thoáng mà bên trong có vạn vật; nó thâm viễn, tối tăm
mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực và rất đáng tin”
(*).

“Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt; không
thể gọi tên nó lại trở về với cõi vô vật; cho nên bảo là cái trạng không có hình
trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy
đầu, theo nó thì không thấy đuôi” (*).

* Chú thích: trích
dẫn trong “Lão Tử – Đạo Đức Kinh”, sách đã dẫn.

Sự
lý giải về Đạo của Lão tử có thể khẳng định rằng đó là sự lý giải bằng một hình
thức khác ý niệm của Thái Cực từ văn minh Lạc Việt. Văn minh Lạc Việt – qua nội
dung ”Mẹ tròn, con vuông” – quan niệm Thái Cực là thể bản
nguyên của vũ trụ trong đó không có cái “Có” để nói đến
cái “Không”, tràn đầy viên mãn, tức là không có sự phân biệt.
So với ý niệm của Lão tử “Ở trên không sáng, ở dưới không tối,
thâm viễn bất tuyệt”
 hoàn toàn tương ứng với tính không phân biệt, tràn đầy
viên mãn; cũng có thể gọi là “trạng không có hình trạng, tượng
không có vật thể”,
 khó diễn đạt cho nên nói “thấp thoáng mập
mờ”;
 viên mãn tràn đầy cho nên nói “đón nó thì không thấy
đầu, theo nó thì không thấy đuôi”
. Thái Cực là thể bản nguyên của vũ trụ,
gốc của vạn vật, cho nên nói “bên trong có hình tượng” “có vạn
vật”.

Như chương I đã chứng minh: thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về
văn minh Văn Lang đã xuất hiện từ buổi đầu lập quốc, tức là trước Lão tử xấp xỉ
2000 năm. Sự trùng hợp về ý niệm trong hệ tư tưởng vũ trụ quan trong Đạo Đức
Kinh với văn minh Lạc Việt, đã chứng tỏ những vấn đề sau:

@ Phủ nhận tất
cả những tác giả được coi là phát minh ít nhất ra thuyết Âm Dương, khi Lão tử
được coi là người đầu tiên đề xướng quan điểm vũ trụ quan trong xã hội Trung Hoa
cổ đại.

@ Lão tử đã kế thừa từ vũ trụ quan Văn Lang để hướng tới một
nhân sinh quan theo quan điểm của ông và là tiền đề của Đạo giáo. Như vậy đã
chứng tỏ rằng: Lão tử là người có nguồn gốc từ Văn Lang, nhưng đã sang sinh sống
ở phần đất nhà Chu hoặc là Đạo Đức Kinhđược phát hiện sau khi Văn Lang mất
nước.

Đạo Đức Kinh là một tác phẩm từ trước đến nay
vẫn được các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng thuộc về nền văn minh Trung Hoa và
thời điểm ra đời của nó xuất hiện vào thời Xuân Thu Chiến quốc. Nhưng trong xấp
xỉ 5000 từ của Đạo Đức Kinh, không hề để lại một dấu ấn nào thể hiện thời kỳ
lịch sử này của xã hội Trung Hoa. Ngược lại, trong tác phẩm này, ngoài những vấn
đề liên quan đến hệ tư tưởng vũ trụ quan của người Lạc Việt như đã trình bày ở
trên, lại có những dấu ấn của xã hội Văn Lang; có thể lấy làm ví dụ điển hình
cho sự liên quan đến xã hội Văn Lang, đó là câu:

“Bắt dân dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ”
(*)

(*) Chú thích: trích dẫn trong
“Lão Tử – Đạo Đức Kinh”, sách đã dẫn.

Về việc “Chính sự dùng lối thắt nút” đã được trình bày ở chương I, điều
này chỉ có thể khẳng định một cách hợp lý là: đó là công việc 207 của những nhà
lãnh đạo Văn Lang có từ gần 3000 năm tr.CN. Điều này khẳng định rằng Đạo Đức Kinh của Lão tử hoàn toàn là một trước tác có nguồn gốc
từ nền văn minh Văn Lang. Lão tử được coi là tổ của Đạo giáo; do đó hoàn toàn có
cơ sở để cho rằng Đạo giáo chính xuất phát từ nền văn minh này. Hiện tượng “Chính sự dùng lối thắt nút” được nói tới trong Đạo
Đức Kinh
 cũng đồng thời chứng tỏ rằng: Thời Hùng Vương không thể tồn tại
vài trăm năm; bởi vì:

@ Nếu cho rằng Lão tử là người thuộc nhà
Chu thì phải chăng “Chính sự dùng lối thắt nút” của các vua
Hùng ở thời điểm thế kỷ thứ VI hoặc VII tr.CN (theo quan điểm lịch sử mới)
mà “Việt sử lược” nói tới là tiếp thu của nền văn minh Trung
Hoa có từ hơn 3000 năm trước? Đây hoàn toàn là một sự vô lý và không thể lý giải
được sự liên hệ của

nó.

@ Nhưng khi khẳng định Lão tử là người
gốc Lạc Việt, thì thời điểm xuất hiện Đạo Đức Kinh (được coi là tương đương với
Khổng tử hoặc lùi vào thời Chiến quốc?) không thể coi thời Chu Trang Vương tức
là thời điểm lập quốc của Văn Lang (theo quan điểm lịch sử mới về thời Hùng
Vương) là thời thượng cổ được.

Điều này chỉ có thể có một nhận
xét hợp lý, khi cho rằng: đất nước Văn Lang đã tồn tại gần 3000 năm và “Chính sự dùng lối thắt nút” là công việc của những nhà lãnh đạo
Văn Lang có ngay từ buổi đầu lập quốc, tức là thời thượng cổ mà Lão tử nói
tới.

Vào đầu thời Hùng Vương thứ XVIII về thời gian tương đương với sự
xuất hiện “Đạo Đức Kinh” của Lão tử, đồng thời có sự tương
đồng về tư tưởng của Lão – Chử với những hiện tượng liên quan đến văn minh Văn
Lang đã trình bày ở trên. Trong truyền thuyết Việt Nam, Chử Đồng tử và công chúa
Tiên Dung biến mất khi kết thúc câu chuyện và sự xuất hiện huyền ảo của Lão tư,
ở cùng một khoảng thời gian và trong không gian của hai quốc gia láng giềng với
những giá trị tư tưởng gần như hoàn toàn trùng hợp. Do đó, hoàn toàn có cơ sở để
đặt vấn đề về tác giả của Đạo Đức Kinh – nếu do Lão tử viết – thì Lão tử và Chử
Đồng tử chỉ là một người duy nhất. Đây cũng là một vấn đề đã được nhiều học giả
nghi vấn.

Đoạn dưới đây được trích lại trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt
Nam nhận xét của giáo sư Trần Văn Giàu để bạn đọc tham
khảo:

Giáo sư Trần Văn Giàu có viết: “Tư tưởng tín ngưỡng Đạo giáo … sẵn
có từng phần lớn trong nhân dân Việt Nam từ nguyên thủy và trong cả quá trình
lịch sử, người Việt chưa có lúc nào chế tạo được cái tên chung để đặt cho loại
tín ngưỡng đó, riêng những người nghiên cứu nhận thấy tư tưởng tín ngưỡng đó
cùng bản chất với Đạo giáo nên xếp vào một loại vậy
thôi”.

Những luận điểm này giải thích vì sao Chử
Đồng tử được coi là một trong bốn vị thần hộ quốc của người Lạc
Việt.
Dấu ấn của ngài Chử Đồng Tử trong
phong tục của nguời Việt Nam

Dưới thời Hùng Vương, tín ngưỡng
của Ngài Chử Đồng tử có thể được đông đảo người tin theo mà dấu ấn còn để lại
đến tận bây giờ; đó là tục thờ các vị thần với tư cách là một tín ngưỡng, bên
cạnh những vị thần có công trạng với đất
nước.

Hình
ảnh còn lại của tín ngưỡng đầu tiên của dân tộc Việt ngày nay, chính là cây Nêu
trong những ngày Tết ở Việt Nam. Mặc dù truyền thuyết về cây Nêu hoàn toàn thể
hiện dấu ấn của Phật giáo: Đức Phật hiện thân đuổi quỉ cứu người và để lại cây
Nêu. Nhưng tục trồng cây Nêu với tư cách là một tín ngưỡng đặc thù, hơn là một
hệ quả của một giáo lý phổ biến là Phật giáo (chỉ ở Việt Nam, hoặc có thể ở
những vùng ảnh hưởng của văn minh Văn Lang cũ mới có cây Nêu; còn những vùng ảnh
hưởng Phật giáo khác trên thế giới không có tục này). Điều này được lý giải như
sau:

Một trong những giáo lý căn bản của Phật giáo
quan niệm rằng: mọi hậu quả của con người nhận lãnh – hạnh phúc hay đau khổ –
đều có nguyên nhân do chính con người tạo ra trong đời hiện tại hoặc kiếp trước,
gọi là nghiệp báo. Muốn loại trừ nghiệp báo thì phương pháp duy nhất là bản thân
không tác nghiệp. Sự quấy phá của ma quỷ theo quan điểm của Phật giáo cũng là
một loại nghiệp báo. Việc sử dụng

thần thông (cây Nêu) để loại trừ ma
quỷ, hay nói cách khác là sử dụng một phương pháp khác để loại trừ nghiệp báo,
không phải do bản thân tu tập (không tác nghiệp); điều này đi ngược lại giáo lý
căn bản của Phật giáo. Vì vậy, sự tích cây Nêu mang dấu ấn Phật giáo và tục
trồng cây Nêu không thể do các thiền sư tạo dựng và phổ biến. Trong lịch sử Phật
giáo cũng không ghi nhận điều này. Vì vậy có thể khẳng định rằng: tục trồng cây
Nêu là một tín ngưỡng riêng của người Lạc Việt có từ thời Hùng Vương, tồn tại
trong sự che chở bằng dấu ấn của Phật giáo trong thời đô hộ. Có thể truyền
thuyết cây Nêu mang đến dấu ấn Phật giáo có từ thời nhà Minh. Đây là thời kỳ
lịch sử ghi nhận sự đô hộ rất hà khắc, đặc biệt là sự tiêu diệt nền văn hóa Đại
Việt. Do đó, tổ tiên ta vào thời kỳ này, để bảo vệ di sản văn hóa đã đặt ra câu
chuyện “Sự tích cây Nêu” mang dấu ấn Phật giáo – là tín
ngưỡng cũng phổ biến ở Trung Quốc. Do tục trồng Nêu trải qua hàng ngàn năm thăng
trầm của lịch sử nên đã mất đi nội dung đích thực của nó, tương tự như trường
hợp bánh Chưng, bánh Dầy và chỉ còn mang tính chất thể hiện như một phong tục
truyền thống. Vì vậy, khi có một nội dung mới – mặc dù không phản ánh đúng thực
tế và được gán ghép – nhưng vẫn được chấp nhận và phổ biến đến tận bây
giờ.

Hơn nữa, hình ảnh cây Nêu thể hiện một ý thức vươn lên (cây tre cột
Nêu) để đạt tới sự hòa nhập với vũ trụ (vòng tròn phía trên cây tre) phù hợp với
hình ảnh cuối cùng của hai thần vật của ngài Chử Đồng tử: cái nón đặt trên đầu
cây gậy cắm xuống đất, biến thành cung điện lâu đài để ngài trú qua đêm, tại nơi
mà sau này gọi là Đầm Nhất Dạ. Vòng tròn cũng là biểu tượng của Dương, của giá
trị tâm linh và cũng là của Thái Cực; sự khởi nguyên của vũ trụ và cũng là mục
đích đạt tới của Đạo giáo.

Dấu ấn của nền văn hiến Lạc Việt. trong tín
ngưỡng dân gian Việt Nam và đạo giáo

Hạc và Rùa biểu
tượng độc đáo của nền văn minh Lạc
Việt

Từ những luận điểm đã trình bày ở trên dẫn
đến một sự liên hệ tiếp nối và giải thích một dấu ấn liên quan đến nền văn minh
Văn Lang và Đạo giáo. Đó chính là hình ảnh con hạc đứng trên lưng con rùa. Đây
là một hình ảnh rất phổ biến ở tất cả các đình đền thờ thánh thần của Việt Nam
và ở cả những vùng Nam Trung Quốc; kể cả Triều Tiên, Nhật Bản. Sự phổ biến của
hình tượng Hạc và Rùa ở khắp những vùng có ảnh hưởng của văn hoá Đông Phương, đã
chứng tỏ tính biểu tượng được lựa chọn có ý thức cho một giá trị văn hóa của
nó.

