Kinh nghiệm Tử-Vi của Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”

Kinh nghiệm Tử-Vi của
Cụ Thiên Lương : Để giải đoán “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”
Trích trong Báo KHHB 1973 do Ông Trần Việt Sơn trình bày

v Các cách ghi trong sách về Mệnh vô
Chính Diệu qúa đơn giản, thiếu xót, cho nên dễ sai lầm.

v Có Mệnh Vô Chính diệu tốt, có Mệnh Vô
Chính Diệu xấu.

v Không phải chỉ xoay quanh cái “Đắc Tam
Không, có khi đắc Tam Không mà tốt, có khi đắc Tam Không mà xấu”.

v Tam Không là những Không nào ?

Trên đường tìm Mệnh Vô Chính Diệu

Chúng tôi có nhiều lá số Mệnh Vô Chính Diệu trong tay,
chúng tôi cũng được nhiều vị thân hữu cho xem những lá số Mệnh Vô chính Diệu,
và, xin thú thật càng xem càng như lạc vào rừng. Có những vị Mệnh Vô Chính Diệu
mà thật khá, có những vị Mệnh Vô Chính Diệu nhưng thật kém. Nhưng cứ theo các
sách thì Mệnh Vô Chính Diệu, cần đắc Tam Không mới “phú quý khả kỳ”
Nhưng theo các lá số, có vị mệnh Vô Chính Diệu không đắc Không nào, mà được rất
khá, lại có vị đắc Tam Không, nhưng lại bị dở.

Xem ra thì sách nói qúa thiếu xót, cho nên khó mà đúng
được. Theo các sách thì Mệnh Vô Chính Diệu, cần có TUẦN, TRIỆT án ngữ và cần
thêm THIÊN KHÔNG, ĐỊA KHÔNG hoặc không có những “Không” đó , cũng phải có nhiều
sao tốt hội họp mới được, nghĩa là mới khá và mới sống lâu. Những cách đại
cương đó, áp dụng vào các lá số, khi đúng, khi sai. Tất nhiên, cách Mệnh Vô
Chính Diệu, không phải chỉ đơn thuần được giải đoán như thế, là vì theo thiển
nghĩ của chúng tôi, ngoài sự kiện Mệnh không có chính diệu, ngoài các sao Không,
còn có các chính tinh chiếu, các hung tinh, các trung tinh tốt khác, còn sự
kiện hành của Mệnh .v.v…. tất cả những sự kiện đó còn ràng buộc với nhau để tạo
nên sự tốt xấu.

Trong mục tiêu đi tìm ý nghĩa của Mệnh Vô Chính Diệu, chúng
tôi đã cần đến nhiều vị. Có vị lão thành bảo rằng Tam Không phải là Tuần Không,
Triệt Không và Địa Không. Sở dĩ phải kể cả Triệt là vì danh xưng của sao đó là
Triệt lộ Không vong. Có vị lại cho rằng Tam Không phải là Tuần Không, Địa Không
và Thiên Không, còn Triệt là Triệt lộ chứ không phải là Triệt Không, vả lại
danh xưng Thiên Không đã sẵn đó để được kể là một Không. Có những lần, chúng
tôi có ghi về kinh nghiệm của cụ Ba La, nói rằng Mệnh Vô Chính Diệu mà có TUẦN,
TRIỆT đóng ở đó, thì dù có gặp các sao tốt như Lộc Tồn, Tam Hóa, Tả Hữu vẫn
phải kể là bị giảm đi, bởi vì TUẦN & TRIỆT làm giảm những cái xấu, nhưng
cũng chiết giảm những cái tốt. Cho nên Mệnh Vô Chính Diệu mà được những sao tốt
thì phí đi chứ không hay.

Trong phần trước tôi đã đăng một bài nêu lên kinh nghiệm của
Cụ Quản Văn Chính với chủ đề ”Mệnh Vô Chính Diệu có phi yểu tắc bần không ? ” . Trong đó có
trình bày 3 lá số Mệnh Vô Chính Diệu mà không yểu cũng không bần. Điều đó đó
càng thúc đẩy chúng tôi tìm hiểu thêm trọn vẹn những yếu tố để giải đoán trường
hợp Mệnh Vô Chính Diệu. Nay chúng tôi xin trình bày của cụ Thiên Lương nêu lên
các kinh nghiệm của cụ, để giải đoán các trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu như sau
:


TÍNH CÂN LƯỢNG THEO NĂM SINH ÂM LỊCH:
(Nam
nữ xem chung)

Cân lượng theo năm sinh âm lịch:

Giáp Tý: 1 lượng 2 chỉ – Bính Tý: 1 lượng 6 chỉ – Mậu Tý: 1 lượng 5 chỉ – Canh
Tý: 0 lượng 7 chỉ – Nhâm Tý: 0 lượng 5 chỉ

Ất Sửu: 0 lượng 9 chỉ – Đinh Sửu: 0 lượng 8 chỉ – Kỷ Sửu: 0 lượng 8 chỉ – Tân
Sửu: 0 lượng 7 chỉ – Quý Sửu: 0 lượng 5 chỉ

Bính Dần: 0 lượng 6 chỉ – Mậu Dần: 0 lượng 8 chỉ – Canh Dần: 0 lượng 9 chỉ –
Nhâm Dần: 0 lượng 9 chỉ – Giáp Dần: 1lượng 2 chỉ

Đinh Mão: 0 lượng 7 chỉ – Kỷ Mão: 1 lượng 9 chỉ – Tân Mão: 1 lượng 2 chỉ – Quý
Mão: 1 lượng 2 chỉ – Ất Mão 0 lượng 8 chỉ

Mậu Thìn: 1 lượng 2 chỉ – Canh Thìn: 1 lượng 2 chỉ – Nhâm Thìn 1 lượng 0 chỉ –
Giáp Thìn: 0 lượng 8 chỉ – Bính Thìn: 0 lượng 8 chỉ

Kỷ Tỵ: 0 lượng 5 chỉ – Tân Tỵ: 0 lượng 6 chỉ – Quý Tỵ: 0 lượng 7 chỉ – Ất Tỵ: 0
lượng 7 chỉ – Đinh Tỵ: 0 lượng 6 chỉ

Canh Ngọ: 0 lượng 9 chỉ – Nhâm Ngọ: 0 lượng 8 chỉ – Giáp Ngọ: 1 lượng 5 chỉ –
Bính Ngọ: 1 lượng 3 chỉ – Mậu Ngọ: 1 lượng 9 chỉ

Tân Mùi: 0 lượng 8 chỉ – Quý Mùi: 0 lượng 7 chỉ – Ất Mùi: 0 lượng 6 chỉ – Đinh
Mùi: 0 lượng 5 chỉ – Kỷ Mùi: 0 lượng 6 chỉ

Nhâm Thân: 0 lượng 7 chỉ – Giáp Thân: 0 lượng 5 chỉ – Bính Thân: 0 lượng 5 chỉ
– Mậu Thân: 1 lượng 4 chỉ – Canh Thân: 0 lượng 8 chỉ

Quý Dậu: 0 lượng 8 chỉ – Ất Dậu: 1 lượng 5 chỉ – Đinh Dậu: 1 lượng 4 chỉ – Kỷ
Dậu: 0 lượng 5 chỉ – Tân Dậu: 1 lượng 6 chỉ

Giáp Tuất: 0 lượng 5 chỉ – Bính Tuất: 0 lượng 6 chỉ – Mậu Tuất: 1 lượng 4 chỉ –
Canh Tuất: 0 lượng 9 chỉ – Nhâm Tuất: 1 lượng 0 chỉ

Ất Hợi: 0 lượng 9 chỉ – Đinh Hợi: 1 lượng 6 chỉ – Kỷ Hợi: 0 lượng 9 chỉ – Tân
Hợi: 1 lượng 7 chỉ – Quý Hợi: 0 lượng 7 chỉ

Cân lượng theo tháng sinh âm lịch:

Tháng Giêng: 0 lượng 6 chỉ
Tháng Hai: 0 lượng 7 chỉ
Tháng Ba: 1 lượng 8 chỉ
Tháng Tư: 0 lượng 9 chỉ
Tháng Năm: 0 lượng 5 chỉ
Tháng Sáu: 1 lượng 6 chỉ
Tháng Bảy: 0 lượng 9 chỉ
Tháng Tám: 1 lượng 5 chỉ
Tháng Chín: 1 lượng 8 chỉ
Tháng Mười: 1 lượng 8 chỉ
Tháng Mười Một: 0 lượng 9 chỉ
Tháng Chạp: 0 lượng 5 chỉ

Cân lượng theo ngày sinh âm lịch:

Ngày mùng một: 0 lượng 5 chỉ
Ngày mùng hai: 1 lượng 0 chỉ
Ngày mùng ba: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mùng bốn: 1 lượng 5 chỉ
Ngày mùng năm: 1 lượng 6 chỉ
Ngày mùng sáu: 1 lượng 5 chỉ
Ngày mùng bảy: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mùng tám: 1 lượng 6 chỉ
Ngày mùng chín: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mùng mười: 1 lượng 6 chỉ
Ngày mười một: 0 lượng 9 chỉ
Ngày mười hai: 1 lượng 7 chỉ
Ngày mười ba: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mười bốn: 1 lượng 7 chỉ
Ngày rằm: 1 lượng 0 chỉ
Ngày mười sáu: 0 lượng 8 chỉ
Ngày mười bảy: 0 lượng 9 chỉ
Ngày mười tám: 1 lượng 8 chỉ
Ngày mười chín 0 lượng 5 chỉ
Ngày hai mươi: 1 lượng 5 chỉ
Ngày hai mươi mốt: 1 lượng 0 chỉ
ngày hai mươi hai: 0 lượng 9 chỉ
Ngày hai mươi ba: 0 lượng 8 chỉ
Ngày hai mươi bốn: 0 lượng 9 chỉ
Ngày hai mươi lăm: 1 lượng 5 chỉ
Ngày hai mươi sáu: 1 lượng 8 chỉ
Ngày hai mươi bảy: 0 lượng 7 chỉ
Ngày hai mươi tám: o lượng 8 chỉ
Ngày hai mươi chín: 1 lượng 6 chỉ
Ngày ba mươi: 0 lượng 6 chỉ

Cân lượng theo giờ sinh:

Giờ Tý (từ 23h đến 01h) : 1 lượng 6 chỉ
Giờ Sửu (từ o1h đến 03h): 0 lượng 6 chỉ
Giờ Dần (từ o3h đến 05h): 0 lượng 7 chỉ
Giờ Mão (từ 05h đến 07h): 1 lượng 0 chỉ
Giờ Thìn (từ 07h đến 09h): 0 lượng 9 chỉ
Giờ Tỵ (từ 09h đến 11h) : 1 lượng 6 chỉ
Giờ Ngọ (từ 11h đến 13h) : 1 lượng 0 chỉ
Giờ Mùi (từ 13h đến 15h) : 0 lượng 8 chỉ
Giờ Thân (từ 15h đến 17h): 0 lượng 8 chỉ
Giờ Dậu (từ 17h đến 19h) : 0 lượng 9 chỉ
Giờ Tuất (từ 19h đến 21h): 0 lượng 6 chỉ
Giờ Hợi (từ 21h đến 23h) : 0 lượng 6 chỉ

PHÉP TÍNH NHƯ DƯỚI ĐÂY (THEO ÂM LỊCH)
Ví dụ:
Người sinh năm Giáp Tý, tháng Giêng, ngày mùng Một, giờ Tý. Xem ở bài trên thì
Giáp Tý được 1 lượng 2 chỉ, tháng Giêng được 0 lượng 6 chỉ, ngày mùng một được
0 lượng 5 chỉ, giờ Tý được 1 lượng 6 chỉ. Rồi cộng chung lại như dưới đây:
sinh năm Giáp Tý : 1 lượng 2 chỉ
sinh tháng Giêng : 0 lượng 6 chỉ
sinh ngày mùng một: 0 lượng 5 chỉ
sinh giờ Tý : 1 lượng 6 chỉ
__________________
Tổng cộng : 3 lượng 9 chỉ
Đoạn xem lời giải lập thành dưới đây, tìm đến lời giải chỉ số 3 lượng 9 chỉ thì
sẽ được hiểu vận mạng trong một đời nên, hư, tốt, xấu…

LỜI GIẢI

2 lượng 2 chỉ :
Số này thân hàn cốt lạnh, khổ sở linh đinh, quanh năm lo kiếm ăn độ nhựt mà còn
thiếu thốn, rồi có thể trở thành ăn mày vì số mạng vậy.

2 lượng 3 chỉ :
Số này hễ mưu toan làm việc chi cũng khó nên được. Chẳng trông cậy nơi anh em
họ hàng, đành chịu tha phương cầu thực.

2 lượng 4 chỉ :
Số này suy ra không có phúc lộc gia đình, khó gầy nên sự nghiệp, không nương
cậy nơi họ hàng cốt nhục, chỉ lưu lạc tha phương cầu thực tới già mà thôi.

2 lượng 5 chỉ :
Suy ra số này tổ nghiệp suy vi, ít có phần gầy dựng nên gia đình được, họ hàng
cốt nhục thì như than với giá, mot65 đời khổ sở, chỉ tự mình tìm sống mà thôi.

2 lượng 6 chỉ :
Số này trọn đời khốn khổ, một mình mưu tính công việc làm ăn luôn luôn nhưng
chẳng thành. Nên lìa xa quê cha đất tổ mới hầu được đủ ăn và may ra lúc già mới
được thanh nhàn.

2 lượng 7 chỉ :
Số này một đời làm công việc ít có được người khác mưu toan giúp đỡ, khó nhờ
cậy phúc đức của tổ tông làm chủ trương cho. Chỉ tự lực một mình làm ăn, từ bé
đến lớn cũng chẳng có gì hay cả.

2 lượng 8 chỉ :
Số này làm ăn lộn xộn rối ren như bòng bong, về sản nghiệp của tổ tông thì như
giấc mộng. Nếu chẳng làm con nuôi người ta hay là không đổi họ thì cũng phải
dời đổi di cư tới đôi ba lần.

2 lượng 9 chỉ :
Số này năm xưa thì lẩn quẩn chưa hề được hạnh thông, dầu có công danh thì cũng
trễ muộn, phải tới ngoài bốn mươi tuổi mới có thể đặng an nhàn, nhưng phải dời
đổi nhà cửa hay là đổi họ mới hay.

3 lượng 0 chỉ :
Số này lao lực phong trần, trong đời gặp lắm cảnh lầm than. Dầu có siêng năng
hà tiện, thì tới tuổi già chỉ đỡ ưu sầu chút đỉnh thôi.

3 lượng 1 chỉ :
Số này cũng vất vả lao đao vì sinh kế, khó nhờ sự nghiệp của tổ tông mà nên nhà
nên cửa. Từ nửa đời người trở lên mới gọi là đặng đủ ăn đủ mặc.

3 lượng 2 chỉ :
số này năm xưa gặp vận rủi, khó mưu đặng công việc gì. Về sau mới có tài lợi
như nước chảy lần tới. Từ nửa đời người trở lên thì sự ăn mặc đặng no đủ, lúc
ấy công danh lợi lộc sẽ hạnh thông.

3 lượng 3 chỉ :
Số này lúc ban sơ làm ăn công việc chi cũng khó thành, mưu tính trăm đường chỉ
uổng công thôi. Từ nửa đời người sắp lên mới gặp vận hay sẽ tới như dòng nước
chảy lại, sau này tài lợi tấn phát đặng nhiều.

3 lượng 4 chỉ :
Số này có khước đức tăng đạo, phải xa quê hương cha mẹ mà xuất giá nương cửa
Phật, hằng ngày tụng niệm thì mới đặng y lộc viên mãn.

3 lượng 5 chỉ :
Số này phúc lượng sinh bình chẳng đặng chu toàn, chẳng hưởng phần căn cơ của tổ
nghiệp truyền lại. Còn sự sinh nhai phải chờ khi vận tới rồi mới no đủ hơn xưa.

3 lượng 6 chỉ :
Số này một đời chẳng cần lao lực chi lắm, một tay gầy dựng nên gia nghiệp, cái
phúc chẳng phải vừa, vì sớm có ngôi phúc tinh thường chiếu tới mạng mình, mặc
dầu cho làm qua trăm bề đều đặng thành đạt.

3 lượng 7 chỉ :
Số này làm chẳng đặng thành công, anh em ít giúp sức, chỉ một thân cô lập. Tuy
rằng cũng có tổ nghiệp chút đỉnh, nhưng lúc lại thì rành rành đó, mà lúc đi thì
chẳng biết hết bao giờ.

3 lượng 8 chỉ :
Số này cốt cách rất thanh cao, sớm đặng thi đổ, tên họ ghi tên bảng vàng. từ
năm 36 tuổi, sẽ đặng phú quý vinh hoa.

3 lượng 9 chỉ :
Số này trọn đời vận mạng chẳng đặng thông đạt, làm việc thành rồi cũng hư. Khổ
tâm kiệt lực dựng nên gia kế tới sau này cũng như giấc mộng.

4 lượng 0 chỉ :
Số này phúc lộc đặng lâu dài, nhưng xưa phải chịu qua nhiều nỗi phong ba vất
vả.
Sau này đặng hưởng an nhàn phú quý.

4 lượng 1 chỉ :
Số này là người tài ba lỗi lạc, công việc trước sau chẳng đồng nhau; từ nửa đời
sắp lên lai cọ phúc tiêu diêu, chớ chẳng như xưa kia vận chưa đạt.

4 lượng 2 chỉ :
Số này sẽ được nhiều thoả nguyện. Từ nửa đời người thì vận mạng đặng nên, lúc
ấy tài lợi công danh thảy đều tấn phát.

4 lượng 3 chỉ :
Số này là người tánh rất thông minh, làm việc lỗi lạc hiên ngang gần với người
sang quí. Một đời phúc lộc tự trời định sẵn, chẳng cần phải lao lực mà tự nhiên
đặng hạnh thông.

4 lượng 4 chỉ :
Phàm sự chi cũng bởi trời đem lại, chẳng cần cầu làm chi cho mệt, phúc lộc về
sau sẽ đặng hơn nhiều lúc khi xưa. Tuy rằng lúc trẻ cung Tài Bạch khó đặng như
ý, nhưng tới tuổi già đặng an nhàn.

4 lượng 5 chỉ :
Số này phần công danh lợi lộc trước phải tân khổ, mà sau này cũng phải bôn ba;
số hiếm hoi con cái vì khó nuôi; anh em cốt nhục cũng ít đặng phù trợ giúp sức.

4 lượng 6 chỉ :
Số này đi đâu cũng đều đặng hạnh thông, nhứt là đổi họ dời nhà lại càng thịnh
vượng. Ăn mặc đầy đủ tự số trời định sẵn. Từ nửa đời cho tới lúc già đồng một
mực trung bình.

4 lượng 7 chỉ :
Số này tính ra vượng về lúc tuổi già, vợ con phú quí, vì nguyên có cái phúc sẵn
như nước chảy lại.

4 lượng 8 chỉ :
Số này, tuổi trẻ cũng như lúc tuổi lớn, cũng chẳng đặng hưng vượng. Anh em họ
hàng đều không đặng nhờ cậy giúp sức. Tới lúc già rồi mới đặng đôi phần an
khương.

4 lượng 9 chỉ :
Số này suy ra có hậu phúc lớn lắm, tự tay gầy nên sự nghiệp vẻ vang gia đình.
Người sang đều kính trọng. Một đời sung sướng.

5 lượng 0 chỉ :
Số này hằng ngày chỉ lao lực về đàng công danh tài lợi. Lúc nửa đời cũng có
nhiều phen gặp phúc lộc; tới già có ngôi Tài Tinh chiếu mạng sẽ đặng an nhàn.

5 lượng 1 chỉ :
Số này một đời vinh hoa, mọi việc thảy đều tấn phát, chẳng cần lao lực, tự
nhiên hạnh thông. Anh em chú cháu đều đặng như ý, gia nghiệp và phúc lộc đặng
đầy đủ.

5 lượng 2 chỉ :
Số này trọn đời hạnh thông, việc gì cũng hay, chẳng cần nhọc lòng mà tự nhiên
yên ổn. Họ hàng cốt nhục thảy đều giúp sức; sự nghiệp hiển đạt.

5 lượng 3 chỉ :
Số này xem ra khí tượng chơn thật, nghiệp nhà mà đặng phát đạt cũng ở trong đó.
Phúc lộc một đời có số định sẵn vinh hoa phú quí.

5 lượng 4 chỉ :
Số này là người có tánh trung hậu và thanh cao, học hành minh mẫn, ăn mặc phong
túc, tự nhiên an ổn, chính là người có phúc trên đời.

5 lượng 5 chỉ :
Số này lúc trẻ hằng bôn ba trên đàng danh lợi, nhưng uổng công phí sức mà thôi.
Ngày kia, phúc loc65 sẽ tới như nước chảy lại, rồi tự nhiên phú quí vinh hiển.

5 lượng 6 chỉ :
Số này suy ra là người lễ nghĩa thông thái, một đời phúc lộc; nếm đủ mùi chua
cay, nguồn tài lợi thì cuồn cuộn, an ổn và phong hậu.

5 lượng 7 chỉ :
Số này phúc lộc dẫy đầy, mọi sự hạnh thông, quang hiển mẹ cha,oai vọng chấn
dương, người đều kính trọng, riêng chiếm bầu xuân.

5 lượng 8 chỉ :
Số này là số bảng vàng áo gấm, quan cả khoa cao, phúc lộc một đời tự nhiên đem
lại, phú thọ đều đủ, danh lợi kiêm toàn.

5 lượng 9 chỉ :
Suy ra số này là người diệu xảo không có thanh cốt, chắc hẳn tài cao học rộng
có phận đậu khoa bảng, có mạng làm quan sang.

6 lượng 0 chỉ :
Số này tên đậu bảng vàng, lập nên công lớn, vinh quang tông tổ, điền sản phong
túc, y lộc dư giả.

6 lượng 1 chỉ :
Số này tư chất thông minh, học hỏi rộng rãi, tự nhiên vinh diệu, tên đậu bảng
vàng. Dầu chẳng được quan sang, chắc cũng là một nhà phú hộ.

6 lượng 2 chỉ :
Số này phúc lộc vô cùng, học giỏi làm nên, vinh hiển mẹ cha, đai vàng áo gấm,
phú quí vinh hoa, mọi đường đầy đủ.

6 lượng 3 chỉ :
Số này là số đậu khoa cao, làm quan lớn, giàu sang cực phẩm, toại danh thiên
hạ; phúc lộc phi thường, gia đình vinh hiển.

6 lượng 4 chỉ :
Số này phú quí vinh hoa, ít ai bì kịp; oai quyền lộc vị, không kẻ sánh bằng. Áo
tía đai vàng, ngôi cao chung đỉnh, trọn đời hạnh phúc.

6 lượng 5 chỉ :
Số này suy ra thì phúc lộc chẳng nhỏ, tài cao giúp nước, công cả yên dân; chức
trọng trào đình, giàu sang tột bậc, vang danh thiên hạ.

6 lượng 6 chỉ :
Số này phú quí định sẵn tự trời, phúc lộc hơn thiên hạ, quan cao quyền trọng,
châu báu đầy vơi, ấm phong thê tử.

6 lượng 7 chỉ :
Số này sinh ra tự nhiên có phúc lớn, điền viên gia nghiệp thật hưng long, trọn
đời phú quí vinh hoa, muôn việc hạnh thông hoàn hảo.

6 lượng 8 chỉ :
Số này giàu sang tự trời ban, khỏi phải khó nhọc, gia tư có muôn vàng; nhưng
mười năm sau chẳng có như hồi trước, căn cơ tổ nghiệp trôi đi như thuyền trên
mặt nước sóng bão.

6 lượng 9 chỉ :
Số này là một vì sao y lộc ở nhân gian, một thân phú quí, mọi người đều kính
nể. tóm lại, là phúc lộc do tự trời định, an hưởng vinh hoa trọn đời.

7 lượng 0 chỉ :
Số này suy ra phúc chẳng nhỏ, không cần phải sầu lo làm chi cho mệt nhọc, vì
trời đã đinh sẵn y lộc phong danh, một đời vinh hiển giàu sang.

7 lượng 1 chỉ :
Số này sinh ra rất khác với người thường, công hầu khanh tướng đều đặng hoàn
hảo, một đời tự một đời tự nhiên có phúc tiêu diêu khoái lạc, cực phẩm hưng
long.

Ngọc Hạp Chánh Tông

Mục lục

tham khảo: tu hành số tiền định

Khi xưa khi chọn người xuất gia các sư phụ trụ
trì thường Luận về năm hay tháng có gặp các Thức hay không, có mười loại Thức
dưới đây xin nói sau.:
Nếu gặp một hoặc hai, ba Thức trong mười loại Thức kể dưới đây, mới cho xuất
gia. Bằng chẳng gặp một Thức nào, chỉ tỏ người ấy còn mang tội nghiệp sâu nặng,
không thể độ được, e sau nầy người ấy không tin luật nhân quả, trở lại báng
sáng đạo đức.
Nam
gặp nhiều Thức càng quí, nữ gặp ít càng hay.
===OoO===

Không luận xuất gia hay tại gia, nếu người nào gặp đặng ba Thức, ấy là người phước
đức, biết kỉnh Phật, ham mộ đạo đức, tinh thần, trước sau cũng sẽ đặng thành
quả vị Phật Tiên.

Cứ y theo năm nào, tháng nào mình thọ sanh, gặp nhằm Thức nào, mà định phần hơn
kém kiết hung về số mạng. ( Theo âm lịch).

1.BỒ ĐỀ THỨC

NĂM TUỔI TÝ GẶP THÁNG 2 – 5 – 12
NĂM TUỔI SỬU GẶP THÁNG 2 – 6 – 12
NĂM TUỔI DẦN GẶP THÁNG 4 – 5 – 10
NĂM TUỔI mẹo GẶP THÁNG 2 – 10
NĂM TUỔI Thìn GẶP THÁNG 2 – 6 -9
NĂM TUỔI Tỵ GẶP THÁNG 4 – 7 – 10
NĂM TUỔI Ngọ GẶP THÁNG 5 – 8 – 10
NĂM TUỔI Mùi GẶP THÁNG 6 – 9 – 10
NĂM TUỔI Thân GẶP THÁNG 5 – 9 – 12
NĂM TUỔI Dậu GẶP THÁNG 2 – 6 – 12
NĂM TUỔI Tuất GẶP THÁNG 2 – 5 – 12
NĂM TUỔI Hợi GẶP THÁNG 2 – 5 – 12

Người sanh gặp Thức này, có tánh từ bi, hay thương xót và cứu độ người. Theo
tình đời, kẻ dữ thì bị người ghét, người lành lại bị kẻ khi. Nhưng người có
tánh Bồ – Đề, gặp người lành chẳng khi, đối với kẻ dữ cũng không sợ. Bình sanh
đặng quí tướng, ấy là người có căn – cơ phước đức.


Luận đoán một lá số tử vi cho thật chuẩn, các cụ ta ngày xưa đã thực hiện
phương châm kết hợp:

“Tử Vi mà có sai lầm
Thì đem Tam Thế Diễn Cầm mà tra.”

Tam Thế Diễn Cầm là môn Tiền Định. Nghiên cứu về Tam Thế Diễn Cầm thì cũng thấy
người xưa chắt lọc từ Dịch Số mà ra và đã đúc kết lại thành các công thức có
sẵn. Lại còn một cách nữa của cụ Bảng Nhãn Lê Quý Đôn đề xướng: “Xem Tính
phải kết hợp xem Tướng”. Có người tính tốt mà lại không có tướng thì cũng
hỏng, có người “có tướng mà không có tính” cũng vậy.

Lại đi sâu vào Âm Dương Ngũ Hành thì mới quán triệt được vấn đề, cường nhược
của từng tinh đẩu. Đại để trong hơn 120 sao thì sao nào cũng có ngũ hành của
nó. Ngoài ra còn phải chú ý tới một số vị trí đặc biệt đắc cách của sao. Thí dụ
Thanh Long thuộc Mộc thủ Mệnh hoặc cư Quan Lộc.

– “Long cư Long” vị hay “Thanh Long nhập uyên” đó là trường
hợp đắc địa ở cung Thìn, thật là tốt.
– “Thanh Long nhập Mộc tân toan” – Dần Mão- vất vả.
– “Thanh Long nhập tỉnh” – tại Mùi là cái giếng, Rồng cuộn khúc dưới
giếng, có tài nhưng bị xếp xó, không gặp thời để thi thố.
– “Thanh Long nhập võng” – Thanh Long cư Tuất, Rồng mắc lưới.
– “Thanh Long nhập Thổ bất bình”, là con rồng đất (Sửu)
– “Thanh Long nhập hỏa tổn thương” (ở Tỵ, Ngọ).

Hay như sao Thiên Mã, biểu tượng của tài năng thao lược, của ý chí bay nhảy
tung hoành bốn phương. Một số cách hay như: Lộc Mã Giao Trì, Mã Ngộ Tràng Sinh.
Cách xấu như Mã Hình, Mã Tuần/Triệt, Mã Tuyệt, Mã cùng đồ (đường) ở Hợi. Cố lý
số gia Thiên Lương có đề xuất: “Chủ nhân muốn làm chủ thật sự của Mã cũng
phải đồng hành với chỗ nó ở thì công việc mình làm mới có kết quả tốt
đẹp”. Do vậy, Mã ở Dần thuộc quyền sử dụng của người mệnh Mộc, bạc nhược
với người mệnh Kim, vất vả với người mệnh Thủy, điêu linh cho người mệnh Thổ,
lợi cho người mệnh Hỏa. Từ đó nêu ra vấn đề mã của mình hay mã
“mượn”.

Cũng từ đó giải thích cái con Mã của tuổi Ất Hợi đóng ở Tỵ (tháng 3, ngày mùng
2, giờ Tỵ), thuộc cung Ách trong một lá số tử vi làm thí dụ: Phải xuất ngoại và
được xuất ngoại, trong khi cung Di ko có số xuất ngoại (ở La, Võng và thiếu tín
hiệu xuất ngoại).

Đi sâu vào Kinh Dịch, ta còn thấy Mã ở Dần (Cấn- Sơn) là ngựa vượt núi. Mã ở Tỵ
(Tốn – Phong) là Thiên Lý Mã, Mã ở Thân là Mã đáo kim cung – Thong thả tới
đích.

Như vậy việc giải đoán cứ đóng khung theo sách mà thiếu suy luận logic thì làm
sao chính xác được.

Ngoài ra, cho tới nay, khoa tử vi còn rất nhiều bí mật, lẽ dĩ nhiên phải có
thời gian mới dần tìm lại được nguồn gốc khai sinh. Một là số tử vi hiện nay
mới sử dụng chừng trên dưới 120 sao (một trăm hai mươi sao) , người đời sau cứ
bớt xén dần đi. Thật ra, có thể một lá số, khi an đủ phải có tới gần 300 sao
rút ra từ 500 thần sát. Có những sao rất quan trọng mà cách an rất đơn giản, mà
tại sao người ta không phổ biến như sao Tướng Tinh, Thần Y, Địa Y… Tất nhiên
có những sao phức tạp khi an như sao Kình Thiên …
tham khảo: dặc biệt nguyên tắc tam hợp

Hầu hết các sách Tử-Vi đã phát hành và một số
lớn những người biết nhiều về Tử-Vi, thường hướng dẫn những người mới nghiên
cứu rằng muốn xét sự hung kiết của Phúc, Mệnh, Thân, Hạn, Tam Hợp, Nhị Hợp,
Xung Chiếu, có sách và có vị cẩn thận hơn còn khuyến khích nên xem cả cung
cường, cung nhược … Một tổng hợp như vậy có lúc cần mang tính chất trái ngược
nhau, qủa đã gây bối rối không ít cho những người mới nghiên cứu hoặc gây chán
nản cho người muốn nghiên cứu Tử-Vi. Đó là chưa kể đến hậu quả có thể gây sự
nhầm lẫn trong việc giải đóan.

Ví dụ : Như có người nghiên cứu cung Mệnh, đã phối trí cung
Tài, Quan, Di, rồi khi nghiên cứu cung Tài cho rằng chỉ cần thêm vào tổng hợp
trên đặc tính của cung Điền và lọai trừ cung Di là đủ. Thật ra Tam Hợp không
hẳn có nghĩa là phải phối hợp lại các đẩu tinh trong ba cung để luận đóan.
Người xưa đã có những định luật, khi phối hợp các cung lọai trừ những đẩu tinh
ít hoặc không ảnh hưởng đến lá số, những định luật này phần lớn thất truyền, có
lẽ một phần do truyền thống “dấu nghề” của người Á-Đông, phần khác do
chiến tranh khiến cho các sách quý của ta bị thất lạc, hậu qủa là với lối giải
mơ hồ bất định đã đem lại cho người đời mối hoài nghi về Tử-Vi và thậm chí có
người xếp khoa Tử-Vi vào thành phần đạo thuật. Trước đây một vị thâm cứu Tử-Vi,
cụ Thiên Lương đã tiên phong khai sáng cái đạo lý Tử-vi qua cách giải đóan đại
cương lá số bằng các Tam-Hợp, Thái-Tuế, Lộc-Tồn v.v… (đều tập trung vào 2 cuốn
Tử-vi Nghiệm Lý và Tử-vi Đẩu số Tòan Thư) giúp cho người nghiên cứu, nhìn qua
đã ước định được sự thành bại, hung kiết của đương số, thật bổ ích thay ! Noi
gương cụ chúng tôi xin mạo muội trình bày với các bạn một ý kiến về cách thức
loại trừ các đẩu tinh khi xét đóan cung Tam-Hợp mà chúng tôi may mắn và tình cờ
học được.


Phân định tam-hợp

Chúng ta thấy rằng trên Thiên bàn các cung (Tý, Sửu, Dần,
Mẹo v.v… ) với các Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ) của chúng nằm ở ví trí cố
định, thứ tự các biểu tượng liên quan đến lá số (Phụ-Mẫu, Phúc-Đức v.v… ) cũng
cố định đối với cả người sinh Dương lẫn sinh Âm và vị trí các biểu tượng này
trên Thiên-Bàn hòan tòan tùy thuộc vào vị trí của Mệnh. Phân định các cung và
các biểu tượng của lá số thành Tam-Hợp, ta có :

Phần A :
a)- Thân-Tý-Thìn
b)- Tỵ-Dậu-Sửu
c)- Hợi-Mão-Mùi
d)- Dần-Ngọ-Tuất

Phần B :
1/- Mệnh-Tài-Quan
2/- Phụ-Tử-Nô
3/- Phúc-Phối-Di
4/- Điền-Bào-Ách.


Luận về Sinh-Khắc
của Hành

Xét ngũ hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ ta thấy những hành
liền nhau là Sinh, những hành cách khỏang nhau là Khắc. Vậy thì Sinh là liền
nhau có tác dụng mạnh lên nhau, còn Khắc là gián đọan, có tác dụng xô đẩy và xa
rời : khảo sát các hiện tượng vật lý cũng cho phép ta kết luận tương tự. Hơn
nữa khoa Tử-Vi tuy được xem là một khoa học, nhưng chắc chắn căn bản dựa trên
phước thiện của kiếp người, cổ nhân đã có câu “Nhân chi sơ, tính bổn thiện
cái Khắc chỉ do người tạo ra hoặc là từ kiếp này hay kiếp khác, và nó chẳng qua
chỉ là cái “Quả” của một cái “Nhân” Sinh mà ra. Do đó chúng tôi cho rằng
Sinh là nguồn gốc, là căn bản đến với mình và Khắc là phụ, xuất hiện từ cái
Sinh. Vì vậy, tại ngay đây chúng tôi xin phép mở một ngoặc, để trả lời khi các
bạn thắc mắc cho rằng Khắc cũng có ảnh hưởng, cũng có Khắc nhập, Khắc xuất v.v…
trường hợp này chỉ là khi ta đi vào chi tiết tức là xét Hành của các tinh đẩu
hoặc Hành chung của một Tam-hợp như Thái-Tuế chẵng hạn, để xem chúng có chung
đụng với nhau được hay không mà thôi. Đây, ta chỉ xét các Hành nguyên thủy, mục
đích tìm chiều vận hành của các cung để xem trong một Tam-Hợp, cung nào chịu ảnh
hưởng cung nào, thứ tự ảnh hưởng và ảnh hưởng ra sao.

Trở lại đọan a – của Phần A

Xét Hành các cung Tam-Hợp, ta thấy :
1.Thìn (Thổ) sinh Thân (Kim) sinh Tý (Thủy)
2.Tỵ (Hỏa) sinh Sửu (Thổ) sinh Dậu (Kim)
3.Dần (Môc) sinh Ngọ (Hỏa) sinh Tuất
(Thổ)

4.Hợi (Thủy) sinh Mão (Mộc) khắc Mùi (Thổ)

Thứ tự trên cho phép ta kết luận rằng Nếu Mệnh và 11 biểu
tượng khác của nó nằm trong 3 Tam-Hợp đầu, các biểu tượng sẽ chịu ảnh hưởng
nhau và thứ tự ảnh hưởng hay chiều tác dụng sẽ được chúng tôi trình bày ở phần
dưới với thí dụ cụ thể (xem 4 trường hợp nêu ở dưới)
.
Nếu các biểu tượng này lọt vào Tam hợp thứ 4 , ta thấy ngay chỉ có
biểu tượng nằm tại Hợi và Mão chịu ảnh hưởng nhau, còn Hợi và Mùi, Mão và Mùi
đều bị gián đọan và độc lập.

Chiều tác dụng

Sự Sinh-Khắc của các Hành vận chuyển theo một chiều nhất
định và không có chiều ngược lại. Khi ta nói ảnh hưởng nhau, chỉ vì ta đã giải
thích theo khoa học rằng “cung Sinh” thì bị hao hụt, cung “được Sinh”
thì được bồi đắp và trong sự hao hụt hay bồi đắp này đều bao gồm cả cái tốt lẫn
cái xấu, tùy theo đặc tính của từng đẩu tinh.

Tóm lại, hành thuận theo chiều Sinh có tác dụng. Hành đi
ngược chiều Sinh ít tác dụng. Hành Khắc chiều Sinh không có tác dụng.

* Ví dụ : Tam-hợp Thân-Tý-Thìn

– Khi xét hung, kiết của cung Thân, ta chú trọng nhiều đến
Thìn và Thân, riêng đối với cung Tý (Thủy) được cung Thân (Kim) sinh, ta giảm
cường độ các Đẩu tinh tại Thân trước khi tổng hợp với đặc tính và cường độ của
Đẩu tinh nơi cung Thìn chiếu nhập vào mà khỏi cần để ý đến tính chất của Đẩu
tinh nơi cung Tý.

– Nếu xét đến cung Thìn, ta chỉ cần giảm cường độ của Đẩu
tinh cư tại cung này (vì đã xuất chiếu cho Thân) không cần đếm xỉa đến tính
chất của các Đẩu tinh tại cung Tý và Thân (vì khắc và nghịch chiều)

– Xét đến cung Tý, chỉ để ý đến đặc tính và cường độ, của
Đẩu tinh tại cung này, và của cung Thân chiếu xuống, cung Thìn thì không kể
đến.

Kết luận : Mệnh chỉ vận
hành trên 12 cung Thiên Bàn, các bạn có thể dựa trên đặc tính Sinh-Khắc, của 4
Tam-Hợp mà chúng tôi vừa kể để lập thành một bản vị trí tương ứng của các biểu
tượng, của Mệnh đối với các cung Thiên Bàn, để lọai bớt sự phức tạp khi cần xét
một Tam-hợp.

Về cách thức giải đóan Tam-hợp như trên, chúng tôi có theo
dõi một số trường hợp của người nhà trong nhiều năm nay, cũng xin nêu lên làm
điển hình để các bạn nghiên cứu.

Sau đây là các ví dụ điển hình của 4 tam-hợp
nêu trên. Còn các trường hợp khác các bạn tự suy luận, khi giải đóan nhớ phối
hợp các sao cho hợp lý, đừng cứng nhắc áp dụng một cách máy móc.

1-Trường hợp 1 :

Người này tuổi Mậu Dần, có Mệnh đóng tại Sửu,
chiều Sinh đi từ Quan đến Mệnh đến Tài, từ Điền đến Ách đến Huynh, từ Phụ đến
Nô đến Tử, từ Thê đến Phúc. Phúc gián đọan Di, Di gián đọan Thê. Trên thực tế,
người này nhờ có chức Trưởng mà được thảnh thơi, có một thời gian nghỉ dài hạn
vì suy sụp tiền của, không phải vì làm quan mà có, tiền của người ấy phần nhiều
là do cha mẹ để lại, và trúng số mà có. Các sự rắc rối và tai họa, thường do
chuyện nhà đất mà nên. Tuy nhiên, khi gặp rắc rối, anh em trong nhà đều phụ
giúp, gánh đỡ. Ngược lại, không bao giờ vì anh em mà gặp tai ương, và cũng
không vì tai ương mà sản nghiệp bị ảnh hưởng. Bạn bè (Nô) thường đến nhà ông bà
cụ và con cái của người này được nhờ bạn bè giúp đỡ. Trái lại, các cháu nội
cũng không nhờ được ông bà nội và bạn bè cũng không giúp đỡ gì được, ông bà cụ,
dù rằng ăn ở trong nhà. Cung Phúc-Đức của người này tốt, nhưng khi ra ngòai,
(Di) lại không hưởng được và khi ra ngòai chẳng làm hại mà cũng không làm lợi
cho vợ con (người này có Thân cư Phúc-Đức tại Mão)

2-Trường hợp 2 :

Người này cũng tuổi Dần, có Mệnh đóng tại cung Mùi,
cũng là người có chức Trưởng, kiếm được tiền nhờ ảnh hưởng chức vụ, nhưng Mệnh
lại không được hưởng, thường bị mất cắp, hoặc bạn bè, người dưới lường gạt …,
vì Mệnh bị gián đọan với Tài ở Mão, và Quan ở Hợi. Đối với Ách Huynh, Điền
(Thuận chiều Sinh) người này nhờ anh em gánh chịu hết tai ương, và nhờ anh em
mà tậu được nhà cửa; ngược lại không bao giờ gặp rắc rối vì việc nhà cửa. Đối
với Thê, Di, Phúc (Thuận chiều Sinh) thường xa nhà vì Thê có sao khắc với đương
số và khi ra ngòai thường gặp qúy nhân và được giúp đỡ, hưởng phúc. Đối với Tử,
Phụ, Nô (Thuận chiều Sinh) con cái người này hiện ở với ông bà nội (cha mẹ của
đương số) và ông bà cụ đã giúp đỡ cho bạn bè người này rất nhiều …


3-Trường hợp 3 :

Người này tuổi Qúy Dậu, có Mệnh đóng tại Tý,
hiện có chức sắc và nhờ đó làm ra tiền của, luôn luôn lo nghĩ về tiền bạc.
Nghịch chiều lại, tiền bạc không giúp cho địa vị của người này được thăng tiến
và người này cũng không mấy vui thú với chức vị hiện tại của mình, lúc nào cũng
nghĩ đến việc thóai vị để đổi sang nghề khác. Đối với Nô, Phụ, Tử vì ở xa nên
thường nhờ bạn bè giúp đỡ cha mẹ và hiện tại ông bà cụ săn sóc các cháu nội,
nhưng ngược lại bạn bè của người này thì ít, vì người này mà săn sóc con cái
cho ông khi ông ở xa. Đối với Phúc, Di, Thê người này càng đi ra ngòai, càng
được nhiều người coi trọng, nhờ đó giúp cho vợ được nhiều lợi lộc (!?). Đối với
Huynh, Điền, Ách, người này cũng nhờ anh em mà có đất đai, nhưng các rắc rối
trên đường đời lại chẳng có liên hệ gì đền sản nghiệp hoặc anh em.

4-Trường hợp 4 :

Người này tuổi Qúy Mùi, có Mệnh đóng tại Dậu,
cũng là người có quyền chức, đặc biệt cung Tài Bạch rất tốt. Trên thực tế lại
không được hưởng tiền của, mà phải sử dụng vào việc giữ vững địa vị của mình.
Đối với Ách, Bào, Điền, anh em thường gánh chịu tai họa và cũng anh em phá tán
sản nghiệp. Đối với Thê, Phúc, Di, vì có cung Phúc-Đức xấu nên mỗi lần đi ra
ngòai là gặp chuyện không vừa lòng. Tuy nhiên, Thê cũng không chịu ảnh hưởng
của Di và Phúc, bởi vì vợ của người này luôn luôn gặp may mắn (tôi cũng có
nghiên cứu lá số của bà vợ và thấy cung Mệnh và cung Phúc Đức rất tốt). Đối với
Nô, Tử, Phụ, con cái được bạn bè giúp đỡ và hiện giờ hai vợ chồng đi làm; con
cái do ông bà ngọai nuôi giữ.

Trên đây là những trường hợp có thật, tôi cũng đã phối kiểm
một số khá nhiều lá số của người nhà và xin tạm ngừng dành cho các bạn thích
nghiên cứu, tự phối kiểm lấy các lá số của người thân để có một ý niệm chính
xác hơn trong việc luận đóan./.

(Trích KHHB )


tứ thập quí cách hợ cục

1. Văn tinh củng mệnh cách
Văn Xương thủ Mệnh cập Thân

Văn tinh nhập miếu hướng Nam Ly
Hung sát ưng vô hội ngộ thì
Hàn Mạc tung hoành nhân kính trọng
Thủ phan đan quế thượng vân thê (thanh vân)

2. Tham Vũ đồng hành cách
Tham Lang Vũ Khúc miếu vượng thủ chiếu Mệnh Thân

Vũ Tham nhập miéu quí kham ngôn
Tất chủ vi quan trưởng đại quyền
Văn tác gián tự thần hiển đạt
Vũ thần dũng mãnh trấn biên cương

3. Tả Hữu triều viên cách
Tả Hữu tam phương đắc địa Tài Quan Mệnh vượng

Thiên tinh Tả Hữu tối vi minh
Nhược tại tam phương lộc vị vinh
Vũ chức cao đăng ưng hiển tá
Văn nhân danh dự liệt tam kinh

4. Tả Hữu đồng cung cách
Tả Hữu đồng cung chiếu mệnh

Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên
Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên
Đức nghiệp uy nghi nhân hữu kính
Danh dươngkim điện ngọc giai tiên

5. Tả Hữu thủ mệnh cách
Tả Hữu hội Khoa tinh thủ mệnh

Cách phùng Tả Hữu mệnh chung lâm
Gia hội Khoa tinh phúc tái thân
Sự nghiệp uy nghi truy Ngụy Trịnh
Quan cư đài các vạn nhân khâm

Tử vi đẩu số đẩu số cốt tủy phụ chú giải
PHÚ NÔM CỐT TỦY

1. Kình Đà giáp với Mệnh viên
Hoặc là Không Kiếp bần hàn yểu vong

2. Tứ Linh Cái Hổ Phượng Long
Công danh quyền thế lẫy lừng một mai.

3. Hổ mà gặp Tấu đồng cung
Công danh thi cử nên công dễ dàng

4. Mã ngộ Linh Hỏa miếu cung.
Chiến binh Mã ấy vẫy vùng mọi nơi.

5. Mã cung Khốc Khách hợp vào
Ngựa kia có nhạc anh hào lên yên

6. Thiên hình chặn Mã chẳng nên
Ngựa mang xác chết tật nguyền chân tay.

7. Mã kia Tuyệt địa một nhà
Cùng đồ mã ấy thiệt là vô phương.

8. Đà La với Mã xum vầy
Dây gai vương vít Mã nầy gẫy chân.

9. Tuần Triệt hội Mã mệnh viên
Ấy là ngựa chết đời liền gian truân.

10. Thiên Hình đóng tại Dần cung
Mệnh thân ở đó uy hùng tướng quân
Kinh, Bình, Ấn, Tướng họp cùng
Tài kiêm văn võ vẫy vùng bốn phương.

11. Thái Dương đóng ở Hợi cung
Gặp Kình hay Kỵ yểu vong hoặc mù.

12. Hỏa tai, thủy ách nhiều lần
Bởi Liêm Sát Hỏa, Diêu cùng Kỵ Tham.

13. Thiên Đồng thủ Mệnh ấy là
Đổi thay tính khí khó mà chiều nuông.

14. Đà La, Địa Kiếp chiếu phương
Gặp Linh Tinh nạn bất tường chẳng sai.

15. Thiên Diêu tài mệnh sinh ương
Không mê cờ bạc cũng phương rượu chè.

Sửa lại bởi TYPN : 03 May 2004 lúc 9:01pm
16. Thái Dương Kình ở Ngọ cung
Mệnh viên tại đó uy hùng tướng quân.
Thái Âm cư Hợi mệnh Thân
Gặp Khoa Quyền Lộc tấm thân sang giàu.

17. Địa Kiếp độc thủ ác tà
Liêm Phá hãm địa quỉ ma bất tường.

18. Hoá Kỵ thi rớt lắm khi
Dương gặp Kiếp sát học gì cho hay.

19. Binh Hình tẩm ngẩm tầm ngầm
Hãm cung Phá Tuế nói rầm sấm vang.

20. Mấy người phú quí không toàn
Bởi chưng Nhật Nguyệt hợp đoàn sát tinh.

21. Song Hao Tham hội đa dâm
Thiên Đồng ngộ Quí mười phần thanh tao.

22. Thất Sát Hình Kỵ Đà Dương
Chẳng mặc thì ngực có thương mới là.

23. Sát Kình đóng tại Ngọ cung
Tai ương thảm khốc nằm trong cuộc đời.

24. Khốc Hư gặp Cơ chớ màng
Bệnh lao phải liệu lo toan lấy mình.

25. Vũ Tham Tài bạch phải tường
Không gia ác sát ấy phương hoạnh tài.

26. Liêm Trinh Quan Phủ cùng nơi
Hãm cung tai hại kiếp người ra chi.

27. Liêm Hao tài mệnh cùng ngồi.
Phá tan tổ nghiệp ra người bần nhân.

28. Liêm Hỏa Không Kiếp Phá Quân
Hãm cung thắt cổ nợ trần trả xong.

29. Hình Diêu Tham Kỵ ngộ Liêm
Ở cung Tị Hợi là điềm mạng vong.

30. Liêm Kiếp Kình Dương một nơi
Tại cung Mão Dậu cuộc đời tù lao.
31. Liêm Trinh ở Mão Dậu cung
Sát tinh hội tụ công danh chớ hòng.

32. Phúc cung thấy đứng đầu Thiên Phủ
Địa Kiếp kia vào đó rủi thay
Đoán rằng con trưởng không may
Ví không yểu tử, cũng tay lạc loài.

33. Nguyệt miếu vượng là người to lớn
Gặp hãm cung hơi ốm mà cao
Tính ưa ngâm vịnh tiêu dao
Danh tài nếu có nhờ vào văn tinh.

34. Nguyệt hãm gặp Triệt không thành quí
Chỉ sợ Hình Diêu bị mục nguyền.

35. Tý Ngọ Tham đóng hai cung
Nếu không Tuần Triệt là phường bất nhân.

36. Tham Đà đóng Dần cung trụy lạc
Hoặc Ngọ Dần lắm ác tinh vô
Hội cùng Bạch Hổ âu lo
Hoặc bị sét đánh, nạn to đợi chờ.

37. Cự gặp Hổ, Tuế, Hình hội viên
Ấy là nghề thầy kiện quan toà.

38. Tham Linh Hỏa an nơi tứ mộ
Ngôi công hầu triệt phú gia tư

39. Cự Môn Thìn Tuất hai nơi
Đầu đường góc chợ những người ngụ cư.

40. Ai người miệng kín như binh
Thái Tuế, Việt Kỵ song hành Cự Môn.

41. Thiên Tướng miếu hãm gặp ngay
Tuần Triệt án ngữ thân nay khó toàn
Dễ bị súng đạn đao gươm
Tứ chi đầu mặt tật thương đó mà.

42. Thìn Tuất Tướng gặp Thiên Không
Cát tinh hội tụ, uy trong quyền ngoài.

43. Lương Tị Hợi thế âu hãm địa
Nam
phiêu bồng, nữ ấy đa dâm

44. Mão cung Lương Nhật đồng sinh
Mặt tươi vuông vắn, đời danh quan sang.

45. Lương phùng Hao sát Tị cung
Ắt là khó tranh khỏi vòng đao thương.
46.Sát Mão Dậu Tuất Thìn hãm địa
Biết lắm nghề mà chẳng tinh thông
Sát Kình đóng ở Ngọ cung
Tai ương thảm khốc chờ trong cuộc đời.

47.Ai người trận địa thây vùi
Vì sao Kình Sát đứng ngồi Ngọ cung

48.Phá, Kình, Tả, Hữu chớ ngờ
Ở cung Mão Dậu ắt là loạn quân.

49.Trai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất
Gặp Khoa Tuần phản ác vi lương

50.Phá cùng Linh Hỏa giao lâm
Bôn ba vất vả lo phần đói no.

51.Phá, Hao, Linh, Nhẫn cung Quan
Gặp Tham hãm địa tính đành ăn xin.

52.Phá, Tham, Lộc Mã giao nhau
Nam
thì lãng đãng, nữ mầu đa dâm.

53.Tham Lương chỉ thích ăn sang
Diêu Kỵ tửu sắc lắm đàng ngã nghiêng

54.Phá Quân Diêu Mã họp vào
Ấy phường du đãng ai nào muốn thân.

55.Mão đến Tị bóng đen Nguyệt hãm
Gặp Lương càng bi thảm gian truân.

56.Đất Tị Ngọ Sửu Thân Hoá Lộc
Gặp Kiếp Không là gốc tàn suy.

57.Đất tứ mộ Hỏa Linh Tham Vũ
Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương
Thân cung liêm tướng một đường
Anh hùng vũ dũng ai đương được mình.

58.Khoa hãm địa ở vòng mệnh vị
Nghiệp không thành danh chỉ như mây

59.Lộc ngộ Không Kiếp đồng qui.
Cùng là vô dụng hoá vi cơ hàn.

60.Tị Hợi mệnh ngộ Kiếp Không
Dẫu rằng đắc địa chết vòng trung niên.
61.Lộc cư Nô Bộc bực mình
Đông tây xuôi ngược mới sinh tiền tài.

62.Dương Linh tọa thủ mệnh ai
Lại gặp Bạch Hổ họa tai đao hình.

63.Kỵ Hình Thất Sát tương phùng
Thiếu niên yểu chiết như giòng Nhan Uyên.

64.Hạn phùng Diêu Hổ ưu phiền
Những loài ác thú chớ nên ở gần.

65.Hãm cung Tang Tuế Cơ Lương
Ấy người kém phúc vợ con biếng chiều.

66.Tuế Đà Cự Kỵ phận nghèo
Một thân lên thác xuống đèo chẳng yên.

67.Tham Liêm Tị Hợi ngục tù
Dần Thân Tham hội Xương lo tụng đình.

68.Hình Kình cư Ngọ đồng gia
Sát Kiếp lai chiếu ắt là ngục trung.

69.Dậu cung Thái Tuế Thiên Hình
Phải phòng vận hạn dễ sinh gông cùm.

70.Thìn Tuất Thất Sát xem qua
Hình, Kình hội ngộ hẳn là đảo điên.

71.Thái Dương hãm ngộ hung tinh
Nếu không kiện tụng thôi đành tóc tang (Cha).

72.Linh phùng Sát Phá hạn hành
Văn Xương xưa cũng giam mình ngục trung.

73.Nguyệt hãm Đà Hổ Tuế xung
Hãi thay điềm Mẹ thoát vòng trần gian.

74.Phá Quân, Tuần Triệt lâm vào (cung phối).
Có chăng thì cũng ba tao mới thành
Vũ Khúc Thất Sát đồng hành
Bao lần hôn phối mới lành được chăng
Cự Môn, Linh Hỏa tương phùng
Bảy lần mối lái chẳng xong mối sầu
Phối cung Không Kiếp kể chi
Tai hai ba độ họa may mới toàn.

75.Thiên Tướng đứng đắn lạ thường (phối cung)
Liêm Trinh đắc địa vợ thường đoan trinh.
76.Binh Hình gặp Hỏa, Kỵ xung (cung phối)
Đêm ngày cư xử ra lòng bạc đen
Tang Môn Thiên Khốc phận hèn
Hoặc là làm lẽ hoặc phen ly tình
Triệt Tuần ngộ Mã ưu phiền
Bỏ chồng vợ trốn đến miền phương xa
Phá Quân duyên nợ ít toàn
Cô Quả Tang Hổ Khốc thường tóc tang.

77.Thiên Hình giữ của tốt sao (cung Tài)
Linh Tinh hà tiện nên giàu đáng khen
Hỏa Linh miếu phát nhiều phen

78.Cơ Lương Lộc Mã ấy ai (cung Tài)
Thạch Sùng kim ốc có sai đâu mà.

79.Gian tà Kiếp Sát Phục Binh (cung Tài)
Khúc Xương Thái Tuế mưu sinh tảo tần.

80.Tuần Triệt thước đất cũng không (cung Điền)
Tứ Cơ nan bảo Phủ không xứ phùng.

81.Thiên Cơ lực phi tâm tàn (cung Tài)
Đà La đói rách củi than làm nghề
Kiếp Không khốn khó mọi bề
Hỏa Linh (hãm) biển lận đáng chê vô cùng.
Phá Quân nhị Hao Kiếp Không
Tấu thư Xương Khúc trùng phùng bạch gia.

82.Vợ về sẳn của muôn trùng
Đồng Ân Lộc Mã Khúc phùng Thái Âm

83.Đồng Lương hội nhập phối cung
Hai vợ ắt một tổ tông đó mà.

84.Vũ Xương hoặc Khúc cùng ngồi (cung Tử tức)
Sinh con xinh đẹp hơn người chẳng ngoa.
Không ngộ Linh Hỏa xấu xa
Sinh con lại gặp những tà ác tinh.
Khốc Hư ngộ Dương, Không lành
Tướng Binh xung phá hẳn đành hoang thai
Kình Đà Không Kiếp Khốc Hư
Sinh con điếc lác ngẩn ngơ thêm buồn.

85.Thiên Diêu Hoá Kỵ ra ngoài (cung Thiên Di)
Đa chiêu ma nhục chẳng ai yêu mình
Tướng Quân ngộ Triệt không lành
Trận tiền kia dễ bỏ mình chôn thây
Long đong đông tẩu tây trì
Bởi vì Cơ Mã Thiên Di hãm nhàn.

86.Hỏa Linh Mùi Sửu an bài (Quan Lộc cung).
Chiếu công đã hẹn đức tài binh nhung
Cung Quan mà gặp Đào Hồng
Thiếu niên đã thỏa tang bồng chí trai.

87.Tuế Hổ Phù hợp Khúc Xương (Quan Lộc cung)
Có tài hùng biện văn chương hơn người.

88.Khúc Xương Long Phượng phát văn
Vũ Tham Sát Phá Cự rằng võ công
Nhật Nguyệt Quan Lộc bất thông
Chỉ hiềm một nỗi đồng cung Sửu Mùi.

89.Kình tứ mộ Mã triều lai (Quan Lộc cung)
Biên cương ắt hẳn ra tài võ công
Kình Đà ngộ Mã đã đành
Là người xuôi ngược để dành chiến công.

90.Phong các Thiên Tướng chính tinh
Ơn nhờ lộc nước hiển vinh muôn phần.

Hết

sưu tầm sách ” TRẦN ĐOÀN VÀ SÁCH TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ
TRẦN ĐOÀN VÀ SÁCH TỬ VI ĐẨU SỐ TOÀN THƯ

Cụ Nguyễn Công Trứ có làm một bài ca trù vịnh Trần Đoàn như sau:
Sườn non bầu rượu túi thơ
Thảnh thơi ngồi gẫm cuộc cờ Trường An
Vạc Hậu Chu vừa khi mới đổi
Trần Hi Di lên ẩn núi Hoa Sơn
Mấy mươi năm trong cuộc bùn than
Lửa văn võ chưa rặc lò đan táo
Hà vật lão ẩu
Nặng trên vai hai chúa thái bình
Liếc trông chừng Tống nhật đã khai minh
Mây thúc quí hẳn từ rầy trong leo lẻo
Trần Kiều mộng lý giang sơn tiểu
Vãn quán xuân thâm nhật nguyệt trường
Rượu một bầu, thơ một túi, cờ một cuộc, cầm một xoang
Khi đắc ý gật trên lừa cười ra rả
Ngoài cung kiếm mặc ai xa mã
Luy trần bất đáo thử giang san
Trời riêng cho một cuộc nhàn.
Trong chính sử không thấy nói đến Trần Đoàn, tên ông chỉ được ghi trong dã sử,
truyền ký và chính thức trong các sách về tướng pháp và lý số, thành thử đời
sau không thể có một tiểu sử liên tục và rõ ràng về ông.
Căn cứ vào bài Ca trù của Nguyễn Công Trứ để lấy thứ tự đồng thời cộng với một
số truyền kỳ, ta có thể hình dung một cách đại khái thân thế Trần Đoàn như sau:

Từ nhà Đường chuyển sang nhà Tống trải qua giai đoạn lịch sử quá độ trung ương
tập quyền biến ra địa phương hùng cứ rồi chuyển thành đời Ngũ Đại đã rồi nhà
Tống mới thống nhất.
Trần Đoàn lớn lên giữa lúc nhiễu nhương binh lửa, giết chóc loạn lạc, ông lên
núi tu ẩn để tránh họa. Khi đã nắm được lẽ huyền vi của âm dương, ông thường đi
đây đó để tìm anh hùng và chân chúa. Có một lần gặp người đàn bà gánh kĩu kịt
trên vai hai đứa trẻ mỗi thúng ở đầu đòn gánh một đứa. Ông mới hỏi: “Hà vật lão
ẩu? Này bà gánh kia chi vậy?” Người đàn bà mở nắp thúng cho Trần Đoàn coi rồi
thở dài nói: “Tôi dẫn hai con tôi đi chạy loạn đây”.
Vừa nhác trông thấy hai đứa nhỏ, Trần Đoàn đã kêu lên: “Một vai bà mà gánh
những hai vị thiên tử sao?”
Lòng ông vui mừng khôn xiết, vì thiên hạ sắp hưởng đời thái bình nên mới có hai
vị chân chúa anh hùng xuất thế. Trần Đoàn liền lấy trong bọc ra mười lạng đưa
biếu người đàn bà không quen biết rồi lên lưng lừa đi thẳng.
Hậu Chu là gì?
Là Chu Thế Tôn người đi bước đầu trong công cuộc thống nhất nhưng chưa được năm
năm đã mất.
Phải đợi đến lúc có vụ binh biến Trần Kiều do hai anh em ông Triệu Khuông Dận
và Triệu Khuông Nghĩa (hai đứa trẻ Trần Đoàn gặp trước đây nay lớn lên) cầm đầu
đánh dẹp nốt các phương chấn bấy giờ đại nghiệp thống nhất mới hoàn thành.
Khi nghe tin Triệu Khuông Dận là Tống Thái Tổ thì Trần Đoàn đang ngồi trên lưng
lừa ngửa mặt cười ra rả nói: “Thiên hạ thái bình rồi”.
Về sau, Tống Thái Tôn tức Triệu Khuông Nghĩa có cho người vời Trần Đoàn ra làm
quan nhưng ông từ chối, bỏ vào núi đi mất không ai biết ở đâu.
Gốc thông hỏi chú học trò
Rằng thầy hái thuộc lò mò đi xa
Chỉ trong dẫy núi đây mà
Mây che mù mịt biết là nơi nao
(Tản Đà dịch thơ Giả Đào bài Tầm ấn giả bất ngộ).
Gốc gác khoa Tử Vi có tự bao giờ?
Không ai rõ chỉ biết đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử Vi
đẩu số toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa ở đầu nói Tử Vi đẩu
số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn.



Bài tựa viết như sau:
“Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà
thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.
Tôi vì muốn biết nên đã tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để
chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái
độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập
của Hi Di tiên sinh”.
Mang về mở ra xem, ban đầu các sao nghĩa lý thật ảo diệu nhưng càng đọc càng
thấy lời bàn luận sắc đáng, đem ra đoán thử thấy lời đoán rất thần nghiệm, càng
học càng thấy hay lạ. Bất giác phải kêu lên: “Tạo hoá chí huyền chí hư mà soi
sáng được đến thế này, nếu con tâm bậc đại hiền không nhập vào với tạo hoá thì
làm sao biết nổi. Tinh tú ở xa muôn triệu dậm mà tính hết vào trong một bàn
tay, nếu bậc đại hiền không phải là người hung tàng tinh đẩu (trong ngực có
tinh đẩu) thì làm sao tính nổi. Ngôi trời ở trên, ngôi đất ở dưới, loài người
đứng giữa. Hi Di tiên sinh đã tìm được lẽ con người thiên hợp và lẽ trời nhân
hợp qua sự biến hoá của các vi tinh đẩu để tính ra số mệnh hay dở của từng
người, nếu không có cái học quán thiên nhân thì ai làm nổi. Hi Di tiên sinh
xứng đáng là một bậc cao nhân, một thần nhân vậy.
Bởi thế tôi muốn đem những lời dạy của Hi Di Tiên Sinh phổ biến cho khắp thiên
hạ trong cõi thế gian thấp kém này được hiểu cuộc đời là có mệnh số”.
Cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn chia
làm 4 tập:
Tập một và tập ba nói về tính chất ảnh hưởng các sao, các cung vào vận, vào
mệnh con người qua các chương: Thái vi phú – Hình tinh phú – Tinh viên luận –
Đẩu số chuẩn thắng – Tục hình tinh phú – Phát vi luận – Đẩu số cốt tủy chú giải
– Nữ mệnh cốt tủy phú chú giải – Định phú quí bần tiện thập thập đẳng luận –
Thập nhị cung chư tinh thất hãm quyết – Chư tinh đắc địa phú quí luận – Chư
tinh thất hãm bần tiện luận – Định phú cục – Định quí cục – Định bần tiện cục –
Định tạp cục – Đàm tinh yếu luận – Luận nhân mệnh nhập cách – Luận cách tinh số
cao hạ – Luận nhân tính cách hà như – Luận nam nữ mệnh đồng dị – Luận tiểu nhi
mệnh – Định tiểu nhi thời sinh quyết – Luận nhân sinh thời an mệnh cát hung –
Luận tiểu nhi khắc phụ mẫu – Luận mệnh tiền bần hậu phú – Luận đại hạn thập
niên họa phúc hà như – Luận nhi hạn thái tuế cát hung – Luận hành hạn phân nam
bắc đẩu – Luận lưu niên thái tuế cát hung tinh sát – Luận kinh đà diệt tính –
Luận thất sát trùng phùng – Luận đại tiểu hạn tinh thần quá thập nhị cung ngộ
thập nhị chi sở kỵ quyết – Luận lập mệnh hành hạn cung ca – Luận thái tuế tinh
thần miếu hãm ngộ thập nhi cung cát hung – Luận chư tinh đồng vị viên các tư sở
nghi phân biệt phú quí bần tiện yểu thọ.
Tập hai dạy cách lấy số an các sao.
Tập bốn là những lá số của các danh nhân, thường nhân với lời phê.

Về tập hai tức cách an sao lập thành lá số thiết tưởng đã có nhiều sách làm kỹ
càng rồi nên ở đây xin bỏ qua tập đó, chỉ nói một vài dị biệt giữa Tử Vi đẩu số
toàn thư của Trần Đoàn với những sách Tử Vi ở nước ta. Tập một và tập ba cần
chú ý hơn hết, chúng tôi sẽ dịch nguyên văn kèm theo lời bình và chú thích.
Dùng chữ bình, chúng tôi tự thấy có vẻ hơi lạm thực ra chỉ là những thắc mắc mà
chúng tôi tìm thấy đó thôi. Nhưng chúng tôi sẽ không dịch nguyên văn toàn bộ vì
có nhiều điều lập đi lập lại hoặc do mất chữ trở thành vô nghĩa. Đồng thời,
chúng tôi cũng đưa thêm vào ít khám phá mới của vài tác giả như Trương Huy Văn
với các cuốn “Tử Vi Xiển Vi”, “Tử Vi phát bí”, như “Vô Muộn” với cuốn “Đẩu số
mệnh lý tân biên”. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không để rơi lọt một tinh hoa
nào của khoa Tử Vi có ghi trong sách Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn
tiên sinh.




NHỮNG THUẬT NGỮ CẦN BIẾT
Bất cứ nghề gì cũng có thuật ngữ, người thợ sửa xe hơi có những tiếng như “pan
nóng”, “pan nguội”, “súp bắp”, “đen cô”… Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hay tình
trạng.
Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đây nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất
sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng
biệt.
Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả?
Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy nhóm sao chính là 14 vị: Tử Vi – Thiên
Cơ – Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ – Thái Âm –
Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương – Thất Sát – Phá Quân
Sau đây là các phụ tinh như: Văn Xương – Văn Khúc – Tả Phụ – Hữu Bật – Thiên
Khôi – Thiên Việt – Thiên Mã – Lộc Tồn – Kình Dương – Đà La – Hỏa Tinh – Linh
Tinh – Hoá Quyền – Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kỵ – Thiên Không – Địa Kiếp – Thiên
Thương – Thiên Sứ – Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Trì – Phượng Các – Thai Phụ –
Phong Các – Hồng Loan – Thiên Hỉ – Tam Thai – Bát Tọa – Thiên Hình – Thiên Diêu
– Đẩu Quân.
Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng
Sinh. Mỗi chòm 12 vị:
Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị.
Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm
nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao:
Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ – Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trù –
Thiên Giải – Địa Giải – Giải Thần – Địa Không – Ân Quang – Thiên Quí – Cô Thần
– Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.
Tổng cộng lại là 104 vị.
Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn
thư chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót.
Nếu vậy, tại sao không có những lời giải rõ ràng về các sao: Giải Thần – Địa
Giải – Thiên Trù – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào
Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng
trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi.
Tính (sao) còn gọi là Diệu. Ví dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính
diệu (sao chính) nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính
diệu.
Sách đẩu số mệnh lý cho rằng: Tả Phụ – Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc – Lộc Tồn
cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi
đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi.
Các sao: Kình Dương – Đà La – Hỏa Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt
gọi là Thiên diệu.
Hoá Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kỵ gọi là hoá diệu hay tứ hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi
Việt), Quyền, Khoa.
Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hỏa, Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là: Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử – Tướng, Phủ –
Tướng, Nhật – Nguyệt, Tả – Hữu, Xương – Khúc, Không – Kiếp, Hỏa – Linh, Dương –
Đà, Khôi – Việt.

Tam hợp là gì?
Mỗi lá số tử vi có 12 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo
tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào? Phải theo nguyên tắc
sau: Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất.
– Lục xung là gì?
Tý – Ngọ xung, Sửu – Mùi xung, Dần – Thân xung, Mão – Dậu xung, Thìn – Tuất
xung, Tị – Hợi xung.
– Thủ đồng là gì?
Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng
cung hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy.
– Lâm – Nhập là gì?
Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là Lâm, sao xấu
đóng ở đâu gọi là nhập.
– Miếu – Hãm là gì?
Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi là Hãm, đứng
đúng chỗ gọi là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa,
đắc địa, tuy nhiên miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc
bất lợi, Ví dụ: vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ.
– Tọa – Cứ là gì?
Tọa chỉ sao tốt ngồi tại cung nào.
Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào.
– Bản phương – Hợp phương – Lân phương là gì?
Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Ví dụ: Mệnh ở cung Mão thì
Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi.
Còn lân phương là cung bên cạnh. Ví dụ: Thìn và Dần là lân phương của Mão.
– Triều và xung là gì?
Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là
Triều. Sao xấu cùng một trường hợp trên gọi là Xung. Riêng sao Thái Âm, Thái
Dương không dùng chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc
không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng.
– Giáp – Chiếu – Hiệp là gì?
Các sao tốt đóng hai cung bên cạnh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp.
Ví dụ: giáp Nhật – Nguyệt, giáp Tả – Hữu
Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới, ví dụ: Ngọ chiếu Tị, Dậu chiếu Mão
hoặc ngược lại.
Về câu: “Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp” không thể áp dụng cho
bất cứ sao nào.
Ví dụ: Thái Âm, Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp.

TỨ YẾU – THẬP DỤ – BÁT PHÁP
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để
phân biệt:
a). Cát hung – b). Hư thực – c). Chủ khách – d). Cường nhược.
Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát
không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của
nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào? Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung
dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung
thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư
cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư
hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
– Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là
khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn
sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp
cả hai cung xung chiếu cung vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát
hung.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều
tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi
phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh
hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ
đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì? Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với cát
cung tam hợp và cung xung chiếu:
1). Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra.
2). Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ.
3). Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc.
4). Cung xung chiếu xấu là “đương đẩu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập.
5). Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ.
6). Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.

7). Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên
hàng xóm phù trợ.
8). Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ, hai bên hàng xóm mưu hại.
9). Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu.
10). Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát.
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục
ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục
của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành
tám lối. Chia ra như sau

A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung
chiếu nếu gặp:
– Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc
vận vũ” (con rồng gặp mây nước).
– Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú”
(chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt).
– Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi
“bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ).
Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá,
chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất
tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá).
B. Cửu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
– Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn
phùng cam vũ”.
– Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm
gì được “hử mộc nan điêu”.
– Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực
kê lặc”.
– Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời

CHƯ TINH VẤN ĐÁP LUẬN
Các sao trong Tử Vi đẩu số chia làm 3 loại: Thiện cát, hung ác, và hoà giải.
Tuy nhiên, đừng quên rằng sự sắp xếp vị trí của sao trong lá số mới quan trọng
về cát hung chứ không phải chỉ căn cứ vào bản chất cố hữu của từng sao vì như
đã nói ở trên dịch lý là biến, biến cát thành hung, hung thành cát tùy theo mỗi
sao ở miếu hay hãm địa.
Sách có câu: “Cát tinh nhập miếu tắc vi cát, hung tinh thất địa tắt vi hung” là
nghĩa vậy. Tất sẽ có người thắc mắc hỏi: “Nếu phải chờ miếu hãm rồi mới định
cát hung, rồi hung biến cát, cát biến hung thì còn phân định sao thiện cát,
hung ác làm gì cho rắc rối?”.
Người xưa giảng rằng: “Bản chất cố hữu của sao rất cần, nếu ta luận nó qua quan
niệm “tính mệnh” tính thế nào, mệnh sẽ do tính mà thành. Người có nhiều hung
tinh mà vinh hiển thường vất vả, gian nan. Người có nhiều cát tinh thường đến
với vinh hiển dễ dãi hơn, từ từ và chắc chắn, trong khi hung tinh đắc cách phát
dã như lôi, lên như sấm sét thật đấy nhưng cũng phải vượt nhiều hiểm nguy.
Xét vị trí xong rồi, điểm quan trọng thứ hai là tìm hiểu những sao bạn đi cặp
với sao chủ. Bạn hư chủ hỏng.
Về khả năng hoá giải cả sao hung lẫn sao cát đều có. Nhưng sao cát thường ở vai
trò này nhiều hơn sao hung. Một khi sao hung đã được giao phó nhiệm vụ hoá
giải, nó sẽ thi hành triệt để hơn sao cát.
Do những lẽ kể trên, khi luận về các sao phải lưu ý nhiều mặt chỉ sơ một ly sẽ
sai đi một dặm.
Tử Vi khác với Tử Bình, ở chỗ cái lý nó tản mạn không có nguyên tắc nhất định,
dĩ nhiên, nếu bây giờ được ông Hi Di Trần Đoàn mà nói chuyện trực tiếp thì
nguyên tắc nhất định kia tất phải có. Chỉ vì nó tam sao thất bản mất mát hay bị
bí truyền nên mất đi đó thôi. Bởi thế xem Tử Bình chỉ cần thuộc lý ngũ hành cho
chắc rồi cứ thế luận ra.
Còn xem Tử Vi thì lý ngũ hành không tìm thấy mấu chốt vững chắc để làm cơ sở
luận bàn cho nên phải thuộc từng sao, từng cung, sao nào ở chỗ nào, nếu hãm,
đắc địa, bất đắc địa để hạ đoán.
Ví dụ: trong chương “Đẩu cốt số tủy phú” quyển I của Tử Vi đẩu số toàn thư có
câu: “Tham Vũ mộ trung cư, tam thập tải phát phúc” nghĩa là: Sao Tham lang, Vũ
khúc đóng tại mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi) ở mệnh cung thì ngoài ba mươi tuổi mới
phát.
Rồi ở dưới lại thấy có câu giảng rằng:
“Tham vũ bất phát thiếu niên nhân” (Sao Tham Vũ đi đôi, tuổi thiếu niên không
phát được).
Câu phú trên đây dùng lý ngũ hành âm dương nào mà giảng nếu không nắm được cái
nguyên lý ngũ hành đã mang ra áp dụng riêng cho khoa này. Mà cái nguyên lý ấy
cho đến nay vẫn chưa thấy ai làm sách giảng ra, sở dĩ như vậy là vì nguồn gốc
của nó bị thất lạc rồi. Rút cuộc đoán số trước sau Tử Vi chỉ có một chỗ bám
vững chắc nhất là các câu phú và những định lý làm sẵn. Có thể ví như định lý
tất cả mọi vật đều rơi xuống mà không có lời giảng nguyên nhân rơi xuống của
mọi vật là sức hút của trái đất.
Dưới đây là tính chất của các sao cùng các cung miếu hãm của mỗi sao ghi trong
các chương “Chư tinh vấn đáp luận”.
Sao Tử Vi
Hỏi: Sao Tử Vi tính chủ những điều gì?
Đáp: Tử Vi thuộc hành thổ là vị sao ở ngôi tôn trong các vị sao. Mệnh con người
ta trước phải căn cứ vào Tử Vi để từ đấy mà lập thành số.
Tử Vi ở nơi miếu vượng là cực tốt, rơi vào hãm địa là cực hung.
Tử Vi cần đi cặp với Phụ, Bật, Thiên Tướng, Xương Khúc, Khôi Việt, Nhật Nguyệt
và Lộc Tồn.
Ở ngôi tôn đúng miếu địa Tử Vi có thể làm tiêu bách ác chế ngự các sao hung hãn
như Thất Sát, Hỏa Tinh, Linh Tinh.
Tử Vi có Lộc Tồn lại thêm Nhật Nguyệt tam hợp chiếu thì quý bất khả ngôn.
Tử Vi thiếu Phụ, Bật đồng hành ví như ông vua mất triều thần gọi bằng cô quân,
tốt đẹp giảm nhiều lắm.
Tử Vi gặp toàn sao hung ví như tiểu nhân lấn quyền đuổi quân tử ra đứng đường
sẽ trở nên người gian trá bất thiện.
Tử Vi hội Liêm Trinh không thấy tả hữu tướng tá thường làm anh tiểu lại.
Tử Vi nên vào cung Mệnh Thân, cung Quan, cung Phúc Đức nếu gặp Tử Vi ngồi tại
cung Tật ách, Nô Bộc là sái, giảm mất uy quyền dù có sự trợ giúp cũng không
thành phúc lớn.
Tử Vi đóng vào các cung quan lộc, thân mệnh mà được tam hợp, xung chiếu có Tả
Hữu, Thiên Tướng hay Lộc Tồn ngộ Thiên Mã không bị không vong cản trở là quí.
Tử Vi mà khuất phục được Thất Sát để dùng Thất Sát làm quyền uy là cách về Võ.
Tử Vi nhờ lực Văn Khúc là cách về Văn.
Tử Vi ở cung Tài Bạch hay Điền trạch đồng cư cùng Thiên Tướng, Thiên Phủ lại
thêm lộc cung và Tả hữu hộ vệ tất làm tài phú chi quan.
Ở cung Tử Tức có Tả Hữu thì sinh quí tử, đứng một mình thì cô độc.
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết:
“Tử Vi là đế toà, có thể giáng phúc tiêu tai ở các cung, hoá giải tính ác hung
của các sao hư, chế phục Hỏa Linh, trị sao Thất Sát, được sự trợ giúp của Tả
Hữu, Phủ Tướng đều quyền quí, nếu không được quí thì cũng phú. Bị Tứ Sát xung
phá, Tử Vi khả dĩ chống đối đỡ giảm tai hại. Tử Vi gặp Phá Quân tại các cung
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì làm tôi bất trung, làm con bất hiếu. Số đàn bà con gái
có Tử Vi ở mệnh dù gặp Tứ Sát xung phá không đến nổi phải rơi vào cảnh hạ
tiện”.
Câu trên đây của Trần Đoàn tiên sinh có đoạn: “Tử Vi nhược ngộ Phá Quân tại Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi chủ vi thần bất trung vi tử bất hiếu” hơi khác lý thuyết Tử Vi ở
nước ta chỉ nói rằng: “Giai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất” mà thôi không thấy nói
đến Sửu, Mùi đồng thời cho rằng mỗi lần Phá Quân gặp Tử Vi ở Sửu, Mùi thì Phá
Quân bị Tử Vi khuất phục.
Ngọc Thiềm tiên sinh có câu ca về Tử Vi như sau:
Tử Vi nguyên thuộc thổ
Quan lộc quan chủ tinh
Hữu tướng vi hữu dụng
Vô tướng vi cô quân
Chư cung giai giáng phúc
Phùng hung phúc tự thân
Văn Xương phát khoa giáp
Vũ Khúc thu hoàng ân
Nữ nhân hội đế toà
Ngô cát sự quý nhân
Nhược dữ đào hoa hội
Phiêu lãng lạc phong trần
Kình Dương tỏa linh tu
Thử thiết cẩu thâu quần
Tam phương hữu cát củng
Phương tác quí nhân bình
Nhược hoàn vô phụ bật
Chư ác cộng ẩm lăng
Đế vi vô đạo chủ.
Nghĩa là:
Tử Vi thuộc hành thổ, chủ tinh về quan tước, phải có tướng tá mới hữu dụng,
không tướng tá là ông vua bị vậy. Nó khả dĩ giáng phúc cho các cung, gặp hung
nó chống đỡ. Đi với Văn Xương thì thi đỗ, đi với Văn Khúc dễ có tước vua ban.
Nữ mệnh gặp Tử Vi đi cùng nhiều sao tốt sẽ lấy chồng sang quí. Nếu Tử Vi gặp
cùng Đào hoa, nữ mệnh phiêu lãng phong trần. Tử Vi tụ tập với Kình Dương, Hỏa
Linh là chơi với phường ăn cắp chỉ đi du thủ du thực. Tam phương phải thấy sao
tốt hội cùng Tử Vi mới có thể gọi là quí. Thiếu Tả Phụ, Hữu Bật để các ác tinh
uống rượu lăng nhục chủ là loại vua vô đạo.
Tử Vi miếu ở cung Dần Ngọ, vượng địa ở cung Thân, Hợi, Thìn, Tị, Tý, Sửu, Mùi.
Bình thường Mão, Dậu. Sao này không có hãm địa vì nó tự giải cứu được.
Những câu phú về Tử Vi ghi trong đẩu số toàn thư gồm có:
– Tử Vi cư Tý Ngọ, Khoa, Quyền, Lộc chiếu tối vi kỳ (Tử Vi ngồi ở cung Tý, cung
Ngọ được Khoa Quyền Lộc tam phương chiếu tới gọi là cách ngưỡng điện triều đẩu,
số rất kỳ lạ).
– Tử Vi nam Hợi nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh
nhân phú quí đồng. (Sao Tử Vi số con trai đóng tại cung Hợi, số con gái đóng
tại cung Dần, những người tuổi Giáp, tuổi Nhâm đều phú quý).
– Tử Vi Mão Dậu Kiếp Không, Tứ Sát đa vi thoát tục chi tăng. (Tử Vi ngồi ở cung
Mão cung Dậu bị Tứ Sát là Kình, Đà, Hỏa, Linh vây hãm cùng với Kiếp Không chỉ
nên đi tu cho thoát tục là tốt hơn cả).
– Tử Vi Thiên Phủ toàn y phụ bật chi công. (Tử Vi và Thiên Phủ cần dựa vào hai
sao Tả Phụ, Hữu Bật mới dễ bề phú quý).
– Tử Phủ đồng cung vô sát tấu, Giáp nhân hưởng phúc chung thân. (Hai sao Tử Vi,
Thiên Phủ đồng cung ở Dần và Thân thủ mệnh, những người tuổi Giáp hưởng phúc
suốt đời nếu không gặp những sát tinh làm hỗn).
– Tử Phủ đồng cung lâm Tị Hợi nhất triều phú quí song toàn. (Tử Vi, Thiên Phủ ở
cùng một cung Tị hoặc Hợi thì được cả giàu lẫn sang).
– Tử Phủ triều viên, lộc phùng chung thân phúc hậu chí tam công. (Tử Vi, Thiên
Phủ cùng ở Thân hoặc Dần lập mệnh lại thêm các sao tốt khác nhất là sao Lộc Tồn
suốt đời phúc hậu, chức đến tam công).
– Tử Vi, Phụ Bật đồng cung nhất hô bá nặc. (Tử Vi cùng ở một cung với hai sao
Tả Phụ, Hữu Bật gọi một lời trăm người thưa. Nếu Phụ Bật ở tam hợp hay xung
chiếu thì không tốt bằng).
– Tử Phủ hiệp mệnh vi quí cách. (Hai sao Tử Phủ giáp cung mệnh là quí cách).
– Tử Phủ Kình Dương tại cự thượng. (Tử Vi Thiên Phủ hội với Kình Dương nếu được
Vũ Khúc ở cung Thiên Di chiếu sang càng hay, số doanh thương lớn).
– Tử Vi, Xương Khúc phú quý khả kỳ. (Tử Vi hội cùng hai sao Văn Xương, Văn Khúc
có thể ngồi đợi giàu sang tới).
– Tử Lộc đồng cung Nhật Nguyệt chiếu, quí bất khả ngôn. (Tử Vi cùng một cung
với Lộc, có Thái Âm, Thái Dương chiếu, đại quí tộc).
– Tử Vi, Thất Sát, Hoá Quyền phản tác trinh tường (Tử Vi chế phục Thất Sát lại
có Hoá Quyền, công danh hiển đạt).
– Tử Vi, Phá Quân vô Tả Hữu cát diệu hung ác tế lại chi đồ (Sao Tử Vi đi với
Phá Quân, không thấy có Tả Hữu hay sao tốt là lọai ác bá cường hào).
– Tử Vi, Vũ Khúc, Phá Quân hội Dương Đà khi công họa loạn (Các sao Tử Vi, Vũ
Khúc, Phá Quân đi cặp hội với Kình Dương, Đà La người ưa gây rối, phản bội, chỉ
nên buôn bán chớ ham chức vị).
– Tử Vi, Quyền Lộc ngộ Dương Đà, tuy họach cát nhi vô đạo. (Tử Vi mặc dù có
Quyền Lộc chiếu mà gặp Dương Đà sang quí nhưng tâm bất chính).
– Tử Vi, Thất Sát gia không vong hư danh thụ ấm. (Đi với Thất Sát lại gặp sao
Thiên Không, chỉ có hư danh, hưởng chút tiếng tăm của ông cha lưu cho con
cháu).
– Tử Phá lâm mệnh ư Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tái gia cát diệu phú quí kham kỳ. (Đi
cặp cùng Phá Quân ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi được nhiều cát tinh trợ giúp
là số phú quí nhưng lòng gian tham, quỷ quyệt).
– Tử Phá Thìn, Tuất quân thần bất nghĩa. (Tử Vi, Phá Quân ở hai cung Thìn, Tuất
vua tôi bất nhân, bất nghĩa).
– Tử, Phá, Tham Lang vi chí dâm, nam nữ tà dâm. (Các sao Tử Vi, Tham lang, Phá
quân tụ lại với nhau là người đa dâm, trai hay gái tà dâm. Phú nôm của tiền
nhân ta có câu: Tử, Tang Tả Hữu hội trung. Có người con gái lộn chồng tìm ra
chẳng hiểu có phải căn cứ ở câu phú chữ ở trên không. Theo các cụ, số con gái
Tử Vi thủ mệnh không cần hội ngộ Tả Phụ Hữu Bật. Chữ Tang đây là Tang Môn, hay
là chữ Tham. Đó là điểm đáng thắc mắc. Có lẽ chữ Tham đúng hơn vì sao Tham lang
trong Tử Vi đẩu số toàn thư là đào hoa tinh).
– Nữ mệnh Tử Vi, Thái dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng. (Số con gái,
Tử Vi hay Thái Dương thủ mệnh sớm gặp chồng hiền).
– Nữ mệnh Tử Vi tại Dần, Ngọ, Thân cung cát quí mỹ vượng phu ích tử, hãm địa
bình thường. (Số con gái Tử Vi thủ mệnh đóng cung Dần, Ngọ, Thân gặp các sao
tốt trợ giúp thì vượng phu ích tử, nếu rơi vào hãm địa bình thường. Nếu Tử Vi
đóng ở các cung Tý, Dậu, Tị, Hợi mà gặp Tứ sát thì không toàn vẹn phúc lộc cả
đời).
– Tử vi cư Ngọ vô Hình kỵ, Giáp, Đinh, Kỷ mệnh chí công khanh. (Sao Tử Vi đóng
tại cung Ngọ, không gặp sao Thiên Hình Hoá Kỵ người tuổi Giáp, tuổi Đinh, tuổi
Kỷ làm tới công khanh
SAO THIÊN CƠ
Hỏi: Thiên Cơ tinh chủ những điều gì?
Đáp: Sao Thiên cơ thuộc hành mộc, là nam đẩu tinh, hoá khi sao này thiên tinh.
Nếu đắc địa nó có thể điều chỉnh lẽ thuận nghịch cho số mệnh. Thiên Cơ thủ mệnh
lại thêm các sao tốt hợp lại dễ thành công, đa mưu túc trí. Bản chất sao này là
thiện tâm không ưa điều bất nhân, bất nghĩa cho nên gặp lúc bất đắc chí thường
ưa ở ẩn chốn lâm tuyền và dễ say mùi đạo.
Nữ mệnh có sao Thiên Cơ gặp hung càng hung, gặp cát càng cát nếu đi cùng Thiên
Lương là người đàn bà tháo vát, khéo léo, nội trợ giỏi.
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh viết:
“Thiên Cơ ích thọ chi tinh, thủ Thân mệnh cung là người dị thường giao hội cùng
các sao Thiên Lương, Tả Hữu, Xương Khúc làm quan văn thì thanh hiển, làm vũ
chức thì trung lương. Nếu ở hãm địa gặp Tứ Sát xung phá là hạ cách. Thiên Cơ
ngộ Thiên Lương, Thất Sát nên tìm đến cảnh thanh nhàn của tăng đạo. Đại tiểu
hạn gặp Thiên Cơ sẽ thay đổi công việc, lập cơ sáng nghiệp. Nữ mệnh Thiên Cơ có
nhiều sao tốt củng chiếu vượng phu ích tử, nếu có Quyền Lộc sẽ là mệnh phu phu
nhân, không may mà gặp Kình Đà, Hoá Kỵ xung phá thành ra đàn bà hạ tiện khắc
phu hại tử”.
Ngọc Thiềm tiên sinh làm bài ca về sao Thiên cơ như sau:
Thiên cơ huynh đệ chủ
Nam đẩu chính diệu tinh
Tác sự hữu thao lược
Bẩm tính tối cao minh
Sở vi tối hảo thượng
Diệc khả tác quần anh
Hội cát chủ hưởng phúc
Nhập cách cư hàn lâm
Cự Môn đồng nhất vi
Vũ chức yểm biên đình
Diệc yêu quyền phùng sát
Phương khả lập công danh
Thiên Lương tinh đồng vi
Định tác đạo dữ tăng
Nữ nhân nhược phùng thử
Tinh xảo tất dâm bôn
Thiên đồng dữ Xương Khúc
Tụ củng chủ hoa vinh
Thìn Tuất Tý Ngọ địa
Nhập miếu hữu công danh
Nhược tại Dần Mùi Sửu
Thất Sát tinh Phá Quân
Huyết quang tai bất trắc
Dương Đà cập Hỏa Linh
Nhược dữ chư sát hội
Tai hoa hữu hư kinh
Lưỡng hạn lâm thử tú
Sự tất hữu biến canh.
Nghĩa là:
“Thiên Cơ sao của trí tuệ, mưu cơ và nhân nghĩa nên đồng bạn bè thủ túc, làm
việc thao lược cao minh, gặp nhiều sao tốt trợ lực nổi tiếng văn chương, đi cặp
cùng sao Cự Môn khả dĩ lên cao với võ nghiệp nhưng Thiên Cơ lại rất cần Quyền
Sát công danh mới oanh liệt. Hội cùng sao Thiên Lương dễ chân trần tục ưa miền
tăng đạo. Nữ mệnh Thiên Cơ hãm địa chủ dâm bôn, nếu được Thiên Đồng, Xương Khúc
thì vinh hoa. Các cung Tý Ngọ là miếu địa của Thiên Cơ, bình thường Tị Hợi Thìn
Tuất, hãm địa là Sửu, Mùi ngộ Phá Quân, Tứ Sát, Hỏa Linh, Dương Đà dễ xảy ra
tai họa. Đại tiểu hạn gặp Thiên Cơ thì công việc thay đổi”.
Những câu phú về Thiên Cơ ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư gồm có:
– Cơ lương đồng chiêu mệnh Thân không thiên nghi tăng đạo (Thân hoặc mệnh gặp
Không Vong, Thiên Cơ đơn thủ Thiên Lương chiếu nên đi tu).
– Cơ lương hội hợp thiện đàm binh, cư tuất diệc vi mỹ luận. (Thiên Cơ hội với
sao Thiên Lương giỏi bàn việc quân, số ông Mạnh Tử cung Thiên di đóng ở Tuất có
hai sao Cơ, Lương).
– Cơ lương thủ mệnh gia cát diệu phú quí từ tường. (Thiên Cơ, Thiên Lương thủ
mệnh thêm các sao tốt, phú quí. Nếu gặp Thiên Hình, Hoá Kỵ dễ chán mùi thế
lụy).
– Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân. (Mệnh thân và các cung tam hợp xung chiếu
có đủ bốn sao trên đây nếu không có những cát tinh khác trợ lực chỉ làm công
chức quèn. Gặp Kiếp Không, Hoá Kỵ xuống hạ cách).
– Thiên Lương Tham Nguyệt đồng cơ hội, mộ dạ kinh thương vô miên thụy (các sao
Thiên Lương, Thái Âm, Thiên Đồng hội cùng Thiên Cơ ngày đêm tảo tần buôn bán,
gặp hung tinh tất phải bôn ba).
– Thiên Cơ gia ác sát đồng cung, cẩn du thử thiết. (Cùng ở một cung có quá nhiều
ác sát bao vây Thiên Cơ).
– Cự hãm Thiên Cơ vi Phá cách. (Cự Môn ở hãm địa gặp Thiên Cơ là Phá cách, đàn
bà mệnh đóng tại Dần Thân Mão Dậu gặp Thiên Cơ, Cự Môn tuy phú quí nhưng dâm
dục, hạ tiện).
TỬ VI ĐẨU SỐ
Tác Giả: Nguyễn Mạnh Bảo
THIÊN MỆNH – SỐ MỆNH
HAY LÀ SỰ KẾT TỤ CỦA TIỀN KIẾP
Người ta khi càng khôn lớn, đời mình đã được những Hỉ Nộ, Ai lạc, Hoạ Phúc, Phú
Bần, Thăng Trầm rèn luyện lúc đó ta mới thấy chung quanh ta có những cái gí vô
hình mà linh-thiêng ảnh hưởng trực -tiếp đến ta bằng những Luật của Tạo –Hoá.
Một khi đã thông hiểu được một Luật nào ta cảm thấy ta được tự do sung sướng
tuy là thoạt trông thấy ta tưởng nó cản ngăn được sự Động –tác của ta. Một sự
động tác của người chỉ là sự kết -thúc của những Năng -lực tiềm –tàng trong
Nội-giới bằng tư -tưởng và cảm- tưởng thôi, mà nội-giới là nơi trên dưới phân
mình, dưới những Hệ-thống rõ ràng.
Cái Hệ-thống về Kiếp người hay là những Tiền oan Nghiệp chướng, kết -tấu lại
thành con Người vô hình mà người ta gọi là Số Mệnh mà khoa Tử-Vi Đẩu-Số giúp ta
biết được cái số` kiếp của ta, thoát lên trên những Tai-ương hay Hạnh-phúc, để
ra được cảnh địa-võng thiên-la, trên cuộc bể dâu thống -khổ.
Khoa-học hiện tại đã dạy ta quen theo cái lý tưởng chung là ở trong Vũ-Trụ có
một sức mạnh tiềm-tàng gọi là Năng-lực (Energie).Đã cho rằng Điện-Tử là một kho
năng-lực thì một Ngôi Sao ắt là một kho vô cùng tận năng-lực vậy. Cái năng-lực
đó biến động vô cùng vì những biến chuyển thành khí nóng hay Điên-lực, hay Điện
-lực thành Từ-lực và cứ thế mãi từ biến chuyển này đến biến chuyển khác.
Người ta cũng là một kho năng-lực(Réservoir d’énergie). Ta ăn uống để tồn tại
năng-lực để biến thành Cử-động. Một tấm lòng Thiện là cái năng lực của ta
thiện, một ý nghĩ Ác là cái Năng – lực của ta hung ác. Suốt đời Người, nội –
giới ta chỉ là cái máy Biến thể ( Transformateur) nhận cái Năng – lực. Vũ – Trụ
ảnh hưởng đến ta mà thi hành ra ngoại giới thành những Thiện – Ác. Cái Luận
Tiền – Kiếp chỉ là một đầu để liên lạc từ Nhân đến Quả, khi mà người ta biến
chuyển năng -lực ấy. Theo Luật trên, không những ta chỉ coi thấy những biến
chuyển hữu hình trong Vũ – Trụ hiện tại theo Khoa – học đâu, ta còn phải kể
những Tư – tưởng của ta, những cảm tưởng của ta, mỗi cơ thể làm biến đổi vị –
trí ta đối với Vũ – trụ hay vị – trí Vũ -trụ đối với ta được. Đó là “Đức năng
thắng Số” của Thánh – hiền mà tôi thường nói đến, lấy lý – thuyết hiển – nhiên
để giải cho rõ vậy.
Khi ta muốn hiểu Tiền – kiếp là cái gì ? Thì cái nguyên tắc đầu tiên cho ta cảm
thấy là ta bị ảnh hưởng trực tiếp cái Năng – lực và cái Quả của nó. Cái Năng –
lực ấy trong cõi Ta – BÀ, Trầm luôn bể khổ, hay trong Trung – giới của Cảm –
tưởng, hay trong Thượng – giới của tư tưởng. Ba thứ Năng – lực ấy hiển hiện
được là ở ta. Hạng trên là ở sự Hành – động các Cơ – Thể ta, hạng thứ là ở Cảm
– tưởng của ta trong trung giới, hạng sau là ở tư – tưởng trong thượng giới.
Nếu ta cứ mặc nó cứ tự động, nào như những cái này, tính cái kia, ăn ăn, nói
nói, mơ mơ, mộng mộng, làm làm, lụng lụng đó chỉ là để làm Thực – hiện ba thứ
năng – lực trên, có khi ta giúp nó để thực hiện có khi lại nghịch lại.
Cái năng – lực mà ta thường dùng tất cả chỉ là cái Năng – lực Vũ – trụ mà ta
chỉ là cái máy biến thể thôi. Cái Nguyện Vọng của Thiên – lý ắt muốn cho ta
dùng cái năng – lực ấy trên cõi Tiến – hoá. Vì lẽ ấy lấy Đức – Hoà mà thi hành
Đại – Đạo là Thiện mà lấy Tài – Hoá ngược lại với Đại – Đạo là Hung và Ác.
Người ta đâu phải chỉ sống trơ trọi một mình, chỗ nào cũng hàng triệu người
chung quanh ta, một tiếng nói, một tư tưởng, một cảm tưởng của một người đều
ảnh hưởng đến ta, mà ta như cái máy thâu thanh, thâu hình có đủ năng – lực nhận
biết được cái năng – lực thiêng liêng và vô hình, cho nên Thánh – nhân nói
rằng: “Người Quân tử ở chỗ không người, lúc nào cũng sửa mình như trong đám
đông. Lúc nào cũng như có hàng 10 ngón tay chỉ vào mình, hàng 10 mắt trong vào
mình. Nghiêm nghị lắm thay mà kẻ tiểu nhân thì nhàn cư vi bất Thiện”. Khi một
người phát triển cái năng – lực mình là Thiện hay Ác ắt có kết – quả tốt hay
xấu mà khoa Tử – Vi là một khoa Tượng Số – Học dùng để đo số con Người.
Nếu muốn cho rõ tôi xin tóm tắt những ảnh – hưởng của khoa Tượng – Số Tử – Vi
bằng bốn hạng ảnh – hưởng, bằng bốn hạng sao theo bảng dưới đây:

Mỗi một người hiện tại trong chúng ta đều đã sống trong một Dĩ-vãng nhiều kiếp,
khi ta xuống trần trở lại xác phàm thì ta phải mang theo cả cuốn phim Tiền –
kiếp trong đó có cả Thiện lẫn Ác. Trên tôi đã giải cái Tiền – kiếp ấy là do ở
nhiều Năng – lực hợp thành và ảnh hưởng mà dưới đây tôi tượng hình bằng một
người đứng ở giữa, một trung tâm phát động Thiên, Ác, Cát Hung mà nó đã tạo ra.

Coi hình trên ta thấy ảnh hưởng Bần và Tiện – tinh nhiều gấp ba lần Phú và Quí
tinh. Như ắt là người bần tiện đau khổ, buồn rầu.
Nếu ta ngắm chung quanh ta đời của mọi người, có người sang kẻ hèn, người giàu
kẻ nghèo, người vui kẻ buồn qua trước mắt ta. Cuồn cuộn như nước thuỷ triều,
ngày này qua ngày khác cứ thế mãi mãi không ngừng.
Nếu bắt đầu từ khi sinh ra tất cà cái Năng – lực Tiền – kiếp con Người Cát cũng
như Hung đều đã ấn định, như ví dụ trên thì đời người này bị ba phần hung một
phần cát, tuy vậy ai cũng có nhiệm vụ ở đời để thắng những sự đau thương u –
buồn, sống để vật lộn để chiến thắng, hầu thêm vào Số Năng – lực Thiện để cạo
gọt dần dần cái Hung Ác ám đen đi, để bồi đắp thêm cho tâm – hồn được trong
sạch thanh cao hơn. Đó là một bước tiến trên con đường Tiến – Bộ của Kiếp mình.

Đây tôi lấy một hình tròn tượng trưng cho số Mệnh một người hay là cả các năng
– lực trong Tiền – kiếp của người đó.
Hình tròn phân ra một bên trắng là Thiện là Cát, hình đen là Ác là Hung. Ví dụ
số Kiếp người đó là số 100. Phần a c b e là 40 phần tốt và a đ b c là 60 phần
xấu. Theo Ấn – Độ Tiền kiếp củ con người gọi là KarmaSanchita (Toàn – Kiếp).
Và theo số lấy ở hình người trên ta thấy được cái số tốt xấu rõ ràng theo ảnh
hưởng của Sao tượng trưng các ảnh hưởng tốt và xấu ở trong khoa Tử – Vi vậy.

Đó là Thiên – Mệnh. Mỗi người đều có số Mệnh riêng của mình. Cái Thiên – Mệnh (
Destin) đó là một số Cát Hung của Tiền – kiếp đã định cho mình. Như cha mẹ, Phúc
– đức, Nhà – cửa, Quan – lộc, Tôi – tớ, Xuất – Ngoại, Tất – bịnh, Tiền – tài,
Con – cái, Vợ – chồng, Anh – em, người hợp, kẻ nghịch, sự Hung Ác hay Phúc –
thiện Tử – vong gặp trong đời đều Kết – hợp lại thành số mệnh từng người một.
Cũng có người có một Tiền – kiếp từ xa xăm lại, có những dây Tiền oan nghiệp
trướng, duyên nợ với các người khác ở các kiếp trước nên phải trở lại cùng
chung với những người đó để trả ơn đáp nghĩa, gỡ duyên trả nợ. Nhưng đằng khác,
thân xác nó chỉ là một trong những cõi đời đến chung kết phải là một người trả
được nợ, gỡ được duyên, thoát được những dây xiềng xích kiếp trước hầu đến chỗ
Chí Tri, Chí thiện đến cái nguyên-hình (archétype) lý – tưởng.
vậy những sự hành động của con người một phần lớn tuỳ theo thân xác (Thân trong
số) vì lẽ đó cha mẹ, nòi giống lại là một sự tối cần thiết. hiện tại ta coi nòi
giống theo những yếu tố di truyền (Facteurs mendéliens do thuyết của Ông
Gregoire Mendel) của các cơ – thể trong những tế bào sơ khởi trong bào thai của
cha mẹ. nên Luật Tiền – kiếp phải lựa những yếu tố hợp với cơ thể cần dùng
trong kiếp.
Đến đây ta phải quay về những hiện trạng xảy ra trong hai cõi, cõi vô hình và
cõi hữu hình. Trong cõi hữu hình, tức là ngoại giới ta thấy con người hình chất
làm bằng nhiều thứ; đối với ta có cái hợp cái xung. Có người sinh ra thì đẹp đẽ
tráng kiện, đã đui mù, ám tật, có người sinh ra tai thính về âm nhạc, lại có kẻ
cả điếc lẫn câm.

Ví dụ như trong một gia đình có di truyền thông manh có bốn con, đứa đầu trông
được thường còn ba đứa kia bị chứng thong manh. Sao vậy?
Muốn cho hiểu rõ thiên mệnh (destin), ta phải quay về với cõi đời. Có ba yếu
tố:
Yếu tố thứ nhất là phải nhận xét người ta có một Bản Ngã riêng biệt theo một
vòng tròn bất diệt trong cõi Thiêng Liêng: “ Nó đã sinh ra từ lâu, lâu lắm và
ngay đây, thật ra nó mới nhập trong bào thai.” Nó đã sống trong cõi Thế trong
nhiều Kiếp, đã suy nghĩ tác động Thiện và Ác, huy động những năng – lực có ích
hay nguy hại cho nó cũng như mọi người xung quanh. Nó sống có liên lạc với nhau
và không được Tự- Do, sống qua các thế- hệ để thực hiện một Lý – Tưởng, đó là
Hiện – Nguyên hình nó. Đến như các thứ cây cối, các muôn thú đều có Nguyên –
hình riêng của nó, vì vậy Hồn người cũng có Nguyên – hình. Người thì muốn thành
Phật, thành Tiên, thành Thánh, người thì cặm cụi đi tìm chân – lý giáo hoá
chúng sanh, người thì muốn làm bà chủ trong Thiên – Hạ,
Là Nghệ-Sỉ, Thông-Thái, hoạt động hay mơ mộng nhất nhất đều có một Nguyên-hình
lý tưởng trước mặt, nên phải tìm cách làm việc tìm tòi, học hỏi cho đến chí
Tri, kiếm cách để vượt qua những khó khăn cản trở công việc ta vậy.
Yếu tố thứ hai: sau khi đã thành cái Tế Bào đầu tiên của Bào Thai (zygole) các
Thần Định Mệnh lựa những Yếu tố biết rằng cái bản ngã của nó chưa có thể
huy-động được. Ví dụ như nếu cái đời của nó sẽ là Nhạc-Sĩ thì Thần Định Mệnh
cho những yếu -tố căn bản của Nhạc –Sĩ như phải có bộ Thần-Kinh-Hệ rất tinh vi
hay rất thính mà Thần-Định-Mệnh đã lựa cho để con Người có thể đi đến Nguyên
–Hình Lý -Tưởng của nó.Hoạ phúc, Tai ương, Hạnh phúc, may mắn, rủi ro, vui cười
, buồn tủi đó chỉ là những viên gạch mà cái Bản-Ngã của con Người đã tạo ra để
xây cái nhà tạm của nó.

Yếu -tố thứ 3: Thần Định Mệnh Không thêm không bớt, chỉ chế những năng lực sẵn
có của Tâm hồn hầu để đến cái Thiên-Mệnh đã hoạch định, cái Nguyên-Hình
lý-tưởng mà con Người phải trải qua sự Sinh- Hoá , Tử Vong đời đời kiếp kiếp.
Trên tôi đã nói “Đức năng thắng số” vậy ta không nên tưởng ta không thể đổi
được Số Mệnh mình đâu, nhiều hành vi Phúc -đức theo Nghị-lực mình có thể cải
được Hoạ ra Phúc, Yểu ra Thọ như truyện Lý-phùng –Xuân trong sách này.
Vấn -đề Thiên -Mệnh , Số -Mệnh, Tiền -Kiếp giải sơ qua trên đây để các bạn rõ
vài nguyên tắc chắc-chắn mà tiến trong Lý-Học hầu tàn.Muốn cho hiểu Tiền Kiếp
con Người một cách rõ rệt hoàn toàn ắt chỉ có những bậc Đại-Quang-Minh thoát
phàm nhập Thánh, soi rõ hết muôn sự vật trong Vũ-Trụ nhưng biết những
nguyên-tắc căn bản của Kiếp người trên đây cung đủ cho ta một năng-lực xáo trộn
từ trên xuống dưới để đưa ta lên trên một Trình -Độ Cao Siêu.
Trong quyển 1 tôi đã gắng công Toán-Pháp-Hoá cả một Khoa-Học tối cổ huyền bí
hầu như mờ ám nhưng nhiều bạn cho như vậy lại làm rối Trí Học- Giả thôi.
Thiển ý tôi nghỉ ra vậy là cốt có thể Âu –Hoá một Văn-Hoá Đông –Phương, trình
bày và giải thích theo Toán Pháp hầu mau hiểu hơn và cốt để nhắc nhở các
Bác-Học và Thông -Thái Tây-Phương rằng:
“Các cụ ơi! Cặm cụi tìm kiếm làm gì cái vô tuyến vũ – trụ (rayons cosmiques)có
thể thắm nhuần vào bất cứ việc gì trong Vũ – trụ. Những Điện – ba ấy nó có từ
khi có Vũ – trụ mà Trần – Hi – Di đã cảm thông được”. Chưa ai diễn tả ra, nên
tòi tìm kiếm diễn tả ra trên giấy trắng mực đen những đường Điện – ba các vì
Tinh – tú (ondesnstralea) có ảnh hưởng trực tiếp đến Nhân – loại và Vạn – vật
hầu để Học – giả cùng nghiên cứu đến sự nhận xét tuyệt đối của những Điện – lực
Vũ – trụ vô hình ảnh hưởng đến chúng ta và muôn sự vật. Càng bước sâu vào Lý –
Học ta càng thấy cái Đài Vinh – Quang lộng lẫy uy nghiêm vô biên vô giới mà cái
Học để Hiểu Biết con Người được sáng tỏ vậy.
Tôi ước mong rằng cái công phu sưu tầm của Tôi có thể giúp ích cho Học – giả
trong muôn một.
N.M.B

TỬ – VI ĐẨU – SỐ

QUYỂN II

CHÚ – GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI

1.- Lộc phùng xung phá, Cát sử tàng hung.

G.N. Như Thân – mệnh cung phùng Lộc – Tồn, hoặc tam – hợp có Lộc, Địa – Kiếp bị
kỵ đến phá chở lại thành hung triệu. Như hạn đến cung có Lộc -Tồn hay Hoá – Lộc
và hung – tinh cùng hội cũng bị hung hại.
2.– Mã ngộ không vong, chung thân bôn tẩu.
– Như Sao Thiên – Mã gặp Tuần – không hay Triệt – lộ đóng ở cung Thân – mệnh
thì cả đời bôn ba đây đó.
Người sinh năm Giáp, Triệt – lộ không vong ở giữa cung Thân Dậu, nếu an Mệnh
tại cung Thân có Thiên Mã tức là cách Mã ngộ không vong chủ suốt đời bôn tẩu,
nhưng gặp ở cung bại – địa thì trở lại phát vậy.
3.- Sinh phùng Bại – địa, phát dã Hư hoa.
( coi Bảng Sao Tràng Sinh ở dưới đây)
-Giả như người Sinh Thổ, Thuỷ Mệnh an Mệnh ở cung Tị là Tuyệt – địa, Nhưng may
được Kim sinh thuỷ lại Tị là thuỷ không bị tuyệt cũng như cái lý mẹ đến cứu
con.
Nếu được Cát tinh chiều cũng, ám hợp cũng phát được nhưng cũng chỉ như đoá hoa
mau tàn thôi vậy. Phàm Dần Thân Tị Hợi là Tứ- Tuyệt và cũng là Tứ – Sinh.
Hành Kim, Sinh tại Tị , Tuyệt tại Dần
__ Mộc __ __ Hợi __ __ Thân
__ Hoả __ __ Dần __ __ Hợi
__ Thuỷ Thổ __ __ Thân __ __ Tị.
4.- Tinh lâm miếu Vượng địa tái quan sinh khắc chi ư,
Mệnh sinh cường cung tế sát chế hoá chi lý.
-Nếu các sao được ở nơi miếu vượng thì nên xem sự sinh khắc, Mệnh an ở cung nào
phải xem sự xung khắc chế hoá của cung đó.
Như người sinh thuộc Thuỷ Thổ Mệnh, Mộ khố ở cung Thìn ( xem bảng Tràng – Sinh)
nếu cung tài Bạch – an ở cung đó thì gọi là Tài – khố, ( khố nghĩa là cái kho),
hay Quan – Lộc an ở đó gọi là Quan – khố có sao Lộc – tồn toạ thủ gọi là Thiên
– khố, nếu có Sát – Tinh đồng lâm thì gọi là Không – khố. Cung Thiên – Di an ở
đó gọi là Kiếp – khố (Kiếp – khố có nghĩa là cái kho của kiếp người, tốt xấu
tuỳ theo sao toạ thủ).
5.- Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối.
-Như Nhật tại cung Tuất – Dậu, Hợi, Tý, Sửu. Nguyệt tại cung Mão Thìn, Tị, Ngọ,
Mùi đều gọi là phản bối (ngược lại). Vậy phải xem người sinh Thượng – huyền, Hạ
– huyền, Nguyệt tại Thượng – huyền vọng Nhật thì tốt, Hạ – huyền mà Hói (Tối
tăm) Nhật thì hung.
Ngày 7, 8 là Thượng – huyền – 22, 23 là Hạ – huyền.Nếu Nhật Nguyệt đồng cung
muốn luận rõ hoạ phúc của Nhật Nguyệt, thì phải lấy giờ sinh để luận Nhật và
ngày tháng sinh để luận Nguyệt. Ví dụ người sinh Mùi, ngày rằm tháng hai có
Nhật Nguyệt cư Sửu thì luận Nhật tốt vì giờ Mùi tức là ban ngày mà Nhật cư Sửu,
và Nguyệt thì ngày 15 là giữa tháng trăng tròn còn vọng Nhật nên luận Nguyệt cư
Sửu còn được tốt vậy.
6.- Lộc mã tối hỉ giao trì.
– Như người sinh năm Giáp lộc tại Dần cung và người sinh năm Thân Tí thìn thì
Thiên mả cư Dần ngộ Lộc như vậy gọi là Lộc mã giao trì
7.- Không vong định yếu đắc dụng, Thiên Không tối vi hệ yếu.
Xem Triệt – lộ không vong, Tuần không cần phải xem cho cẩn thận có chỗ dùng
được, không phải bỏ vậy, đó là Thiên – không rất cần yếu, nó như cái thắng xe
có sự nguy hiểm thì thắng bớt lại, hay xe tốt chạy mau ắt phải có cái thắng tốt
thì mới không sợ sự nguy hiểm. Phải phân – biệt Ngũ – hành – không:
Như thân Mệnh duy chỉ gặp Kim không thì có tiếng tăm, Hoả không thì phát đạt:
Hai hạn gặp được thì trái lại thành Phú – trạch.
Nếu là Thuỷ không thì sẽ bị tràn ngập, Mộc không ắt bị gẫy, Thổ không thì bị
hãm, Hai hạn gặp lại thì là Hoạ bại.
VÍ dụ: Triệt ở cung Thìn – tỵ ở cung Thìn thì gọi là Thổ – không, ở cung Tị thì
gọi là Hoả – không.
8.- Nhược phùng bại địa, chuyên khán phù trì chi diệu đại hữu kỳ công.
– Như Mệnh ở cung Bại Tuyệt có Tuần, Triệt không lại nhờ có các Sao tốt như Lộc
Tồn, Hoá – lộc phù trì thì trái lại thành tốt đẹp vô cùng.
9.- Tử – vi, Thiên – phủ toàn y Phụ – bật chi công.
– Như Thân Mệnh ngộ Tử – Phủ lại được Phụ Bật thủ chiếu thì suốt đời giàu sang.

10.- Thất Sát Phá – Quân chuyên y Dương Linh chi ngược.
– Hai sao Phá Sát ở nơi hãm địa rất ác, sự ảnh hưởng hung tàn bạo ngược như
Kình – Dương như Linh – Tinh nhưng nếu Thân Mệnh ngộ Thất Sát và Phá – Quân lại
hội với Dương Linh thủ chiếu mới có thể chế ngự được.
11.- Chư Tinh Cát phùng Hung dã Cát
Chư tinh hung phùng Cát dã hung.
– Như Ba phương, Thân Mệnh có nhiều cát tinh thì xấu. Nhưng phải xem Cát, Hung
tinh đắc, thất, vượng hãm và sinh khắc chế hoá ra sao rồi mới định được hoạ
phúc.
12.- Phụ Bật Giáp Đế vi Thượng phẩm
Đào Hoa phạm Chủ vi chí dâm.
– Sao Tham – lang cùng gọi là Đào – hoa, Đế và Chủ là chỉ sao Tử Vi.
Như Thân Mệnh có Tử Vi và Tham – Lang đồng cung tức là Đào hoa phạm chủ, là nam
nữ tà dâm, gian trá sảo ngôn lệnh sắc sau cũng tỉnh ngộ được; nếu lại được Phụ
Bật giáp Tử Tham lại là Đại Quí làm quan đến thượng phẩm, nếu bị thụ chế thì
không được như vậy.

13.- Quân Thần Khánh Hội tài Thiện Kinh Bang.
– Như Tử Vi thủ Mệnh, được Thiên Phủ, Thiên Tướng Xương Khúc đồng lâm, được
Thiên đồng, Thiên Lương tương chợ (giáp Tử Vi) thế là cách Quân Thần Khánh hội
ắt đại phú qúy. Nếu gặp Kim Tinh và Hình Kỵ, bốn sao đồng độ thì gọi là Cách
Phản bội, là tớ khi Thầy, Tội giết Vua trở thành hoạ loạn, cần phải suy cho kỹ.
Như mệnh của An – Lộc – Sơn có Tử Phủ gia hội Song Lộc triều Viên, Tả Hữu Củng
chiếu cho nên Phú quí nhưng chỉ hiềm có Tử Phá cư ở cung Thìn Tuất và lại có
Linh Tinh đồng vị ở cung Dần hợp chiếu có Hoá Kỵ và chủ Thần bất trung, sau bị
hung vong.
14.- Khôi Việt đồng hành vị cư Thai phụ,
Lộc Văn cung Mệnh quí nhi Thả Phú.
– Như Thân Mệnh có Khôi, Việt Tức là toạ quí hưởng quí, vị đến Tam công, lại có
Quyền Lộc Xương Khúc cát diệu chiếu lại thì được phú quí. Nếu bị Hinh Kỵ tương
xung thì giảm đi nhiều, còn có khi bị trắc trở hung hại.
15.-Nhật Nguyệt giáp Mệnh, Giáp tài gia Cát diệu, bất Quyền tắc Phú.
( Nếu gặp Dương Đà xung thủ thì không phải)
Nhật Nguyệt giáp mệnh hay tài bạch có cát diệu củng chiếu thì không là người
quyền quí thì giàu có.
16.- Mã đầu đới kiếm, chấn ngự biên cương.
Mã đầu đới kiếm nghĩa là an mệnh ở cung Ngọ (Mã) có Kình Dương (cái kiếm) ngộ
Thiên Mã, Tham Lang. Người sinh năm Bính tuất mà gặp là cách rất tốt. Được cách
này thì có uy quyền chấn ngự ở biên thuỳ, làm về võ cách. Lấy Kình Dương cư Ngọ
an mệnh mà luận được phú quí nhưng không bền.
Cách này phần nhiều là của quan võ ra trận, uy phong lẫm liệt thật, nhưng chơi
dao có ngày đứt tay là lẽ đó vậy.
17.- Hình Tù giáp Ấn, Hình trượng duy ti.
Dương Nhận là Sao Hình
Liêm Trinh là thiên tù
Thiên Tướng là cái ấn
Như thân mệnh có Thiên Tướng có Liêm Trinh và Dương Nhận Giáp thì chủ người về
việc quan mà phải thụ hình trượng chung thân không bao giờ được phát đạt.
18.- Thiện Ấm triều cương, Nhân từ chi trưởng.
Như thân mệnh cư ở cung Thìn Tuất, có sao Cơ Lương (thiện, ấm) toạ thủ hay
chiếu lại, có cát tinh tương trợ là người nhân từ nhất là phú quí, nếu có Hình
Kỵ Hao Sát thì chỉ nên đi tu.
19.- Quí nhập quí hương, phùng giả hoạch lộc.
Như thân mệnh có sao Khôi, Việt toạ thủ ở Tý Ngọ gia cát tinh Quyền Lộc lại
chiếu thì phú quí, hạn gặp thì phát phúc.
20.- Tài cư tài vị, ngộ giả phú xa.
Tài tinh là: Thiên Phủ, Vũ Khúc, tài vị là cung tài bạch.
Như Tử Vi, Thiên Phủ Vũ Khúc cư cung tài bạch lại có Quyền Lộc hay Lộc Tồn tất
chủ giàu có lớn lao, hạn gặp thì chủ đại phát tài.
21.- Thái Dương cư Ngọ vị chi nhật lệ trung thiên.
Hữu chuyên quyền chi vị, địch quốc chi phú.
Như thân mệnh ở cung Ngọ có Thái Dương toạ chủ, người sinh năm Canh Tân và sinh
ban ngày thì quí đến thượng phẩm và phú gia địa quốc. Đàn bà gặp số này thì
được vượng phu ích tử, phong tặng phu nhân.
22.- Thái Âm cư Tí hiệu viết: Thuỷ đăng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung
gián chi tài.
– Thái Âm cư ở cung Tý như giọt nước trên nụ hoa quế, ắt được chức vụ trọng yếu
thanh cao có tài trung trực can ngăn bề trên.
23.-Tử Vi Phụ Bật đồng cung, Nhất hô bá nặc.
– Sao Tử Vi và Phụ Bật cùng cư trú một cung, an ở thân mệnh là số phú quí, gọi
một tiếng trăm kẻ thưa, chung thân tươi đẹp.
24.- Văn hao cư ư Dần Mão, chúng thuỷ chiều đông.
-Như thân mệnh cư cung Dần Mão, gặp Xương Khúc, Phá Quân lại có hình, sát sung
phá là người hay kinh hãi. Hạn gặp được cát tinh thì bình thường, gặp hung tinh
thì nguy khốn, chung thân tàn khổ phí công lao lực.
25.-Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu, hợp ám phúc tụ bất phạ hung nguy.
– Như thân mệnh có sao Nhật Nguyệt và hội cát tinh cũng không là toàn mỹ vì
phùng hung tinh còn bị hung nhưng được tam hợp có Nhật Nguyệt chiếu và có cát
tinh thì mới là thật tốt.
26.- Ấm phúc tại thân mệnh bất phạ tai ương.
– Ấm phúc là Thiên Lương Thiên Đồng cư cung thân mệnh phùng cát tinh thì không
sợ tai ương hung hại, nhưng gặp hinh kỵ cũng vẫn bị như thường.
27.- Tham cư Hợi Tí danh vi phiếm thuỷ đào hoa.
-Như thân mệnh toạ cung Hợi Tý, gặp Tham Lang phùng cát tinh thì cátowN Nếu gặp
Hình Kỵ ắt trai là hạng người lang thang phóng đãng, gái là hạng ca nhi dâm
đãng.
28.- Hình ngộ Tham Lang hiệu viết phong lưu thái trượng.
– Như thân mệnh ờ cung Dần có Tham Lang ngộ Thiên Hình là người thông minh chủ
phong lưu hay chưng diện bị gặp Hình ở nhàn cung thì thường.
29.- Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi.
– Như thân mệnh có sao Thất Sát, Liêm Trinh cùng toạ thủ là người chết đường.
30.- Phá Quân ám diệu đồng hương tác Trủng.
– Ám diệu là sao Hoá Kỵ, như thân mệnh có Phá Quân gia Kỵ, Hoa Sát thì chắc
chết, hoặc ở cung thiên di cũng đoán như trên.
31.- Lộc cư nô bộc túng hữu quan dã bôn trì.
– Như thân mệnh cung tinh bình thường, cung nô bộc ở cung Sửu Mùi ám họp cung
quan, có sao Lộc Tồn lại có Quyền Lộc cát tinh thì đoán là có quan trước đẹp đẽ
nhưng bị lao tâm khó nhọc bôn ba.
32.- Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
– Như Tử Vi (đế) thủ thân mệnh ngộ Quyền Lộc Hình Kỵ cùng một cung, tuy là cát
không hung nhưng là người tâm bất chính.
33.- Đế toạ mệnh khố tắc viết kim dư phủ ngự liễn. Lâm quan đồng.Văn diệu hiệu
vi y cẫm nặc Thiên Lương.
– Như sao Tử Vi thủ mệnh, cung đằng trước có cát tinh là như kim dư (xe nhà
vua) phò vua tức là được quyền cao chức trọng. Hay sao Tử Vi lâm cung quan lộc
cũng đoán như trên. Lại gặp thêm Xương, Khúc ví như áo gấm nặc hương thơm, tức
là đã được quyền quí laị được tiếng làm đẹp đẽ vang lừng.
34.-Thái Dương hội Văn Xương ư quan lộc. Hoàng điện thủ ban chi quí.
– Như Thái Dương hội Văn xương miếu vượng ở cung quan lộc phùng cát tinh thì
phú quí làm đến tể tướng.
35.- Thái Âm đồng Văn Khúc thê cung viết: Thiềm cung triết quế, văn chương lệnh
thịnh.
– Như Thái Âm miếu vượng có Văn Khúc đồng ở cung thê, lại có cát tinh đến phù
giúp. Hạn đến mà gặp thì trai lấy vợ đẹp khôn ngoan con nhà thế phiệt trăm anh,
gái gặp được chồng thông minh quí hiển và được phong tặng.
36.- Lộc Tồn thủ ư diền, tài tắc mai kim tích ngọc.
– Như sao Lộc Tồn miêú vượng thủ hai cung điền tài thì chủ đại phú có vàng chôn
ngọc cất.
37.- Tài ám hoạ ư thiên di, tất cự thương cao mại.
– Tài tinh tức sao Vũ Khúc, ám tức là Thiên Lương. Hoặc hai hay một sao đó được
Quyền Lộc và cát tinh toạ cung thiên di là người buôn bán to lớn, nếu gặp Hình
Kỵ Sát thì bình thường.
38.- Hao cư lộc vị, duyên đồ khất thực.
– Hao tức là đại, tiểu hao Phá Quân cũnh là hao tinh, lộc vị là cung quan lộc.
Cung quan lộc có hao toạ thủ laị gặp Hình Kỵ là kẻ ăn mày. Người sinh Dần Ngọ
tuất mệnh toạ cung Ngọ, người sinh năm tỵ dậu sữu mệnh toạ cung Ngọ, người sinh
Tỵ Dậu Sửu mệnh toạ cung Dậu, người sinh năm Thân Tý Thìn mệnh toạ cung tí,
người sinh năm Hợi Mão Mùi mệnh toạ cung Mão mùi mệnh toạ cung Mão thì đúng
cách.
39.- Tham hội vượng cung, chung thân thử thiết.
– Như hao tinh, Tham Lang thủ thân mệnh, quan lộc ở vượng địa là người có quan
lộc nhưng bần tiện lén lút, bị hư hao trộm cắp suốt đời.
40.-Sát cư Tuyệt địa, yểu niên tuyệt tự Nhan
Hồi.
– Như mệnh an ở cung Dần Thân Tị Hợi có Thất Sát gia Hình Kỵ lại là chỗ tuyệt
của sao khác, cho có cát tinh hội chiếu nữa hạn đến ắt chết non. Như Nhan-Hồi
mệnh toạ cư Khôi Việt cư Dần. Thân phùng Quyền Lộc Xương Khúc hãm ư Thiên
Thương thành không được phát đạt. Đại hạn đến sao Thất Sát hãm ở cung Hợi năm
nhâm thìn tiểu hạn cư Dần cung mệnh Thái Tuế lưu Dương, lưu Đà cho nên chết
vậy.
41.-Kỵ ám đồng cư mệnh cung tật nguy khốn nhược uông ly.
– Như cung thân mệnh, tật nguy (giải ách) có Cự Môn, Kình, Đà, Kỵ là người
nghèo khổ, bệnh tật liên miên, tiêu tan tổ nghiệp, bôn ba lao khổ.
42.- Hình Sát hội Liêm Trinh ư quan lộc, giá hữu đồng lưu.
– Như Hình Sát liêm thủ cung quan lộc mà hai hạn gặp không hoạ hoạn thì ắt
phùng hinh, tù, gông cùm không tránh khỏi.
43.- Quan phủ gia Hình Sát ư biện dị, ly hương tảo phối.
– Như cung thiên di có sao Quan phủ toạ thủ gia Hình Sát thì phải lập nghiệp
nơi xa quê hương gặp vợ gặp chồng.
Những cách trong bài phú thái vi ở quyển 1 đã giải.
Những cách thiết yếu của đẩu số
Thái cực là chủ tể các quần tinh tú hết cả vũ trụ, là nguyên thuỷ của cả muôn
loài, nguyên nhân của cuộc đại tạo, cái cửa huyền diệu cơ vi của ngươì và vật
cho, nên nói thái cực là cái nguyên thuỷ phù thân trợ mệnh. Trên Trời là cái
vật dụng vô thường vi như cái Fohat của bà Blavatsky nói trong quyển Doctrines
secreles, nó là cái nguyên sinh linh khí của cả vũ trụ nhuần thắm từ chỗ nhỏ bé
vô cùng tận (infmiment petit) đến cái lớn lao vô biên vô giới (infiniment
grand).

Đối với người thì cái mệnh chịu ảnh hưởng trực tiếp của cái nguyên sinh linh
khí trong cõi sinh tồn này, mỗi người một cách riêng mà cùng chung một hệ thống
cho nên trước xem cách cuộc sau mới xem các sao xấu tốt.

Như có người sinh cùng một năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng iờ mà phú quí bần
tiện thọ yểu khác nhau là lý làm sao? Phải chăng cũng cùng một lá số lập thành,
đồng sao tốt xấu trong cùng 12 cung. Đây là cái cơ vi mà người ta gọi là huyền
bí của dẩu số vậy. Hoặc người sinh không cùng màu da, không cùng xứ sở, không
đồng châu quận. Người ở nam kẻ ở bắc đối một vị sao có người hợp kẻ xung. Đối
với lúc sinh hai người cùng sinh trai gái phân biệt, lúc ra đời người nằm sấp
kẻ nằm nghiêng, ngay ở trong buồng đẻ công cộng rộng rãi mênh mông cũng đã khác
hướng sinh rồi. Đó là những chỗ dị đồng để phân biệt ảnh hưởng của hai người
đồng sinh đối với cái nguyên tử vô hình tuyến của thái cực vậy.
Trên đời cùng một lúc mà hoặc có kẻ tà ác ở trong cuộc hỗn tạp mà hưởng vạn
phúc lành giàu có muôn chung, hoặc có người phúc hậu hiền từ, tài năng quán thế
ở nơi dân trù nước thịnh mà tao ngộ tai ương liên miên không ngớt. Phải chăng
là thời đạo chỉ huy độc đoán cái thiên mệnh mà không bao giờ sự vận thăng trầm,
suy vượng ra ngoài hệ thống của thiên lý, mà ta có thể tự cho là hoạ phúc, phú
bần, quí tiện đến với ta theo một hệ thống nhất định, theo cái thời của từng
người tùng vật. Nên biết được đạo thời bằng câu “ nhất ẩm nhất trác gia do tiền
định” (ăn uống đều do tiền định cả), không có cái gì trong thiên hạ là trường
cửu, cái gì cũng phải có nhàn rồi mới có quả. Nên một sự vật đều có thiên mệnh
cả, mỗi một đời người quí tựu rong một cuốn phim dần dần quay ra theo thời gian
đã định. Cũng cùng một lúc nhiều cuốn phim cùng quay, có cuốn lúc đó vui cười
ầm ỉ, có cuốn âm thầm buồn thảm. Cho nên nếu ta nói không có số mệnh ắt là hoạ
phúc bắt nhất, cát hung xáo lộn vậy. Một số người tức như một cuốn phim của đời
người đó từ từ quay ra theo thời gian đã ấn định trước, mà giờ, ngày, tháng,
năm, sinh làm căn bản.
Nên xem số Tử Vi muốn biết vinh nhục, quí tiện phú bần của cả một đời người
phải xem ngũ hành của cung vị lập mệnh thuộc hành gì, sinh khắc chế hoá ra sao
để luận vậy, xem thân tuất là hiểu được cái gốc, cái nhân tự mình gây ra, ác
thiện an bày.
Xem số của người cần nhất xem cung phúc đức để biết cái quả đời xưa tiền nhân
để lại, thứ đến mệnh thân, sau đến cung thiên di và các cung khác, phải phân
thể của đới cung, định cái nguyên nhân của cái tam hợp mệnh vô chính diệu thì
phi yểu tắc bần, cát hữu hung tinh là ngọc quí có vết.

Đã thông bác được cái lý sanh khắc, chế hoá ngũ hành của các cung và sao một
cách chắc chắn. Nếu thân mệnh hợp cục tường sinh ắt phú quí sống lâu mà sinh
tài lộc.
Dưới đây là các cách cuộc
44.- Mệnh hảo, thân hảo, hạn hảo đáo lão vinh sương.
– Mệnh được ở cung sinh và sao tốt, thân cư vượng địa sao toạ thủ chiếu hợp
tốt, hạn tốt thì đến già cũng được vinh hiển sung sướng.
45.- Mệnh suy, thân suy hạn suy chung thân khất điếu.
– Mệnh thân ở cung tử tuyệt, lại gặp nhiều hung tinh hãm địa, hạn gặp Dương Đà
linh hoả thì suốt đời chỉ đi ăn mày.
46.- Giáp quí giáp lộc thiếu nhân tri
Giáp quyền giáp khoa thế sở nghi.
– Như người sinh năm Bính Đinh Nhâm Quí an mệnh tại Thìn Tuất có Khôi, Việt toạ
thủ lại có Tử Vi, Thiên Phủ, Nhật Nguyệt, Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc giáp
thân mệnh nữa gọi là giáp quí ắt phú quí, ít người được.
Như người sinh năm Giáp, thân mệnh ở cung Sửu Mão mà ở cung Dần lại có lộc gọi
là “sinh thành chi lộc” là thượng cách vậy. Còn như bốn năm Giáp Dần, Ất Mão
Canh Thân, Tân Dậu được cùng cách đó cũng là thượng cách. Như người sinh năm
Giáp an mệnh tại Tý, có Liêm Trinh Hoá Lộc cư Hợi, Phá Quân Hoá Qquyền ở Sửu,
có Khoa Quyền Lộc giáp mệnh chủ phú quí.
47.- Giáp Nhật giáp Nguyệt thuỳ năng ngộ,
Giáp Xương giáp Khúc chủ quí hề.
– Như Thái Dương ở cung Dần, thân mệnh cư Sửu, cung Tý có Thái Âm, không nên
gặp Không, Kiếp, Dương, Linh, ắt đại quý ít ai gặp được cách này. Như Xương Khúc
giáp thân mệnh như cách trên cũng chủ quí.
48.- Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện
Giáp Dương giáp Đà vi khất điếu.
Như Địa Không, Địa Kiếp, Dương Nhận (Kình Dương) Đà La giáp thân mệnh đối cung
ở Liêm Trinh Vũ Khúc là hạ cách chủ hạ tiện, nếu không có cứu tinh chắc chết
non.
Lại như mệnh có Hoá Kỵ Liêm Trinh Dương Đà Hoả Linh giáp cũng là hạ cách, hoặc
có Lộc Tồn ở sinh vượng địa như cung Dậu thì dảm được không đến nỗi là hạ cách
hoặc Dương Đà Không Kiếp ở ba phương chiếu lại ngộ Quyền Lộc không tại giáp là
bại, vận hạn thì chủ tai ương.
49.- Liêm Trinh, Thất Sát phản vi tích phú chi nhân.
– Liêm Trinh thuộc hoả. Thất Sát thuộc kim, hoả khắc kim là quyền của Hoả như
Liêm Trinh cư Mùi (hoả sinh thổ) là vượng địa, Thất Sát cư Ngọ ( hoả khắc kim)
Thất Sát được chế hoá, nếu thân mệnh gặp ở hai cung Ngọ, Mùi là cách kỳ lạ nên
trái lại thành giàu có. Nếu hai sao trên lâm vào hãm địa gặp Hoá Kỵ lại là hoạ
cách, là người bần tiện.
50.- Thiên Lương, Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách.
– Thái Âm cư những cung Mão Thìn Tị Ngọ là hãm địa. Như thân mệnh cư Tị Ngọ, có
Thái Âm thủ toạ lại gặp Thiên Lương hợp chiếu là hạ cách, là người đói rét lang
bạt kỳ hồ, tha phương cầu thực ham mê tửu sắc. Có Thiên Lương (hoá ấm) cũng
không thể cứu được. 51.- Liêm Trinh chủ hạ tiện chi cô hàn,
Thái Âm chủ nhất thân chi khoái lạc.
– Như thân mệnh có Liêm Trinh cư Tị hợi là hãm địa, 3 phương xung hợp và trước
sau 2 cung không có cát tinh thì cũng giáp ắt bị nghèo hèn lâu năm.
Lại như thân mệnh có Thái Âm cư từ Cung Mùi đến Tý là đắt địa ắt chủ phú quí,
nhiều cát tinh cùng chiếu thì đại phú quí, ít cát tinh chủ văn võ công danh.

52.- Tiền bần hậu phú, Vũ Tham đồng thân mệnh chi cung.
– Như thân mệnh an ở cung Sửu Mùi có hai sao Vũ Khúc Tham Lang đồng cung, vũ là
kim tinh khắc tham mộc. Mộc phùng chế hoá ắt hữu dụng nên trước tuy nghèo mà
sau thành phú quí, lại hoặc ba phương có Xương Khúc Tả Hữu cũng chiếu quí. Hạn
phùng Khoa, Quyền, Lộc thì qui hiển vậy.
53.-Tiên phú hậu bần, chỉ vì vận phùng Kiếp Sát.
– Như cung mệnh có một, hai chính diệu trước gặp được hạn tốt thì phú quí, sau
đến trung niên hạn đến tuyệt địa lại gặp Kiếp Không Hao Sát hung tinh, thân
mệnh vô lực nên sau bị nghèo hèn vậy.
54.- Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ tài quan chi vị.
– Sao Quyền Lộc cư cung tài bạch, hay quan lộc nhập miếu hội với nhiều cát tinh
thì chủ vinh hoa phú quí thân mệnh được cách đó cũng vậy.
55.- Sinh lai bần tiện, Kiếp Không lâm tài phúc chi hương.
– Sao Địa Không, Địa Kiếp cư ở hai cung tài bạch và phúc đức chủ người bần tiện,
ở cung thân mệnh cũng thế.
56.- Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng, Tả Phụ Hữu Bật bỉnh tính khắc
khoan khắc hậu.
– Như cung Thìn Tuất, Tị Hợi, Mão Dậu an mệnh ngộ Xương Khúc là người bác học
tài năng.
Được Xương Khúc toạ mệnh ở Cung Mùi gặp Dương Đà là tai ương, cho nên phải để
tâm cẩn thận xem phép chế hoá, sinh khắc mà biến hoá thì lý đoán không thể sai
được. Cũng như các chất hoá học, thêm thể ắt thành biến thể mà thể dùng khác
nhau.
Như hai sao Tả Hữu cư thân mệnh, không cần các sao khác nhiều ít, là người
khoan dung hậu trọng.
57.-Thiên Phủ, Thiên Tướng nãi vi y lộc chi thần, Vi sĩ vi quan định chủ hành
thông chi triệu.
– Như an mệnh ở cung Sửu, có Phủ Tướng ở hai cung Tị Dậu lai chiếu, hay an mệnh
ở Cung Mùi có phủ tướng ở hai cung Hợi, mão lai chiều; người sinh năm Giáp
không bị sát hung tinh thì phú quí. Hạn đến – học trò đổ đạt, làm quan thì hanh
thông.
58.- Miêu nhi bất tú khoa danh hãm ư hung thần.
– Giả như Hoá Khoa bị hãm trong cung có Không Kiếp Dương Đà, hoặc ở sao Thái
Dương cư cung Tuất, hay Hoá Khoa ở Thái Âm tại cung Mão tuy có Khoa Quyền Lộc
cũng không được toàn mỹ như cái mầm không được tươi tốt vậy.
59.- Phát bất chủ tài lộc, chủ thiều ư nhược địa.
– Như Hoá lộc ở hãm địa lại có Không Kiếp. Hoặc ở cung Tý Ngọ Thân Dậu Hoá lộc
thành ra vô dụng lại chủ cô bần, không cứ có sao lộc là chủ giàu sang đâu, cần
xem ở cung nào miếu vượng hay hãm địa.
60.- Thất Sát triều đẩu, tước lộc vinh sương.
– Như bốn cung Dần Thân Tị Ngọ an thân mệnh có Thất Sát toạ thủ lại thành tốt
Quyền Lộc vinh hiển. Cũng cần có Tả Hữu Khôi Việt, Xương Khúc chiếu lên hay
tương hợp thì nhất sinh phú quí vinh hoa, lại gặp hạn tốt lại càng tốt vậy. Nếu
gặp sát tinh thì bị giảm nhiều.
61.- Tử Phủ đồng cung, trung thân phúc hậu.
– Như ở hai cung Dần Thân an Mệnh Thân có Thiên Phủ Tử Vi đồng cung, ba phương
hợp lại có Tả Hữu Khôi Việt cũng chiếu ắt là trung thân phú quí phúc hậu. Người
sinh năm Giáp thì hết sức tốt. Cực mỹ.
62.- Tử Vi cư Ngọ vô sát thấu vị chí công khanh.
-Như người sinh năm Giáp đinh kỷ an mệnh ở cung Ngọ có sao Tử Vi thì đúng cách,
làm đến công khanh đại quí. Còn ở các cùng khác thì cũng chủ giàu có hoặc tiểu
quí.
63.- Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù yếu kim y tử.
– Như người sinh năm Giáp Kỷ an mệnh ở cung Tuất có Thiên Phủ và có cát tinh
cũng hợp thì đại quí làm đến đại thần, có sát tinh thì không đúng. Cần có Khôi
Việt, Tả Hữu lộc quyền chủ đại phú quí, nếu không có cát tinh trên thì cũng
bình thường.
64- Khoa, Quyền, Lộc củng, danh dự chiếu trương.
– Như Thân mệnh được trong tam hoá, cung tài bạch và quan lộc có hai hoá lại
hợp với nhau gọi là tam hợp, gọi là Khoa Quyền Lộc củng như vậy thì danh giá
rực rỡ làm đến tam công.
65.- Vũ Khúc miếu viên, uy danh hách dịch.
– Như hai cung Thìn Tuất an mệnh có Vũ Khúc là thượng cách an mệnh ở hai cung
Sửu Mùi là thứ cách có nên Quyền Lộc Tả Hữu, Xương Khúc cát tinh thì uy danh
hống hách vang lừng.
66.- Khoa minh Lộc ám, vị liệt tam thai.
– Như người sinh năm Giáp, an mệnh ở cung Hợi có Hoá Khoa lại có thiên Lộc (hoá
lộc) cư cung Dần (Hợi hợp Dần) gọi là cách Khoa minh Lộc am thì quan sang chức
trọng vị đến tam công.
67.- Nhật Nguyệt đồng lâm, quan cư hầu bá.
– Như mệnh an ở cung Sửu, Nhật Nguyệt tại Cung Mùi, hay mệnh an ở Cung Mùi,
Nhật Nguyệt ở cung Sửu thì gọi là đồng lâm.
Nhật Nguyệt đồng lâm thì luận đối cung, người sinh năm Bính Tân thì được phúc
hưng long, vị đến hầu bá.
68.- Cự Cơ đồng cung canh khanh chi vị.
– Như người sinh năm Tân Ất an mệnh ở cung Mão có hai sao Cự Môn và Thiên Cơ
thủ toạ lại gặp Xương Khúc, Tả Hữu là thượng cách. Người sinh năm Bính lại là
thứ cách, Người sinh năm Đinh chủ bình thường. Còn các cung khác thì không
phải.
69.-Tham linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh
– Như an Mệnh ở cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý có Tham Lang và Linh Tinh là nhập
miếu thì văn võ toàn tài vị đến tể tướng. Nếu lại được cát tinh mệnh an ở cung
Tý Thìn lại còn tốt hơn. Người sinh năm Mậu Kỷ thì hợp cách.
70.- Thiên Khôi, Thiên Việt cái thế văn chương.
– Như thân mệnh có Thiên Khôi toạ thủ, đối cung có Thiên Việt hay thân mệnh có
Việt toạ thủ đối cung có Khôi, cũng gọi là cách toạ quí hướng quí lại có cát
tinh hợp chiếu thì văn chương lừng lẫy là cách đại quí vậy.
71.-Thiên lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ.
– Như an thân mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi có thiên Lộc Thiên Mã toạ thủ lại
hội cát tinh thì đỗ cao tốt, người người kính phục, nếu bị sát tinh thì không
như vậy.
72.- Tả Phụ, Văn Xương hội cát tinh, tôn cư bát toạ.
– Như thân mệnh có Tả Phụ và Văn Xương toạ thủ, ba phương hội lại có cát tinh
thì được quí cách làm đến công khanh có sát Kiếp Không thì không hợp cách.
73.- Tham Lang Hoả Tinh cư miếu vượng danh trấn chư bang.
– Như an mệnh ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi có sao Tham Lang và Hoả Tinh toạ thủ
là thượng cách, danh tiếng vang lừng các nước. Ba cung có cát tinh cùng chiếu
lại càng tốt thêm. Như an mệnh ở cung Mão, không có sát tinh là thứ cách, như
có Dương Đà Kiếp Không thì không dùng cách.
74- Cự nhật đồng cung quan phong tam đại.
-Mệnh an ở cung Dần, có hai sao Cự Môn và Thái Dương là đúng cách, nếu thân
giáp hay ngộ Quyền Lộc thì vị đến công khanh. Nếu gặp Tứ Sát lại có Hoá Kỵ lại
là người bình thường.
75.- Nhật Nguyệt tịnh minh, tả cửu trùng ư nghiêu diện.
– Như mệnh an ở cung Sửu Nhật tại Tị nguyệt tại Dậu chiếu lại gọi là cách Nhật
Nguyệt tịnh minh là đại thần phò tá minh quân. Người sinh năm Tân Ất là hợp
cách, sinh năm Bính chủ quí, sinh năm Đinh chủ phú, nếu gặp Tứ Sát Không Kiếp
Kỵ thì lại bình thường.
76.- Khoa quyền đối củng diệu, tam cấp ư vũ môn.
– Như Khoa Quyền Lộc, ở cung thiên di, tài bạch quan lộc, xung hợp chiếu mệnh
là hợp cách, hay cung mệnh có Hoá Khoa, Quyền Lộc ở 3 cung chiếu lại, không bị
sát thì cũng vậy, làm quan đến thượng phẩm trong triều đình.
77.- Phủ tướng đồng lai hội mệnh cung, toàn gia thực lộc.
– Như phủ, tướng ở ba cung chiếu lại bản cung nhiều cát tinh, thân mệnh không
bị bại là cách phủ tướng chiều viên, là phú quí song toàn. Nếu được cách phủ
tướng chiều viên thì qyuết đoán nhất định là suất sĩ vi quan, đại cát sương.
78.- Tam hợp minh châu sinh vượng địa, ẩn bộ thiềm cung.
-Như an mệnh ở Cung Mùi, Nhật ở cung Mão, nguyệt ở cung Hợi chiếu lên gọi là
cách minh châu xuất hải thì tài quan được song mỹ vẹn toàn. Như cung Thìn có
nhật thủ mệnh, cung Tuất có nguyệt đối chiếu hay cung Tuất có nguyệt thủ mệnh,
cung Thìn có nhật đối chiếu ắt chủ cực quí là thượng cách.

79.- Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại.
– Như hai sao sát phá toạ thủ thân mệnh ở hãm địa chủ người tinh xảo về nghề
thủ công, nên xuất ngoại thì được phát đạt. Lấy sát ở Dần Thân và Phá ở Tị Hợi
mơí đoán như trên.
80.-Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
– Bốn sao trên hợp lại ở cung thân mệnh là người có công danh về quan trường
đao bút, nếu gặp Sát kỵ là hạ cách ở hai cung Dần Thân có bốn sao trên hội lại
là người có quan tước, thiếu một sao thì không thành.
81. – Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoản định công hầu khí.
– Tử ở cung Ngọ, phủ ở cung Tuất. Nhật ở cung Mão, nguyệt ở cung Hợi, lại có
Khoa Quyền Lộc toạ thủ thân mệnh là cách công hầu như ngọc tốt sáng ngời. Nếu
gặp sát Kiếp Không Kỵ là thất cách.
82.-Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung trung, định thị phương bá công.
– An mệnh ở cung Sửu Mùi, Nhật Nguyệt Khoa Lộc toạ thủ. Như không có tam hoá mà
có Nhật Nguyệt đồng cung cũng không tốt. Nếu không có cát tinh chiếu lại, quyết
đoán là phúc không thể sinh ra được. Nếu Ngọ hoá cát thì tốt lắm uy quyền phúc
thọ lại càng tăng.
83.- Thiên Lương Thiên Mã hãm, phóng đãng vô nghi.
– Như mệnh an ở cung Tị Hợi, thân có Thiên Lương toạ thủ là lạc hãm lại có
Thiên Mã đồng cung. Hoặc lại có Hoả Đà Không Kiếp ắt là người chỉ ham chơi bời
phóng đãng không sai.
84.- Liêm Trinh sát bất gia, thanh danh viễn bá.
-Sát đây là Tứ Sát là Dương, Đà, Hoả, Linh. Như an mệnh ở cung Mão có Liêm
Trinh toạ thủ thì chủ qui, có cát tinh chiếu hợp lại càng tốt thêm, danh tiếng
nổi khắp mọi nơi. Có sát tinh thì bình thường. Hoặc mệnh an ở hai cung Mùi,
thân có Liêm Trinh toạ thủ không có sát tinh thì cũng được vinh hiển.
85.- Nhật chiếu lôi môn, phú quí vinh hoa.
– An mệnh ở cung maõ có Thái Dương toạ thủ, 3 phương hợp lại có Tả Hữu Xương Khúc,
Khôi Việt thì phú quí vinh hiển vô cùng. Người sinh năm Giáp Ất canh tân thì
hợp cách. Nếu bị Hình Kỵ Tứ Sát thì chỉ được no ấm. (cung Mão là quẻ Chấn kinh
dịch nói rằng: “ Chấn vi lôi” nên gọi cung Mão là lôi môn)
86.- Nguyệt lãng thiên môn, tiến tước phong hầu.
– An mệnh ở cung Hợi có Thái Âm toạ thủ, 3 phương có cát tinh hợp chiếu thì chủ
đại phú quí. Nếu không có cát tinh thì chỉ làm chức thường. Người sinh năm binh
đinh chủ quí, sinh năm nhâm ắt quí giàu lớn. ( cung Hợi là quả kiền – dịch nói
rằng: “ kiền vi thiên” nên gọi cung Hợi là thiên môn).
87.- Dần phùng phủ tướng, vị đăng nhất phẩm chi vinh.
-An mệnh ở cung Dần, phủ ở cung Ngọ, tướng ở cung Tuất cũng chiếu. Người sinh
năm Giáp thì đúng cách, làm đến nhất phẩm triêù đình có sát tinh thì thất cách.

88.- Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát toạ chi quí.
– An mệnh ở cung Thìn Tuất Sửu Mùi, hai sao Tả Hữu toạ thủ ở đó là đúng cách ắt
công hầu khanh tướng không sai. Hoặc ba cung thiên di, quan lộc, tài bạch có
hai sao trên cũng chủ phúc thọ.
89.- Lương cư Ngọ vị, quan tứ thanh hiển.
– Mệnh cư cung Ngọ có Thiên Lương toạ thủ thì đứng cách. Người sinh năm Đinh là
thượng cách, làm quan được nhiều tài lộc và quí hiển, năm kỷ là thứ cách, năm
quí chỉ phú nhưng cũng là thứ cách.
90.-Khúc ngộ lương tinh vị chí thai cương.
– Mệnh an ở cung Ngọ, 2 sao Văn Khúc, Thiên Lương đồng cung là thượng cách, làm
đến cận thần. Mệnh an ở cung Dần là thứ cách. Hoặc Lương tại Ngọ, khúc tại tý
xung lên thì làm quan đến nhị, tam phẩm là quí cách.
91.- Khoa Lộc tuần phùng, Chu Bột hân nhiên nhập Tướng.
– Cung mệnh có cát tinh toạ thủ, ba phương có tam hoá cũng chiếu. Hay trước
cung mệnh ba vị như mệnh tại cung Hợi, trước ba cung là cung Dần gặp Khoa Quyền
Lộc đền chủ phú quí. Như Chu Bột hân nhiên được lên làm tướng.
92.- Văn tinh ám củng – Mại Nghị duẫn hỷ đăng khoa.
– Mệnh cung có cát tinh. Cung thiên di, quan lộc tài bạch ba phương có Xương
Khúc khoa chiều cũng là như Mại nghị còn nhỏ tuổi đã dỗ cao.
93.- Kình Dương Hoả Tinh uy quyền xuất chúng, đồng hành Tham Vũ uy yểm Biên di.

– An mệnh ở tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi ngộ dương hoả nhập miếu thì văn võ toàn
tài, uy quyền xuất chúng, binh quyền vạn lý. Như Tham Vũ ngộ hoả tại vượng địa
thì cũng vậy.
94.- Lý quảng bất phong, Kình Dương phùng ư Lực Sĩ.
– Lý quảng là tướng anh hùng nhà hán, có công lớn dẹp Phiên mà không được phong
vì Kình Dương phùng ư Lực Sĩ.
– Hai sao đó toạ tủ mệnh lại có cát tinh nhiều thì được bình thường, thêm sát
tinh nữa thì tốt hung, số đàn bà mà gặp thì khỏi phải luận.
95.- Nhan Hồi yểu triết, Văn Xương hãm ư yểu thương.
– Người sinh năm Sửu, an mệnh ở cung Dần, có vân sương ở Cung Mùi hãm địa là
yểu thương. Lưu niên hạn lại gặp Thất Sát, kinh đà thì chết non như số Nhan hôì
vậy (Nhan á thánh)
96.- Trọng Do mãnh liệt, Liêm Trinh nhập miếu ngộ tướng quân.
– Trọng Do là thầy tử lộ. Mệnh cư thân có Liêm Trinh ngộ tướng quân toạ thủ
thành ra người rất dũng mãnh tuy là bậc hiến sĩ vậy.
97.- Tử vũ tài năng, cự tú Đồng Lương xung thả hợp.
-Mệnh có Tử Vũ lập ở cung thân, cung Tý có thiên đồng, cung Dần có Cự Môn, cung
Thìn có Thiên Lương, lại có Khoa Quyền Lộc Tả Hữu cùng xung hợp là cách tài ba
quán thế.
98.- Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội.
– An mệnh ở cung Dần có hai sao toạ thủ lại có hoá cát (Khoa Quyền Lộc). Người
sinh năm Giáp, Canh, Thân thì phú quí. Như an mệnh ở cung thân có 2 sao trên
toạ thủ gia cát tinh, người sinh như trên cũng phú quí.
99.- Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn.
An mệnh ở cung Thìn Tuất có sao Cự Môn thất hãm chủ người làm việc điên đảo,
gia sát là chủ khẩu thiệt thị phi, hình thương khắc hại.
100.-Lộc đảo, Mã đảo kỵ Thái Tuế chi hợp Kiếp Không.
– Như lộc mã lâm vào bại tuyệt không vong chi địa mà lưu niên Thái Tuế hội với
Kiếp Không chủ lẫn lộn tai nạn hối lẫn, phát mà không giữ được tiền.
– Như đại tiểu hạn gặp hung sát tinh mà thân
mệnh có Tử Vi thủ chiếu, hạn tuy hung cũng chủ bình thường, ẩn tránh đi được là
nhờ thân mệnh vậy.
102.- Cô bần đa hữu thọ, phú quí tức yểu vong.
– Như mệnh thân có những sao hãm nhược, và Tài quan Tử tức ở nơi hãm địa thì
nghèo hèn mới được sống lâu.
Lại như Thái Tuế toạ mệnh, chủ tinh hại nhược hoặc tài quan thiên di hoá cát
tinh, hoặc lại được hạn tốt ắt được hoạnh phát nhưng không lâu, được 10 hay 20
năm quá vọng yểu vong.
103.- Điếu Khách Tang Môn, Lục Châu hữu truỵ lầu chỉ nguy.
– Đại tiểu hạn ngộ đàng trước có Tang Môn, đàng sau có Điếu Khách và Thái Tuế
phùng hung tinh ắt bị kinh sợ hiểm nghèo, như Lục châu bị ngã trên lầu cao
xuống.
104.-Quan phủ Thái Tuế, công dã huy tuỵ tiết chi ưu.
– Hai sao toạ thủ thân mệnh cung, trong nhị hạn lại gặp thì ắt bị trọng hình
xiềng xích như anh thợ rèn nhà nước cũng có sự ưu sầu về xiềng xích.
105.-Hạn chí thiên la, địa võng.
Khuất nguyên nịch thuỷ như vong.
– Nhị hạn đi đến hai cung Thìn Tuất phùng Tham Vũ lại có Tang Môn, Điếu Khách,
Bạch Hổ hội với Kiếp Không Tứ Sát xung chiếu ắt rất hung, như Khuất Nguyên bị
chết đuối.
106.- Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không,
Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ.
– Họ nguyễn ở đời nhà Tấn chú cháu Nguyễn – hàn đều có tiếng là tài giỏi. Vận
gặp Không Kiếp nên bị bần hàn. Hai hạn nếu gặp Không Kiếp và nhiều cát tinh thì
cũng có nhiều tài và tài ra. Như thấy lưu niên có sát tinh ắt chủ bần khổ.
107.- Văn Xương Văn Khúc hội liêm chỉ táng mệnh thiên niên.
– An mệnh ở hai cung Tị Hợi có Liêm Trinh toạ thủ gia Xương Khúc ắt chết, người
sinh năm Tân thì tối kỵ. Nếu có Vũ Khúc Thiên Tướng là tài tinh chiếu lại cứu
cho thì lại phản lại là giàu có và có chủ quyền
(Xem số ông P.V.T dưới đây)
108.- Mệnh không, hạn không vô cát tấu công danh thăng đặng.
– Như mệnh và hạn phùng không gia sát tinh thì công danh không thành tựu hoặc
có chính tinh cát tinh cát hoá phùng Không Kiếp cũng làm được chức nhỏ, khó
nhọc cũng không lên cao được.
109.- Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên triết sĩ.
– Cung mệnh có Thiên Không toạ thủ thì bình thường, sợ nhất trung niên bị
nghiêng nghèo, nửa đời đức loạn, như con chim bay lưng chừng trơi gãy cách. Nếu
hoạnh phát ắt bị hung vong. Người sinh giờ Tị, Hợi, Tý Ngọ ắt bị như trên.
110.- Mệnh trung ngộ kiếp, kháp như lãng lý hành thoàn.
– Cung mệnh phùng Địa Kiếp là người bình thường. Chủ không có tiền tài, nếu gia
sát kỵ thì thậm hung đời lênh bênh như con thuyền trên nước.
111.- Hạng vũ anh hùng hạn chí Địa Không nhi táng quốc.
– Số Hạng vũ tiểu hạn gặp Địa Không ở cung thân, mệnh an tại Ngọ có Quyền Lộc
gia hội, ngộ long phượng, là số cực phú quí. Nhưng Lộc Tồn thủ mệnh bị đối cung
có Kỵ tinh xung phá thế là cát xứ phùng hung, 32 tuổi đại hạn đến cung Mão có
Vũ sát có Thái Tuế gia hoả và Tham Liêm cư hợi nên chết ỏ hạn đó, 32 tuổi tiểu
hạn ở cung thân ngộ Không cho nên thắt cổ chết ở Ô giang mà mất nước vậy.
112.- Thạch sùng hào phú, hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
– Đại tiểu nhị hạn có 2 sao Địa Kiếp, Địa Không lâm vào nơi hãm địa lại gặp lưu
niên Dương Đà sát tinh thì rất hung. Giàu có lớn lao như thạch sùng cũng bị
vong gia.


113.-Lã hậu chuyên quyền lưỡng trọng thiên lộc,
Thiên Mã.
– Mệnh của bà Lã hậu có Lộc Tồn phùng hoá lộc cùng với Thiên Mã đồng thủ mệnh,
nên mới chuyên quyền.
114.- Dương phi hiếu sắc tam hợp Văn Khúc, Văn Xương.
– Cung mệnh, tài, quan và Thiên di có Xương Khúc chiếu lại hội với Thái Âm,
Thiên Cơ tất chủ dâm dật như số bà dương phi.
115.- Thiên Lương ngộ , Mã nữ mệnh tiện nhi thả dâm.
– Như an mệnh ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi có Thiên Lương toạ thũ mà tam hợp có Thiên
Mã, đàn bà là kẻ bần tiện dâm dật.
116.- Xương Khúc giáp trì, nam mệnh quí nhi thả hiển.
– Thái Dương là đan trì ( thềm điện nhà vua) Thái Âm là quế phụ. Như Thái Âm,
Thai dương ở cung Sửu Mùi an mệnh, trước sau có Tả Hữu, Xương Khúc lại giáp số
đàn ông thì ắt quí hiển.
117.- Cực cư Mão Dậu đa vi thoát tục tăng nhân.
– Cực đây là thái cực chỉ sao Tử Vi như thủ mệnh an ở cung Mão Dậu gia sát tinh
chủ tăng đạo không có sát tinh lại có cát hoả, Tả Hữu Khôi Việt lại là quí
cách.
118.- Trinh cư Mão Dậu định thi công tứ lại bối.
– An mệnh ở 2 cung Mão Dậu có Liêm Trinh toạ thủ gia cát tinh định là người làm
quan lại có lương.
119.- Tả thủ đồng cung tôn cư vạn thừa.
– An mệnh ở 2 cung Thìn Tuất có Thiên Phủ hội với Tả phủ gia cát tinh và cát
hoả củng xung là cực phẩm chi quí.
120.- Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng Thiên nhai.
– An mệnh ở hai cung Tị Hợi có 2 sao Liêm Trinh và Thất Sát lại có sát kỵ phùng
Không Kiếp là người lang thang, hoặc phải bị đầu quân hay buôn bán gian lao khổ
cực ở xa.
121.- Đặng thông ngã tử vận phùng đại hao chi hương.
– Mệnh của Đặng Thông an ở cung tý, nhị hạn đi đến cung giáp hạn thì gặp đại
hao gia ác sát cho nên chết đói.
122.- Phu Tử tuyệt lương, hạn đáo Thiên Thương chi hội.
– Đức Khổng Phu Tử hết lương ở nước trần vì hạn đến chỗ gặp đại hao và nhiều
hung tinh.
123.- Linh Xương La vũ hạn chí đầu Hà.
– Bốn sao Linh Tinh, Văn Xương Đà La Vũ Khúc hội ở hai cung Thìn Tuất, người
sinh năm tân, nhâm, kỷ hai hạn đi đến cung Thìn Tuất ắt định sự nguy hiểm về
nước nếu không có cát tinh cứu ắt chết đuối. Nếu mệnh an ở hai cung Thìn Tuất
có 4 sao trên lại gia ác tinh nữa thì ắt chết đường không sai.

124.- Cự Hoả Kình Dương chung thân ải tử.
– 3 sao Cự Môn Hoả Tinh, Kình Dương toạ thủ thân mệnh đại tiểu nhị hạn lại
phùng ác sát thì thắt cổ tự tử.
125.-Kim lý phùng không bất phuông lưu tất chủ tật khổ.
– Như cung mệnh vô chính diệu có một không, tam hợp lại có sát tinh tam hoá ắt
là người không lư lạc giang hồ thì bị tật khổ. Nếu gặp cát tinh ắt giảm bớt
được.
126.-Mã dầu đái kiếm phi yểu triết tắc chủ hình thương.
– Cách này đã giả ở số 16, là cách bổ túc thêm cho rõ cách mã đầu đái kiếm ở
trên. Tuy được một thời oang liệt nhưng sau ắt yểu triết.
127.- Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc.
– Mệnh an ở hai cung Tý Ngọ có Phá Quân toạ thủ thêm có cát tinh hội chiếu thì
vị đến tam công gia quan tiến lộc.
128.- Xương Tham cư mệnh, phấn cốt toái thi.
– Như thân mệnh an ở hai cung Tị Hợi có Văn Xương và Tham Lang toạ thủ ắt yểu
vong thân sát tan tành, hoặc 2 sao cư cung quan lộc thì cũng vậy.
129.- Chiều đẩu ngưỡng đẩu tước lộc vinh sương.
– Sao Thất Sát thủ mệnh ở vượng địa như ở 4 cung Tý Ngọ Dần Thân là cách chiều
dẩu. Ở ba phương chiếu lại ngưỡng dẩu ( ngẩng nhìn sao đẫu) là nhập cát ắt được
phú quí, nếu gặp ở cung quan lộc lại không đoán như trên.
130.- Văn quế văn hoa cửu trùng quí hiển.
– Sao Văn Xương gọi là văn quế Văn Khúc là hoa như an thân, mệnhn ở cung Sửu
Mùi có hai sao trên lại gặp tam hoá và Lộc Tồn hợp với cát tinh cũng giáp thì
được cực kỳ quí hiển. nếu không có cát hoá( Tam hoá) lại là vô dụng.
131.- Đan trì, tảo toại thanh vân chi trí.
– Đan trì là chỉ Nhật cư cung Mão Thìn Tị.
Quế trì là chỉ Nguyệt cư cung Dậu Tuất Hợi.
Như an mệnh trong 6 cung trên và cung quan lộc có Xương Khúc hợp chiếu thì nhỏ
tuổi đã suất chinh, ra làm quan một cách dễ dàng.
132.- Hợp lộc cũng lộc định vi thần phách chi thần.
– Hai sao Lộc Tồn và Hoá lộc cư ở hai cung tài và quan hợp mệnh, hoặc cung mệnh
có Lộc Tồn toạ thủ, cung thiên di có hoá lộc chiếu lên, không bị ác sát tinh
thì chắc chắn phú quí không sai.Quyết đoán là: hợp lộc và cũng lộc ở miếu vượng
địa là chôn kim tích ngọc tức vị cao thiên ngộ Thiên Mã làm đến tể tướng chuyên
quyền chi số ( như số bà lã hậu)
133.- Âm dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa.
– Như mệnh có Âm dương ( nguyệt nhật) toạ thủ ở nơi đắc địa ở cung tài quan có
Xương Khúc hội tụ, lại có Khôi Việt cát tinh đoán chắc phú quí vinh hoa hơn
đời.
134.- Phụ Bật ngộ tài quan y phi trước tử ( màu tía)
– Như thân mệnh ở cát chính diệu toạ thủ, 2 cung tài quan có Phụ Bật toạ thủ
lại chiếu là cách phú quí tột phẩm.
135-Cự Lương tương hội, Liêm Trinh tính hơn Lộc, uyên ương nhất thế Vinh.
-Bốn sao Cự, Lương, Liêm, Lộc, ba cung hợp nhau gặp ở cung miếu địa, ở cung Phu
Thê ăt là vợ chồng hoà hợp và một đời vinh hiển.
136-Vũ-khúc nhàn cung đa thủ nghệ, Tham hãm địa tác đồ nhân (hàng thịt).
-Vũ Khúc thủ Thân Mệnh ở cung Tị Hợi gia Sát tinh là làm nghề Thủ công.
-Thân Mệnh an ở cung Tị, Hợi có Tham-lang gia Sát ắt là Đồ-tể hay chết non.
137-Thiên-Lộc triều viên thân vinh quý hiển,
-Như người sinh năm Giáp lập Mệnh ở cung Dần Giáp thì Lộc-tồn an ở cung Dần có
Mệnh an ở đấy gọi là Lộc chiều Viên-cách. Như người sinh năm Canh Lộc cưThân,
Ất Lộc cư Mão, Tân Lộc cư Dậu 4 vị ở trên có Lộc-Tồn thủ Mệnh thì cũng như trên.

Tại bốn cung Tị , Hợi, Tý , Ngọ không phải cách trên.
138-Khôi tinh lâm Mệnh vị liệt Tam-
Thai.

-Như an Mệnh ở cung Ngọ có TỬ -Vi ngộ Văn-Xương Khôi Việt đồng cung, người sinh
năm Bính là cách rất lạ, chức vị định quyết, vào hàng Tam Công.
139-Vũ-khúc cư Kiền Tuất Hợi thượng tối phạ Thái Âm phùng Tham Lang
-Quẻ Kiền ở trên địa –bàn ở giữa hai cung Tuất Hợi.
Vũ –khúc tại cung Tuất-Hợi thủ Mệnh, 3 phương có Tham-lang, Hoá Kỵ và hợp Thái
–âm gia Sát tinh thì Hung chủ Thiếu niên bất lợi, Hoặc có Tham Hoả xung phá lại
là chủ Quý.Người sinh năm Giáp, Kỷ , Nhâm thì hợp cách.
140-Hoá-Lộc hoàn vi hảo hưu hướng Mộ trung tàng.
-Như Vũ Tham Hoá Lộc thủ chiếu Mệnh thì Phú , lại có Cát tinh thì phú quí song
toàn. Nếu Lộc ở Tứ Mộ Thìn “Tuất Sữu Mùi lại thành vô dụng là lộc bị mộ tức như
bị trôn đi mà không phát lên được.
141.-Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc.
– An mệnh ở cung Tý Ngọ có Cự Môn toạ thủ các cung hợp chiếu như Dần tuất, Thân
thìn lại có Khoa Lộc nữa thì chắc chắn được phú quí như trong đá có ngọc.

142.- Minh lộc ám lộc cẩm thượng thiêm hoa.
– Minh lộc là có hoá lộc toạ thủ mệnh. Ám lộc là cung hợp với cung thân mệnh có
lộc.
– Như người sinh năm Giáp lập mệnh ở cung Hợi có Hoá lộc toạ thủ, lại cung Dần
(hợp hợI) có Lộc Tồn gọi là cách trên. Hoặc có Hoá Khoa ở cung đàng trước cung
mệnh có lộc toạ thủ cũng như cách trên thì tốt lắm như gấm thêm hoa.
143.-Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân phú nhi bất quí hữu hư danh.
– An mệnh ở 2 cung Thìn Tuất có tử phá toạ thủ là hãm địa tất không quí chỉ có
hạng trọc phú quí hư danh.
144.- Xương Khúc Phá Quân phùng hình khắc đa lao toái.
– Như cung Mão Dậu Thìn Tuất có Phá Quân thủ mệnh tuy được Xương Khúc cũng
không được là toàn cát, nếu gặp hình khắc kỵ ắt bị nhiều sự lao đao khổ cực
cũng không đủ quí.
145.- Tham Vũ mộ trung tam thập triển phát phúc.
– An mệnh thân ở tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi có Tham Vũ toạ thủ chủ thiếu niên bất
lợi gia Hoá Kỵ thì chết non. Quyết đoán: Tham Vũ không thể phát được trong tuổi
thiếu niên, quá 30 tuổi mới phát phúc thọ.
146.- Thiên Đồng tuất cung vi phản bối,
Đinh nhân hoá cát chủ đại quí.
– Sau Thiên Đồng ở cung Tuất là hãm điạ mà người sinh năm Đinh, 2 cung Dần tuất
có Lộc Tồn, hoá lộc lại được Dần thìn hoá cát xung củng chiếu thì định chủ đại
quí. Sao Thiên Tướng cũng vậy. Có thêm sát hung tinh thì chỉ làm hung đạo hay
là hạ cách.
147.-Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa, Tân nhân hoá cát lộc tranh vinh.
– Cự Môn toạ mệnh ở cung Thìn Tuất là hãm địa. Như người sinh năm tân. Cự Môn
hoá lộc tại cung Thìn, có Lộc Tồn ở cung Dậu hợp ám. Nếu mệnh cư tại cung Tuất
thì được Lộc Tồn ở dậu giáp mệnh ắt chủ phú quí vinh hiển, nếu thêm sát tinh
thì không phải cách đó.
148.- Cơ Lương dậu thượng hoá cát giả, túng ngộ tài quan dã bất vinh.
– An sao Cơ Lương ở cung Dậu, là tướng địa( cung sinh sao). Dậu thuộc kim,
Thiên Lương thuộc thuỷ, Thiên Cơ thuộc mộc. Dậu sinh lương thuỷ sinh cơ mộc)
tuy phùng hung hoá cát nhưng vô lực. Sao Cự Môn cũng vậy. Không có lực thì
không mạnh phát nên nói là túng sử có gặp ở cung tài, quan cũng không được vinh
hiển.
149.-Nhật Nguyệt tối hiềm nghi bối nải vi thất huy.
– Thái Dương tại Thân Dậu Tuất Hợi Tý. (về đêm) Thái Âm tại Dần Mão Thìn Tị Ngọ
(về ngày) thì Nhật Nguyệt không sáng thì làm sao được. Cũng có những người được
Nhật Nguyệt phản bối mà được phú quí làm nghĩa làm sao? Vậy phải coi người xem
là người đàn ông hay đàn bà, cha mẹ sống chết ra sao, sainh ban đên hay ban
ngày, xem bản cung tam hợp có cát hảo cũng chiếu không rồi sau mới quyết định
được.
Nên Ngọc Thiềm tiên sinh thường nói rằng: “ Lời nghị bàn lý đoán trong số Tử Vi
thật tối tinh vị, cái phép đoán số phải biến thông, hoạt bát theo sự thông minh
suy nghiệm của người xem số vậy”.
150. -Thân mệnh định yếu tinh cầu khủng sai phân số.
– Trong số Tử Vi thì cốt có thân mệnh, phải lấy giờ sinh cho thật đúng chỉ sợ
sai thì không phân biệt được. Giờ có đúng thì an thân mệnh vào cung nào mới
đúng. Sau mới xem cung sinh vượng TỬ nguyệt ra sao, rồi mới lấy sự suy nghiệm
các sao mà đoán.
151.- Âm chất diên niên tăng bách phúc chi ư hãm địa bất tao thương.
– Âm chất tứ là cái âm đức của người do đó mà hoạ phúc an bày. Nếu âm chất của
người ta được thịnh vượng thì cung phúc đức ắt được cung sao sum họp. Cung phúc
đức tốt, cư nơi vương địa ắt là được tăng bách phúc. Cho rằng thân mệnh cư tại
nhược địa, hay hạn hành vào cung nhược địa đi chăng nữa thì cũng có thể qua
được những sự tao thương nguy khốn. Như ví dụ dưới đây ta sẽ thấy cái đức của
người có thể cải lược số mệnh mình vậy.
– Lý phùng xuân đi đến chỗ anh trấn nhậm ở hồ quảng chơi, giữa đường gặp một
thầy tướng trừ danh xem tướng cho ông nói rằng: “Ông chết đến nơi rồi, cứ đi
thì gặp, Phùng xuân bán tín bán nghi lủi thủi đi một cách tuyệt vọng, đi đến
nữa đưởng thì gặp mưa to gió lớn, thấy một kẻ đói rét liền cho tiền gạo. Cảm
cái ơn đúc ấy người cha già xin hiến đứa con gái để bồi ân. Phùng xuân cố chối
từ, ra đi về hồ quảng và không hề nghĩ đến cân chuyện đã xảy ra.
Về sau ông thầy tướng lại gặp ông, giựt mình và coi tướng ông khác hẳn, nói
rằng: ” Âm chất điều hiện ra, vậy bây giờ khi sắc sung vượng, có tướng cư nơi
thai các. Hỏi đi hỏi lại ba lần vì cớ làm sao, phùng xuân không đáp. Nhưng sau
ông cũng biết vì cái đức thành thật cứu người không nghĩ đến sự báo ơn. Đó là “
đức năng thắng số” cái âm đức là cái gì thiêng liêng của con người có thể hoà
được hoạ phúc, an được tai ương. Nên học giả cần phải cân phúc đức từng số một,
ắt qua khư vị lai an bày tỏ rõ vậy.
152.- Mệnh thực vận kiên, cảo điền đắc vũ, nộn thảo tao sương.
– Như mệnh toạ nơi hãm địa lại được ba nơi có cát tinh cũng chiếu thì cũng luận
là phúc.
Như mệnh có cát tinh ở sinh vượng địa, gặp vận hạn bí tắc cũng không đến đỗi
nguy khốn ắt có sự cứu giúp như ruộng khô gặp mưa dào, cỏ non gặp sương buổi
sáng.
153.- Luận mệnh tất suy tinh thiện ác, Cự phá Kình Dương tính tất cương.
– Luận mệnh cưng phải xem tính cách các sao thiện ác ra sao. Nhưng gặp ba sao
Cự Môn, Phá Quân, Kình Dương ở nơi hãm địa Không những chỉ cúng cỏi đầu bò lại
chủ khẩu thiệt thị phi, nếu thêm sát tinh nữa thì thương tài phá bại.
154.-Phủ tướng Đồng Lương tính tất hiếu thất Kiếp Không tham tính bất thường.
– 4 sao phủ tướng Đồng Lương là nam đẩu tinh thuần dương là sao phù trợ bên
trong, thân mệnh gặp được ác tính trung hòa. Nếu Tham Lang ngộ Hoả đồng thì phú
quí, chỉ Không Kiếp lâm vào thì đoán tính tình bất thường.
155.-Xương Khúc lộc cơ thanh tú xảo, âm dương Tả Hữu tối tử tường.
– Được 4 sao Xương Khúc lộc cơ thủ mệnh thì được anh hoa tủ lệ thông minh phú
quí. Như được âm dương Tả Hữu toạ mệnh không bị sát chủ, người thanh kỳ đôn
hậu, phú quí độ lượng khoan hồng.
156.- Vũ Phá Trinh Tham xung hợp khúc toàn đồng chí, Dương Đà Thất Sát tạp hộ
kiến tắc thương.
– Thân mệnh cung tam hợp ngộ vũ phá liêm tham phủ chiếu lại có hoa cát át phú
quí.
Sao Tử Vi hay dâng quyền uy cho Thất Sát, hay sử sao Dương Đà thành thiện nên Tử
Vi toạ thủ thân mệnh ngộ các sao trên thì càng tốt, nhưng về sau lúc già không
được vui vẻ đẹp đẽ.
157.-Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác, Thất Sát Kình Dương, Đà La hung.
– Như thân mệnh tam hợp có 6 sao thủ chiếu lại có Hoá Kỵ không có hoá cát thì
chủ dâm tà phá hoại. Hoặc tai thương hình khắc. Nếu được nhập miếu ở hoá cát
tuy được phú quí nhưng người vẫn hung ác.
158.-Hoả Tinh, Linh Tinh chuyên tác hoạ, Kiếp Không Thương Sứ hoạ trùng trùng.
– Đại tiểu hạn mà gặp những hung tinh trên chủ tai ương, hối lẫn đa đoan. Như
thân mệnh mà gặp gia cát tinh thì Hoả Linh là chủ hư hao Kiếp Không Thương Sứ
bất nghi.
159.- Cự Môn kỵ tinh giai bất cát, vận thân mệnh hạn kỵ tương phùng.
– Hoả kỵ tinh là thần đa quản (giữ gìn, quản trị) thân mệnh ở 12 cung, 2 hạn gặp
nó đều chủ không tốt, huống hồ lại gặp Cự Môn chủ ám bản đã không tốt, nếu ở
hãm địa nữa nhất định là không tốt, không nên gặp.
160.-Canh liêm Thái Tuế quan phù, chí quan phi, khẩu thiệt quyết bất không.
– Thái Tuế quan phù là cái gốc của thần hưng tụng ( hay kiện cáo) huống hồ lại
gặp sao Cự Môn là sao chủ thị phi, lại có Liêm Phá kỵ lâm vào nữa, ắt phải có
sự quan tụng hay thị phi khẩu thiệt không thể tránh được.
161.- Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ quản giáo tai bịnh lưỡng tương công.
– Điếu Khách Tang Môn bản chủ hình hiếu( bị hình phat và đại tang) như Không
gặp Thất Sát thì hình có thể tránh được. Nếu 2 sao ở cung bịnh nguy lại gặp Hoá
Kỵ nữa ắt là tai ương và bệnh tật cùng gặp vậy.
162.- Thất Sát thủ thân chung thị yểu bần, Tham
Lang nhập mệnh tất chi sương.
– Sao Thất Sát thủ thân mệnh ở hãm đia gia hung tinh thì bị yểu bần. Như Tham
Lang thủ mệnh không có sát tinh hoặc ở tam hợp có cát tinh chiếu lại chủ dâm
đật( Tham Lang là sao đào hoa thứ hai) Như gia sát tinh hãm địa thì trai chủ
phóng đãng, gái chủ goá bụa.
163.- Tâm hảo mệnh vi diệc chủ thọ, tâm độc mệnh bạc diệc yểu vong.
– Câu trên là luận về âm đước của tiền nhân, câu sau luận cái đức bạc của con
người.
Người có tâm hảo mà mệnh bị hãm địa, nhược địa thì cũng có thể thọ được. Đây
vẫn giữ cái nghĩa của câu” đức năng thắng số”. Mệnh đã bạc lại không có đức,
tâm độc ác ắt chết non. Như gia cát vũ hầu đời nhà hán vì dụng trí thiêu mây để
làm giáp trụ nên bị giảm thọ vậy. Người lý học cần phải thận trọng suy tường
phân minh. Cái mệnh con người đáng giá nghìn vàng, nên phải biết xét thấu cái
thời của mình chó xác đáng, biết lúc khơi lên, hư thực, đầy vơi, trường đoản,
thiểu da mà luận, chớ để cái thời vận quí nó qua mà uổng vậy.
Luận về các cách thuộc nữ mệnh.
164.- Phủ tướng chi tinh nữ mệnh triển, tất dương tử quí dữ phu hiền.
– An mệnh ở cung Ngọ có 2 sao Phủ Tứơng toạ thủ người sinh năm Giáp thì hợp
cách.
An mệnh ở cung Tý có hai sao toạ thủ người sinh năm kỷ thì hợp cách.
An mệnh ở cung thân có 2 sao toạ thủ người sinh ăm canh thì hợp cách, là mệnh
phụ được vinh hiển phong tặng, chồng hiền hậu con cái làm nên.
165.- Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ.
An mệnh ở Cung Mùi có Liêm Trinh, người sinh năm Giáp là hợp cách.
– Mệnh toạ cung thân người sinh năm quí là hợp cách.
Mệnh toạ cung Dần người sinh năm kỷ là hợp cách đều là thượng cách, phú quí và
vinh hiển.
Nữ mệnh mà được Liêm Trinh toạ thủ ắt là thanh bạch tức là cái quí nhất của các
bà mệnh phụ, người thanh bạch tồn được cái đức mà con cháu ngày sau do đó mà
trưởng thành và vinh hiển vậy.
166.- Canh hữu Thiên Đồng lý diệc nhiên.
– Mệnh toạ cung Dần có sao thiên Dần người sinh năm Giáp là hợp cách.
– Mệnh toạ cung Mão có sao Thiên Đồng người sinh năm ất là hợp cách.
– Mệnh toạ cung Tuất có sao Thiên Đồng người sinh năm Đinh là hợp cách
– Mệnh toạ cung tỵ có sao Thiên Đồng người sinh năm Bính là hợp cách.
– Mệnh toạ cung Hợi có sao Thiên Đồng người sinh năm Bính tân là hợp cách đều
củ phú quí.
167.-Đoan chính Tử Vi, Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tính khả bằng.
– An mệnh ở cung Ngọ, Tị có Tử Vi hay Thái Dương toạ thủ chủ phú qúi, người
đoan trang lại sớm gặp được người hiền lành có nhân cách tiếng tăm người người
đều biết.
168.- Thái Dương Dần đáo Ngọ ngộ cát chung thị phúc.
– An mệnh từ cung Dần đến cung Ngọ, có Thái Dương toạ thủ gia cát tinh cũng
chiếu định chủ phú quí, ở hãm địa thì bình thường.
169.- Tả Phụ Thiên Khôi vi phúc thọ, Hữu Bật Thiên Tướng phúc tương lâm.
– An mệnh có 4 sao trên toạ thủ ở cung vượng đắcđiạ chủ phúc thọ vinh sương.
170.-Lộc Tồn hậu trọng đa y thực, Phủ tướng chiều viên mệnh tất vinh.
– An mệnh có Lộc Tồn toạ thủ đắc địa là người phong túc, nếu có phủ tướng chiều
viên mệnh tất vinh hiển.
Như mệnh có phủ ở thân và tướng ở Dần, hay ngược lại là cách phủ tướng chiều
viên, người sinh năm Giáp canh là thượng cách sinh năm tân là thứ cách. Như
người sinh năm binh mậu đinh kỷ nhâm quí lại an mệnh ở cung Tị Ngọ Tý hợi thì
không tốt.
171.- Tử Phủ Tị Hợi tương mộ phụ, Tả Hữu phì trì phúc tất sinh.
– An mệnh ở hai cung Tị Hợi có Tử Phủ toạ thủ, lại có Tả Hữu xung chiếu giáp,
giả thêm liêm cát hoá tất là phú quí vậy.
172.- Cự Môn Thiên Cơ vi phá đãng.
– An mệnh ở cung Dần Mão thân có sao cự cơ toạ thủ tuy là cung vượng địa, nhưng
đến sau phúc cũng không được toàn mỹ nên nói là phá đãng.
173.- Thiên Lương nguyệt diệu nữ mệnh bần.
– An mệnh ở cung Tị Hợi có Thiên Lương, hay an mệnh ở cung Dần thìn có Thái Âm
số đàn bà là nghèo hèn, hạ tiện.
174.-Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn.
– Hai sao Xương Khúc nên ở số đàn ông hơn đàn bà.
Theo cổ xưa vẫn còn sự phân biệt nam nữ gắt gao cho nên mới nói vậy. Cái lý
Xương Khúc chủ về văn chương khoa giáp đối với người đàn bà trung hoa trong
thời phong kiến thật là vô dụng. Đàn bà bị cấm không được đi thi cho nên Một
khi hai sao an vào thân mệnh thì ắt là thông minh nhưng phúc lại không toàn vi
các cung khác ắt thiếu và thông minh lỗi lạc tài năng không được mang ra thi
thố với đời nên nói là phúc bất toàn vậy. Nhưng hiệu kim tài năng của trai hay
gái không có sự hạn chế nên phải xét đoán theo thời mới đung.
Vậy nhà lý học cần phai 3xét đoán cho minh bạch hầu để cho một lý đoán chắc
chắn.
175.- Vũ Khúc chi tú vi quả tú.
Sao Vũ Khúc nên ở số đàn ông hơn đàn bà.
– Như mệnh có Vũ Khúc toạ thủ lại có Tham Lang đắc địa ở 3 phương củng chiếu là
có thể làm nữ tướng, nhưng nếu lại gặp Xương Khúc gia sát thì bị cô bần, quả
phụ.
176.- Phá Quân nhất diệu tính nan minh.
– Phá Quân là sao cô độc, dâm đật đàn bà không nên gặp, lại gia Tứ Sát nữa tức
là bọn hà tiện hình phu khắc tử.
177.- Tham Lang nơi lang da dâm dật.
– Tham Lang còn có tên là sao đào hoa, tính hiếu sắc. Thân mệnh gặp ỏ nơi hãm
địa thì chỉ là tì thiếp, làm tính hay ghen tỵ, gian trá với chồng hại con. Nếu
không đúng vậy ắt là dâm loạn không sai.


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *