Mục lục bài viết
Bát, Luận Dụng thần
(Nhị) bệnh dược: Lấy phò làm hỉ, tất thương tổn phò trợ là bệnh; lấy ức làm hỉ, tất khắc mất ức là bệnh. Trừ bỏ thần bệnh ấy, tức là thuốc chữa. Như vậy gọi là chọn dụng thần chữa bịnh.
Thí dụ 10)
Hành vận: Ất sửu / bính dần / đinh mão / mậu thìn / kỷ tị / canh ngọ / tân mùi
Nguyệt lệnh Thiên tài đương lệnh, Tỷ Kiếp tranh Tài là bệnh, lấy Giáp mộc Quan tinh chế Kiếp làm dụng, lấy khắc chế kiếp để hộ Tài vậy. Là trụ của Lý Quân ở Hợp Phì (Chú ý trụ này kiêm lấy Bính hỏa trong Tị. Tháng 11 khí hàn, được hỏa sưởi ấm thì phát lành, tức là ý điều hoà khí hậu vậy).
Thí dụ 11)
Hành vận: Canh tuất, tân hợi, nhâm tí, quí sửu, giáp dần, ất mão, bính thìn
Nguyệt lệnh Tài vượng sanh Quan, Kỷ thổ Thực thần tổn Quan là bệnh, lấy Giáp mộc để loại thực thần, là trụ của Lưu Trừng Như ở Cửu giang.
(Tam) điều hậu (điều hòa khí hậu): Kim thủy sanh mùa đông, mộc hỏa sanh mùa hạ, khí hậu hoặc quá lạnh hay quá nóng, đều kíp nên điều hòa khí hậu. Vậy gọi là lấy điều hậu làm dụng thần vậy.
Thí dụ 12)
Hành vận: Giáp dần / ất mão / bính thìn / đinh tị / mậu ngọ / kỷ mùi
Kim hàn thủy lạnh, thổ kết thành băng, lấy Ngọ trên trụ giờ làm dụng, cũng là điều hòa khí hậu. Là trụ của Thanh vương Tương Khỉ.
Thí dụ 13)
Hành vận: Mậu tuất / đinh dậu / bính thân / ất mùi / giáp ngọ / quý tị
Tuy kỷ thổ Quan tinh thấu can, nhưng nếu không có Đinh hỏa trong Ngọ, tất Quan tinh không có dụng, cũng là điều hậu. Là trụ của Trương Thối Xưởng đi về phương nam.
Bệnh dược là dụng, như nguyên cục không có thần chữa bệnh, tất đợi vận điền chỗ khuyết đó, thì mới phát triển, cũng là điều hậu vậy. Cách cục chuyển biến không riêng gì ví dụ này.
(Tứ) chuyên vượng: Khí thế tứ trụ thiên lệch cả về 1 phương không thể đảo ngược được, chỉ còn cách thuận theo khí thế ấy, hoặc tòng hoặc hóa, gặp chuyên vượng 1 phương thành cách cục như vậy.
Thí dụ 14)
Hành vận: Mậu thân / kỷ dậu / canh tuất / tân hợi / nhâm tý / quý sửu
Đinh Nhâm Dần Hợi Mão Mùi, khí thiên mộc, tòng theo thế mộc vượng làm dụng. Là trụ của tổng trường ngoại giao đời trước Ngũ Đình Phương, là cách tòng Sát.
Thí dụ 15)
Hành vận: Bính ngọ / ất tị / giáp thìn / quý mão / nhâm dần / tân sửu
Tuy Quý thủy Thất sát thấu ra, nhờ có mão mộc hóa, cũng nên thuận theo thế vượng. Là trụ của Thích Dương tri phủ giờ nhà Thanh.
Thí dụ 16)
Hành vận: Mậu dần / đinh sửu / bính tý / ất hợi / giáp tuất / quý dậu
Xuân mộc thành cục, tứ trụ không kim, là cách Khúc trực nhân thọ, là trụ của chấp chánh Đoàn Kì Thụy.
Thí dụ 17)
Hành vận: Bính thìn / đinh tị / mậu ngọ / kỷ mùi / canh thân / tân dậu
Đinh Nhâm tương hợp, tháng giờ Mão Dần, hóa khí thành cách, hóa thần hỉ hành vượng địa, vượng hết mức, cũng mừng nếu gặp tiết khí bớt. Là cách Đinh Nhâm hóa mộc, là trụ của Tôn Nhạc.
Thí dụ 18)
Hành vận: Ất tị / giáp thìn / quý mão / nhâm dần / tân sửu / canh tý
Hỏa kim đấu nhau, lấy thổ thông quan là phú cách, không có thổ tất không thể dụng kim vậy. Là trụ của Cối kê sư giang Vạn Bình Quân.
Thí dụ 19)
Hành vận: Kỷ mùi / mậu ngọ / đinh tị / bính thìn / ất mão / giáp dần
Kim mộc đấu nhau, lấy thủy thông quan, lấy Sát Ấn tương sanh làm dụng. Là trụ của Lục Kiến Chương.
Pháp thông quan rất đỗi trọng yếu, như nguyên cục không có thần thông quan, may gặp vận trình điền chỗ khuyết đó thì cũng phát triển. Dụng thần là như vậy, như có hỉ thần và kị thần, lại gặp vận hành nơi thông quan, điều hòa khí thành tốt. Như tài ấn đều thanh, lấy quan sát vận làm tốt đẹp; tháng kiếp dùng tài cách, lấy thực thương vận làm tốt đẹp. Tức là thông quan vậy.
Nguyên văn: Như thế khéo thuận dụng thì, tất Tài mừng gặp được Thực thần sanh, Tài sanh Quan có thể hộ Tài; Quan hỉ thấu Tài tương sanh, sanh Ấn khả để hộ Quan; Ấn hỉ Quan sát tương sanh, Kiếp tài có thể hộ Ấn; Thực hỉ thân vượng tương sanh, sanh Tài có thể hộ Thực. Như nghịch dụng thì, tất Thất sát hỉ Thực thần chế phục, kị Tài Ấn tư phò; Thương quan mừng có Ấn đeo được chế phục, sanh Tài có thể hóa Thương; Dương nhận mừng được Quan sát chế phục, kị không gặp được Quan sát; tháng Kiếp hỉ thấu Quan chế phục, lợi dùng Tài thấu thực để hóa Kiếp. Cách dùng thuận nghịch là vậy.
Từ chú: Tài mừng gặp Thực thần tương sanh, ví như Giáp lấy Kỷ thổ làm Tài, lấy Bính làm Thực thần, Tài lấy Thực thần làm gốc, Tài Kỷ thổ mừng gặp Bính hỏa tương sanh vậy.
Sanh Quan để hộ Tài như, Giáp lấy Giáp Ất làm Tỷ Kiếp, Canh Tân làm Quan Sát, có Tỷ kiếp thì chia cướp Tài tinh; Tài sanh Quan sát nhờ Quan sát có thể khắc chế bớt Tỷ kiếp, đó là sanh Quan tức để hộ Tài vậy.
Quan hỉ thấu Tài để tương sanh, như Giáp lấy Tân làm Quan, lấy Kỷ thổ làm Tài, Quan lấy Tài làm gốc, Tân mừng gặp Kỷ thổ chi tương sanh vậy.
Sanh Ấn để hộ Quan như, Giáp lấy Nhâm Quý làm Ấn, Canh Tân làm Quan, Quan sanh Ấn; Đinh hỏa là Thương, Đinh hỏa khắc chế Quan tinh, mừng có Nhâm quý Ấn chế Thương để hộ Quan, nên nói sanh Ấn để hộ Quan vậy.
Ấn mừng gặp Quan sát tương sanh, Kiếp tài hộ Ấn, Giáp lấy Nhâm quý làm Ấn, Mậu kỷ làm Tài, kị Tài phá Ấn, có Tỷ kiếp chia Tài, tức vì thế hộ Ấn vậy.
Thực thần do ta sanh giả ra, hỉ thân vượng tương sanh. Sanh Tài để hộ Thực là, ví như Giáp lấy Bính hỏa làm Thực, Kỷ thổ làm Tài, Nhâm Quý làm Ấn, Thực thần kị bị Ấn chế, có Tài phá Ấn, tức vì thế hộ Thực vậy (thượng lấy Giáp là lệ, loại thôi).
Tài Quan Ấn lấy phối hợp âm dương theo chiều thuận, thực thần lấy đồng tính tương sanh theo chiều thuận, theo đường chánh mà phò trợ hay ức chế, vì thế nên khéo thuận dụng vậy.
Thất sát tức là khắc mà cùng tính (như dương kim khắc dương mộc, âm kim khắc âm mộc), tính cường bạo. Thân Sát tương quân, nên được chế phục.
Tài có thể tiết bớt Thực để sanh Sát, Ấn có thể chế Thực để hộ Sát, nên nói sát kị tài ấn tư phò là vậy.
Thương quan tức là tương sanh mà khác tính, nhật nguyên nhược, mừng có ấn chế phục thương quan, nhật nguyên cường, hỉ thương quan sanh tài; tài có thể tiết bớt khí của thương quan chi, tức vì thế hóa thương vậy.
Dương nhận hỉ quan sát là như, nhật nguyên gặp ngôi vượng, chỉ đối với 5 can dương, nên gọi là dương nhận. Cực vượng không có ức chế, tất đầy quá thì phải bị đổ, nên nói mừng gặp quan sát chế phục.
Nguyệt kiếp là nguyệt lệnh lộc kiếp, nhật nguyên đắc giờ lệnh khí, tối hỉ quan vượng.
Nên dùng Tài, tức là nên lấy Thực thương làm chìa khóa, lấy Thực hóa Kiếp, chuyển sang sanh Tài.
Dùng Sát tất thân sát đều đình, nên dùng Thực chế.
Các phép ấy đều là lấy phò trợ hay ức chế tháng lệnh làm dụng, chẳng thiện nên phải nghịch dụng vậy.
Từ chú:
Chánh quan bội Ấn tức là nguyệt lệnh chánh Quan, hoặc dùng Ấn hóa Quan, hoặc gặp phải Thực thương cản trở Quan nên phải lấy Ấn chế Thực thương để hộ Quan vậy.
Ấn thụ dụng Quan tức là nguyệt lệnh Ấn thụ, nhật nguyên nhờ Ấn tư sanh mà vượng, can thấu 1 Quan, mà Quan có Tài sanh, là Quan thanh Ấn chánh, Quan Ấn song toàn, tuy đều có Quan Ấn, nhưng đeo Ấn nên kị Tài phá Ấn. Ấn thụ dùng Quan cũng mừng gặp Tài sanh Quan, nhưng phép dùng tiệt nhiên bất đồng vậy.
Tài thấu Thực tức là nguyệt lệnh là Tài, thêm can thấu Thực thần, nhờ đó mà hóa Kiếp hộ Tài.
Thực thần sanh Tài tức là nguyệt lệnh là Thực thần, gặp Tài tất khí Thực thần lưu thông, kị gặp Kiếp.
Thiên ấn thấu Thực tức là nguyệt lệnh Thiên ấn tư sanh nhật nguyên, Thực thần tiết thân làm đẹp, kị gặp Tài tinh.
Thực thần gặp Kiêu tức là nguyệt lệnh Thực thần, 1 chi gặp Kiêu, là Kiêu thần đoạt Thực, nên dùng Tài chế Kiêu để hộ Thực.
Sát gặp Thực chế được Ấn lộ là nguyệt lệnh gặp Sát, bị chi Thực thần chế thái quá, lộ Ấn thì khử Thực hộ Sát.
Ấn thụ gặp Sát tức là nguyệt lệnh Ấn thụ mà Ấn khinh, mừng gặp Sát để sanh Ấn, vậy là Sát Ấn tương sanh.
Sát cách gặp Nhận tức là nguyệt lệnh Thất sát, nhật nguyên tất suy, may là ngày gặp Nhận, lấy Nhận giúp thân để chống lại Sát vậy.
Dương nhận lộ Sát tức là nguyệt lệnh Dương nhận, nhật nguyên tất vượng, lấy Thất sát để chế Nhận, là Sát Nhận cách vậy.
Thảy đều do chưa từng nhận rõ nguyệt lệnh, nên lộn ngôi chủ khách, tuy sai 1 ly, mà đi 1 dặm vậy. Nay đã rõ những chỗ trên kết hợp xem kỹ thêm ngày chủ vượng hay suy, chớ nên câu chấp.
Nguyên văn: Cũng có khi nguyệt lệnh không có dụng thần thì làm sao? Như mộc sanh Dần Mão, tháng ngày như nhau, chẳng thể lấy vốn là thân làm dụng, tất xem tứ trụ có Tài Quan Sát Thực thấu can hay hội chi, lấy riêng ra mà dùng; đều lấy nguyệt lệnh là chủ, rồi mới tìm dụng, gặp cách gặp lộc tháng kiếp, không dụng tức là dụng thần vậy.
Từ chú: Cách gặp lộc tháng kiếp, không hẳn thân phải vượng, nếu vượng thì hỉ khắc tiết, lấy Tài Quan Sát Thực là dụng; nếu nhược thì hỉ phò trợ, tức lấy ấn kiếp làm dụng. Như vậy dụng thần tuy không có ở nguyệt lệnh, nhưng mấu chốt chọn lấy dụng thần, tất tại nguyệt lệnh, gọi là khí nguyệt lệnh đương vượng nắm quyền hành trước tiên, rồi mới phối thêm các thần khác vậy.
Thất, luận hình xung hội hiệp giải pháp
Thất, luận hình xung hội hiệp giải pháp (P.2)
Nguyên văn: Trong bát tự có hình xung đều không tốt, như có tam hợp lục hợp có thể giải được. Giả như Giáp sanh tháng Dậu, gặp Mão tất xung, may có chi Tuất, tất Mão cùng Tuất tham hợp mà quên xung; có Thìn, tất Dậu Thìn hợp mà quên xung; có Hợi và Mùi, tất Mão cùng Hợi Mùi hợp mà quên xung; có Tị và Sửu, tất Dậu với Tị Sửu hội nhi bất xung. Nhờ hội hợp mà khả lấy giải được xung vậy. Lại như Bính sanh tháng Tý, gặp Mão tất hình, như may chi có Tuất, tất Mão cùng Tuất tham hợp mà quên hình; có Sửu, tất Tý và Sửu hợp mà quên hình; có Hợi với Mùi, tất Mão với Hợi vị hội mà quên hình; có Thân và Thìn, tất Tý và Thân Thìn hội mà quên hình. Nhờ hội hợp mà khả lấy giải được hình vậy.
Từ chú: Hội hợp khả lấy giải được hình xung, hình xung cũng khả lấy giải tan hội hợp. Vậy nên xét kỹ địa vị cùng tính chất của chi xem thế nào, xung mà không có lực, kể như không xung, pháp dùng nên linh hoạt, không nhất định theo 1 phương thức. Lại như xung hay khắc, kề bên là khắc, ở xa đến là xung, như chi năm và chi giờ là xung. Ví dụ như:
Thí dụ 1)
Trụ của con trai Chủ tịch Thiểm tây Thiệu Lực. Nhờ Thân Tý Thìn hội mà giải được Tý Ngọ xung.
Thí dụ 2)
Trụ của Chiết giang đốc quân Dương Thiện Đức chi tạo. Nhân Mão Dậu chi xung mà giải Tị Dậu hội.
Thí dụ 3)
Trụ của Lục Vinh đình chi tạo. Nhờ Mão Tuất hợp mà giải Mão Dậu xung.
Thí dụ 4)
Trụ của nhà buôn muối Chiết giang Chu Tương Linh. Dần Thân xung mà giải Tý Thân hội.
Nguyên văn: Lại có khi nhờ giải mà phản cách trở thành hình xung là sao? Giả như Giáp sanh tháng Tý, chi gặp 2 Mão tương tịnh, 2 Mão không hình 1 Tý, như chi lại có thêm Tuất, tất tuất và mão, vốn là giải hình, nhưng hợp mất 1 Mão, tất 1 hợp mà 1 hình vậy, vậy là giải mà phản cách thành hình xung.
Từ chú: Nhân giải mà phản cách thành hình xung, tứ trụ vốn có thể không bị xung, nhân hội hợp mà phản cách thành hình xung. Không có lệ nhất định:
Thí dụ 5)
Trụ của Trương Quốc Cam. 1 Tý không xung 2 Ngọ, nhân vì Dần Ngọ hội, lại khiến cho Tý Ngọ xung.
Thí dụ 6)
Trụ của Trương Kế. Nhân giờ năm Dần Ngọ hội khiến cho tháng ngày Dần Thân xung. Dần Ngọ xa cách, vốn lý là không thể hội hợp, nhưng gặp xung khiến có thể hợp được.
Thí dụ 7)
Trụ của Mao Tổ Quyền. 1 Mùi không hình 2 Tuất, vốn là không luận là hình, nhân vì Thìn Tuất xung khiến cho dẫn Tuất Mùi trở thành hình.
Thí dụ 8)
Trụ của Triệu Quan Đào. 1 Mão không xung 2 Dậu, vì gặp Thìn Dậu hợp, khiến cho Mão Dậu trở thành xung, giống như trụ của Trương Kế ở trên.
Nguyên văn: Lại có khi hình xung mà hội hợp không thể giải nổi là sao? Giả như năm Tý tháng Ngọ, ngày đóng ở Sửu, Sửu với Tý hợp, vốn có khả năng giải được xung, nhưng giờ gặp Tị Dậu, tất Sửu cùng Tị Dậu hội khiến Tý lại xung Ngọ; năm Tý tháng Mão, ngày đóng ở Tuất, Tuất Mão hợp, vốn khả lấy giải được hình, nhưng giờ gặp Dần hoặc Ngọ, tất Tuất cùng Dần Ngọ hội, khiến Mão lại hình Tý. Như thế là hội hợp không thể giải nổi hình xung vậy.
Từ chú: Hình xung mà hội hợp không giải nổi, vốn là có hội hợp khả lấy giải được hình xung nhưng vì hội hợp bị xé lẻ, khiến bị hình xung lại, hoặc nhân 1 hình xung khác mà dẫn khởi hình xung ban đầu, cũng không có lệ nhất định.
Thí dụ 9)
Trụ của đốc biện chiêu thương Triệu Thiết Kiều. Thìn Dậu hợp, khiến cho Tị Hợi xung.
Thí dụ 10)
Trụ của Lục Tông Dư. Ngọ Tuất hội vốn có thể giải Tý Ngọ xung, nhân vì Thìn Tuất xung nhau, khiến cho Tý Ngọ xung trở lại.
Thí dụ 11)
Trụ của Diệu Lâm. Ngọ Mùi hợp vốn là có thể giải Sửu Mùi xung, nhân vì Tý Ngọ xung nhau, khiến cho Sửu Mùi xung trở lại.
Nguyên văn: Lại cũng có khi lấy hình xung giải được hình xung là sao? Tứ trụ gặp hình xung vốn chẳng tốt, như dụng thần bị hình xung rất là phá cách, may là hình xung bị xé lẻ, giải được nguyệt lệnh bị hình xung. Giả như Bính sanh tháng Tý, Mão vốn hình Tý, như chi may lại gặp thêm Dậu, tất Mão lại cùng Dậu xung mà không hình Quan ở nguyệt lệnh nữa. Giáp sanh tháng Dậu, ngày Mão là xung, như giờ gặp Tý, tất Mão cùng Tý hình, nên nguyệt lệnh Quan tinh, tuy bị xung mà xung không có lực, tuy thoát được hình xung, nhưng chẳng khỏi hình khắc lục thân, chỉ giữ được Quan ở tháng không bị phá thôi.
Từ chú: Như thế là lấy hình xung để giải hình xung vậy. Chỉ riêng khi lấy hình xung để giải nguyệt lệnh bị hình xung, có khi lấy xung mà giải, cũng có khi lấy hội mà giải, không có lệ nhất định.
Thí dụ 12)
Nhân Tý Mão hình, mà giải được Tý Ngọ xung vậy. Là trụ của ông bạn họ Trần.
Thí dụ 13)
Nhân vì Mão Tuất hợp, mà giải được Tý Mão hình. Là trụ của tổng trưởng hải quân Đỗ Tích Khuê.
Nguyên văn: Đại loại như vậy, học nên biết biến hóa thêm mà dùng.
Từ chú: Mệnh lý biến hóa, không ngoài lẽ can chi hội hợp hình xung, học giả theo đó mà xét rõ, người mới học, chưa thể thoát khỏi công thức. Chừng biến hóa giỏi rồi, không có số trường hợp, ví dụ như:
Thí dụ 14)
Trụ của Viện phó viện hành chánh Khổng Tường Hi. Mão Dậu xung, tự giải Thìn Dậu hợp, may là trong Thân tàng Canh, cùng với Ất tàng trong Mão ám hợp, nhân ám hợp mà giải xung, toại thành quý cách.
Có khi cùng ngôi vị, nhân vì tính chất địa chi khác nhau, mà có khi giải được có khi không giải được. Như:
Thí dụ 15)
Dậu Tị hội, nhân vì bị Dần mộc ngăn cách nên không thành cục; Dần Thân xung, cũng nhân vì bị Tị hỏa ngăn cách nên không bị xung; Tị Thân vừa hình thêm hợp, loại bỏ Canh kim ở Thân, khiến Dần mộc không bị thương tổn, công dụng của Tài Quan không bị thương tổn, tiện cách thành quý cách. Trích từ ” Thần phong thông khảo “.
Hợi Mùi cách ngôi Thân, không thể thành cục; Dần Hợi hợp, tự có thể giải Dần Thân xung, chẳng may Thân kim nắm lệnh, Nhâm Giáp trong Hợi hưu tù, không thể giải kim mộc tranh nhau; Dù Đinh Nhâm Dần Hợi thiên địa hợp chỉ là giả hóa, vượng kim thương mộc, hóa khí phá cách. Là trụ của hoàng đế Quang Tự nhà Thanh.
Lại nói tứ trụ có hình xung đều là xấu, nhiều khi chưa hẳn là thế. Hỉ dụng bị xung, tất là chẳng tốt, kị thần bị xung, tất trở thành cách, 1 lời không nói hết. Cứ như ví dụ sau:
Thí dụ 17)
Sát Nhận cách. Thiên can Đinh hỏa chế Tân, sát vượng kiếp khinh, hỉ Tý xung Ngọ, khiến hỏa chẳng thương tổn kim, Dậu xung Mão, khiến mộc không trợ sát, nhờ 2 xung mà rất đắc dụng. Là trụ của hoàng đế Càn Long nhà Thanh.
Thí dụ 18)
Dần Mão Thìn khí tụ đông phương thêm thấu Giáp, Ấn tinh quá vượng, may giờ Dậu xung Mão, bớt chỗ dư, hết thái quá, vừa đủ thành tốt. Là trụ của Chủ tịch quốc khố Lâm Sâm. Nếu như gặp giờ Mậu Thân cũng vậy, không luận Thân hay Dậu, dụng thần đều là lấy Tài tổn Ấn, nhưng mượn riêng ví dụ này để làm rõ cái lý hình xung hội hợp vậy.