Tại sao con hạc lại đứng trên lưng con rùa? Tất nhiên không thể giải
thích đơn giản rằng: tại vì con hạc chăm chỉ thông minh, còn con rùa chậm chạp
nên bị Thượng đế bắt phạt phải làm nền cho con hạc đứng chầu tiên
thánh.

Ông cha ta đã để lại một câu ca dao độc đáo mà có lẽ cũng nhiều
người biết:

Thương thay thân phận con rùa,

Trong
đền đội hạc, ngoài đình đội bia.

Nhưng tại sao người xưa lại chọn biểu tượng
này?

Trước hết, chúng ta bắt đầu tìm hiểu từ hình ảnh con rùa. Đây là
một linh vật biểu tượng cho nền văn minh Văn Lang: đó là phương tiện chuyển tải
chữ viết của ông cha ta, mà dấu ấn xưa nhất đã được ghi nhận trong sách Thông
Chí của Trịnh Tiều (đã trình bày ở phần trên). Giống rùa lớn chỉ có ở miền Nam
sông Dương Tử đã bị tuyệt chủng, nhưng hình tượng con rùa là phương tiện chuyển
tải những giá trị tinh thần là một hình ảnh truyền thống từ ngàn xưa của người
Lạc Việt.

Rùa đội
bia

Trong miếu Hà Nội

Từ đó hình thành biểu tượng con rùa đội bia ở
các đình đền mà hình ảnh tập trung nhất chính là ở Văn Miếu Hà Nội. Nhưng những
con rùa ở trước điện thờ thì không đội bia mà đội trên lưng nó con chim hạc. Từ
đó có thể suy luận rằng: con chim hạc phải là một biểu tượng cô đọng thay thế
cho những gì mà loài rùa đã mang trên lưng nó. Xét hình dáng chim hạc có những
nét đặc trưng giống hệt hình tượng chim Lạc đã cách điệu trên trống đồng Lạc
Việt. Bạn đọc cũng dễ dàng nhận thấy điều này ở hai hình trình bày sau
đây.

Từ sự giống hệt giữa hai hình tượng này, kết
hợp với biểu tượng con rùa đặc trưng cho sự chuyển tải những giá trị tinh thần
của nền văn minh Văn Lang, có thể kết luận rằng: chim hạc trong đình đền chính
là chim Lạc trên trống đồng – biểu tượng của nền văn minh Văn Lang mà con rùa từ
ngàn xưa vốn là phương tiện chuyển tải. Với nhận xét trên thì có thể cho
rằng:

Tín ngưỡng thờ thần thánh ở đình đền thuộc về nền văn minh Lạc
Việt, mà những người có tín ngưỡng có thể tìm thấy nguồn gốc của nó ở hình ảnh
con chim Lạc đứng trên lưng con Rùa.

Luận điểm này bổ sung và chứng minh
rõ nét hơn về Đạo giáo và Lão tử có xuất xứ từ văn minh Lạc Việt, khi tục thờ
Tiên, Thánh là nội dung của Đạo giáo. Bùa chú và thuyết Âm Dương
Ngũ Hành

Để minh họa quan điểm cho rằng: những tư
tưởng tín ngưỡng liên quan đến Đạo giáo có nguồn gốc từ thuyết Âm Dương Ngũ
hành, xin bạn đọc xem và so sánh những hình ảnh dưới đây.

Hình bên được
chép lại từ cuốn “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”. Đó là một
lá bùa dân gian nhằm mục đích trừ tà, trị bệnh, trấn trạch, đem lại sự bình an
cho gia đình. Tất nhiên nó xuất phát từ một tín ngưỡng tin vào những khả năng
siêu nhiên mà con người có thể sử dụng để làm thay đổi số phận của mình. Người
ta tin rằng: để có những khả năng siêu nhiên này, người thực hiện nó phải là
những người đã tu tập theo một thứ tín ngưỡng liên quan đến Đạo giáo (phù thủy
hoặc đạo sĩ). Nhưng như phần trên đã trình bày, trong một xã hội như Văn Lang,
đã có một hệ thống tư tưởng chính thống là Âm Dương Ngũ hành, thì khó có thể có
một thứ tín ngưỡng vượt ra ngoài những giá trị của nó. Bạn đọc có thể so sánh
hình con cọp trong lá bùa nói trên với hình trong tranh dân gian dưới đây. Đó là
một bức tranh dân gian thuộc dòng tranh Hàng Trống vẽ một “Ông Ba
Mươi”.
 Tùy theo màu sắc mà ngài đại diện cho một hành thuộc Ngũ hành, mà
thuyết Âm Dương Ngũ hành là học thuyết chủ đạo trong xã hội Văn Lang. Bạn đọc sẽ
dễ dàng nhận thấy rằng “Ông Ba Mươi” này giống hệt con cọp trong lá bùa ở hình
bên. Sự giống nhau đến mức đáng kinh ngạc này, chứng tỏ sự liên quan giữa tín
ngưỡng của ngài Chử Đồng tử với một học thuyết vũ trụ quan chính thống của thời
Hùng Vương. Bạn đọc có thể thắc mắc về những chữ Hán trên lá bùa đã chứng tỏ có
thể nó xuất hiện từ thời Bắc thuộc hoặc từ thời nước Việt hưng quốc về sau. Điều
này có thể giải thích rằng: rất có thể trước đó lá bùa không có chữ Hán, nhưng
vào thời Bắc thuộc


Một nhận định khác
về truyền thuyết Nhất Dạ Trạch và những vấn đề liên quan.
 Về nội dung Truyền
thuyết Đầm Nhất Dạ cũng có vài ý kiến khác hẳn nhau và khác với nhận định của
người viết. Hầu hết những ý kiến đó – theo cái nhìn của người viết – mang tính
khiên cưỡng và chủ quan. Nhưng có nhận định của ông Lê Mạnh Thát rất đáng chú ý
vì được minh chứng với nhiều tư liệu liên quan. Vì vậy, để bạn đọc tiện tham
khảo và so sánh với nhận định của người viết, xin trình bày đoạn sau đây được
trích dẫn trong sách “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”. Tập I (*). Lê Mạnh Thát. Nxb
Thuận Hoá – Huế 1999:

* Chú thích: Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập I. Sách đã dẫn.
Trang 12 đến 27.

Lại bài tựa truyện pháp của
tướng quốc Quyền Đức Dư (1) đời Đường nói: “Sau khi Tào Khê (2) mất đi, thiền
pháp thịnh hành, đều có thừa kế. Chương Kính uẩn thiền sư (3) dùng tâm ấn của Mã
Tổ hành hoá ở Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đại sĩ, đem tôn chỉ của Bách Trượng khai
ngộ tại Giao Châu”. Đó là những chứng cứ vậy.

Cứ câu trả lời này, thì
trước khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, Việt Nam đã có một nền Phật giáo hoàn
chỉnh, tức bao gồm chùa chiền, một đoàn thể Tăng sĩ và kinh sách đầy đủ. Theo
Thông Biện, thì ở nước ta lúc bấy giờ “có chùa hơn 20 ngôi, độ Tăng hơn 500
người, dịch kinh 15 quyển”. Điều đáng tiếc là Thông Biện không cho ta biết nền
Phật giáo hoàn chỉnh này, với số chùa chiền kinh sách và tăng sĩ như vậy, xuất
hiện vào lúc nào. Ông chỉ bằng lòng lập lại lời của Đàm Thiên (4), bảo rằng đó
là vào lúc “Giang Đông chưa có” Phật giáo. Giang Đông chưa có Phậ tgiáo, thì
ngay cả bản tiểu sử của Khương Tăng Hội (?-280) trong sách Xuất Tam Tạng Ký Tập,
tập 13, Đại Tạng Kinh 2145, tờ 96a 29 – 97a17 và trong Cao Tăng Truyện quyển 1,
Đại Tạng Kinh 2059 tờ 325a 13 – 326b 13, cũng bảo “bấy giờ Tôn Quyền (1) xưng đế
Giang Tả (năm 222 sdl) mà Phật giáo chưa lưu hành”. Thế cũng có nghĩa ngay vào
những năm 220 sdl, Phật giáo chưa có mặt ở Giang Đông. Vậy phải chăng nên Phật
giáo hoàn chỉnh vừa nói chỉ tồn tại vào thế kỷ thứ II – thứ III
sdl?

Chú thích:

(1) Xem Lê Mạnh Thát, Thiền uyển
tập anh. Tu thư Vạn Hạnh, 1976, chú thích 20, tr.207. Quyền Đức Dư (757-818) làm
tể tướng dưới thời Đường Hiến Tôn. Bài tựa cho cuốn sách nhan đề truyền pháp này
ngay nay đã thất lạc.

(2) Tức Lục tổ Huệ Năng.

(3) Tức thiền sư
Hoài Uẩn (?-818) chùa Chương Kính ở Kinh Triệu. Xem Truyền đăng lục 7 tờ
252b19-c23

(4) Tiểu sử Đàm Thiên đời Tuỳ được ghi trong Đàm Thiên pháp
sư truyện, Tục Cao Tăng truyện 18 tờ 571b 12 – 574b 6, sinh năm 542 mất năm 607,
thọ 66 tuổi. Còn một Đàm Thiên khác người Kinh sư, đời Tề, được ghi trong Cao
Tăng truyện 13 tờ 413a 18 – 26, nhưng không phải Đàm Thiên đời Tuỳ vốn có nhiều
quan hệ mật thiết với Tùy Cao Tổ và đặc biệt về việc cúng dường Xá – lợi như kể
trong tiểu sử Thông Biện trên đây. Xem Lê Mạnh Thát, Thiền Uyển Tập Anh, ghi chú
15, 16 & 19, tr.204 – 207.

(1) Tức Ngô Tôn Quyền, lên ngôi năm 222
mất tháng 4 năm Thần Phượng thứ nhất (262), thọ 70 tuổi.

(2) Đài Loan,
Học sanh thư cục ấn hành, 1986, do Trần Khánh Hạo chủ biên, theo Publications de
l Ecole francaise d Extrême-Orient, gồm 7 tập.

(3) Viện Văn học, Thơ Văn
Lý Trần III, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978,
tr.657.

Sư Phật Quang và di
tích đầu tiên của Phật giáo Việt Nam

Trả lời câu hỏi này, ta may mắn có một tài liệu viết gần cùng thời với
Thiền Uyển Tập Anh là Lĩnh Nam trích quái. Truyện Nhất Dạ Trạch của Lĩnh Nam
trích Quái ghi lại việc Chử Đồng Tử đã được nhà sư Phật Quang tại núi Quỳnh Viên
(cũng có bản viết Quỳnh Vi) truyền dạy giáo lý Phật giáo. Xưa nay Lĩnh Nam trích
quái thường được xếp vào loại truyện thần thoại hay huyền sử. Thậm chí bộ Việt
Nam Hán văn Tiểu thuyết Tùng san (2), tập I, mới xuất bản gần đây cũng làm thế.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào nghiên cứu nội dung của Lĩnh Nam trích quái, ta mới
thấy rõ Lĩnh Nam trích quái không chỉ đơn thuần là tập hợp những chuyện thần
thoại, thậm chí những chuyện thần thoại hoang đường. Trái lại, nó chứa đựng
nhiều sự kiện có thực, mà trường hợp núi Quỳnh Viên của chúng ta đây là một thí
dụ cụ thể.

Núi Quỳnh Viên này, những người chủ biên Thơ văn Lý Trần đã
chú thích là: “một quả núi trong truyện thần thoại” (3). Dẫu thế, nếu chịu khó
đọc Minh lương cẩm tú do Lê Thánh Tông viết về 13 cửa biển của đất nước ta trong
khi tiến quân chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1470, thì ta gặp bài thơ thứ 7, nói
về “Nam giới hải môn lữ thứ”, trong đó có 2
câu:

Di miếu man truyền
kim Vũ Mục

Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên.
Dịch:
Di miếu còn truyền
nay Vũ Mục

Danh sơn vẫn nhắc cổ Quỳnh Viên.

Vũ Mục đây tức là tướng Lê Khôi, cháu ruột của Lê Lợi. Năm Thái Hoà
thứ 2 (1444) đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Bí Cái, khi trở về đến
cửa biển Nam Giới thì mất. Dân thương nhớ, lập đền thờ tại cửa biển này. Cửa
biển này còn được gọi là cửa Sót. Còn núi Quỳnh Viên nằm ở phía Nam cửa bể này
và từ thời Lê Thánh Tôn đã được xác nhận là một danh sơn, tức một hòn núi có
tiếng tăm của đất nước. Và tiếng tăm này là có từ xưa, chứ không phải đợi đến từ
thời Lê Thánh Tôn, tức từ năm 1460 trở đi mới có. Ngay cả khi ta đồng ý với Lê
Quí Đôn trong Toàn Việt thi lục và Bùi Huy Ích trong Hoàng Việt thi tuyển và xếp
các bài thơ về 13 cửa biển này vào loại “vô danh thị”, thì việc nói “ông Vũ Mục
ngày nay” (kim Vũ Mục) và “núi Quỳnh Viên thuở xưa” (cổ Quỳnh Viên) vẫn không
đánh mất thời điểm của bài thơ. Lý do nằm ở chỗ nếu đã nói Lê Khôi là ông Vũ Mục
thời nay, và Lê Khôi mất vào năm 1444, thì rõ ràng tác giả nó cũng phải sống vào
thời Lê Khôi này, tức khoảng từ 1444 trở đi hay không lâu sau đó.

Nói
thẳng ra, vào thế kỷ thứ XV, khi Kiều Phú và Vũ Quỳnh hiệu đính và cho ra đời
hai bản Lĩnh Nam trích quái khác nhau, Quỳnh Viên đã thật sự là một danh sơn,
một ngọn núi nổi tiếng đối với dân ta thời đó và trước kia. Nó dứt khoát không
phải là một ngọn núi thần thoại, càng không phải là một ngọn núi không có địa
điểm cụ thể tại đất nước ta. Nó quả là một ngọn núi nằm tại cửa Sót. Và trên núi
Quỳnh Viên này còn có ngôi chùa cổ. Bản Lĩnh Nam trích quái mà ta có ngày nay
thì hoặc do Kiều Phú kiểu chính lại vào năm 1490 hoặc do Vũ Quỳnh san định vài
năm sau đó, vào năm 1493, từ một bản Lĩnh Nam trích quái của Trần Thế Pháp đời
Trần. Như vậy nếu Lĩnh Nam trích quái mà ta có ngày nay nói tới núi Quỳnh Viên,
thì dứt khoát núi Quỳnh Viên này phải có một địa chỉ cụ thể. 
thế, khi Chử Đồng Tử đã được nhà sư Phật Quang truyền dạy đạo Phật tại núi Quỳnh
Viên, ta có thể chắc chắn sự việc này đã xảy ra tại cửa biển Nam Giới hay cửa
Sót.
Ta có thể đặt vấn đề là nếu quả có ngọn núi Quỳnh Viên tại cửa Sót,
thì việc truyền dạy giáo lý của nhà sư Phật Quang cho Chử Đồng Tử chắc gì đã xảy
ra ở đó, bởi vì việc truyền dạy xảy ra quá xa cách thời điểm nó ghi lại trong
Lĩnh Nam trích quái. Nói cụ thể ra, Lĩnh Nam trích quái đã ghi
lại một sự việc xảy ra cách nó gần tới cả ngàn rưỡi năm.
 Tất nhiên, trừ
phi ta thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ học tại núi Quỳnh Viên ở cửa Sót và
tìm thấy di vật liên hệ với Chử Đồng Tử, thì vấn đề mới được giải quyết một cách
dứt điểm. Nhưng trước mắt, nếu chưa làm được, song qua phân tích những truyện
khác trong Lĩnh Nam trích quái, ta thấy dù Lĩnh Nam trích quái có được Trần Thế
Pháp biên tập lại vào hậu bán thế kỷ 14, thì những dữ kiện trong đó vẫn có một
tính cổ sơ đáng muốn.

Chẳng hạn, khi nghiên cứu về
truyền thuyết Trăm trứng trong truyện họ Hồng Bàng, ta thấy truyền thuyết này đã
xuất hiện trong Lục độ tập kinh 3 ĐTK152 tờ 14a 26 – cl8 truyện 23 do Khương
Tăng Hội dịch ra chữ Hán vào khoảng những năm 220 – 250 (*). Cũng một cách,
truyện Tây Qua của Lĩnh Nam trích quái là một dị bản của truyện 7 trong Cựu Tạp
Thí Dụ Kinh, ĐTK206 tờ 512a 16 – b7, cũng do Khương Tăng Hội phiên dịch, v.v.
Nói khác đi, dù những truyện do Trần Thế Pháp tập hợp lại trong Lĩnh Nam trích
quái xảy ra tương đối muộn, nhưng có những dữ kiện đã được chứng minh là xuất
hiện rất sớm trong lịch sử văn học nước ta. Do thế, truyền thuyết về Chử Đồng Tử
được nhà sư Phật Quang dạy đạo Phật cũng có khả năng xảy ra rất sớm trong lịch
sử dân tộc, chứ không phải vì sự xuất hiện muộn màng trong Lĩnh Nam trích quái
mà mất đi tính trung thực và cổ sơ của
nó.

(*) Lê Mạnh Thát, Khương Tăng Hội
toàn tập, tập I, tr. 358-361.
 

Vậy nhà sư Phật Quang này xuất
hiện ở cửa Sót vào thời nào? Qua những chứng cớ ngoại tại, gián tiếp vừa kể
trên, tối thiểu ta biết là những gì Lĩnh Nam trích quái ghi lại chưa hẵn là
không xảy ra, hay không có từ xưa. Cụ thể là truyện về truyền thuyết Trăm Trứng.
Không kể các dã sử hay những thông tin bên ngoài, cứ theo chính sử Trung Quốc
cũng đã ghi là có các chính quyền phương nam đi thông qua nước ta để đến phương
bắc, đó là chính quyền nước Hoàng Chi. Bình Đế Kỷ trong Tiền Hán thư 12 tờ 4a 3
ghi: “Nguyên thuỷ thứ 2 (năm thứ 2 sdl), mùa xuân, nước Hoàng Chi dâng tê giác
và bò”. Rồi đến quyển 28 hạ, Tiền Hán thư tờ 32b 2 – 3, nơi chuyện Vương Mãng,
cũng ghi: “Trong khoảng Nguyên thuỷ (1 – 6 sdl) của Bình đế, Vương Mãng phụ
chính, muốn làm rạng rỡ uy đức của mình đã gửi biếu hậu hỹ vua Hoàng Chi khiến
cho gửi sứ cống tê giác và bò sống”. Nước Hoàng Chi này, cứ Tiền Hán thư 28 hạ,
tờ 32b 3 – 5, còn ghi tiếp: “Từ Hoàng Chi đi thuyền có thể tám tháng đến Bì Tôn,
rồi đi thuyền hai tháng có thể đến biên giới Tượng Lâm của Nhật Nam. Phía nam
Hoàng Chi có nước Dĩ Trình Phất. Dịch sứ của Hán từ đó về”.

Thế rõ ràng
Hoàng Chi là một nước rất xa nước Hán, đi thuyền đến mười tháng mới đến. Ghi
nhận đầu tiên của chính sử Trung Quốc về sự liên hệ giữa chính quyền Trung Quốc
và chính quyền Hoàng Chi là Hoàng Chi ở phía tây nước ta và phải đi thông qua
nước ta mới đến Trung Quốc được. Hoàng Chi là nước nào? Có khả năng Hoàng Chi
đây là một trong những nước ở Ấn Độ. Cho nên, nói cách khác, từ những năm đầu
Dương lịch, quan hệ chính thức giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã có về đường biển và
đã được chính sử Trung Quốc ghi lại. Sau đó, từ thế kỷ thứ hai trở đi thì quan
hệ giữa An Độ và Trung Quốc đã được ghi rất rõ, cho nên khả năng trước khi có
quan hệ chímh thức trên bình diện chính quyền thì phải có quan hệ nhân dân; tức
quan hệ giữa hai dân tộc phải đi với nhau rồi hai chímh quyền mới đi theo, hoặc
để bảo trợ quyền lợi của dân tộc mình hoặc để thiết lập quan hệ ngoại giao. Cho
nên khả năng những thương thuyền buôn bán của người Ấn Độ đã đến Trung Quốc
trước thời Vương Mãng từ lâu là một sự thật.

Thực tế thì ngay trong Sử
ký ta đã tìm thấy những từ tiếng Phạn được phiên âm ra tiếng Trung Quốc, cụ thể
là từ lưu ly, vaidurya. Tức là nước Trung Quốc đã biết nước Ấn Độ từ lâu. Nói
cách khác, từ những thế kỷ đầu dương lịch, quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã
thiết lập và có quan hệ buôn bán giữa thương nhân hai nước (*). Tiền Hán thư 9,
tờ 3a 3 – 6 (truyện Tây nam di lưỡng Việt Triều Tiên đã nói việc thương nhân
nước Thục đem vải và gậy trúc Thân độc về Trung Quốc bán vào năm Nguyên thú thứ
nhất (120 tdl). Và truyện Vương Mãng ghi vì “ muốn làm rạng rỡ uy đức của mình,
(ông) đã hậu hĩ vua nuớc Hoàng Chi và khiến dâng tê giác và bò sống”, có nghĩa
hai chính quyền đã có mối quan hệ bang giao từ lâu. Mà trước khi Vương Mãng biết
đến nước nay thì người nước này đã có quan hệ với Trung Quốc rồi, cho nên Vương
Mãng mới biết để khiến dâng vật cống với mục đích làm cho hai nước quan hệ chính
quyền với nhau. Nói cách khác vào những thế kỷ trước và sau dương lịch, đã có
những quan hệ giữa Trung Quốc và các nước khác về đường biển thơng qua Việt Nam.
Cho nên giả thiết sự tồn tại của nhà sư Phật Quang giữa thế kỷ thứ III hay thứ
II tdl có thể chứng thực được.

(*) Chú thích: Sầm
Trọng Miễn, Nha phiến chiến tranh dĩ tiền Hán ngữ trung đích tá từ, Trung Sơn
Đại học học báo 4 (1959) 146 – 154.

Về nhà Sư Phật
Quang

Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh
Nam trích quái kể lại việc Chử Đồng Tử họ được đạo Phật như sau:

“Thương
nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung (và) Đồng Tử làm chúa. Có
một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: “Quí nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm
nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi mười dật”.
Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên. Nhưng cái ăn
cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra nước
ngoài mua vật quí để sinh sống”. Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn bán lênh
đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé
thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu Tăng tên Phật
Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương
nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về
nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: “Các việc
linh thông đều ở đó rồi”. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung.
Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm
thầy học đạo”.

Việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung, những người Việt Nam đầu
tiên mà ta biết tên tiếp thu đạo Phật là như thế. Có hai đặc điểm mà ta cần lưu
ý. Thứ nhất, việc tiếp thu này đã xảy ra tại núi Quỳnh Viên. Núi Quỳnh Viên từ
thời Lê Thánh Tôn ta đã biết là nằm tại của Nam Giới, hay cửa Sót. Ngày nay, tại
bờ nam của cửa Sót, còn có một hòn núi gọi là Nam Giới sơn (1). Phải chăng đây
là địa điểm cần tìm hiểu khảo cổ học để khai quật xem có vết tích gì của Chử
Đồng Tử và Phật Quang chăng? Trước mắt, ít nhất ta đã xác định được là Quỳnh
Viên không phải là một ngọn núi thần thoại, mà thật sự là một hòn núi có tên
tuổi tại cửa Sót. Do những dấu vết của Chiêm Thành còn tồn tại đến ngày nay, ta
cũng hiểu thêm từ cửa Sót về nam là miền đất thuộc vương quốc Chiêm Thành. Như
thế, đất nước Việt Nam thời Hùng Vương phải chăng đã lấy cửa Sót làm một địa
điểm của miền cực nam của tổ quốc ta?

