Mục lục bài viết
- 1 Tam, luận âm dương sanh tử
- 2 Mách bạn vị trí đặt tivi theo phong thủy để tránh phạm đại kỵ khiến tài lộc tiêu tán
- 3 Bánh xe pháp luân cho trí tuệ trong tình yêu
- 4 Cải tạo biệt thự đẹp như resort mini
- 5 Hóa giải phong thủy nhà bị đường đâm vào như thế nào mới hiệu quả?
- 6 Bài trí chậu rửa và bếp hợp phong thủy
Tứ, Luận Thiên can phối hợp tính tình (P.1)
Nguyên văn: Ý nghĩa hợp hóa lấy 10 can âm dương phối với nhau mà thành. Hà đồ thuật số, lấy một hai ba bốn năm phối sáu bảy tám mười theo tiên thiên. Nói thủy là thái âm thủy, gặp thổ xung khí thì hết, lấy khí mà thì sanh là vậy. Trước khi có ngũ hành, tất đã có âm dương lão thiếu, rồi sau khí mới xung ra, nói nhờ thổ sanh. Xét ngũ hành, tất vạn vật lại sanh ở Thổ, như Thủy Hỏa Mộc Kim, đều gửi thân yên nơi Thổ, nói lấy Thổ trước tiên. Nên đầu tiên Giáp Kỷ tương hợp tất hóa Thổ; Thổ sanh Kim, nên Ất Canh kế tiếp hóa Kim; Kim sanh Thủy, nên Bính Tân kế tiếp lại hóa Thủy; Thủy sanh Mộc nên Đinh Nhâm kế tiếp lại hóa Mộc; Mộc sanh Hỏa nên Mậu Quý kế tiếp lại hóa Hỏa, ngũ hành theo vậy mà an. Lấy Thổ làm đầu, theo thứ tự tương sanh, lẽ tự nhiên là vậy. Ý nghĩa 10 can hợp hóa là vậy.
Từ chú: Thập can phối hợp, bắt nguồn từ kinh dịch ” số của thiên 1, địa 2, thiên 3, địa 4, thiên 5, địa 6, thiên 7, địa 8, thiên 9, địa 10, như lấy 10 can hợp nhau tức là hợp theo hà đồ vậy, kỳ thật không phải. Hà đồ 1 và 6 cùng tông (thủy), 2 và 7 cùng đạo (kim), 3 và 8 một bè (mộc), 4 và 9 là bạn (hỏa), 5 và 10 chung đường (thổ). Kham dư học, bàn về thể, gốc từ hà đồ, lấy vận làm dụng, dựa theo lạc thư, so với mệnh lý có khác nhau. Mệnh lý hợp 10 can, cùng gốc với y đạo, lấy từ “Nội kinh – ngũ vận đại luận“
Nguyên văn: Tính tình ra sao? Đã có phối hợp, tất có mặt trái. Như Giáp lấy Tân làm Quan, thấu Bính tác hợp thì Quan ấy không còn là Quan nữa; Giáp lấy Quý làm Ấn, thấu Mậu tác hợp, Ấn ấy không còn là Ấn nữa; Giáp lấy Kỷ làm Tài, Kỷ tách riêng ra cùng Giáp tác hợp, Tài ấy không còn là Tài nữa. Như năm Kỷ tháng Giáp, năm là Tài, bị tháng hợp mất, thì dù là Giáp Ất ngày chủ cũng chẳng tách ra nổi; năm Giáp tháng Kỷ, tháng là Tài, bị năm hợp mất, thì Giáp Ất ngày chủ không giống như vậy. Giáp lấy Bính làm Thực, Bính Tân tác hợp, Thực ấy không còn là Thực nữa, ấy là 4 hỉ thần bị hợp mà không có dụng vậy.
Từ chú: Mới học bát tự, trước nên chú ý can chi hội hợp, thiên biến vạn hóa, tất cả đều từ đấy mà ra. Thập can tương phối, có chia ra hợp và không thể hợp; đã hợp rồi lại chia riêng ra hóa và không thể hóa. Thiên này chuyên luận về hợp. Quan bị hợp chẳng còn là quan, chẳng thể lấy quan mà luận. Đã tương hợp rồi, bất luận hóa hay không hóa, chẳng cần đến ngày chủ nữa, không thể lấy làm Quan để luận nữa (Ấy là nói đến can chi năm tháng tương hợp với nhau, hoặc can năm tháng hợp với can giờ, còn như hợp với ngày chủ, không luận như vậy, xem kỹ tiết hợp hay không hợp ở dưới). Nhật chủ Giáp mộc, can tháng thấu Tân là Quan, can năm thấu Bính, Bính Tân tương hợp, Quan với Thực thần, cả 2 đều mất tác dụng; Giáp lấy Quý làm Ấn, thấu Mậu tác hợp, Tài Ấn cả 2 đều mất tác dụng. Thảy đều như vậy.
Năm Kỷ tháng Giáp, can năm là Kỷ, trước tiên bị can chi tháng là Giáp hợp mất; năm Giáp tháng Kỷ, can tháng Kỷ Tài, trước tiên bị can năm Giáp mộc hợp mất, dù ngày chủ là Giáp cũng chẳng tách ra nổi. Có trước có sau, không thể luận ghen hợp tranh hợp được. Xem kỹ tiết hợp hay không hợp.
Lại như Giáp gặp Canh là Sát, cùng Ất tác hợp, thì Sát chẳng công thân; Giáp gặp Ất là Kiếp tài, Giáp gặp Đinh là Thương, cùng Nhâm tác hợp, thì Đinh chẳng Thương quan; Giáp gặp Nhâm là Kiêu, cùng Đinh tác hợp, thì Nhâm chẳng đoạt Thực. Ấy là 4 kị thần nhân hợp mà hóa cát vậy.
Hỉ thần nhân hợp mà hết cát, kị thần cũng nhân hợp mà hết hung, cái lý là vậy, lại nên xem thêm địa chi phối hợp như thế nào. Như địa chi thông căn, tất tuy hợp mà không bị mất tác dụng, hỉ kị còn y như vậy. Như ví dụ sau:
Hành vận: Canh thân / kỷ mùi / mậu ngọ / đinh tị / bính thìn / ất mão / giáp dần
Bính Tân tương hợp, mà Quan vượng thông căn. Vì thế nhiều Quan thêm Sát, lấy Bính hỏa chế Quan làm dụng. Đây là trụ của chủ tịch An huy: Lưu Trấn Hoa.
Hành vận: Giáp tý / ất sửu / bính dần / đinh mão / mậu thìn / kỷ tị
Mậu Quý tương hợp, mà Quý thủy thông căn, nhật nguyên bị tiết khí quá nhiều, lấy Mậu thổ phò thân chế Thương làm dụng. Đây là trụ của nhà giàu buôn xà bông Quan sinh.
Như thế nào là hợp mà cả 2 đều bị mất tác dụng. Xem thêm ví dụ sau thì rõ:
Bính Tân hợp mà chẳng hóa, không có Bính thì có thể dùng Tân để chế Giáp, không có Tân thì có thể dùng để Bính hóa Giáp, cả 2 đều có dụng, tiếc là nhân bị hợp mà cả 2 đều bị mất tác dụng.
Năm Kỷ tháng Giáp, vốn là không có dụng, nhân hợp mà dùng cả 2 mất tác dụng, cách cục phản thanh. Đây là trụ của ông cố của Trương Thiệu.Tứ, Luận Thiên can phối hợp tính tình(P.2)
Hành vận: Giáp tý / ất sửu / bính dần / đinh mão / mậu thìn / kỷ tị
Mậu Quý tương hợp, mà Quý thủy thông căn, nhật nguyên bị tiết khí quá nhiều, lấy Mậu thổ phò thân chế Thương làm dụng. Đây là trụ của nhà giàu buôn xà bông Quan sinh.
Như thế nào là hợp mà cả 2 đều bị mất tác dụng. Xem thêm ví dụ sau thì rõ:
Bính Tân hợp mà chẳng hóa, không có Bính thì có thể dùng Tân để chế Giáp, không có Tân thì có thể dùng để Bính hóa Giáp, cả 2 đều có dụng, tiếc là nhân bị hợp mà cả 2 đều bị mất tác dụng.
Năm Kỷ tháng Giáp, vốn là không có dụng, nhân hợp mà dùng cả 2 mất tác dụng, cách cục phản thanh. Đây là trụ của ông cố của Trương Thiệu.
Nguyên văn: Đã có hợp tất có sở kị, gặp cát chẳng cát nổi, gặp hung chẳng sợ hung. Tức lấy lục thân mà nói, như nam lấy Tài làm vợ, Tài bị can khác hợp mất, vợ ấy sao còn có thể yêu chồng nổi? Nữ lấy Quan làm chồng, Quan bị can khác hợp mất, chồng ấy sao còn có thể yêu vợ nổi? Bàn đến tính tình phối hợp, vì hướng bối nhi thù dã.
Từ chú: Can chi phối hợp, quan hệ rất lớn, tưởng hung mà chẳng hung, ấy là cái tốt, như cát mà không cát, tất quan hệ rất trọng. Khẩn yếu mà dùng, bị hợp thì cách cục ấy bị biến, thần cứu hộ bị hợp thì mất tác dụng cứu hộ, nên hung thần sẽ mặc sức hoành hoành, không thể không xét tới.
Ví dụ như sau:
Hành vận: Tân hợi / canh tuất / kỷ dậu / mậu thân / đinh mùi / bính ngọ
Nguyên là thủy mộc Thương quan dùng Tài, không ngờ Đinh Nhâm hợp mất, Hỏa mất lửa, thủy vượng mộc trôi, chỉ còn thuận vượng thế mà hành vận kim thủy vậy (gặp hạ dụng thần tiết).
Hành vận: Bính tuất / đinh hợi / mậu tý / kỷ sửu / canh dần / tân mão
Vốn là cách cục hỏa luyện chân kim, Ất Canh tương hợp, Ấn bị Tài phá, tuy sanh nhà giàu có, nhưng bẩm sanh bị câm, chung thân tàn phế.
Nguyên cục 10 can phối hợp, quan hệ rất trọng như vậy; như thế nếu hành vận gặp hợp, thì trong quan hệ ngũ hành ấy, nếu không thành á cục thì cũng nguyên cục. Thí dụ như Giáp lấy Tân làm Quan, đều thấu Đinh Quý, mộc ấy Ấn Quý chế Thương hộ Quan làm dụng, như thế nếu hành vận gặp Mậu, hợp mất Quý thủy, tất Đinh hỏa tổn Thương được Quan tinh vậy. Hoặc Giáp lấy Tân làm Quan, thấu Đinh là Thương, hành vận gặp Nhâm, hợp mất Đinh Thương thì Quan tinh đắc dụng hĩ. Là hỉ hay kị, toàn ở tại phối hợp, bất luận là hóa hay không hóa (xem hành vận tiết). Vận can nguyên cục phối hợp, hóa cùng không hóa, toàn coi có đóng ở địa chi được tương trợ hay không, cùng nguyên cục có hay không, phép xem cũng như nhau.
Tam, luận âm dương sanh tử
Nguyên văn: Chi có 12 tháng, lại nói mỗi can từ Trường sinh tới Thai Dưỡng, cũng chia ra 12 ngôi. Khí chi bởi thịnh mà suy, suy rồi thịnh lại, chia nhỏ kể ra thành 12 tiết. Như Trường sinh Mộc dục cùng tên, mượn từ để mà hình dung. Trường sinh như người ta lúc mới sanh ra. Mộc dục như người ta sau khi sanh tắm gội cho sạch; như hột trái cây đã thành; trước phải thanh vỏ, sau mới rửa sạch. Tới Quan đới thì hình khí lớn dần, quan đới như người đến tuổi trưởng thành vậy. Lâm quan là đã trưởng thành lúc đang mạnh mẽ (30 tuổi), như người có khả năng có thể ra làm quan. Đế vượng là khi tráng thịnh đến cùng cực, như đại thần phò vua giúp nước. Thịnh cùng cực thì suy kém, suy là lúc vật bắt đầu biến vậy. Bệnh là lúc đã quá suy. Tử, khí tận hết chẳng còn. Mộ, tạo hóa thu tàng, như người lúc chôn xuống đất vậy. Tuyệt là khí trước đã tuyệt, khí sau chưa tiếp nối. Thai như sau khi khí tiếp nối kết tụ thành bào thai. Dưỡng như bào thai được nuôi dưỡng trong bụng mẹ. Bởi nối tiếp như thế mà trường sanh tuần hoàn không dứt.
Từ chú:Nguyên văn rõ ràng như vậy, mỗi năm 360 ngày, chia ra ngũ hành, đều được 72 ngày. Mộc vượng ở xuân, chiếm 60 ngày (Giáp ½, Ất ½,) trường sanh 9 ngày, mộ khố 3 ngày, hợp lại là 72 ngày. Thổ vượng 4 mùa, Thìn Tuất Sửu Mùi đều có 18 ngày, là thêm 72 ngày nữa. Ở Dần thì Giáp mộc Lâm quan, Bính Mậu trường sinh, nói tàng nhân nguyên là Giáp Bính Mậu. Mão là đất xuân mộc chuyên vượng, kêu là Đế vượng. Đế như chúa tể vậy. “Dịch” nói “đế dã hồ chấn”, là phương mộc chúa tể, không có khí khác xen vào, nên nói chuyên tàng Ất. Thìn là nơi mộc còn dư khí, thủy nhập mộ, nên thổ là vốn là khí. Nên nói tàng Mậu Ất Quý (Thìn Tuất là dương thổ nên tàng Mậu; Sửu Mùi âm thổ nên tàng Kỷ), đều kêu là tạp khí. Tạp là, nơi thổ vượng, lấy Ất Quý làm tạp, mà Ất Quý lại đều chẳng cùng phe, chẳng như thứ tự giờ lệnh trường sinh lộc vượng vậy. Xem xuân lệnh như thế mà suy ra thêm. Nói Dần Thân Tị Hợi kêu là nơi tứ sanh (còn là tứ lộc); Tý Ngọ Mão Dậu khí chuyên vượng 1 phương; Thìn Tuất Sửu Mùi là nơi tứ mộ chi địa. Nhân nguyên tang mỗi nơi đều có ý nghĩa. Như âm can trường sanh, tất không quan hệ gì tới khí theo giờ lệnh, địa chi tàng dụng, không do thế mà được thêm hay bị bớt gì vậy.
Thổ ở trung ương, gửi ở 4 góc (xem thêm hình can chi phương vị phối bát quái). Nhờ hỏa mà sanh, sanh ở Dần, lộc ở Tị; nhờ thủy mà sanh, sanh ở Thân, lộc ở Hợi riêng tại Dần Tị có Bính hỏa giúp đỡ, vượng nên khả dụng; tại Thân Hợi, hàn thấp hư phò, lực lượng bạc nhược không dùng được, nên chỉ nói Bính Mậu sanh Dần mà không nói Nhâm Mậu sanh Thân.
Coi theo bảng nhân nguyên tư lệnh ngày sổ, tuy chưa rõ hết, nhưng thiên can tàng ở địa chi, kiền là thể mà khôn là dụng, phân tích âm dương, rất đổi tinh mật. Lấy nơi khảm ly chấn đoài, chia chủ khách 2 bên, mà đến 384 hào, âm dương hợp lại, đầy vơi tan nghỉ, thảy đều tương hợp. Có từ khi nào, do đâu mà ra, đều qua khảo chứng, người quân tử thông suốt được, như biết được nguồn, hễ thấy điều ấy, có thể cảm nhận.Tam, luận âm dương sanh tử (P3)
Nguyên văn: Người lấy chi ngày làm chủ, chẳng gặp sanh gặp lộc vượng nơi nguyệt lệnh, tất hưu tù, như giờ hay năm, được trường sinh lộc vượng, yên mà chẳng nhược, hay gặp được mộ khố, đều là có căn. Nhân trường sanh nhờ khố mà xung ra, như tục thư nói xằng không đúng, chỉ có dương trường sanh mới có lực, mà âm trường sanh chẳng có chút lực nào, nhưng lại cũng chẳng nhược. Như gặp khố, tất dương có căn mà âm thì không có dụng. Dương lớn bao trùm âm nhỏ, dương kiêm được âm mà âm chẳng kiêm nổi dương, lý tự nhiên là vậy.
Từ chú:Địa chi tàng các can, gốc tĩnh thì đãi dụng, như can đầu thấu ra tất cái dụng ấy hiển hiện ra. Nên nói can lấy thông căn làm tốt, chi lấy thấu ra làm quý. “Tích thiên tủy” viết: “thiên can toàn 1 khí, không tải nổi đức lớn của địa; 3 loài động thực khóang vật ở địa chẳng dung nổi thiên đạo mênh mông”. Như 4 Tân Mão, 4 Bính Thân, tuy can chi một khí mà chẳng thông căn, không đủ quý nổi. Địa có 3 loài, ứng với tàng 3 can, không thấu ra tất chẳng hiển dụng nổi. Thiên can thông căn, không chỉ lộc vượng đều tốt đẹp, trường sanh có dư khí hay mộ khố đều là căn. Như Giáp Ất mộc gặp Dần Mão thì nói thân vượng, mà gặp Hợi Thìn Mùi, đều là có căn cả. Thuyết gặp khố tất xung thực là lầm lẫn đáng cười. Như Thìn là gốc của đông phương mộc, như trong 20 ngày sau Thanh Minh, Ất mộc nắm lệnh, dư khí còn vượng, sao nói phải đến nhờ khố? Thổ là khí gốc thì khố của nó ở đâu. Kim hỏa trong khố chẳng có, xung thì có ích gì chứ? Chỉ có Nhâm quý thủy găp khố, như thấu ra, đều cùng dùng được. Quý thủy tàng gốc, như thấu Nhâm thủy tất mộ vốn là tòng ngũ hành luận, chẳng phân âm dương gì. Rằng âm trường sanh chẳng chút lực, nhưng cũng nhược, có gặp thêm âm khố vẫn không có dụng, đều do lầm lẫn rằng âm dương đều có trường sanh, mà thuyết ấy chẳng hoàn thiện. Lại thấy tiết tuy chỉ ngày chủ, nhưng can năm tháng ngày cũng vậy, như được khí ở nguyệt lệnh, tự mình tối cường; như bị hưu tù ở nguyệt lệnh, mà trong chi năm tháng ngày, được sanh lộc vượng dư khí mộ, thảy đều thông căn vậy.