Mục lục bài viết
Chương 38. Luận Thực thần thủ vận
Đại vận: Tân Hợi/Canh Tuất/Kỉ Dậu/Mậu Thân/Đinh Mùi/Bính Ngọ
Kim Thủy Thực Thần dụng Sát, cùng kim thủy Thương quan dụng Quan là giống nhau, đều là điều hậu cả. Dụng thần là Quan tinh thì vận cũng hỉ Tài Quan. Như tạo này, vận Kỷ Dậu, Mậu Thân là đất Ấn Kiếp, mà nói không có vinh nhục, mà Đinh Mùi, Bính Ngọ là tốt nhất, Ất Tị Giáp Thìn ba vận cũng tốt. Cái Nguyên cục là kim hàn thủy lạnh, không phải có thể gánh lấy mà lý lẽ vậy, lại nhưMệnh của Tiền Tham chính:
Đại vận: Giáp Ngọ/Ất Mùi/Bính Thân/Đinh Dậu/Mậu Tuất/Kỷ Hợi
Mộc hỏa Thương quan dụng Ấn, cũng là ý điều hậu vậy. Ấn khinh thì chuyên dụng Ấn Kiếp. Như mệnh này, Quý Ấn đắc lộc, khí hậu trung hòa, cho nên Bính Thân, Đinh Dậu là vận tốt. Nếu Mậu Tuất Tài vận thì Tài phá Ấn e rằng sợ không thể miễn vậy.
Kim thủy dụng Quan, cùng mộc hỏa dụng Ấn đều là điều hậu, nhưng mà không giống nhau vậy. Kim thủy không thể không gặp Quan, mà mộc hỏa không có Ấn, nếu thân cường cũng có thể lấy quý.
Như mệnh của Hoàng Đô đốc:
Đại vận: Mậu Thìn/Đinh Mão/Bính Dần/Ất Sửu/Giáp Tý/Quý Hợi/Nhâm Tuất.
Giáp mộc tọa Dần, giờ lại gặp Dần, Nhật nguyên quá vượng, vượng mà tiết tú, cũng có thể dụng vậy, duy chỉ có hỏa nhiều thì mộc gặp tai họa bị cháy thiêu vậy. Mệnh này đẹp ở chỗ Thực nhẹ Tài nặng, khí hỏa tiết, duy cuối cùng chỉ sợ muốn thiên lệch, quý nhiều liền muốn nối gót, hành vận vẫn cần đất của Ấn Kiếp, vận Ất Sửu, Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất 35 năm là quá tốt đẹp, tuy mệnh tạo vốn cũng cần có vận trợ giúp vậy.
Nguyên văn: Thực thần thủ vận, tức lấy Thực thần ở chỗ thành cục, phân ra mà phối hợp. Thực thần sinh Tài, Tài Thực khinh, thì hành Tài Thực, Tài Thực trọng thì hỉ bang thân. Phương Quan Sát đều là không tốt.
Từ chú: Cục Thực thần sinh Tài. Dựa vào thân trọng, khinh mà không giống nhau. Thân trọng hỉ hành Tài Thực, Thân khinh hỉ bang thân. Nếu Thực thần thấu can, Tỉ Kiếp vận đều không kỵ, Quan Sát vận đều kỵ. Thân trọng như mệnh của Lương Thừa tướng:
Đại vận: Nhâm Dần/Tân Sửu/Canh Tý/Kỉ Hợi/Mậu Tuất/Đinh Dậu
Mệnh này hay là ở Hợi Mão Mùi tam hợp mộc cục, thấu xuất Đinh hỏa, thân cường, Thực vượng mà thấu Tài tinh. Mộc hỏa vận cho nên tốt, kim thủy vận cũng đẹp, vận Mậu Tuất 10 năm tất có ngăn trở vậy. Mệnh này nhược, nguyên cục thấu một chữ Nhâm hợp Đinh, không thể chiếu theo phương pháp này. Hỉ kim thủy mộc mà không hỉ hỏa thổ vậy ( Xem lại Tiết luận Thập can phối hợp tính tình).
Đại vận: Tân Mùi/Canh Ngọ/Kỷ Tị/Mậu Thìn/Đinh Mão/Bính Dần
Thổ gửi ở tứ ngung ( bốn góc trong Đồ Hậu thiên bát quái), Thân cũng là đất trường sinh ( xem lại Tiết âm dương sinh tử) . Trụ năm gặp Kỷ Mùi, nhật nguyên nhược mà không nhược; trụ giờ thượng Canh Thân, Thực thần chuyên Lộc, Nhâm thủy sinh ở Thân, Tý Thân hợp cục, thân cường Tài Thực cùng vượng. Canh kim thấu lộ, Kỷ Tị, Mậu Thìn, vận trợ thân là vận tốt, Ấn vận cũng cát. Chỗ này tục gọi là Chuyên Lộc cách vậy ( Xem tiết Cách cục câu nệ thuyết).
( Lâm chú: Tạo này không có hỏa, thổ không có nguyên thần, phải biết vốn là thân nhược Tài Thực cùng vượng, mà không phải thân cường, nếu như là thân cường, cần lấy kim thủy là Tài Thực là hỉ dụng, sao lại hợp lấy Ấn Tỉ là hỉ dụng thế ?)
Về phần thân khinh Thực vượng, như mệnh của Thẩm Lộ Phân:
Đại vận: Nhâm Dần/Tân Sửu/Canh Tý/Kỷ Hợi/Mậu Tuất/Đinh Dậu.
Quý thủy tuy thông căn ở Hợi, mà Hợi Mão hợp cục, ngày giờ là Dần Mão mà thấu Giáp, Thực Thương vượng mà sinh Tài, là thân khinh mà tiết khí quá nặng, hành gặp đất Ấn thụ là tốt nhất, Tỉ Kiếp bang thân cũng tốt, can không cần mà cần, gặp Nhâm thì hợp khứ Đinh Tài, gặp Quý cũng sợ không thể khỏi tranh Tài. Hợi Tý Sửu Bắc phương là Kiếp địa, thì quá đẹp vậy. Lại xem mệnh của Cung Tri huyện:
Đại vận: Mậu Thìn/Kỷ Tị/Canh Ngọ/Tân Mùi/Nhâm Thân/Quý Dậu.
Cũng là thân khinh mà mệnh trên là Thực trọng Tài khinh, còn mệnh này thì Thực khinh Tài trọng, mà thân nhược thì số một vậy. Cho nên đều lấy vận trợ thân là hỉ. Được trợ thân, Thực trọng hỉ Ấn, Tài trọng hỉ Kiếp. Mệnh này, nhất định đắc ý ở Nhâm Thân, Quý Dậu vận. Nếu so sánh hai tạo này thì mệnh họ Thẩm cách cục thanh, mệnh này cách cục hỗn tạp rõ ràng, phân ra sang hèn, cao thấp, hoàn toàn là ở thanh trọc thuần tạp mà ra. Lấy kỳ cách cục Giáp tạp, tuy ở vận tốt, bất quá cũng chỉ trăm dặm hướng tới mà thôi.
Từ chú: Thực dụng Sát Ấn, khí nguyệt lệnh Thực thần mà dụng Sát Ấn vậy. Phép xem giống Thiên Quan dụng Ấn ( Xem Tiết Thiên quan dụng Ấn), dụng Ấn hóa Sát , cho nên tối kỵ Tài tinh phá Ấn là bè đảng của Sát, Quan Sát vận có Ấn hóa trái lại là cát. Lại thân vượng Ấn vượng, Thực thương tiết cũng tốt, thân nhược thì không cần Thương vậy.
Như mệnh của Thường Quốc công:
Đại vận: Canh Dần/Kỉ Sửu/Mậu Tý/Đinh Hợi/Bính Tuất/Ất Dậu
Khí Thực mà dụng Sát Ấn vậy. Ấn vượng mà thân không cường, cho nên Tài là tối kỵ, Thực thương vận cũng như vết bụi không nên để nhiễm vậy. Ấn Kiếp mới là vận tốt đứng đầu, Quan Sát có Ấn hóa cũng không ngại, như vận Kỷ Sửu, Mậu Tý, Đinh Hợi, đều là vận tốt. Vận Bính Tuất, Tuất hợp Mão hình Mùi, chỗ này 10 năm đều là Tài vận sợ tai nạn xảy ra liên tiếp.
Nguyên văn: Thực thương mang Sát, hỉ hành Ấn thụ, thân vượng, Thực Thương cũng là vận tốt, gặp Tài là tối kỵ. Nếu Thực quá nặng mà Sát nhẹ, Ấn vận là lợi nhất, gặp Tài trái lại là cát.
Từ chú: Thực thần mang Sát, là nói nguyên cục không có Ấn vậy. Đoạn này cần phân ra ba cách xem:
(Một) Thân nhược, Sát khắc thân, Thực thần tiết khí, dù khinh hay trọng đều không tốt, duy chỉ có Ấn vận là tốt nhất, Tỉ Kiếp cũng tốt.
(Hai) Thân vượng Sát cường, thì Thực thương chế Sát, đây là cách cực quý. Vận hỉ Thực thương, duy chỉ có kỵ Tài.
(Ba) Thực thương chế Sát thái quá, tức là Sát kinh Thực trọng vậy. Phép nảy cần phù trợ Sát, cho nên gặp Tài vận trái lại là cát. Nhưng không bằng Ấn vận là tốt nhất, vì Ấn có thể khứ Thực thái quá, hóa Sát sinh thân, một mà có ba cách dùng vậy.
Đại vận: Quý Hợi/Giáp Tý/Ất Sửu/Bính Dần/Đinh Mão/Mậu Thìn
Mệnh này Thực thần chế Sát thái quá vậy. Giáp Ất Ấn vận là tốt, Quý Hợi Tý Sửu là thủy vận tức Quan Sát vận trái lại là cát, Bính Dần Đinh Mão Kiếp Ấn trợ thân, các vận này là tốt nhất, vận Mậu Thìn tối kỵ. Bính là hỏa của Thái Dương, thủy hung dữ giảm bớt rõ rệt, là không sợ thủy vậy ( vì mặt trời ở trên thì sao sợ thủy); thổ nhiều thành hiền lành, gặp hỏa trái lại là bị mờ vậy. ( Xem Tiết luận Can Chi)
Đại vận: Canh Thân/Kỉ Mùi/Mậu Ngọ/Đinh Tị/Bính Thìn/Ất Mão.
Mệnh này là Lưu Đề đốc, tuy Quý cùng với Ất là cách xa, ngăn cách bởi Kỷ Tân, Tài không bè với Sát được, nhưng thân nhược nếu khắc tiết là điều kỵ. May mắn ở chỗ hành vận Kỷ Mùi, Mậu Ngọ, Đinh Tị, Bính Thìn, đất Ấn thụ Tỉ Kiếp nối liền , cho nên quý mà trở thành mệnh Đề đốc. Nếu không, cách cục tuy thanh, thì cũng vô tích sự. Nếu không có vận trợ, yên ổn mà có thể hưởng quý sao?
Nguyên văn: Thực thần quá vượng mà mang Ấn, vận Tài là lợi nhất. Vận Thực thương cũng cát, Ấn thì tối kỵ, Quan Sát cũng không tốt vậy.
Từ chú: Thực thần quá vượng mà mang Ấn, có nhiều bất đồng, Hạ mộc thấy hỏa, hỏa vượng mộc bị thiêu cháy, vận hỉ Ấn thụ, dụng thủy nhuận mộc vậy. Nếu Thực thần vượng, mang Ấn mà lợi tài, vốn là ví dụ có thiên vị. Đơn cử mệnh của Lý Quân:
Đại vận: Canh Thân/Tân Dậu/Nhâm Tuất/Quý Hợi/Giáp Tý/Ất Sửu.
Bính hỏa thông căn ở Tuất Mùi, mà giờ Dần mang Ấn vậy. Mậu Tuất, Kỷ Mùi là bốn thổ, Thực thương thái vượng, vận Tài là lợi nhất, vì Canh Thân, Tân Dậu tiết khí thổ vậy. Quan Sát thì bất lợi, hỏa thổ táo khô, thêm vào vài giọt nước, không đủ để nhuận táo, mà trái lại là kích thích thêm lửa cháy vậy. Tiết khí đã nặng, Thực Thương không nhất định là phúc, Ấn thụ không nhất định là họa, duy chỉ không phải là vận tốt thì cũng hiểu vậy. Tất cả Bát tự phối hợp đều không giống nhau, là hỉ hay kỵ, không có cố định vậy.
Từ chú: Thực thần mang Ấn, thấu Tài để giải trừ, cùng tiết ở trên mang Ấn là không giống nhau. Ở tiết trên Thực thần thái vượng, mà Ấn lại không có thể tổn thương Thực là dụng, bất đắc dĩ dụng Tài tiết khí Thực thương vậy. Chỗ này thì nhật nguyên vượng, hỉ Thực thương tiết khí, mà mang Ấn đoạt Thực làm tổn thương dụng thần, cho nên nói thấu Tài để giải trừ. Tiết ở trên trọng chỗ Thực thần thái vượng, còn chỗ này thì Thực thương không vượng. Đơn cử ví dụ ở dưới.
Đại vận: Ất Sửu/Giáp Tý/Quý Hợi/Nhâm Tuất/Tân Dậu/Canh Thân.
Giáp mộc sinh tháng Dần mà thấu Bính, vốn là có tượng mộc hỏa thông minh. Trụ giờ thấu Kiêu đoạt Thực, thấu Kỷ thổ là Tài lấy để giải trừ, tiếc là bệnh nặng mà dược nhẹ. Vận hỉ Tài, Thực, Ấn cùng Quan Sát đều kỵ. Mệnh này tiếc là vận hành Tây Bắc gặp đất Quan Sát Ấn thụ, nếu không thì tiền đồ cũng không đến nỗi nào.
Lấy ở trên chiếu theo thường lệ là phù ức luận dụng thủ vận vậy, đến như nếu lấy khí hậu làm dụng thần điều hậu, thì lại cần có cách luận riêng biệt.