Cần lưu ý, từ vùng cửa Sót trở ra
miền bắc, ta không tìm thấy có bất cứ di chỉ nào liên hệ với nền văn hóa của
Chiêm Thành. Ngược lại, từ cửa Sót trở về nam, cụ thể là các vùng phía nam tỉnh
Nghệ An, tức từ Vinh trở về nam và các tỉnh Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên, cho đến ngày nay, vẫn còn những vết tích của nền văn hóa Chiêm
Thành. Nói thế, tức là muốn nói Phật giáo truyền vào nước ta căn cứ vào Lĩnh Nam
trích quái là từ phía nam, qua trung gian nhà sư Phật Quang ở núi Quỳnh Viên,
tại Nam Giới hay cửa Sót, giáp với Chiêm Thành. Nhà sư này chắc hẳn không phải
là người Việt, vì rằng truyện Chử Đồng Tử nói “Đồng Tử linh đinh ra khắp nước
ngoài (phù du xuất hải ngoại)”. Vùng núi Quỳnh Viên này có khả năng vào thời Chử
Đồng Tử chưa thuộc bản đồ nước ta. Như nhà sư Phật Quang này có thể là một người
Chiêm Thành, hoặc là người Ấn Độ, đang tìm cách truyền bá Phật giáo vào Việt
Nam. Và Chử Đồng Tử là người Việt Nam đầu tiên đã tiếp xúc với ông, để rồi sau
đó, trở thành người Phật tử Việt Nam đầu tiên có tên tuổi. Truyện Chử Đồng Tử
này sau đó được Thiên Nam Vân Lục (2) của một tác giả vô danh chép
lại.

Thế thì Chử Đồng Tử đã tiếp thu đạo Phật như thế nào? Đây là đặc
điểm thứ hai mà ta cần lưu ý. Truyện Chử Đồng Tử chỉ nói khi Đồng Tử trở về quê
“nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón, vừa bảo: “Mọi việc linh
thông đều đã ở đây cả”. Nói vậy, Lĩnh Nam trích quái báo ta biết là truyền thống
Phật giáo mà Chử Đồng Tử tiếp thu là một truyền thống Phật giáo quyền năng, đề
cập đến những vấn đề linh dị và thần thông (linh thông). Truyền thống Phật giáo
này như ta sẽ thấy, xuất hiện trong Mâu Tử cũng như trong Khương Tăng Hội, và
tồn tại cho đến một thời truyền thống Phật giáo mới ra đời, đó là truyền thống
Phật giáo Thiền của Pháp Vân. Cần nhấn mạnh Phật giáo quyền năng này cho đến thế
kỷ thứ VI được bổ sung bởi truyền thống Phật giáo Thiền, nhưng không vì thế mà
mất đi ảnh hưởng cơ bản của nó. Nó vẫn tồn tại như một lớp truyền thống Phật
giáo đầu tiên của Phật giáo Việt Nam, một lớp cơ bản để từ đó xây dựng nên những
truyền thống Phật giáo mới, bổ sung cho nó qua lịch sử phát triển của Phật giáo
ở Việt Nam. Nhận thức điều này, ta sẽ dễ dàng hiểu được những hiện tượng đặc thù
của những truyền thống khác nhau của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử. Ta sẽ đi
sâu về vấn đề này dưới đây.

(1) Henri Le Breton,
Le vieux An Tịnh trong Bulletin des Amis du Vieux Hue, 22(1935)2.

(2)
Nhất Dạ Trạch truyện, Việt Nam Hán văn Tiểu thuyết tùng san 2. Đài Loan: Học
sinh thư cục ấn hành, 1992. 202 – 204.

Chử Đồng
Tử

Người Phật tử Việt Nam đầu tiên

Trước mắt, nếu Chử Đồng Tử là người Phật tử
Việt Nam đầu tiên, thì vấn đề người Phật tử đầu tiên này đã sống vào lúc nào?
Truyện Nhất Dạ Trạch chỉ viết một câu hết sức mơ hồ, là: “Vua Hùng truyền đến
cháu đời thứ 3” (Hùng Vương truyền chí tam thế tôn). Ta biết lịch sử nước ta,
tên hiệu Hùng Vương được dùng để gọi cho nhiều đời vua thời cổ
đại.

Đại Việt sử ký toàn thư ngoại kỷ I, tờ 2b9 – 5b, ghi nhận Hùng Vương
là triệu đại đầu tiên của họ Hồng Bàng, và bảo: “Họ Hồng Bàng từ Kinh Dương
Vương năm Nhâm Tuất thụ phong cùng với Đế Nghi cùng thời, truyền đến đời Hùng
Vương cuối cùng gặp năm 257 tdl của Noãn Vương nhà Chu, là năm Quí Mão thì chấm
dứt, gồm 2622 năm”. Nhưng trong phần phàm lệ, tờ 2a1 – 2, Ngô Sĩ Liên đã nhận
xét: “hoặc có người nói (Hùng Vương) có 18 đời, sợ chưa phải là thế”.

Đi
sâu vào vấn đề này, ta biết hiện có 3 bản ngọc phả khác nhau liên hệ đến triều
đại Hùng Vương. Bản thứ nhất là một bản chép của thời Lê Hồng Đức bắt đầu từ năm
1470, rồi được chép lại vào thời Lê Kính Tôn (ở ngôi 1600 – 1618), niên đại
Hoằng Định. Bản thứ hai là bản chép tay đời Khải Định được bảo là chép lại từ
một bản thuộc niên đại Thiên Phúc (980 – 988) của Lê Đại Hành (ở ngôi 980 –
1005). Cả hai bản này hiện tàng trữ tại đền Hùng ở Vĩnh Phú, Phú Thọ. Bản thứ ba
hiện tàng trự tại chùa Tây Thiên trên núi Tam Đảo, không có ghi ngày tháng. Vấn
đề văn bản học của các ngọc phả này ta chưa cần đề cập tới ở đây. Chỉ cứ vào
chúng, ta biết tối thiểu mỗi triều đại Hùng Vương có cùng mang một tên hiệu.
Chẳng hạn, đời Hùng Vương cuối cùng là Hùng Duệ Vương thì ta có Duệ Vương thứ
nhất, thứ hai, thứ ba, v.v… Vì thế, mười tám đời Hùng Vương trải dài trên hai
ngàn năm là có thể hiểu được. Riêng đối với vấn đề quan tâm của chúng ta ở đây
là cháu đời thứ ba của Hùng Vương là cháu của Hùng Vương đời nào?

Nếu
Phật giáo xuất hiện vào năm 528 (hoặc 529?) tdl ở Ấn Độ và bắt đầu truyền bá qua
các nước xung quanh vào những năm 247 – 232 tdl vào thời của vua A Dục khi vua
này lịnh cho các phải đoàn Tăng lữ đi khắp nơi để truyền bá đạo Phật, trong đó
đặc biệt là phái đoàn của Sona đi về vùng Đất vàng (Suvanabhumi). Vùng Đất này
có phải là vùng Đông Nam Á hay không, có phải là vùng Đông Dương hay không? Đây
là một vấn đề đang còn tranh cãi. Tuy nhiên cứ vào những sử liệu cổ sơ của Trung
Quốc, cụ thể là Sử Ký và Tiền Hán thư cùng Hậu Hán thư cũng như các di liệu khảo
cổ học, như di liệu khảo cổ học Óc Eo, thì vào những thế kỷ đầu dl, vùng biển
phía nam nước ta đã rộn rịp những thương thuyền không những của các quốc gia
thuộc nền văn minh Ấn Độ, mà cả những quốc gia xa xôi của nền văn minh La – mã.
Cho nên, truyền bá Phật giáo vào những vùng đất này là một sự kiện chắc chắn đã
xảy ra.

Hơn nữa, vùng đất miền nam nước ta từ phía nam cửa Sót trở vào
đã mang nặng những vết tích của nền văn hóa Ấn Độ. Chiếc bia Võ cảnh tìm thấy
tại làng Võ Cảnh ở Nha Trang, thường được các nhà nghiên cứu xác định là xuất
hiện vào thế kỷ II sdl viết bằng Phạn văn. Để cho Phạn văn trở thành một ngôn
ngữ được khắc trên đá vào thế kỷ ấy, nền văn minh Ấn Độ vào thời điểm ấy chủ đạo
là Phật giáo, phải truyền bá tại vùng đất này qua một thơi gian tương đối dài,
tối thiểu cũng phải mất một vài ba trăm năm. Nói thẳng ra, văn minh Ấn Độ phải
tồn tại ở phía nam nước ta vào những thế kỷ trước và sau Dương lịch. Cho nên, vị
Hùng Vương của thời Chử Đồng Tử ta cũng có thể xác định vào những thế kỷ tdl, có
khả năng là Hùng Nghị Vương thứ nhất hoặc thứ hai, tức khoảng thế kỷ II –III
tdl.

Đoán định này của ta về niên đại của việc Chử Đồng Tử tiếp thu Phật
giáo là hoàn toàn phù hợp với quan điểm của thiền sư Chân Nguyên (1647 – 1728)
trong Thiên Nam Ngữ Lục (1). Sau khi kể chuyện Lữ Gia bị quân của Hán Vũ Đế đánh
bại, Chân Nguyên viết:

(1) Lê Mạnh Thát,
Chân Nguyên thiền sư toàn tập III, Thiên Nam Ngữ Lục Tu thư Phật học Vạn Hạnh,
1983.

“Gia bỏ cửa mốc nhà
rêu

Hang thần trật lối, hồn phiêu đường nào

Nước nên thấy những
đồng dao

Cõi bờ tất đất vào chầu Hán gia

Non Sài tuyệt chẳng vào
ra

Thấy còn một dấu vườn là Trúc Viên

Đìu hiu ngoài cảnh thiền
thiên

Thuở trưa quyên khóc, thuở đêm hạc sầu”

Viết thế, Chân Nguyên muốn nói rằng ngôi chùa Trúc Viên đã có từ thời
Lữ Gia, tức khoảng năm 110 tdl tại núi Thầy (Sài Sơn), ở Sơn Tây. Điều này cũng
có nghĩa Phật giáo đã tồn tại ở nước ta vào thế kỷ thứ II tdl. Đây là một điểm
khá lôi cuốn. Bởi vì nó cho thấy đã từ lâu lưu hành quan điểm cho rằng Phật giáo
đã du nhập vào nước ta từ rất sớm. Đến thời An Thiền viết Đạo Giáo Nguyên Lưu
(1) vào năm 1845, ở quyển thượng, tờ 9a11 – b5 dưới mục Đại Nam thiền học sơ
khởi, ông đã kể lại truyện tích Chử Đồng Tử như đã ghi lại trong Lĩnh Nam trích
quái:

(1) Lê Mạnh Thát, An
Thiền thiền sư toàn tập: Đạo giáo nguyên lưu, 3 quyển. Cảo
bản.

“Thời Hùng Vương, núi Quỳnh Vĩ, có Đồng Tử lên thảo am. Trong am có
nhà sư tên Phật Quang. Đó là người Thiên Trúc, tuổi hơn 40, truyền pháp cho Đồng
Tử một cái nón và một cây gậy, nói rằng: “Linh dị và thần không có đây cả”. Đồng
Tử đem đạo Phật truyền cho Tiên Dung. Vợ chồng Tiên Dung bèn học đạo. Đến buổi
chiều ngày trở về, giữa đường cần làm nơi tá túc, bèn dựng gậy che nón, đến canh
ba thì thành quách lâu đài, màn gấm màn the, kim đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ
đầy cả sân chầu…”.

An Thiền cũng đề ra mục Hùng Vương Phạn Tăng, tức các
nhà sư Ấn Độ thời Hùng Vương, ở tờ 9b6 – 9, và kể tên nhà sư Khâu Đà La đến
thành Luy Lâu của Sĩ Nhiếp vào thời cuối của Hán Linh đế (168 – 189 sdl). Xác định Khâu Đà La vào thời Hán Linh đế, dĩ nhiên không thể xếp Khâu
Đà La vào loại các nhà sư vào thời Hùng Vương được.
Ngoài ra, trong các
loai thần tích của các xã, ta biết trong số các tướng tá của Hai Bà Trưng, sau
khi bị Mã Viện đánh bại, một số đã mai danh ẩn tích trong các giáo đoàn Phật
giáo. Một trong những vị này được biết tên là Bát Nàn phu nhơn đã xuất gia. Như
sẽ thấy, chính những vị này cùng người kế nghiệp họ đã tập họp những văn bản
kinh điển Phật giáo lưu hành lúc ấy, những bộ kinh đầu tiên hiện còn và được
biết mà sau này Khương Tăng Hội đã dịch thành Hán văn dưới nhan đề Lục độ tập
kinh và Cựu Tạp Thí Dụ Kinh.

Uất Kim Hương, hoa
cúng Phật

Như vậy, qua lịch sử nước ta đã
tồn tại và lưu hành tương đối phổ biến trong giới sử học Phật giáo Việt Nam một
quan điểm cho rằng Phật giáo đã truyền vào nước ta từ thời Hùng Vương. Vấn đề
bây giờ là thử xem xét quan điểm này có một giá trị hay không. Ta phải xem xét,
bởi vì tất cả các sử liệu đề cập đến vấn đề này đều xuất hiện khá muộn màng,
cách xa sự việc được ghi lại tới cả hàng nghìn năm, từ Thiền Uyển Tập Anh, Lĩnh
Nam Trích Quái, Thiên Nam Vân Lục cho đến Thiên Nam Ngữ Lục và Đạo Giáo Nguyên
Lưu, những văn bản này đều ra đời vào thế kỷ thứ XIV trở về sau. Vậy, ta có thể
tìm ra những chứng cứ nào xuất hiện trong những văn bản sớm hơn, gần gủi hơn,
với những sự kiện đã xảy ra hay không? Trả lời câu hỏi này, ta hiện có tối thiểu
hai cứ liệu.

Thứ nhất, là một câu trích dẫn của Lý Thời Trân (1518-1593)
trong Bản Thảo Cương Mục 14, tờ 69b4-5 dước mục Uất kim xuất Quyết Tân quốc,
nhân chủng chi, tiên dĩ cúng Phất, sổ nhật nụy, nhiên hậu thủ chi, sắc chính
hoàng, dự phù dung hoa lý nộn liên giả tương tự, khả dĩ hương tửu”. (Nam Châu dị
vật chí của Dương Phùng nói: Uất kim đến từ nước Quyết Tân, người ta trồng trước
để cúng Phật, vài ngày thì héo, sau đó giữ lại, màu nó vàng rộm, cùng với nhụy
hoa phù dung và sen non tương tự, có thể dùng để ướp rượu).

Dương Phù,
cứ Quảng châu tiên hiền chí, của Hoàng Tá (1490- 1560) và Bách việt tiên hiền
chí do Âu Đại Nhiệm viết năm 1554, ghi rằng: “(Dương Phù) tên tự Hiểu Nguyên,
người Nam Hải. Triều vua Chương đế tìm người tài giỏi, ông đối đáp trúng cách,
nên phong làm Nghị văn. Hòa Đế tức vị, dùng nhân đánh Hung Nô. Phù tâu rằng:
“Gầy dựng cơ nghiệp thì dùng võ, giữ lấy cơ nghiệp thì dùng văn, nên khi nhà
Châu thắng nhà Ân thì có việc ca ngợi sự chấm dứt chiến tranh (…), vậy xin bệ hạ
hãy noi theo nếp đẹp của tổ tông, đừng khinh dùng việc võ”. Năm Vĩnh nguyên thứ
12 (100 sdl) có hạn, vua gọi Phù đến triều đình bàn việc được mất của chính
lịnh. (…). Lúc bấy giờ, Nam Hải thuộc Giao chỉ bộ. Thứ sử Hà Tắc đi tuần bộ của
mình. Mùa đông Tắc trở về, tâu rằng: Chính quyền trung ương chọn thứ sử không
đúng phép, nên họ sau đó đã tranh dành nhau tôn thờ việc người khác, dâng tặng
đồ trân quí. Phù bèn lựanhững đặc tính của sự vật, chỉ cho hiểu tính khác lạ của
chúng; nhằm nói rõ ra, ông viết sách Nam Duệ dị vật chí (…). Sau đó ông làm thái
thú quận Lâm Hải, lại làm sách Lâm Hải thủy thổ ký. Người đời phục ông cao thức
và không khinh thường sự dạy dỗ.”

Bản tiểu sử vừa được dịch là lấy từ
Bách việt tiên hiền chí, quyển 2, tờ 5b9-6b10. Nhưng tất cả các cuốn sử về nhà
Hậu Hán như Hậu Hán ký của Viên Hoằng (328-376) và Hậu Hán thư của Phạm Việp
(398-445) đều không thấy nhắc tới tên Dương Phù. Chỉ đến Lệ Đạo Nguyên viết Thủy
kinh chú trước năm 529, quyển 36 tờ 30a6 và quyển 37 tờ 6a8 mới dẫn một Dương
thị Nam duệ dị vật chí. Rồi đến Tuỳ thư kinh tịch chí 33 tờ 133a4-5 mới ghi tên
“Dương Phù soạn Giao Châu dị vật chí một quyển” và “Hán nghị lang Dương Phù soạn
Dị vật chí một quyển”. Sau đó, Nghệ văn loại tụ do Au Dương Tuần soạn năm 624,
quyển 84 và quyển 95 và Sơ học ký do Từ Kiên chủ biên năm 659, quyển 9, cũng như
Thái bình ngự lãm quyển 395, quyển 890, v.v… do Lý Phưởng (926-996) biên soạn,
mới bắt đầu trích dẫn Nam Châu dị vật chí hay Nam Duệ dị vật chí và Giao châu dị
vật chí. Như vậy Nam Châu, Nam Duệ hoặc Giao Châu đều chỉ chung cho một vùng đất
thuộc miền bắc nước ta hiện nay. Vì thế, nếu Nam Châu dị vật chí của Dương Phù
bảo rằng “người ta” trồng Uất kim hương để cúng Phật, thì “người ta” đây chính
là người nước ta. Đây là chứng cớ đầu tiên, xuất hiện tương đối sớm nhất, tức
khoảng năm 100 sdl, xác nhận có một bộ phận người Việt đã theo Phật giáo, đã
biết trồng hoa Uất kim hương để cúng Phật.

Qua phần trích dẫn trên, bạn đọc cũng nhận
thấy rằng nhận định của ông Lê Mạnh Thát khác với nhận định của người viết trong
sách này cho rằng “ngài Chử Đồng Tử người sáng lập Đạo giáo của
nền văn minh Lạc Việt”
. Còn ông Lê Mạnh Thát cho rằng Chử Đồng Tử là người
Phật tử đầu tiên ở Việt Nam. Đây là điều mà bản văn của Lĩnh Nam trích quái đã
ghi nhận. Vấn đề còn lại – theo nhận định của ông Lê Mạnh Thát – chỉ là sự chứng
minh tính thực tế của bản văn đó. Về việc này, thì những luận cứ của ông Lê Mạnh
Thát đều là những chứng cứ gián tiếp, không có sự liên hệ chặt chẽ với vấn đề
đặt ra. Điều này được thể hiện qua những hiện tượng qua phần trích dẫn trên của
chính ông, như sau:

@ Về núi
Quỳnh Viên:

Ông cho rằng núi
Quỳnh Viên ở vùng biển trước cửa Sót của Việt Nam giáp giới Thanh Hoá – Nghệ An.
Nhưng chính trong bản văn của truyện đã nói rõ Chử Đồng Tử lênh đênh hải ngoại
thì không thể đi đến cửa Sót đã gặp ngay núi Quỳnh
Viên.
 

Do đó, chỉ có thể núi Quỳnh Viên là một địa
danh thần thoại; hoặc là phải ở rất xa bờ biển Việt Nam, chứ không thể ở ngay
cửa Sót được. Hơn nữa, Quỳnh Viên nghĩa đen là vườn Quỳnh, một địa danh dễ liên
hệ tới Quỳnh Dao là nơi ở của bà Tây Vương Mẫu, hơn là một địa danh có thật. Vả
lại, câu “Danh
sơn do tích cổ Quỳnh viên”
 chưa trực tiếp khẳng định hòn núi này có
tên là Quỳnh viên trước khi ngài Chử Đồng Tử đến tu tập. Cho dù, trên thực tế từ
thời Lê Thánh Tôn – sau thời điểm ngài Chử Đồng Tử thành đạo ngót 2000 năm –
hoặc trước đó đã có núi Quỳnh Viên và có một am nhỏ trên đó, thì điều đó cũng
khó có thể liên hệ với một hiện tượng đã xảy ra trước đó gần hai ngàn năm. Bởi
vì, nếu giả thiết Chử Đồng Tử đã từng tu ở đây thật và phổ biến Phật giáo vào
thời của ngài như một hiện tượng xã hội lớn, đến mức độ vua Hùng phải quan tâm
đến. Như vậy, sẽ dẫn tới sự liên hệ tiếp tục với những vấn đề sau
đây:

* Ngôi
chùa (hoặc am) trên núi Quỳnh Viên có thật đó sẽ là di tích đầu tiên của lịch sử
Phật giáo Việt Nam. Nhưng, không thể ngôi chùa đầu tiên tu hành của vị đứng đầu
Phật giáo Việt Nam là Chử Đồng Tử – đồng thời là một danh nhân của dân Lạc Việt:
Ngài là một trong bốn vị thần bất tử trong tín ngưỡng dân gian – mãi mãi chỉ là
một cái am nhỏ trải hàng ngàn năm sau đó, mà không được chú ý đến. Trong khi
Phật giáo là một tôn giáo lớn được hầu hết người Việt tôn trọng, dù theo hay
không theo tôn giáo này. Hơn nữa, câu trên cũng có thể hiểu rằng: bắt đầu tự sự
tích núi Quỳnh Viên mà đời sau lấy tên đó đặt cho hòn núi này. Hay nói một cách
khác: địa danh núi Quỳnh Viên có sau sự tích này. Do đó, chỉ có thể nhận xét một
cách hợp lý rằng: người đời sau đã sử dụng một hiện tượng thực tế để minh chứng
cho một truyền thuyết. Cũng như đầm Nhất Dạ ở Hải Dương, được coi là di tích của
ngài Chử Đồng Tử. Nhưng chưa chắc hẳn đã là nơi ngài Chử Đồng Tử qui tiên ở đấy.
Tức là, không phải ngài Chử Đồng Tử đã hoá phép để biến một vùng đất thành một
cái hồ ở Hải Dương bây giờ là một thực tế. Chỉ có thể coi đây là một hiện tượng
thực tế được sử dụng để bảo chứng cho sự tồn tại của một truyền
thuyết.

@ Về hiện tượng hoa
Uất kim cương

Chính theo bản văn mà ông Lê Mạnh Thác dẫn
chứng thì việc sử dụng hoa Uất kim cương cúng Phật được Dương Phù ghi nhận vào
thời điểm khoảng đầu thế kỷ thứ II sau CN (120 s CN). Tức là sau thời điểm Văn
Lang mất nước hơn 300 theo quan niệm mới; và gần 400 theo sử cũ. Chưa nói đến
vấn đề theo đúng truyền thuyết thì sự xuất hiện của ngài Chử Đồng Tử vào đầu
thời Hùng Vương thứ 18 – tức là khoảng 400 tr.CN theo Hùng triều Ngọc phả – thì
khoảng cách này là hơn nửa thiên niên kỷ. Đây cũng chỉ là một chứng cứ gián tiếp
không có sự liên hệ gần gũi.

@ Về thời điểm Phật
giáo truyền vào Việt Nam

Chính
trong đoạn trích dẫn trên đã nói rõ rằng:

“…vào những năm 247
– 232 tdl vào thời của vua A Dục, khi vua này lệnh cho các phái đoàn Tăng lữ đi
khắp nơi để truyền bá đạo Phật, trong đó đặc biệt là phái đoàn của Sona đi về
vùng Đất vàng (Suvanabhumi). Vùng đất vàng này có phải là vùng Đông Nam Á không,
có phải vùng Đông Dương không? Đây là một vấn đề còn đang tranh
cãi…”

Người viết đặt một giả thiết thuận lợi nhất
cho nhận định của ông Lê Mạnh Thát là vùng đất vàng chính là Việt Nam. Và giả
thiết thuận lợi nhất cho niên đại chấm dứt thời đại Hùng Vương – theo quan điểm
mới – là 208 tr.CN thì nó chỉ cách thời điểm xa nhất của việc truyền bá đạo Phật
của tăng đoàn Sonna là 39 năm, gần nhất là 24 năm. Với những điều kiện trên và
cho rằng ngài Chử Đồng Tử đã tiếp xúc ngay được với giáo lý của Phật vào thời
điểm này ( thuận lợi nhất là 39 năm trước khi kết thúc thời đại Hùng Vương)
thì:

Theo như truyền thuyết thì ngài Chử Đồng Tử đã tạo được một khối
lượng tín đồ đông đảo và đứng đầu giáo hội này trở thành một hiện tượng xã hội,
khiến vua Hùng phải quan tâm tới. Nhưng chính tư liệu của ông Lê Mạnh Thác lại
chứng tỏ: “bấy
giờ Tôn Quyền xưng đế Giang Tả (năm 222 sdl) mà Phật giáo chưa lưu
hành”
. Điều này một sự phủ định gián tiếp cho nhận định của ông Lê
Mạnh Thác. Bởi vì:

Nếu Phật giáo được truyền vào Việt Nam qua ngài Chử
Đồng Tử vào thời điểm cuối cùng của thời Hùng Vương (208 tr.CN theo quan điểm
lịch sử mới, tức là điều kiện thuận lợi nhất cho nhận định trên), kéo dài đến
400 năm sau đó đến thời Tôn Quyền nhà Ngô (tức Giang Đông); không lẽ Phật giáo
không thể phát triển trong vòng 400 năm đó, trong phạm vi một quốc gia và sau
này là chính Giang Đông? Hay nói một cách khác: không lẽ trong vòng 400 năm
không có sự giao lưu văn hoá trong một quốc gia; để rồi đến đời Đường, Phật giáo
lại từ Trung Quốc qua chính vùng Giang Đông trở lại vào Giao Châu? Do đó, sự
không phổ biến của Phật giáo ở Giang Đông vào thời điểm 200 năm sau CN, đã chứng
minh sự mâu thuẫn trong nhận định của ông Lê Mạnh Thác.

Chưa nói đến
việc theo quan điểm lịch sử cũ thì thời Hùng Vương kết thúc vào năm 257 tr.CN;
tức là trước khi phái đoàn của Sona xuất hành truyền bá đạo Phật 8 năm và vấn đề
Đất Vàng có phải là Việt Nam không. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng: Phật giáo
chưa thể truyền vào Việt Nam vào thời điểm ngài Chử Đồng Tử hành đạo. Còn một
vấn đề đặc biệt quan trọng nữa là: Thời điểm hành đạo của ngài Chử
Đồng tử vào đầu thời Hùng Vương thứ 18.
 Nếu theo quan niệm mới thì đó là
một đời vua và ngài Chử Đồng Tử chỉ hành đạo vào khoảng 230 năm tr.CN. Nhưng với
quan niệm cho rằng thời Hùng Vương tồn tại 2622 năm và căn cứ vào Hùng triều
Ngọc phả ( trong sách đã dẫn, ông Lê Manh Thác cũng nói đến điều này và không
phản bác) thì đầu thời Hùng Vương thứ 18 sẽ vào thời điểm từ năm 408 tr.CN. Lúc
này Phật giáo chưa thể truyền vào Việt Nam. Vấn đề này sẽ được trình bầy ngay
sau đây.
@ Thời điểm hành
đạo của ngài Chử Đồng Tử

Với cách
nói và cái nhìn quen thuộc về 18 “đời” Hùng Vương. Đã dẫn đến cái nhìn cho là
thời Hùng Vương chỉ có 18 vị vua. Và đời Hùng Vương thứ 18 chỉ là một vị, đã dẫn
đến nhiều mâu thuẫn không thể lý giải. Một trong những mâu thuẫn khó hiểu nhất
chính là việc chia 2622 năm tồn tại của thời Hùng Vương cho 18 vị vua (theo quan
niệm mới) ra con số khoảng gần 150 năm cho tuổi thọ của một con người và khẳng
định tính phi lý về niên đại gần 3000 văn hiến Văn Lang. Bởi vì, truyền thuyết
Con Rồng – Cháu Tiên mang nội dung huyền thoại: Rồng lấy Tiên, đẻ ra một trăm
trứng nở thành 100 người con … Do đó, con số 18 cũng chỉ mang tính biểu tượng.
Cho nên không thể lấy một đại lượng cụ thể (2622 năm được ghi trong chính sử cũ)
chia cho một đại lượng trừu tượng. Đây là một sai lầm sơ đẳng về toán học. Nó
giống như việc lấy tri thức trong một cuốn sách chia cho số học sinh, để tìm xem
trung bình một học sinh tiếp thu được bao nhiêu phần của cuốn sách.

Nếu
không căn cứ vào Hùng triều Ngọc phả, thì ngay truyền thuyết thời Hùng Vương
cũng đủ chứng tỏ “18 đời Hùng Vương” mà truyền thuyết nói tới
không thể là 18 vị vua, bởi vì:

Vào thời Hùng Vương thứ 18 có đến 3
truyền thuyết mà nội dung không liên quan đến nhau. Đó là: truyền thuyết về ngài
Chử Đồng Tử, vào đầu thời Hùng Vương thứ 18; truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh,
vào cuối thời Hùng Vương thứ 18; truyền thuyết về ngài Tản viên Sơn Thánh cũng
vào cuối thời Hùng Vương thứ 18. Trong đó: Truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh
khẳng định vua Hùng cuối đời thứ 18 chỉ có một người con gái duy nhất là Mỵ
Nương. Với truyền thuyết Đầm Nhất Dạ – vào đầu thời Hùng Vương thứ 18 – lại có
công chúa Tiên Dung? Rồi truyền thuyết về ngài Tản Viên Sơn Thánh, cũng cuối đời
Hùng Vương thứ 18 lại có công chúa Ngọc Hoa. Để giải quyết mâu thuẫn này, với
quan điểm mới chỉ còn cách ghép hai vị công chúa này thành hai chị em ruột và
bắt buộc phải sửa lại truyền thuyết Sơn tinh – Thủy tinh là “Vua
Hùng thứ 18 có hai công chúa, một người gả cho Chử Đồng Tử, còn lại chỉ có một
người là Mỵ Nương, tên là Ngọc Hoa”;
 cuối cùng là ghép ngài Tản Viên Sơn
Thánh – Nguyễn Tuấn – chính là Sơn Tinh? Sự gán ghép này tất nhiên là rất phi
lý! Trước hết là nội dung các truyền thuyết này không liên quan đến
nhau.

Nội dung trực tiếp của truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh đầy màu
sắc huyền thoại trong suốt nội dung của nó. Sự liên hệ duy nhất với các truyền
thuyết khác chỉ có ở câu mở đầu: “Vào cuối đời
Hùng Vương thứ 18”.
Nội dung trực tiếp của “Sự tích Đầm
Nhất Dạ”
 cũng mang màu sắc huyền thoại về một con người là ngài Chử Đồng
Tử. Sự liên hệ duy nhất với 3 truyền thuyết cùng thời là câu: “Vào đầu đời Hùng Vương thứ 18”.Nội dung
trực tiếp của truyền thuyết về ngài Tản Viên Sơn Thánh cũng mang ít nhiều màu
sắc huyền thoại về một con người. Sự liên hệ với các truyền thuyết khác là “Vào
cuối đời Hùng Vương thứ 18” và cũng là con rể vua Hùng. Đây là một truyền thuyết
lịch sử về một danh nhân được khẳng định tính thực tế tồn tại vào cuối thời Hùng
Vương thứ 18, mặc dù có chất huyền thoại về con người được xưng tụng.

Do
đó, khi ghép ngài Tản Viên được khẳng định sự tồn tại trên thực tế theo nội dung
truyền thuyết với nhân vật Sơn Tinh huyền thoại mang tính hư cấu hoàn toàn sẽ
mang tính khiên cưỡng, phi lý hoàn toàn. Bởi vì nội dung hai truyền thuyết này
không hề liên quan với hau. Như vậy, sự phân tích với tính hợp lý nhất – tính
hợp lý là một ếu tố cần của một giả thuyết nhân danh khoa học – phải là sự khẳng
ịnh tính độc lập giữa hai truyền thuyết này. Hệ quả của tính hợp lý iếp theo là:
Khi giữa ngài Tản Viên Sơn Thánh với hình tượng Sơn inh không liên quan đến nhau
thì sẽ phải khẳng định rằng: truyền huyết này nhằm chuyển tải một nội dung lịch
sử khác (sẽ được trình bày ở chương VIII trong sách này). Khi khẳng định tính
độc lập của truyền thuyết này thì sự hợp lý tiếp theo là truyền thuyết “Đầm Nhất
Dạ” cũng độc lập với nội dung của nó. Tức là: Đầu thời Hùng Vương thứ 18 của “Sự tích đầm Nhất Dạ” và cuối đời Hùng Vương thứ 18 của truyền
thuyết ngài Tản Viên Sơn Thánh và Sơn tinh – Thuỷ tinh, không thể là khoảng thời
gian của một vị vua. Hay nói một cách khác: đầu thời Hùng Vương thứ 18 với công
chúa Tiên Dung và Chử Đồng Tử; cuối thời Hùng Vương thứ 18 với công chúa Ngọc
Hoa và ngài Tản Viên Sơn Thánh Nguyễn Tuấn ít nhất là hai đời vua trong thời
Hùng Vương thứ 18. Như vậy tính chặt chẽ nhất của lập luận tiếp theo sẽ là phải
coi cái nhìn quen thuộc về cụm từ “18 đời Hùng Vương” là sự
sailệch; mà phải là “18 thời Hùng Vương”. Như vậy, việc tồn
tại 2622 năm mà cổ sử Đại Việt nhắc tới hoàn toàn có cơ sở. Còn nếu như coi các
truyền thuyết về thời Hùng Vương là mơ hồ, thì có thể khẳng định rằng: sẽ không
thể có một lập luận nào, nhân danh bất cứ một giá trị tri thức nào của nhân loại
– từ tri thức siêu hình nhất cho đến tri thức khoa học nhất – được toàn thể nhân
loại tích luỹ trong quá trình lịch sử của loài người, giải thích được hiện tượng
ăn trầu phổ biến hàng ngàn năm ở miền nam sông Dương Tử, cho đến tận ngày nay ở
Đài Loan và ở Việt nam, cũng như sự hiện diện của chiếc bánh chưng, bánh dầy
trong truyền thống văn hoá của người Việt còn đến tận bây giờ.

Hơn nữa
và cũng là điều quan trọng là: sự xuất hiện với danh xưng “sư Phật
Quang”
 trong truyền thuyết “Đầm Nhất Dạ” ở “Lĩnh Nam chích quái” chỉ là một hiện tượng không có sự liên hệ
nhất quán và hợp lý trong toàn bộ nội dung câu truyện. Bạn đọc có thể nhận thấy
điều này trong suốt cuộc đời hành đạo của ngài Chử Đồng Tử. Ngài hoàn toàn sử
dụng thần thông để tác động vào cuộc đời. Hay nói một cách khác – theo ngôn ngữ
Phật giáo – là Ngài vẫn tác nghiệp dưới một hình thức khác và việc này không
phải là mục đích tu tập theo giáo lý Phật là không tác nghiệp dưới bất cứ hình
thức nào, để tránh nghiệp quả và đạt đến sự giải thoát hoàn toàn. Hình tượng thể
hiện rõ nét nhất chính là khi đắc đạo, ngài đã tạo dựng vương quốc riêng với lối
sống của bậc đế vương nơi trần thế. Bạn đọc xem lại đoạn trích dẫn sau đây,
trong truyền thuyết Đầm Nhất Dạ thể hiện điều này:

“Trên đường viễn
hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ giữa đường, cắm trượng,
che nón mà trú thân. Đến canh ba thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc, điện vàng,
đền đài dinh thự, phủ kho miếu xã, vàng bạc châu báu, giường chiếu chăn màn,
tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước mắt. Sáng hôm sau ai trông cũng
kinh lạ, đem hương hoa, thức ăn quí tới mà xin làm bầy tôi. Có văn võ bá quan
chia quân túc vệ lập thành nước riêng.”

Cho dù đây chỉ là hình ảnh biểu tượng phản
ánh một vương quốc tâm linh của một tín ngưỡng được tạo dựng trong nền văn minh
Lạc Việt, thì đó cũng không phải là lối sống và sự tu tập theo Phật pháp. Điều
này chứng tỏ rằng ngài Chử Đồng Tử là một chân nhân – đẳng cấp cao nhất của sự
tu tập theo Đạo giáo – chứ không phải là một Phật tử theo đạo Phật; đồng thời
cũng chứng tỏ rằng ngài là người đã sáng lập ra Đạo giáo thuộc về nền văn minh
Lạc Việt. Điều này đã giải thích vì sao ngài là một trong bốn vị thần bất tử hộ
quốc của người Lạc Việt.

Từ những tiền đề phân tích ở trên về tính hợp
lý và sự chặt chẽ trong cấu trúc của hệ thống truyền thuyết và huyền thoại thời
Hùng Vương – ngoài việc chứng minh một trí tuệ siêu đẳng của tổ tiên người Lạc
Việt – còn chứng tỏ thời điểm hành đạo của ngài Chử Đồng Tử vào đầu thời Hùng
Vương thứ 18 tức là khoảng 400 năm trước CN. Tất nhiên, vào thời điểm này Phật
giáo mới vào giai đoạn kiết tập để hoàn chỉnh kinh sách qua những lời giảng của
Đức Thích Ca, chưa thể truyền đến Việt Nam. Do đó, tôn giáo mà ngài Chử Đồng Tử
sáng lập không thể là Phật giáo, mà chính là Đạo giáo như đã trình bày ở
trên.

Những lập luận trong sách này, nhằm chứng tỏ ngài Chử Đồng Tử là
người sáng lập Đạo giáo của nền văn minh Lạc Việt, không phủ nhận việc Phật giáo
du nhập vào nền văn minh này vào cuối thời Hùng Vương thứ 18, trên cơ sở thời
Hùng Vương thứ 18 kéo dài gần 400 năm.
Nguyễn Vũ Tuấn
Anh


TỪ CỬA SÓT VỚI CHỬ ĐỒNG TỬ – TIÊN DUNG ĐẾN
NGUỒN GỐC PHẬT GIÁO VIỆT NAM .



Trong phần
này , dienbatn chỉ tổng hợp lại những ý kiến của các tác giả đã nêu ở phần trên
và có những suy luận riêng của mình . Không dám cho là đúng , chỉ mong sao tìm
lại những gì của ông cha từ ngàn xưa . Xin Tổ tiên anh linh chứng dám .




Phần này , những đoạn trích của Thiền sư Lê mạnh Thát có màu nâu , của
Nguyễn Vũ Tuấn Anh có màu tím , nhận xét riêng của dienbatn có màu xanh quen
thuộc vẫn hay dùng , những đề mục quan trọng có màu đỏ . 








A / VỀ TRUYỀN THUYẾT CHỬ ĐỒNG TỬ – TIÊN DUNG
.




1/Truyện Nhất Dạ trạch : ( Lĩnh Nam chích
quái ).




Hùng Vương
truyền tới đời thứ III (Truyền thuyết Hùng Vương – thần thoại Vĩnh Phú, sách đã
dẫn và truyền thuyết còn lưu truyền trong dân gian nói: Vào đời Hùng Vương thứ
XVIII) thì hạ sinh được con gái tên là Tiên Dung – Mỵ Nương đến tuổi 18 dung mạo
đẹp đẽ, không muốn lấy chồng, chỉ mải vui chơi chu du khắp thiên hạ. Vua cũng
không cấm. Mỗi năm vào khoảng tháng hai, tháng ba lại sắm sửa thuyền bè chèo
chơi ở ngoài bể vui quên trở về.

Hồi đó, ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có
người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử (có nghĩa là người con trai
ở bến sông), cha từ con hiếu. Nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn một khố
vải cha con ra vào thay nhau mà mặc. Kịp tới lúc cha già ốm, bảo con rằng: “Cha
chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con”. Con không nỡ làm theo, dùng khố
mà liệm bố.

Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở bên
sông, hễ nhìn thấy thuyền buôn qua lại thì đứng dưới nước mà ăn xin, rồi lại câu
cá độ thân. Không ngờ thuyền Tiên Dung tới, chiêng trống đàn sáo, kẻ hầu người
hạ rất đông. Đồng Tử rất kinh sợ.

Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa
dăm ba cây. Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên
mình. Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây màn
trướng ở khóm lau mà tắm. Tiên Dung vào màn cởi áo dội nước, cát trôi mất, trông
thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu, thấy con trai bèn nói: “Ta vốn không
muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng ở trần với nhau trong một hố, đó
chính là trời xui nên vậy. Người hãy đứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc
rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn mừng”. Người trong thuyền đều cho đó là cuộc
giai ngộ xưa nay chưa từng có. Đồng Tử nói là tại sao mà lại nấp ở đấy. Tiên
Dung ta thán rồi ép làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: “Đây là do trời
chắp nối, sao cứ chối từ?”.

Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng
Vương nói: “Tiên Dung không thiết danh tiết, không màng của cải của ta, ngao du
bên ngoài, hạ mình lấy kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta
nữa”.

Tiên Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ,
lập phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ Thám,
còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới buôn bán, thờ Tiên Dung,
Đồng Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu nói rằng: “Quí nhân bỏ một dật vàng ra
ngoài biển mua vật quí, sang năm có thể thành mười dật”. Tiên Dung cả mừng bảo
Đồng Tử: “Vợ chồng chúng ta do trời tác thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho,
hãy đem vàng cùng phú thương ra hải ngoại buôn bán”.

Có núi Quỳnh Viên,
trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé thuyền ở đó lấy nước ngọt. Đồng Tử
lên am chơi, có tiểu tăng tên gọi là Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng
Tử lưu học ở đó, giao hàng cho lái buôn mua hàng. Sau lái buôn quay lại am chở
Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón (Theo truyền thuyết
dân gian Việt Nam thì là “cây gậy và chiếc nón” – người viết.) mà nói rằng:
“Linh thiêng ở những vật này đây”.

Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật,
Tiên Dung giác ngộ, bỏ phố phường, cơ nghiệp, rồi cả hai tìm thầy học đạo. Trên
đường viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ ở giữa đường,
cắm trượng, che nón mà trú thân. Đến canh ba thấy hiện ra thành quách, lầu ngọc,
điện vàng, đền đài dinh thự, phủ kho miếu xã, vàng bạc châu báu, giường chiếu
chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước mắt. Sáng hôm sau ai
trông cũng kinh lạ, đem hương hoa, thức ăn quý tới mà xin làm bầy tôi. Có văn võ
bá quan chia túc quân vệ, lập thành nước riêng.

Hùng Vương nghe tin cho
rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới đánh. Quần thần xin đem quân ra phân
nhau chống giữ. Tiên Dung cười mà bảo: “Điều đó ta không muốn làm, do trời định
đó thôi, sinh tử tại trời, há đâu dám chống lại cha, chỉ xin nhận theo lẽ chính,
mặc cho đao kiếm chém giết”.

Lúc đó dân mới đến đều kinh sợ tản đi, chỉ
có dân cũ ở lại. Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì
trời tối không kịp tiến quân.

Nửa đêm gió thổi bay cát nhổ cây, quan
quân hỗn loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay tản lên trời,
chỗ đất đó tuột xuống thành cái chằm lớn. Dân bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế,
gọi chằm là chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi bãi là bãi Mạn Trù
(bãi Màn Trướng), gọi chợ là chợ Thám còn gọi là chợ Hà Lương.

Sau vua
Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược phương Nam. Lý Nam Đế
sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục sai quân nấp ở chằm. Chằm sâu
mà rộng, lầy lội, tiến binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra
đánh cướp lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn
năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: “Ngày xưa đây là chằm một
đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp một người”.

Nhân gặp loạn
Hầu Cảnh vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tùy tướng là Dương Sằn thống
lĩnh sĩ tốt. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng
thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: “Hiển linh
còn đó, người có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn”. Dứt lời, tháo vuốt
rồng cho Quang Phục, bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị
diệt”. Đoạn bay lên trời mà đi.

Quang Phục được vật đó, reo mừng vang
động, xông ra đột chiến, quân Lương thua to. Chém Dương Sằn trước trận, giặc
Lương phải lùi. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập làm Việt Vương, xây
thành ở Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh. (Có chỗ viết là Châu Quỳnh Viên Sơn tức Kim Mộc
Sơn ở cửa Nam Giới, huyện Thạch Hà).









2/“Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung (và) Đồng
Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: “Quí nhân hãy bỏ ra
một dật vàng năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm
được lãi mười dật”. Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng ta là bởi Trời mà
nên. Nhưng cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng
thương nhân ra nước ngoài mua vật quí để sinh sống”. Đồng Tử bèn cùng thương
nhân đi buôn bán lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am
nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có
một tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe
pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở về lại tới
am đó chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái
nón, vừa bảo: “Các việc linh thông đều ở đó rồi”. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật
nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng
Đồng Tử du phương tìm thầy học đạo”.




3/“Thời Hùng Vương, núi Quỳnh Vĩ, có Đồng Tử lên thảo am. Trong am có
nhà sư tên Phật Quang. Đó là người Thiên Trúc, tuổi hơn 40, truyền pháp cho Đồng
Tử một cái nón và một cây gậy, nói rằng: “Linh dị và thần không có đây cả”. Đồng
Tử đem đạo Phật truyền cho Tiên Dung. Vợ chồng Tiên Dung bèn học đạo. Đến buổi
chiều ngày trở về, giữa đường cần làm nơi tá túc, bèn dựng gậy che nón, đến canh
ba thì thành quách lâu đài, màn gấm màn the, kim đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ
đầy cả sân chầu…”.



3/Chử Đồng Tử



Vũ Ngọc Phan kể





Thời xưa, ở
làng Chử Xá (1), có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nhà nghèo đến nỗi
phải chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu thì đóng. 




Cù Vân bị ốm nặng, khi sắp chết, dặn lại con
rằng: 




– Bố chết, con
cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lấy mà dùng. 




Cù Vân chết, Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng,
lấy khố đóng cho cha, rồi mới chôn. 




Ở một túp lều nhỏ ven sông, ngày ngày Chử Đồng Tử
xuống đánh cá, rồi đổi lấy gạo ở các thuyền qua lại. 




Thời bấy giờ vua Hùng Vương thứ mười tám có một nàng
công chúa tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, tuổi đã mười bảy mười tám mà
không chịu lấy chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Vua chiều con, cấp
cho con thuyền và đủ mọi người hầu hạ, mặc cho con muốn đi chơi đâu thì
đi. 




Một hôm, Tiên
Dung đi chơi thuyền trên sông, thuyền của Tiên Dung đi giữa, còn trước sau là
thuyền của binh lính và thị nữ. Khi đến khúc sông thuộc làng Chử Xá, đám thuyền
làm rợp cả mặt nước. 




Chử Đồng Tử
trông thấy, vội vứt vó vào bụi, chạy lên bãi, bới cát vùi mình xuống, rồi lấy
cát phủ lên. 




Thấy bãi sông
rộng rãi, lại có lác đác từng bụi cây lớn tỏa bóng mát êm dịu, Tiên Dung lấy làm
ưa thích, ra lệnh cho thuyền ghé vào bãi, rồi chọn một chỗ có bóng mát, sai thị
nữ giăng màn tứ vi để tắm. Tiên Dung vào màn, cởi áo xiêm, dội thỏa thích. Không
ngờ chỗ Tiên Dung giăng màn tắm lại chính là chỗ Chử Đồng Tử náu mình. Tiên Dung
dội nước một lúc thì bỗng nhiên Chử Đồng Tử trồi lên. Tiên Dung trông thấy giật
mình, hỏi duyên cớ thì Đồng Tử nói vì không có quần áo thấy thuyền quân quan thì
sợ, nên phải vùi mình xuống cát để ẩn. 




Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng: 



– Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run
rủi, lại gặp chàng ở chốn này, mới biết cưỡng không được với trời. 




Nàng bảo Đồng Tử tắm sạch sẽ, lấy quần áo cho mặc,
đưa xuống thuyền và sai thị nữ sửa soạn tiệc hoa. Thấy thế, Chử Đồng Tử ngỏ ý
chối từ, Tiên Dung bảo chàng rằng: 




– Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ
chối! 




Đồng Tử đành
phải nghe theo. 




Từ hôm ấy, hai
người thành vợ chồng. 




Vua được tin
nổi giận, gọi hết binh lính và người hầu của Tiên Dung về. Tiên Dung sợ cha,
đành cùng chồng ở lại với nhân dân, tìm kế sinh nhai. Nàng làm ăn ngày một thịnh
vượng, dần dần lập thành một xóm. Sau có người khuyên nàng cho người ra biển tìm
những vật lạ đem về đổi lấy các thứ khác. Nàng nghe theo, để chồng
đi. 




Đồng Tử đi qua
một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, trông lên núi thấy có cái am nhỏ. Đồng Tử trèo lên
núi gặp một nhà sư xưng tên là Phật Quang. Thấy Đồng Tử là người chân thật, Phật
Quang muốn truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử không nghĩ đến việc ra biển nữa,
liền ở luôn đó. Đồng Tử học được hơn một năm thì Phật Quang cho chàng một cái
gậy và một cái nón, cho phép chàng xuống núi và dặn rằng:




– Phép biến hóa ở cả cái gậy và cái nón
này. 




Đồng Tử về nhà,
đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung, rồi hai vợ chồng rời bỏ xóm làng, đi tìm
nơi thanh vắng để ở. Một hôm đang đi đường, trời tối mà chưa đến chỗ dân cư, hai
vợ chồng chống cái gậy xuống đất và lấy cái nón úp lên đầu gậy để che sương, rồi
hai người ngồi tựa vào nhau dưới nón mà ngủ. Đến quá nửa đêm, hai vợ chồng tỉnh
dậy thì thấy mình ở trong một cung điện lộng lẫy có đủ các thứ giường sập, màn
trướng, lại có cả tiểu đồng, thị nữ và binh lính đi lại rộn rịp ngoài hành
lang. 




Sáng hôm sau,
hai vợ chồng ra ngoài xem thì thấy có thành cao bao bọc cung điện và có tướng sĩ
canh gác rất đông, chẳng khác nào một tòa thành lớn. 




Tin lạ ấy đến tai vua. Vua cho là Đồng Tử và Tiên
Dung làm loạn, liền sai quan quân đến đánh. Quân nhà vua đến gần nơi Tiên Dung
và Đồng Tử ở thì trời vừa tối, không sang sông được. Đến nửa đêm, trời nổi cơn
dông, cát bay, cây đổ, rồi toàn khu Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời, chỉ
còn lại bãi đất không ở giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự nhiên (2), còn đầm
ấy gọi là đầm Nhất Dạ (3). Thấy có sự lạ lùng như vậy, nhân dân lập miếu thờ
ngay trên bãi. 




Đời sau, Triệu
Việt Vương đóng quân trong đầm để chống lại quân xâm lược nhà Lương. Lúc bị quân
giặc vây nguy cấp, Triệu Việt Vương thiết đàn, cầu thần giúp mình tiêu diệt quân
địch để cứu nạn nước, bỗng thấy một vị thần cưỡi rồng xuống đàn cho Triệu Việt
Vương một cái vuốt rồng và dặn: “Ngươi cắm cái vuốt này lên chỏm mũ đầu mâu thì
đi đến đâu, giặc sẽ tan đến đấy”. Nói xong, thần cưỡi rồng bay vụt lên
trời. 




Theo lời thần
dạy, Triệu Việt Vương cắm vuốt rồng lên chỏm mũ, thấy sức khỏe tăng lên bội
phần, trí óc cũng sáng suốt, thanh thế ngày một lớn, mới đem quân phá vòng vây,
chém được tướng giặc là Dương Sàn. Quân xâm lược nhà Lương bị tan vỡ, phải rút
khỏi đất nước Việt Nam . 


Vũ Ngọc Phan kể 



4/Trên bờ ao có hai nên nhà . Tục truyền vào thời
Hùng Vương , Chử Đồng Tử và Tiên Dung tu Đạo ở đấy , gọi là núi Quỳnh Viên . Lê
Thánh Tông Hoàng Đế đi tuần du phương Nam có câu thơ :




” Danh Sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên ” ( Kể về núi danh
tiếng , còn nói đến núi Quỳnh Viên xưa ” .




…Về phía Nam vài dặm có suối Hau Hau , nước rất ngon
ngọt . Trong những tháng mùa hè , dân quanh vùng ghé thuyền vào chân núi bắc
máng tre dẫn nước vào thuyền chở đi bán . Những người quanh vùng đều lấy làm quý
.




Như vậy ta thấy rằng tuy có nhiều dị bản nhưng việc Chử Đồng Tử
và Tiên dung được nhà sư Phật Quang truyền Đạo ( Ta chưa bàn đến Đạo gì ) là có
sự thống nhất giữa các tài liệu . Việc nữa là tại Cửa Sót và núi Nam Giới vẫn
còn di tích và truyền thuyết từ xưa về việc này . Thứ hai là núi Nam Giới chính
là nơi biên ải ngày xưa của nước Việt (Cửa Sót ( Nam Giới) , tại nơi giáp giới
hai Huyện Thiên Lộc và Thạch Hà , nước sông Hà Hoàng chảy ra . Nguồn sông gần và
nông , nước triều mặn dâng ngược rất xa . Cửa biển sâu rộng . Ngày trước các
thuyền buôn của người Tàu sang ta đều vào cửa ấy .) Nơi đây chính là một cửa
khẩu quan trọng của nước ta vào thủa ấy để thông thương với bên ngoài , và rất
có thể là nơi Phật giáo Ấn Độ được truyền vào nhờ nhà sư Phật Quang . Thứ 3 các
dị bản đều nhắc đến việc thuyền buôn của Chử Đồng Tử vào núi Nam Giới lấy nước ,
chi tiết này có thật trong sử (Về phía Nam vài dặm có suối Hau Hau , nước rất
ngon ngọt . Trong những tháng mùa hè , dân quanh vùng ghé thuyền vào chân núi
bắc máng tre dẫn nước vào thuyền chở đi bán . Những người quanh vùng đều lấy làm
quý .) Đây cũng là một bằng chứng quan trọng vì những ngọn núi ngoài biển không
phải nơi đâu cũng có sẵn nước ngọt .




Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã viết .



Ông cho rằng núi Quỳnh Viên ở vùng biển
trước cửa Sót của Việt Nam giáp giới Thanh Hoá – Nghệ An. Nhưng chính trong bản
văn của truyện đã nói rõ Chử Đồng Tử lênh đênh hải ngoại thì không thể đi đến
cửa Sót đã gặp ngay núi Quỳnh Viên.
 




Do đó, chỉ có thể núi Quỳnh Viên là một
địa danh thần thoại; hoặc là phải ở rất xa bờ biển Việt Nam , chứ không thể ở
ngay cửa Sót được. Hơn nữa, Quỳnh Viên nghĩa đen là vườn Quỳnh, một địa danh dễ
liên hệ tới Quỳnh Dao là nơi ở của bà Tây Vương Mẫu, hơn là một địa danh có
thật. Vả lại, câu
“Danh sơn do tích cổ Quỳnh viên” chưa trực tiếp khẳng định hòn núi này có tên là Quỳnh viên trước khi
ngài Chử Đồng Tử đến tu tập. Cho dù, trên thực tế từ thời Lê Thánh Tôn – sau
thời điểm ngài Chử Đồng Tử thành đạo ngót 2000 năm – hoặc trước đó đã có núi
Quỳnh Viên và có một am nhỏ trên đó, thì điều đó cũng khó có thể liên hệ với một
hiện tượng đã xảy ra trước đó gần hai ngàn năm. Bởi vì, nếu giả thiết Chử Đồng
Tử đã từng tu ở đây thật và phổ biến Phật giáo vào thời của ngài như một hiện
tượng xã hội lớn, đến mức độ vua Hùng phải quan tâm đến. Như vậy, sẽ dẫn tới sự
liên hệ tiếp tục với những vấn đề sau đây:




* Ngôi chùa (hoặc am) trên núi Quỳnh
Viên có thật đó sẽ là di tích đầu tiên của lịch sử Phật giáo Việt Nam . Nhưng,
không thể ngôi chùa đầu tiên tu hành của vị đứng đầu Phật giáo Việt Nam là Chử
Đồng Tử – đồng thời là một danh nhân của dân Lạc Việt: Ngài là một trong bốn vị
thần bất tử trong tín ngưỡng dân gian – mãi mãi chỉ là một cái am nhỏ trải hàng
ngàn năm sau đó, mà không được chú ý đến. Trong khi Phật giáo là một tôn giáo
lớn được hầu hết người Việt tôn trọng, dù theo hay không theo tôn giáo này. Hơn
nữa, câu trên cũng có thể hiểu rằng: bắt đầu tự sự tích núi Quỳnh Viên mà đời
sau lấy tên đó đặt cho hòn núi này. Hay nói một cách khác: địa danh núi Quỳnh
Viên có sau sự tích này. Do đó, chỉ có thể nhận xét một cách hợp lý rằng: người
đời sau đã sử dụng một hiện tượng thực tế để minh chứng cho một truyền thuyết.
Cũng như đầm Nhất Dạ ở Hải Dương, được coi là di tích của ngài Chử Đồng Tử.
Nhưng chưa chắc hẳn đã là nơi ngài Chử Đồng Tử qui tiên ở đấy. Tức là, không
phải ngài Chử Đồng Tử đã hoá phép để biến một vùng đất thành một cái hồ ở Hải
Dương bây giờ là một thực tế. Chỉ có thể coi đây là một hiện tượng thực tế được
sử dụng để bảo chứng cho sự tồn tại của một truyền thuyết.




Từ sự thống nhất giữa các dị bản về Chử Đồng Tử –
Tiên Dung tại Quỳnh Viên – Nam Giới , và cũng cần lưu ý đây chính là nơi biên ải
ngày xưa thì vấn đề Chử Đồng Tử học Đạo tại đây là việc có thể tin cậy được .
Còn nơi đây chỉ là nơi Chử Đồng Tử học Đạo , và là di tích đầu tiên về người
Việt tu hành tại đó , do vậy không phải là nơi không được chú ý đến như Nguyễn
Vũ Tuấn Anh đã viết . Ta cũng cần nhớ là Đạo Phật còn có thêm một con đường vào
Việt Nam nữa về sau này tại vùng Luy Lâu do Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) (? – 594) (Tổ khai sáng
dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam ) . 




Và nếu ai có đi qua Chùa Tổ thờ Phật Mẫu man nương ở
vùng Luy Lâu thì cũng thấy rằng , tuy là ngôi chùa Tổ , nhưng lại được công nhận
sau cùng , sau cả chùa Dâu , chùa Keo và hầu như ít được chú ý của giới nghiên
cứu nước nhà . dienbatn có viết bài giới thiệu về chùa Tổ trong bài Những chú
Độc nhãn Long .




Đây là một tư
liệu dienbatn tìm được từ nguồn 
http://www.thienlybuutoa.org cũng rất đáng quan tâm 

“ 
Theo Thiền uyển truyền đăng
tập lục, Pháp sư Đàm Thiên trong khi đàm đạo với vua nhà Tùy (thế kỷ VI-VII) đã
cho biết Giao Châu có đường thông thương với Ấn Độ, nên khi ở Giang Đông (Trung
Quốc) đạo Phật hãy còn xa lạ thì tại thủ đô Luy Lâu của Giao Châu đã có trên hai
mươi chùa Phật, hơn năm trăm nhà sư, đã biết đến mười lăm bộ
kinh.

Có bằng chứng cho thấy Phật giáo đã từ Việt Nam vào Trung
Quốc trước khi Phật giáo từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam. Thế kỷ III, Ngô Tôn
Quyền ở Giang Đông đã được sư Khương Tăng Hội từ Giao Châu sang truyền đạo, Tôn
Quyền đã cho cất chùa Kiến Sơ vào dịp này.

Đại Việt sử ký toàn
thư và Ngô chí (viết vào thế kỷ IV) chép lại lá thư của một người Hán là Viên
Huy, gửi cho Thượng thư lịnh Tuân Úc năm 207. Thư kể rằng Thái thú Sĩ Tiếp (Sĩ
Nhiếp) ở Giao Châu mỗi khi ra đường đều có các nhà sư Ấn Độ theo xe, xông trầm
đốt hương, đánh chuông khánh, thổi kèn sáo.

Do miền Bắc sớm
trực tiếp gặp Phật giáo Ấn Độ nên người miền Bắc có từ Bụt. (Tục ngữ: Gần chùa
gọi Bụt bằng anh; Đi với Bụt mặc cà sa, đi với ma mặc áo giấy…) Bụt do gốc tiếng
Ấn Buddha. Sau này tiếp xúc Phật giáo Trung Quốc nên có thêm từ Phật, mượn ở
cách người Hoa phiên âm từ Buddha (tiếng Hán-Việt là Phật
đà).

Về sau, việc truyền đạo trực tiếp từ Ấn sang giảm bớt dần,
trong lúc theo đường bộ đạo Phật từ phương Bắc du nhập chiếm ưu thế hơn. Do ảnh
hưởng từ phương Bắc xuống, hay Bắc tông, Phật giáo Việt Nam thuộc ngành đại
thừa. Trái lại, do ảnh hưởng từ phương Nam lên, hay Nam tông, các lân bang như
Lào, Cam-pu-chia, Thái thuộc ngành tiểu thừa

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *