Untitled Post

DỊCH 
KINH  GIẢN  LƯỢC
Trước khi vào
các quẻ, để cho dễ hiểu tôi xin nói về:
1) Ít nhiều
nhận định về Quẻ,  Thoán,  Hào.
2) Áp dụng
những nguyên tắc của Dịch Kinh vào cuộc đời.
 I. 
ÍT NHIỀU NHẬN ĐỊNH VỀ QUẺ, THOÁN, HÀO
1) Nhận định
về quẻ
Quẻ có quẻ đơn
và quẻ kép.
Quẻ Đơn. 
Quẻ Đơn gồm 8 quẻ;
mỗi quẻ có 3 vạch (Hào):
Kiền,
Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài
Quẻ Đơn tượng
trưng cho Vạn Vật, Vạn Hữu
Quẻ Kép
Quẻ Kép gồm
64 quẻ, mỗi quẻ có 6 Hào.
Quẻ Kép tượng
trưng cho hết mọi biến hóa, mọi tình trạng, mọi hoàn cảnh mà Vạn hữu và
Nhân quần gây nên trong khi giao tiếp với nhau.  Thượng Kinh và Hạ Kinh
viết lại 64 quẻ , tức là đưa ra 64 hoàn cảnh tượng trưng, để dạy con người
phương pháp xử sự cho khéo léo, tùy theo mỗi hoàn cảnh mình gặp.
 Quẻ Kép
gồm 2 quẻ đơn, ta gọi:
  -Quẻ
phía dưới là  Nội Quái
 –Quẻ phía trên là Ngoại Quái
Vì 
mỗi  hoàn  cảnh  có   nhiều  khía 
cạnh,  nhiều giai đoạn, nhiều nhân vật
 bị dính dấp ảnh
hưởng, nên  mỗi  quẻ lại có 6 Hào.  Sáu Hào cốt là để nói lên
cho rõ ràng:
*Mọi khía cạnh,
mọi trạng thái biến thiên của hoàn cảnh.
*Mọi giai đọan
của một công trình.
*Mọi tầng lớp
trong xã hội, đang cùng chia xẻ một hoàn cảnh
*Những trường
hợp khác nhau, có thể xảy ra cho từng hạng người sống cùng chung một hoàn
cảnh..
Bàn về mỗi
quẻ Kép có:
A) Tự
Quái.  B) Thoán Từ.  C) Thoán  Truyện.  D) Tượng
Truyện.  E) Hào  Từ  và  Tiểu  Tượng Truyện.
 Muốn
hiểu rõ mỗi quẻ, phải nghiên cứu tận tường:
A)
Tự Quái
có mục đích dạy
ta khi gặp mỗi quẻ, tức là mỗi hoàn cảnh, phải xét xem nó duyên do tự đâu
B)
Thoán
bàn luận tổng
quát về sự hay dở của mỗi quẻ, tức là của mỗi hoàn cảnh.
Dịch Kinh dùng
11 chữ để xét đoán hay dở:
1) Nguyên
chí thiện,
                        
= nguyên thủy (gốc gác vạn hữu)
                        
= lớn, mạnh, hào hùng, cao đại.
2)
Hanh     =
Thông
suốt (hanh thông)
                        
= Chí mỹ (Gia chi hội – Văn ngôn)
3)
Lợi         = 
Lợi, thuận nhân tâm, thích nghi,
  thích đáng.
4)
Trinh     =
Chính,
bền, thành đạt, bền vững, hằng cửu, chủ chốt, chủ đích của mọi việc.
5)
Cát        =
Tốt, được, thành công.
6)
Hung     =
Xấu,
mất, thất bại.
7)
Hối        =
Hối lận, ưu lự, băn khoăn.
8)
Lận        = 
Xấu hổ.
9)
Lệ          
= Nguy hiểm.
10 &
11)  Vô cữu

không có lỗi.
Tóm lại, một
hoàn cảnh, một công tác hay, hay dở tùy ở chỗ thành hay bại, đắc hay thất, có
làm cho mình phải hối hận, phàn nàn, xấu hổ hay không?  Việc xấu mà không,
hay chưa hối hận thời nguy hại, đã phàn nàn, cải quá thì không
lỗi gì. 
Nhiều khi Dịch cũng dùng 2 chữ Trinh hung đi đôi
với nhau.  Chữ Vô Cữu nhiều khi phải giải là  Không
trách cứ ai được.   
Thoán có Thoán
Từ, Thoán Truyện
*Thoán Từ là của Văn Vương.  Thoán Từ rất vắn tắt, cô đọng, nói đại ý
toàn quẻ & sự hay dở tổng quát của toàn quẻ
*Thoán Truyện
là lời của Khổng Tử,
dùng để giải thích Thoán Từ.  Thoán Truyện nhiều
khi viết có âm vận, và thường theo phương pháp sau đây
1) Giải thích
tên quẻ
mỗi khi cần.
2) Phân tích
quẻ
thành 2 quẻ Đơn
(Quái Thể), rồi lấy 2 quẻ đơn ấy mà phân tích Thoán Từ (Dĩ Quái Thể thích
Quái Danh, Quái Nghĩa)
3) Lấy đức
tính
của 2 quẻ đơn ấy
để cắt nghĩa Thoán Từ (Dĩ Quái Đức thích Quái Từ)
4) Dùng những
hình ảnh
do 2 quẻ đơn
ấy gợi nên để cắt nghĩa Thoán Từ (Dĩ Quái Tượng thích Thoán Từ)
5) Xem quẻ
đương cuộc
đã do quẻ
nào sinh ra, là biến thể của quẻ nào, rồi lấy đó mà giải thích Quái Từ
(Dĩ Quái Biến thích Quái Từ)
6)  Xem
2 quẻ đơn là Âm hay Dương,

Cương hay Nhu, giao nhau hay không giao nhau để giải thích Quái Từ (Dĩ Quái Tài
thích Quái Từ)
7) Tìm hào
chủ chốt của quẻ (
Chủ
Hào),  rồi nhân đó cắt nghĩa Quái Từ, Quái Nghĩa.  Hào chủ chốt
thường là hào 2 và 5, nhưng cũng có khi là hào 1 như ở quẻ Truân,  là hào
3 như ở quẻ Khiêm, hào 4 như ở quẻ Dự.
Có 
nhiều  khi  lời Thoán giống lời Hào chủ chốt.
Ví dụ: 
Thoán quẻ Truân có chữ Lợi kiến hầu, thì hào Sơ Cửu cũng có chữ Lợi
kiến hầu.
8) Thoán
Truyện thường nhắc lại
để
giải thích từng câu trong Thoán Từ.
9) Ngoài công việc chú giải Thoán Từ, Thoán
Truyện còn đưa ra những nhận định tổng quát, những định luật của Trời
Đất. 
Ví dụ:
*Nơi quẻ Hàm,
thì đề cập đến định luật cảm thông trong Trời đất
*Nơi quẻ Khuê,
thời nói về Âm Dương lưỡng dụng để đi tới đại thành.
* Nơi quẻ Phong,
thì bàn về lẽ Doanh, Hư, Tiêu tức của Trời đất.
* Nơi quẻ Hằng
thì bàn về sự bền vững là điều kiện để tiến tới vĩnh cửu, bất biến…
Vì vậy, hiểu được
Thoán Từ là hiểu được quá 1/2 quẻ Dịch rồi (
Trí giả quan kỳ Thoán Từ tắc tư
quá bán hỹ – Hệ Từ hạ, Chương 9) 
C)
Hào
Trong 1 hoàn
cảnh có nhiều khía cạnh, nhiều nhân vật liên hệ, quẻ là một hoàn cảnh,
nên cũng lấy các Hào mà tượng trưng cho sự diễn biến của hoàn cảnh, những
khía cạnh khác nhau của hoàn cảnh, những nhân vật liên hệ đến hoàn cảnh. 
Hào có Hào Tài & Hào Vị.
*Hào Tài là bản chất của từng Hào, tài đức của
từng Hào.  Hào Tài được diễn tả bằng Âm và Dương.
 Âm
Hào
  
tượng trưng cho những kẻ tiểu nhân, hoặc
những người bất tài, nhu nhược.
Dương Hào    tượng trưng cho quân tử, người tài cán, cương nghị.
*Hào Vị
Mỗi  quẻ
Kép có 6 vị  ngôi, tức là 6 Hào
Mỗi một hào mang
một số thứ tự tính từ dưới lên trên : 1, 2, 3, 4, 5, 6 có tên là Hào Sơ, Hào
Nhị, Hào Tam, Hào Tứ, Hào Ngũ và Hào Thượng. Số lẻ 1, 3, 5 là vị
Dương.  Số chẵn  2, 4, 6 là vị Âm. 
Tùy Hào tài là Dương hay
Âm, ta dùng thêm chữ Cửu hay Lục. Từ dưới lên trên ta xưng danh như sau: 
Nếu là
Dương Hào ta có:

Cửu, Cửu Nhị, Cửu Tam, Cửu Tứ, Cửu Ngũ, Thượng Cửu.
Nếu là Âm
Hào ta có: 

Lục, Lục Nhị, Lục Tam, Lục Tứ, Lục Ngũ, Thượng Lục.
Hào Vị có
nhiều công dụng:
a) Nó biểu dương không gian TRÊN, DƯỚI,
GIỮA.
b) Thời gian: ĐẦU, GIỮA, CUỐI.
c) Các tầng lớp xã hội từ lê thứ, đến quan,
vua, đến miếu mạo, triều ca.
d) Nó xác định ngôi vị của từng nhân vật.
e) Các giá trị tinh thần từ thấp đến cao.
f) Chiều hướng biến hóa từ trong ra ngoài,
hoặc từ ngoài vào trong. Từ dưới lên trên là biến chuyển từ trong ra
ngoài. 
Gặp trường hợp ấy nơi Thoán Truyện, dùng chữ Vãng.  Biến
chuyển từ trên xuống dưới là biến từ ngoài vào trong. Trường hợp này
Thoán Truyện dùng chữ Lai.
Như trên đã nói,
lối tính các Hào bao giờ cũng tính từ dưới lên trên, cho nên:
-Hào dưới là
thấp, Hào trên là cao.
-Hào dưới thì là
hạ tiện, là lê dân, Hào trên thời là tôn quí, là quan, là vua.
Đối với
thân thể con người,
thì
dưới là chân, trên là mặt, là miệng, là đầu.
Đối với
con vật, 
thì
hào Sơ là đuôi, hào trên  cùng là đầu, là sừngvv…
Đối với
quá trình một công việc,
thì
dưới là khởi điểm công việc, khó biết, khó làm.  Giữa  là  giai
đoạn gian một vài qui ước đã được chấp thuận cho mỗi một Hào.
*Hào Thượng: Thái
miếu, Thái thượng hoàng, Thượng phu, ẩn sĩ thoát trần.  Đó là hào
hưu tức, ngoại vị, vô vị.
*Hào Ngũ:  Thiên tử, Quân vương.
*Hào
Tứ: 
Đại thần, cận
thần, chư hầu.
*Hào Tam: Công khanh, Tam công, là những người có
thế lực trong nước.
*Hào Nhị: Công thần, Đại phu.
*Hào Sơ: Nguyên sĩ, là vạn dân, thứ
dân.            (Xem
thêm nơi Hệ Từ hạ , Chương 9 ) 
TRUNG
CHÍNH & BẤT TRUNG BẤT CHÍNH
Hào 2 và 5
Trung Hào, nên gọi là Trung.
– Hào 3, 4 chẳng hạn, không phải Hào giữa nên gọi
Bất trung.
– Hào Dương
cư Dương vị, hào Âm cư Âm vị
gọi
Chính.
– Hào Dương
cư Âm vị, hào Âm cư Dương vị
gọi
Bất chính.
Trung chính
& Bất trung chính

cốt để chỉ 2 sự kiện:
1) Trung là những người thành khẩn, trung thực,
có lương tâm chức nghiệp, tận tụy vì công vụ.
2) Chính là những người được dùng vào những ngôi
vị, những công việc xứng với tài đức của mình.
Bất trung chỉ những người gian ngoan, không thành
khẩn.
Bất chính chỉ những người sống trong những địa vị
bất xứng, không thích hợp với tài đức của mình, ví như dốt nát, bất tài mà lại
ở địa vị cao (Âm cư Dương vị); hoặc có tài, có đức mà không được trọng dụng,
không được đặt vào những chức vị xứng đáng (Dương  cư  Âm vị) 
Nhân đó ta suy ra được tình trạng hay dở rất nhiều. 
ỨNG
& TỈ
Mỗi người trong
xã hội lại có một số người hỗ trợ, hay không hỗ trợ, Dịch kinh diễn tả sự kiện
này bằng ỨNG HÀO .  ỨNG HÀO thì
  1 ứng với
4
  2 ứng với
5
  3 ứng với
6
*Âm ở dưới
ứng Dương ở trên
thì
phải hiểu là tiểu nhân dựa thế quân tử, tiểu nhân dựa thế lực người có quyền
thế ở trên, như vậy đâu có hay.
*Dương ở trên
ứng với Âm ở dưới
thì phải hiểu là người trên hay, mà người dưới dở,
không giúp ích được bao lâu.
*Âm lại gặp
Âm, Dương lại gặp Dương
thì
thường phải hiểu là một người hoạt động đơn độc, không người hỗ trợ.
*Nhưng ở Hào
ngũ, Hào nhị,
nếu Cửu
Ngũ mà lại gặp Cửu Nhị thì có thể hiểu là Minh quân lại gặp Hiền thần.
(Xem Kiền) 
TỈ : là thân
cận, là sống kế cận nhau.
ỨNG là nói 2 Hào cách xa nhau, TỈ
 là nói 2 Hào kề cận nhau.  Phàm gần nhau phải
giống tính, giống nết
nhau mới tốt.  Vì thế Âm cận Hào Âm
mới tốt, Dương cận Hào Dương mới hay.
Còn như Âm bên Dương, Dương bên
Âm, vì một đằng Cương, một đằng Nhu, một đằng quân tử, một đằng tiểu nhân, một
đằng hữu tài, một đằng vô tài, nên thường khủng khiểng, kèn cựa.
Nếu Âm ở dưới
Dương,
tức là kẻ bất
tài nhường nhịn người có tài.
Nếu Âm ở trên
Dương,
tức kẻ vô tài
mà lại trèo đầu, cưỡi cổ người có tài thì sẽ sinh lắm chuyện.
– Trường hợp quị
lụy, nhường nhịn, Dịch gọi là THỪA
 -Trường
hợp đè đầu, cưỡi cổ, Dịch cũng gọi là THỪA. 
Như vậy, để đoán
định CÁT, HUNG, Dịch theo những tiêu chuẩn sau đây:
1) Địa vị phải
xứng kỳ đức mới hay.
2) Làm việc gì
phải có người hỗ trợ, hưởng ứng, phụ bật mới hay.
3) Không hợp
nhau, mà xa nhau thì còn khả trợ, vì không giao tiếp với nhau.  Nhưng đã
không hợp nhau mà phải sống bên nhau, thật là căn cớ mọi hung họa.
4) Thành khẩn mà
đối đãi nhau mới hay.  Giả dối mà đối đãi với  nhau thật là điều tai
hại.
5) Và như vậy,
cả bộ Dịch khuyên ta phải ở những nơi, giữ những công việc thích hợp với tài
đức mình, giao thiệp với những người đồng tâm, đồng chí với mình.vv…  
ÍT 
NHIỀU VÍ DỤ ĐỂ HIỂU VỀ  6 HÀO
(Ta đi từ Hào
Sơ cho tới Hào Thượng)
1) Ví dụ Quẻ Tỉnh:      Sáu Hào ở đây mô tả các loại
giếng,  và các công dụng khác nhau của những giếng.
Hào 1) Đáy giếng bùn = Tiểu nhân không nên
dùng.
Hào 2) Giếng có ngách ngang hông, để mất hết
nước.= Người không lý tưởng, không ích lợi gì.
Hào 3) Giếng tốt bỏ hoang không ai dùng = Người
tài đức không được trọng dụng.
Hào 4) Giếng được xây sửa lại, tạm thời không
dùng được = Công bộc Quốc Gia nhiều khi phải ngưng phục vụ để tu nghiệp lại.
Hào 5) Giếng trong có người ăn = Vị quốc quân
có tài đức, thực ích lợi cho quốc dân.
Hào 6) Giếng nước ngon, có nắp đậy, lại đầy
nước = Ở trên càng làm ích cho đời, càng nhiều cái hay.
2.  Quẻ
Đỉnh. 
(Mô
tả các phần và công dụng của cái đỉnh, cái vạc dùng để nấu thức ăn)
Hào 1) Đỉnh chổng chân (để rửa bụi bậm bên
trong: bất kỳ hoàn cảnh nào, nhân vật nào mà ta biết lợi dụng vẫn hay)
Hào 2) Vạc đầy thức ăn (Không nên thân cận tiểu
nhân)
Hào 3) Tai đỉnh (Vạc thay tai:  Quân tử
lúc đầu không được trọng dụng, sau sẽ được hòa hợp với vua)
Hào 4) Đỉnh gãy chân: (Dùng tiểu nhân vào chức
trọng, sẽ hỏng việc.
Hào 6) Khoen đỉnh (Ở đời mà cương nhu hòa hợp,
trên đưới một lòng, thì hay biết mấy) 
3.  Quẻ
Hàm.   
(Dùng các phần mình trong người để diễn tả sự cảm xúc, cảm
thông)
Hào 1) Cảm bằng ngón cái chân (Sức cảm hóa còn
yếu ớt)
Hào 2) Cảm bằng bắp chân (Muốn cảm hóa người
trên rất khó)
Hào 3) Cảm bằng vế đùi  (Cảm hóa 
không  phải là xu phụ quần chúng)
Hào 4) Cảm bằng tâm (Cảm hóa bằng cả tâm hồn
mới tốt, không nên dùng thủ đoạn)
Hào 5) Cảm hóa bằng gáy vai (Cảm
hóa mà hờn hợt sẽ không bền )
Hào 6) Cảm hóa bằng mép môi (Cảm hóa người bằng
cửa miệng không hay)  
4.  Quẻ
Tiệm. 
  (Dùng những cảnh trí thiên nhiên từ
dưới bờ biển cho tới khung trời cao để mô tả sự tiệm tiến, tiệm thăng của chim
Hồng hay của người Quân tử)
Hào 1)
 
Chim Hồng
đậu  nơi  bờ  biển (Người quân tử mới vào đời, nếu chậm tiến chớ
buồn)
Hào 2) Chim Hồng đậu nơi thạch bàn (Người Quân
tử khi có địa vị vững chắc, đừng ăn không ngồi rồi, hãy làm điều gì ích quốc,
lợi dân)
Hào 3) Chim Hồng đậu ở cao nguyên (Tiểu nhân
muốn đốt giai đoạn mà tiến lên, vong ân bội nghĩa mà tiến lên thời đâu có
hay.  Quân tử sống kề cận với Tiểu nhân, nhưng nếu biết tự thủ, biết ngăn
chặn tiểu nhân đừng bước vào đường tội lỗi, thời như ngăn được giặc vậy)
Hào 4) Chim Hồng đậu trên cây (Người ở địa vị
cao mà biết nhu thuận, thì cao cũng không nguy)
Hào 5) Chim Hồng đậu núi cao. (Vua hay mà có
hiền tài phụ bật, dầu gặp kẻ ly gián tạm thời hiểu lầm nhau, sau cũng sẽ hòa
hợp)
Hào 6) Chim Hồng bay lên trên trời, lông rụng
xuống vẫn có thể dùng (Thánh nhân siêu việt trần gian, nhưng vẫn làm ích cho
đời) 
5.  Quẻ
Sư.   
(Mô tả mọi khía cạnh trong công cuộc hưng binh, động chúng)
Hào 1) Xuất quân phải có phép tắc.
Hào 2) Cầm quân phải có tướng tài.
Hào 3) Tướng dở cầm quân là đem quân vào chỗ
chết, là đem xe chở thây.
Hào 4) Dùng binh có lúc phải biết thoái.
Hào 5) Điều động binh mã, có lúc là để bảo vệ
sơn hà.  Dùng tướng tài cầm quân, không được dùng tướng dở.
Hào 6) Khi đã khải hoàn, phải khen thưởng quân
tướng cho hẳn hoi, nhưng không được dùng kẻ bất tài, dùng tiểu nhân vào chính
quyền.
  Cứ
theo đường lối ấy mà nghiên cứu các Hào,
ta sẽ thấy thường Hào nào cũng
có nghĩa đen, nghĩa bóng. Tìm ra được thâm ý mỗi Hào, ta sẽ học được những bài
học tiếp nhân xử kỷ rất là thâm thúy và khôn ngoan.
Thường mỗi quẻ
chỉ nói đến một vấn đề, nhưng đôi khi cũng nói đến 2, 3 vấn đề.  Cho nên
gặp quẻ nào cũng phải hiểu xem quẻ ấy muốn đề cập đến vấn đề gì, nhiên hậu mới
khỏi lạc lõng, khi nghiên cứu Thoán, Tượng, Hào.
Nếu ta đọc một
quẻ mà không biết nó muốn nói những gì, nếu ta không tìm ra được mạch lạc nối
liền Thoán, Tượng, Hào, mà ta chỉ hiểu nổi đại khái vặt vãnh, thì chắc chắn là
ta chưa hiểu nổi Kinh Dịch. 
II. 
ÁP  DỤNG  NHỮNG  NGUYÊN  TẮC  CỦA  DỊCH
KINH  VÀO  CUỘC  ĐỜI
Áp dụng
nguyên tắc Dịch kinh để đoán định công việc ta làm hay, hay dở
Phàm một công
việc ta làm, muốn biết là dở, hay hay, ta sẽ phân tách nó theo
những tiêu chuẩn sau đây:
-Lý: 
Minh chính hay tà
khuất.
-Tình: Thành khẩn hay giả dối, đắc ý hay không
đắc ý. Ta thích làm hay làm miễn cưỡng.
-Tài: 
Ta là người có chân tài
hay không?
-Đức: Ta là người có đức hay không?
-Thời: Công việc ta làm có hợp thời hay
không?.  Có hợp với tuổi ta không?.
-Vị: 
Địa vị và hoàn cảnh của
ta chính đáng, hay không?,  thích hợp với ta hay không?
-Sự hiểu
biết của ta về công việc:
Ta
có am tường công việc này hay không?
-Sự chuẩn
bị của ta:
Làm công
việc này ta có chuẩn bị chu đáo hay không?
-Ứng: Ta làm công việc này có người giúp hay
không, có người hưởng ứng hay không? Có bị ai phá phách, gàng quải hay không?
-Cát Hung:
Ta làm công việc này để
thành công, hay là để thất bại?
-Hối lận: Ta làm công việc này có bị lương tâm
phiền trách hay không? Có bị người đời đàm tiếu hay không.  Ta sung sướng,
hãnh diện mỗi khi nghĩ đến công việc ta làm, hay trái lại nó làm ta xấu hổ.
-Lệ, Vô
Cữu:
Khi làm công việc
này, mỗi khi ta thấy ta sai đường, lạc lối, mỗi khi ta thấy ta lầm lẫn, ta sẽ
có thực tình sửa đổi đường lối hay không?
Nếu xét
từng tiêu chuẩn,

ta thấy phải trả lời là không, thì việc của ta là không hay, đừng có
làm.  Như vậy, là ta theo đúng đường lối  của Trời Đất, theo đúng
Mệnh Trời.
MỖI KHI TA 
TÍNH  TOÁN  MỘT  CÔNG  VIỆC  GÌ, MỖI   
KHI  TA  LÂM VÀO MỘT HOÀN  CẢNH  NÀO, ta phải:
1) Nghiên cứu, tìm hiểu công việc hay hoàn
cảnh ta cho tận tường.
Tìm xem những yếu tố nào đã gây nên hoàn
cảnh này.
 -Xem ai
làm chủ chốt, ai làm chốt, làm nọc trong hoàn cảnh này.
– Ta có can
dự nào đối với hoàn cảnh.  Trực tiếp bị ảnh hưởng, gián tiếp bị ảnh hưởng,
hay không bị ảnh hưởng?
2) Nghiên cứu các lực lượng bạn và thù.
3) Nghiên cứu các vấn đề cần phải giải
quyết.
4) Nghiên cứu xem các khó khăn vấp phải.
-Vượt tầm
giải quyết của ta.
-Vừa tầm giải
quyết của ta.
-Ta có thể
giải quyết dễ dàng với tài sức ta.
5) Hoàn cảnh ta gặp, công việc ta tìm đang
ở vào thời kỳ nào: đầu hay đuôi.
6) Hoàn cảnh ta đang gặp, thuận lợi hay
không thuận lợi đối với ta.
Tóm lại, Dịch
Kinh muốn dạy ta những điều chính yếu sau đây trong cuộc sống hàng ngày:
Muốn làm việc gì phải thông suốt vấn đề,
nghiên cứu tỉ mỉ, phân tách công việc ra thành từng giai đoạn, phải biết tiên
liệu những đường đi, nước bước của mình, tiên đoán những trường hợp mình sẽ gặp
phải, chương trình hoạt động của mình phải có mục phiêu sáng suốt rõ ràng,
những phương thế để đạt mục phiêu ấy phải được hoạch định, nghiên cứu tỉ
mỉ.  Phải chọn người cộng tác có tài đức, khả dĩ thi hành được công việc
cho đến thành công.
-Muốn đối phó
hoàn cảnh cho xuôi xắn,  phải biết tùy thời xử thế.  Lúc cương, lúc
nhu, khi mạnh thì cương, khi yếu thời nhu, phải luôn luôn theo đường lối tự
nhiên, công chính và phổ quát.
-Trong khi hành
sự, phải bình tĩnh, sáng suốt, bình dị, đừng có rối rắm, đừng có phức tạp cầu
kỳ.
-Đừng làm gì để
cho lương tâm, người đời chê trách.  Đừng làm gì để di hại đến tinh thần,
thể xác, hoàn cảnh, sự nghiệp, danh giá của mình.
-Gặp nguy biến,
phải ẩn lánh để bảo toàn tấm thân.
-Gặp lúc thuận
tiện, phải đem tài năng, đức độ ra giúp nước, giúp dân.
-Không cộng tác
với bạo chúa, cường quyền.
-Chỉ cộng tác
với người tài đức, vì dân, vì nước.
-Không thân cận
với kẻ tiểu nhân, với người ác đức. Khi cần giao thiệp với họ, phải giữ gìn cho
lắm.
-Phải tránh
những sự giao thiệp giả dối.
-Đối với mọi
người, cần sự thành khẩn.
-Không có tài,
đừng ham địa vị cao.
Không
phải việc mình, đừng rây vào. 
Những nguy hiểm có  thể 
tránh được thì  nên  tránh, đừng  có  dấn  thân
vào.  Nếu chúng ta giữ được như vậy, thì công việc chúng ta thi hành
thường được trôi chẩy, cuộc đời chúng ta luôn được vui tươi như ý.
Dịch Kinh đã dạy
chúng ta những tôn chỉ chính xác, để hướng dẫn hành động chúng ta cho chúng ta
trở nên hoàn bị.  Có những tư tưởng sáng suốt, những tôn chỉ chính xác,
mục phiêu cao cả, những hành vi, cử chỉ, tác phong hợp lý hợp nghĩa, tức là có
những phương tiện để tiến tới hoàn thiện, trở thành Thánh Hiền.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *