Lộc Mã Quý Nhân

       Nhắc đến việc xem ngày trong thuật Trạch Cát, không thể không nói đến Lộc Mã Quý Nhân. Các đại sư phong thủy đều quan tâm đến phần này. Phàm làm các việc sửa chữa xây dựng, mà có Lộc mã Quý Nhân đến tọa hoặc hướng thì rất cát lợi, tài lộc thăng tiến mọi việc hanh thông, có thể nói là đại cát đại lợi. 



Vậy cụ thể phương pháp tính và sử dụng như thế nào? chúng ta cùng tìm hiểu

1. Tuế Lộc

      Tuế lộc Chính là phương Lâm quan của Tuế Can. Trong thập nhị thần phương, lâm quan là phương tốt nhất chính là lúc đang lên đã hưng thịnh. Phương đế vượng là lúc thái quá coi chừng suy bại. Do đó lộc là nơi cư của Lâm quan, chọn phương này trong năm rất thích hợp cho việc xây dựng.
cụ thể:
Năm giáp, Tuế lộc tại Dần.
Năm ất lộc tại Mão.
Năm Bính lộc tại Tỵ.
Năm Đinh lộc tại Ngọ.
Năm mậu lộc tại tị.
Năm Kỷ lộc tại Ngọ.
Năm Canh lộc tại Thân.
Năm Tân lộc tại Dậu.
Năm Nhâm lộc tại Hợi.
Năm Quý lộc tại Tý.

Công thức tính của Tuế lộc: xem năm lấy can làm chủ.
Cụ thể:
Năm Giáp – Ất: là Mộc thuộc cục Mộc, Giáp là dương, Ất là âm, Cục mộc khởi thập nhị thần theo dương thuận để tính năm giáp, theo âm nghịch để tính theo năm ất:
* Cục Mộc: Hợi – Mão – Mùi, dương thuận: Tràng sinh tại Hợi – Mộc dục tại Tý – Quan đới tại Sửu – Lâm quan tại Dần nên Dần là tuế lộc của năm Giáp.
* Cục Mộc: Hợi – Mão – Mùi, âm nghịch: Tràng sinh tại Ngọ – Mộc dục tại Tỵ – Quan đới tại Thìn – Lâm quan tại Mão, nên Tuế lộc của năm Ất.
Năm Bính – Đinh: Là hoả, thuộc cục hoả. Bính là dương, Đinh là âm.
*Cục Hoả: Dần – Ngọ – Tuất, dương thuận: Tràng sinh tại Dần – Mộc dục tại Mão – Quan đới tại Thìn – Lâm quan tại Tỵ, nên Tỵ là tuế lộc của Bính. 
* Cục Hoả: Dần – Ngọ – Tuất, âm nghịch: Tràng sinh tại Dậu – Mộc dục tại Thân – Quan đới tại Mùi – Lâm quan tại Ngọ, nên Ngọ là tuế lộc của năm Đinh. Các cặp khác cứ thế mà luận.
 
2. Tuế Mã

Tuế mã chính là phương Bệnh của Tuế chi, là phương cát thần dùng để khai sơn lập hướng – tu tạo, xây dựng rất tốt. Tuế mã cũng giống như tuế lộc. Nhưng Tuế mã lại dùng chi năm để khởi thập nhị thần tính đến các chi thuộc cung “Bệnh” lấy đó làm tuế mã của năm.
Ví dụ: Năm Tý thuộc cục thuỷ: Thân – Tý – Thìn: khởi Tràng sinh tại Thân – Mộc dục tại Dậu – Quan đới tại Tuất – Lâm quan tại Hợi – Đế vượng tại Tý – Suy tại Sửu – Bệnh tại Dần. Vậy chi Dần là Tuế mã của năm Tý….
Theo cách tính trên ta lần lượt có:
– Năm: Thân – Tý – Thìn tuế mã ở Dần.
– Năm: Hợi – Mão – Mùi tuế mã ở Tỵ.
– Năm: Sửu – Tỵ – Dậu tuế mã ở Hợi.
– Năm: Dần – Ngọ – Tuất tuế mã ở Thân.

Phi thiên lộc – Phi thiên mã
Phi thiên lộc – mã là công thức dùng phi độn để tìm phương hướng Lộc – Mã cư tại phương nào theo từng tháng trong năm. Xây dựng dương cơ, âm phần có Lộc mã đáo sơn đáo hướng thì rất tốt.
Các bước:
– Coi năm muốn xây dựng là năm gì?
– Tra bảng Tuế lộc và tuế mã để biết lộc mã thuộc chi nào.
– Dùng “ ngũ hổ độn” để biết chính chân Lộc – mã ( tức là biết Can lẫn chi của lộc và mã). Và luôn an để chạy từ Dần
        Năm Giáp Kỷ  đầu là Bính
        Năm Ất(Canh) ”   ”   ” ” Mậu
        Năm Bính Tân ”    ”    ” &nb sp;   Canh
        Năm Đinh Nhâm ”    ”    ” &nb sp;   Nhâm
        Năm Mậu Quý   ”    ”  & nbsp; ”     Giáp
VD : Năm Kỷ Sửu Tuế Lộc tại Ngọ, năm kỷ khởi đầu là Bính theo ngũ hổ độn. Ta lấy can Bính ghép khởi chạy từ Dần, chạy thuận cho đến Ngọ. Cụ thể ta có : Bính Dần – Đinh Mão – Mậu Thìn – Kỷ Tỵ – Canh Ngọ. Vậy chính chân lộc là Canh Ngọ.

– Dùng nguyệt kiến( tức là tháng của năm đó) dùng cả can và chi nhập trung cung phi độn thuận theo cửu cung tới đúng can chi của Lộc và mã nằm tại cung nào thì chính cung đó là cung Lộc và cung mã của tháng đó.
– Công thức phi cung nay tính theo tuần tự trong lục thập giáp tý ( từ Giáp tý đến Quý hợi) cứ phi tinh liên tục đến khi nào gặp đúng Chân Lộc hoặc Chân Mã đáo tại cung nào thì dùng cung đó.
Ví dụ 1: Năm Giáp tý tra bảng Tuế lộc và bảng Tuế Mã ta có:
– Năm giáp lộc tại Dần.
– Năm Tý mã tại Dần.
Vậy nhà xây dựng năm giáp tý lộc và mã tại Dần.
– Dùng “ ngũ hổ độn” để xét ta có:
Năm giáp – kỷ khởi Bính Dần. Vậy chân lộc – mã là Bính Dần và tháng giêng năm Giáp tý cũng là Bính Dần. Vậy tìm tháng.
– Tháng giêng lấy nguyệt kiến Bính Dần nhập trung cung mà lộc – mã cũng là Bính Dần do đó Lộc – Mã trú tại trung cung.
– Tháng 2 là Đinh Mão, lấy đinh mão nhập trung cung phi độn 60 cung tới ngay Bính dần nằm tại cung khảm. Vậy cung Khảm là cung của Chân Lộc và Mã của tháng 2 năm Giáp tý…. Theo như cách tính trên ta có:
Năm Kỷ sửu 2009. Tuế lộc là Canh Ngọ, Mã là Ất Hợi.
Tháng 1 Lộc tại cung Ly; Mã tại trung cung.
Tháng 2 Lộc tại cung Cấn, Mã tại cung Tốn.
Tháng 3 Lộc tại cung Đoài, Mã tại cung Chấn.
Tháng 4 Lộc tại cung Càn, Mã tại cung Khôn.
Tháng 5 Lộc tại trung cung, Mã tại cung Khảm.
Tháng 6 Lộc tại cung Khảm, Mã tại cung Ly.
Tháng 7 Lộc tại cung Ly, Mã tại cung Cấn.
Tháng 8 Lộc tại cung Cấn, Mã tại cung Đoài.
Tháng 9 Lộc tại cung Đoài, Mã tại cung Càn.
Tháng 10 Lộc tại cung Càn, Mã tại trung cung.
Tháng 11 Lộc tại trung cung, Mã tại cung Khảm.
Tháng 12 Lộc tại cung Tốn, Mã tại cung Ly.

3. Cách dùng: Lộc – Mã – phi thiên Lộc – Mã.

      Lộc chủ về tài lộc – Mã chủ về sự trường tồn, do vậy Lộc – Mã thường dùng chung với nhau để chi phối và chỉ sự trường tồn của Tài lộc.

      Ví dụ: Năm Giáp tý Lộc tại phương Dần, trong năm này nếu xây nhà hay dựng mồ mả nhằm hướng Dần hoặc toạ Dần, thì đã đạt được cát tinh của Tài lộc Đáo hướng hoặc sơn. Nếu gặp năm Giáp tý, Giáp Thìn, Giáp Thân thì ta được cả Lộc – Mã đáo hướng hặc sơn.
Phi thiên Lộc Mã cũng vậy, xét xem biểu tháng Lộc hay Mã đóng tại phương nào, trong tháng ấy lập sơn hoặc hướng theo phương ấy, ta đã được Lộc hay Mã đáo Sơn – Hướng. Theo nguyên tắc tính Mã trong chi năm, đó là thế Tam hợp. Do đó lập cục tam hợp của Năm – tháng – ngày – giờ để bổ sơn – hướng của Lộc Mã.

4. Phi cung Quý Nhân
     Quý nhân là cát thần trú tại phương trong năm cũng giống như phương Lộc – Mã. Quý nhân phân ra làm hai thành phần: Dương quý và Âm quý. Theo năm tháng Âm dương quý nhân lần lượt đáo hướng rất giống công thức phi cung của Lộc – Mã. Có nét đặc biệt dụng Âm quý phải đáo đúng cung âm mới thật Cát tường. Dụng Dương quý phải đáo đúng cung Dương mới thật Cát tường. Cung Âm hay Dương được tính theo Cửu tinh số Lạc Thư, không tính theo Âm dương của Bát quái.

* Cung âm: Khôn 2; Tốn 4; Càn 6; Cấn 8.
* Cung Dương: Khảm 1; Chấn 3; Đoài 7; Ly 9.

Biểu năm của Âm – Dương quý nhân
Năm Giáp: Dương quý tại Mùi; Âm quý tại Sửu.
Năm Ất: Dương quý tại Thân; Âm quý tại Tý.
Năm Bính: Dương quý tại Dậu; Âm quý tại Hợi.
Năm Đinh: Dương quý tại Hợi; Âm quý tại Dậu
Năm Mậu: Dương quý tại Sửu; Âm quý tại Mùi.
Năm Kỷ: Dương quý tại Tý; Âm quý tại Thân.
Năm Canh: Dương quý tại Sửu; Âm quý tại Mùi.
Năm Tân: Dương quý tại Dần; Âm quý tại Ngọ.
Năm Nhâm: Dương quý tại Mão; Âm quý tại Tỵ.
Năm Quý: Dương quý tại Tỵ; Âm quý tại Mão.

Công thức phi cung tinh tháng của Âm – Dương quý nhân:
Rất giống với công thức Phi thiên Lộc – Mã.
1. Trước tiên xem năm lập mộ hay xây dựng nhà là năm tháng nào?
2. Tra bảng nên để biết Dương quý và âm quý thuộc các chi nào.
3. Dùng ngũ hổ độn để biết chính chân Âm quý – Dương quý nhân.
4. Dùng nguyệt kiến( là tháng của năm đó nhập trung cung phi thuận tới đúng tên can chi của Dương quý – Âm quý đáo tại cung nào thì cung đó chính là cung của Dương quý hay âm quý đáo.
Ví dụ:
1. Xét năm Đinh Hợi muốn lập mộ phần vào tháng giêng, Xét bảng biểu trên ta có Dương quý tại Hợi – Âm quý tại Dậu.
Dùng Ngũ hổ độn năm Đinh – Nhâm khởi tại Nhâm Dần, Tính tới Nhâm Dần – Quý mão – Giáp Thìn – ất tỵ – Bính Ngọ – Đinh Mùi – Mậu thân – Kỷ Dậu( vậy Kỷ Dậu là Chính chân Âm Quý) Tiếp đến là Canh Tuất – Tân Hợi. Vậy Tân hợi là Chính chân Dương Quý.
2. Xét tháng 1: Nhâm dần nhập trung cung thì chính Chân Âm Quý là Kỷ Dậu đáo tại cung Chấn. Dương quý nhân là Tân Hợi đáo tại trung cung. Cung Chấn số 3 là cung dương. Do đó Dương quý đáo tại cung này là cát tường. 

Ý NGHĨA CỦA THẦN SÁT

THIÊN LỘC


        Lộc là phương Lâm quan của Tuế can, tính của ngũ hành, Lâm quan tối cát. Lâm quan là thời đương thịnh, đang lên phơi phới là đúng đạo sinh thành gần tới vượng mà là lộc, bởi vượng thì thái quá. Đạo của càn khôn là cái gì cực thịnh tất suy, chỉ có cái gần tới vượng mới là thế đi lên vì vậy mà lấy Giáp lộc ở dần, ất lộc ở mão, Bính Mậu lộc ở tị, Đinh Kỷ lộc ở ngọ, Canh lộc ở thân, Tân lộc ở dậu, Nhâm lộc ở hợi, Quý lộc ở tý, đó chính là lấy Lâm quan làm lộc vậy.
Lộc cách là cách có Lộc ra chính môn. Nhà có cách này là cát khánh, rất tốt. Lộc ra chính môn sẽ đem lại nhiều sự may mắn về tiền bạc, gia sản tăng tiến, điền trang hưng vượng. Thường sinh người béo tốt, thông minh tuấn tú lại khéo léo, tài năng, giỏi kinh doanh, làm ăn tấn phát. Tuy nhiên cũng cần phải ra sinh vượng lộc, tránh không vong tử tuyệt, nếu ngộ không vong tử tuyệt thì khí tán không tụ là vô dụng, có lộc cũng như không, tài sản dù có như núi rồi cũng tiêu tán hết, gọi là tuyệt lộc. Nếu gặp thoái khí thì mặc dù vẫn phát đạt, nhưng con trai thì tài hoa mà kiêu ngạo, con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch, trong gia đình hay sinh nội loạn, cãi vã, cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên.
Lộc cung là cát cung vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ, giường ngủ, tất cả được lộc đều tốt. Tuy nhiên Lộc phải cư đúng cung Tài là Lộc cư Lộc vị mới thật sự đắc cách, mới thật sự tốt đẹp vậy.

Thiên Mã

Mã là ngựa trời, lấy tam hợp cục của địa chi gặp xung khắc làm mã. Như Dần Ngọ Tuất tam hợp cục hoá hoả, lấy Thân là vị trí ra của thuỷ cục là hoả thuỷ giao chiến, lại Dần Thân tương xung mà làm mã. Thân Tý Thìn tam hợp cục hoá thuỷ, lấy Dần là vị trí ra của hoả cục là thuỷ hoả giao chiến lại Dần Thân tương xung mà làm mã. Tị Dậu Sửu tam hợp cục hoá kim, lấy Hợi là vị trí ra của mộc cục là kim mộc tương tranh, lại Tị Hợi đối xung mà làm mã. Hợi Mão Mùi tam hợp cục hoá mộc, lấy Tị là vị trí ra của kim cục là mộc kim tương khắc, lại Tị Hợi đối xung mà làm mã. Vì vậy mà nói mã chủ trạng thái động, là tượng của sự thay đổi, bôn tẩu.
Mã ra chính môn thì gia trạch luôn gặp sự may mắn, tin vui ngất trời, phát tài nhanh chóng, mọi công việc đều trôi trảy thuận lợi, thường sinh người thông minh, nhanh nhẹn, khôi ngô tuấn tú lại hay xuất ngoại ra ngoài ăn ra làm lên. Tuy nhiên cũng như Lộc, Mã cần phải gặp sinh vượng, tránh không vong tử tuyệt, gặp sinh vượng thì tốc phát lại sinh người thông minh cao quý, trí lự, thông biến, bình sinh nhiều danh vọng. Gặp không vong tử tuyệt thì giang hồ, bôn tẩu nơi xa để mưu sinh, tha phương cầu thực, công danh thì thăng giáng thất thường, sự nghiệp thì long đong lận đận lại dễ gặp tai nạn về chân tay, công việc thì có đầu không có đuôi, thành công ít mà thất bại thì nhiều. Gặp thoái khí lại ra cung đoài trực cùng đào hoa thì âm thịnh dương suy, con gái dễ phát sinh dâm loạn, con trai chơi bời nghiện ngập, tiêu tán tổ nghiệp, bại hoại gia phong.
Mã cung là cát cung, vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, phòng khách, phòng làm việc, cầu thang, bàn thờ đều rất tốt. Chỉ có giường ngủ của nữ lưu không nên đặt tại Mã cung, nữ giới có giường ngủ đặt tại mã cung thì tâm bất an, không ở yên một chỗ, là tượng bất lợi vậy.

Quý Nhân
Quý nhân Thiên ất là vị thần đứng đầu cát thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phi phù; Quý nhân một ngày hai mặt âm dương chia nhau trị
nội ngoại theo quy luật tương khắc của sự phối hợp can chi. Lấy Sửu mùi là cửa xuất nhập của quý nhân, nên giáp mậu ra tại sửu mùi, sửu mùi là thuần thổ nên phải phối Giáp với Mậu là mộc thổ tương khắc. Lấy ất Kỷ ra tại Tý Thân, ất là mộc,Tý là thuỷ, Thân là kim, là kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc nên phải phối ất với Kỷ là mộc thổ tương khắc. Lấy canh tân ra Ngọ Dần, Lấy Bính Đinh ra Hợi Dậu là hoả kim tương khắc. Lấy Nhâm Quý ra Mão Tị là thuỷ hoả gia tranh. Hai vị trí Thìn Tuất là vị trí của Thiên la, Địa võng nên Quý nhân không ra.
Lại có thuyết nói rằng âm dương Quý nhân là căn cứ vào Khôn quái ra vào hậu tiên thiên mà thành. Dương Quý nhân khởi ở Khôn tiên thiên mà đi thuận, Âm Quý nhân khởi ở Khôn hậu thiên mà đi nghịch. Như dương Quý khởi ở khôn tiên thiên, tức là lấy Giáp ra vào Tý, Giáp hợp với kỷ cho nên Kỷ dùng Tý làm Quý nhân thuận hành, vì thế lấy ất ra Sửu. ất hợp canh cho nên Canh dùng Sửu làm Quý nhân. Sau cứ theo thứ tự mà tính. Thìn là Thiên cương, Tuất là Hà khôi Quý nhân không ở; Ngọ với Tý tương xung nhau không dùng. Âm Quý khởi ở Khôn tiên thiên, tức là lấy Giáp gia vào Thân, Giáp hợp với Kỷ, nên Kỷ dùng Thân làm Quý nhân. Âm quý nghịch hành nên lấy ất ra Mùi. ất hợp Canh nên Canh dùng Mùi làm Quý nhân; sau cứ theo thứ tự nghịch hành mà ra vào. Như gặp Thìn, Tuất, Dần thời vượt qua. Người xưa nói rằng: ” Sửu Mùi là cửa xuất nhập của Thiên ất Quý nhân ” chính là theo quy luật của âm dương để xếp bày đức của thiên can Mùi đủ là Quý thấm sâu được sự phối hợp hài hoà của âm dương cho nên cực kỳ cát khánh, có thể giải hung ách vậy.
Nhà có chính môn ra Quý là đại cát khánh, gia đạo bình an, hoà thuận, hỉ khí đầy nhà, luân gặp may mắn. Quý nhân là sao cứu trợ, là thần giải trừ tai ách nên nhà ra Quý là gặp việc có người giúp, gặp tai ách có người giải cứu, gặp hung hoá cát. Sự nghiệp thì hiển vinh, công danh sớm đạt, dễ thăng quan tiến chức, học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp. Quý nhân gặp sinh vượng thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên, tướng mạo phi phàm, tính tình nhanh nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt, thẳng thắn mà ôn hoà, khôi ngô tuấn tú. Nếu ngộ không vong tử tuyệt thì nguồn phúc giảm đi nhiều, hoặc nếu có mắc tai nạn cũng khó tránh bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn hại, kiện cáo, thị phi, lại hay sinh người tính tình cố chấp, bảo thủ mà xuất đời vất vả không nên người. Quý nhân ra thoái khí nếu lại ngộ đào hoa nữa thì nam nữ tuy thông minh tuấn tú, nhưng nam thì hiếu sắc, nữ thời dâm đãng, ham chơi làm bại hoại gia phong, lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải đầu hà, hay tự vẫn vì tình.
Quý nhân là cát khí rất tôn quý nên ra vào cung nào cũng rất tốt. Cửa phụ, phòng khách, phòng làm việc, cầu thang, bàn thờ, buồng ngủ đều nên chọn cung ra Quý. Đặc biệt bàn thờ nên đặt cung có âm Quý nhân là đại cát khánh, như thế sẽ luân được âm linh phù trợ. Chỉ lưu ý là phòng tắm, nhà vệ sinh thì tuyệt đối không thể đặt nhầm vô cung Quý nhân, nếu không thì hoạ hại liên miên, nữ nhân thiếu máu, động thai, sinh con dù có xinh đẹp nhưng rồi cũng dấn thân vào con đường ô nhục, làm điếm cuối cùng tự vẫn, tài sản tiêu tán, yêu ma hoành hành, gia đình có người bị cướp bóc, chém giết máu me thảm khốc, bệnh tật, đau khổ triền miên, tiếng khóc than ai oán. Có thể nói rằng nếu để nhầm nhà vệ sinh vào cung ra âm quý nhân thì sẽ gặp tai hoạ khủng khiếp khó mà lường trước được vậy.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *