Mục lục bài viết
Linh hồn là chủ đề mà sự bàn tán khó có hồi kết nhất trên thế giới. Đa
số con người sống trong cõi trần gian thì tin là có linh hồn, nhưng cũng không
ít người không tin linh hồn là có thật. Trong bài này, tôi không tranh cãi về
chuyện có hay không có linh hồn, mà bàn về quan niệm và phương pháp thờ
cúng linh hồn của người Việt. Ấy là tôi đang muốn so sánh cách nhìn nhận về linh hồn và thế giới bên kia của Phật Giáo khác với Nho Giáo và Đạo Giáo (sau đây xin được gọi tắt là Đạo Nho).
+ Tôi sẽ nói về quan niệm của Phật Giáo trước:
Con người sau khi chết 49 ngày, linh hồn sẽ siêu thoát vào trong không gian bao la. Kể từ đó, linh hồn giống như cánh chim tự do, lạc loài, không còn tưởng nhớ gì đến cội nguồn quê hương làng xóm; trên trần gian dù có đang là vợ chồng, cha con, thì sau khi chết, quan hệ huyết thống cũng sẽ không còn. Linh hồn đến một thời điểm nào đó sẽ được đầu thai trở lại kiếp người, nhưng sự đầu thai hoàn toàn ngẫu nhiên nhờ vào thể xác của một người đàn bà xa lạ không cùng huyết thống với kiếp trước. Từ quan niệm đó, Phật Giáo cho rằng ăn chay để giảm tội lỗi và hoả thiêu thể xác là cách giúp linh hồn siêu thoát được mau chóng nhất.
+ Triết lý âm dương và quan niệm về linh hồn của Đạo Nho:
Yếu tố khác biệt nhất trong quan niệm về linh hồn so với Phật Giáo của Đạo Nho, đó là linh hồn mang tính huyết thống, “sống mang họ nhà ai, chết làm ma dòng họ đó”.
Trời đất là hai đại năng lực của Thực tại tối hậu (Đạo). Trời là năng lực dương, đất là năng lực âm. Âm và dương có sức hút lẫn nhau kết thành vũ trụ, phối ngẫu với nhau sinh ra muôn loài. Con người cho dù là chế tạo đặc biệt nhất trong số muôn loài ấy, thì quy luật sản sinh giống nòi, quy luật tồn tại sự sống, cũng căn bản nhờ vào quy luật thu hút và phối ngẫu âm dương giống như trời đất vậy.
Cấu thành sự sống của muôn loài bởi hồn, phách (vía) và thể xác. Hồn phách ở thể khí, vô hình, phụ trách các giác quan và hệ thần kinh, kiểm soát ý thức và hành động. Hồn phách có mối liên hệ mật thiết với trời đất, nên trường thọ; Thể xác ở thể vật chất, hữu hình, được nuôi lớn bằng cách ăn thịt lẫn nhau giữa muôn loài khác và uống nước. Theo thời gian có thể bị thay đổi, hao hụt, tàn lụi, bị môi trường hủy hoại, chuyển thể từ dạng này sang dạng khác. Trong triết lý của Đạo Nho có câu “hữu hình hữu diệt, vô hình bất diệt” là bởi từ suy luận trên. Thực tế khoa học ngày nay cho rằng “hữu hình” không “hữu diệt”. Thể xác sau sự chết sẽ tan dần thành đất, đá, chỉ là sự biến đổi từ dạng này sang dạng khác của vật chất mà thôi. Đồng thời “vô hình” cũng không hẳn là “bất diệt”. Cho dù linh hồn là một khối nguyên khí thì khi vận động trong bầu khí quyển cũng có thể bị va chạm bởi giông, bão, sấm sét; hoặc va chạm với các linh hồn khác khiến cho hao hụt, phân tản. Vậy thì về bản chất, vô hình chỉ khác hữu hình ở chỗ trong suốt nên không nhìn thấy bằng mắt thường mà thôi. Hồn – Phách là hai trường khí âm dương có lực hút lẫn nhau. Hồn là thần khí, thuộc dương, bay bổng, có nguồn gốc từ đất trời; Vía (phách) là tinh khí thuộc âm, lắng đọng, tiềm ẩn nội lực, nguồn gốc từ bên trong cơ thể. Phách thu hút hồn, hồn liên kết với Đạo, Đạo chuyển động ăn sâu vào trong từng phân tử tế bào, duy trì quy luật vận hành của Thực tại tối hậu ngay trong từng phân tử tế bào của cơ thể. Con người gọi quy luật vận hành ấy là sự sống. Người Việt cho rằng đàn ông thì có 3 hồn 7 vía, còn đàn bà thì có 3 hồn 9 vía. Trong đó:
– 3 hồn là 3 trường khí gồm: khí trời, khí đất và khí do vạn vật sinh ra. Cây cối, đá núi đều có linh hồn, nơi đâu núi cao cây cối hoa lá xanh tươi, nếu có thêm cái hang núi thì thể nào cũng được các đạo sĩ lựa chọn để làm nơi tu luyện khí công.
– 9 vía là 9 tầng giao thức của hệ tam tài Thiên – Địa – Nhân: Trên các trang báo mạng, có nhiều tác giả gọi tai, mắt, mũi, miệng là vía, tôi e là không đúng? Bởi vía (phách) được định nghĩa là khí âm, vô hình, chứ đâu phải mấy thứ hữu hình ấy? Tuy nhiên, tôi thừa nhận các bộ phận ấy là các cửa vía, bởi 7 phách vía là 7 tầng tinh thức của hệ điều khiển trong cơ thể con người, gồm: Trung ương não bộ và 6 giác quan (xúc giác, thị giác, thính giác, vị giác, khướu giác, khứu giác). Đàn bà có thêm hai tầng tinh thức là phôi thai và khả năng tự chiết tinh dưỡng chất (sữa) nuôi con, vị chi là 9 vía. Nhiều người do thiếu hiểu biết, nghĩ rằng đàn bà 9 vía thì nặng nề hơn đàn ông, nên cho rằng ra ngõ mà gặp phải đàn bà thì xui xẻo. Trên thực tế hai vía mà đàn bà hơn đàn ông, là hai tầng thức tinh diệu nhất của sự sống, mà đàn ông xui xẻo không được tạo hóa ban tặng, nên đáng nhẽ gặp đàn bà may mắn hơn đàn ông mới đúng. 7 phách tinh thức của con người có liên hệ với 7 vì tinh tú trong vũ trụ là Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Thái Âm và Thái Dương. Đạo Nho quan niệm, khi con người trút hơi thở cuối cùng, là khi hai dòng âm dương cách biệt, hồn vía tạm thời không kết nối được với nhau. Hồn vốn được vía thu hút và điều khiển, nay thoát ra tự do lang thang không phương hướng, nên dễ bị ngạ quỷ bắt và sai khiến làm những điều tồi tệ, đặc biệt là người chết ra đi trong những giờ được cho là hắc đạo. Từ quan niệm này, trước giờ nhập liệm, nhân dân thường cho người nhà là nam giới ra đầu ngõ, hoặc trèo lên nóc nhà, tay cầm cái áo, hay cái khăn của người chết và nắm hương huơ tứ phía hú gọi hồn về nhập vía. Khi hồn vía nhập lại với nhau rồi mà không lưu trú trong thể xác nữa, thì được gọi là linh hồn. Như vậy thì có lẽ linh hồn khi ra đi, sẽ mang theo hết thảy sự sống gồm 3 thần hồn, 7 và 9 tinh phách, với bao nhiêu là yếu tố đặc biệt quan trọng như chỉ số IQ (thông minh), EQ (cảm xúc), zen, vv… Tóm lại là các yếu tố thuộc về linh diệu nhất của sự sống. Điều này rất quan trọng, phải hiểu biết để thờ phụng. Tôi sẽ tiếp tục phân tích và bình luận. Sự sống muôn loài khởi động đều nhờ thuỷ và khí. Trong đất trời, thuỷ là máu huyết của muôn loài, khí là thần tinh của muôn loài. Hệ thống mạch máu trong cơ thể con người cũng có cấu tạo giống như hệ thống sông ngòi trên mặt đất, đổ về muôn ngả. Khí lưu thông theo dòng chảy của huyết quản đưa thần tinh nuôi dưỡng đến từng tế bào trong cơ thể. Kinh mạch dẫn huyết chảy lưu thông thì khí điều hòa, kinh mạch tắc nghẽn thì gây nên hiện tượng uất khí. Huyết chủ về tâm, nuôi dưỡng thể xác; Khí chủ về tinh thần (hồn phách), điều khiển hệ thần kinh giác quan, tạo nên thần thái tính cách. Mỗi người có một mức độ âm dương mạnh yếu riêng, nên mỗi người sở hữu một trí tuệ, mạch tường, dung diện, tinh ranh… khác nhau. Nói như vậy, nghĩa là từ trước CN, người Bách Việt đã biết: âm dương – hồn phách – thần tinh, một nửa hấp thụ từ trong trời đất, một nửa sinh ra từ đặc chủng riêng biệt của muôn loài, linh hồn của loài nào có chứa đựng tố chất zen của loài đó, cho nên con người mới có sự tổ chức chôn cất người chết và thờ phụng linh hồn theo quan hệ máu mủ dòng họ. Lại nói về khí, trong trời đất và trong cơ thể muôn loài không phải lúc nào khí cũng tinh khiết, có nguyên khí và cả sa khí. “Nhân chi sơ tính bản thiện”, khi mới sinh ra, linh hồn là một khối nguyên khí lành mạnh. Sa khí là loại khí bị nhiễm độc mà hồn phách hấp thụ phải do con người ăn uống, hay do hít thở phải từ ô nhiễm môi trường. Sự nhiễm độc sa khí khiến cho cơ thể lâm bệnh, đau ốm dật dờ, tinh thần trở nên thiếu lành mạnh, không giữ được “bản thiện” như lúc mới sinh. Mê tín trong nhân dân cho rằng sa khí mang yếu tố hắc ám, là nơi lẩn trốn của ngạ quỷ, nếu con người ta mắc phải sa khí, dễ bị quỷ sai khiến làm điều tội lỗi và càng làm điều tội lỗi thì càng tích tụ nhiều sa khí trong mình, ngày càng dấn sâu vào sai trái. Lão Tử cho rằng người quân tử đứng đầu thiên hạ, không nên dạy cho dân điều mưu chước, mà nên dạy cho dân ý thức lành mạnh, sống hồn nhiên. Cai trị mà như không cai trị gì cả mới đáng nể. Bởi Lão Tử cho rằng thiên hạ càng nhiều mưu chước thì xã hội càng bất an, con người càng chuốc lấy nhiều tội lỗi, như thế là không thuận theo tự nhiên. Sự tu hành của Đạo Giáo chính là phép tìm nơi huyệt đạo chất chứa thần khí trong lành của đất trời. Trong tư thế chân đạp đất, đầu đội trời để thu nạp năng lượng sạch, đào thải độc tố của cơ thể, từ đó thu về sức mạnh cho cơ thể. Điều này hoàn toàn khác với quan niệm của đạo Phật là tu để thoát khổ, tức là thoát kiếp thứ hai của con người. Quan niệm của Đông y, tâm chủ về máu huyết, não chủ về thần khí, thận chủ về tinh khí. Đặc biệt đối với nam giới thận rất quan trọng, thận mạnh khỏe thì trai tráng cường lực, thận yếu thì tinh khí suy nhược, chuyện chăn gối không mạnh mẽ, rất khó có con. Từ thời nhà Chu, Lão Tử đã nhận ra mối liên hệ tự nhiên giữa con người với đất trời rằng: Cơ thể được ăn uống tốt và năng luyện rèn thì khỏe mạnh, khỏe mạnh thì máu huyết đủ đầy và lưu thông. Huyết sinh tinh khí, huyết đủ đầy thì tinh khí (âm khí) mạnh mẽ, tinh khí mạnh mẽ thì có sức thu hút và điều khiển thần khí (dương khí) mạnh mẽ, khả năng liên kết, dẫn dụ thần khí của trời đất thâm nhập vào thể xác cao hơn, thần tinh con người nhờ đó mà thông thái tinh ranh hơn. Từ quy luật vận hành của Đạo, Lão Tử viết ra phép dưỡng sinh gọi là khí công:
“Tải doanh phách bão nhất, năng vô ly hồ?
Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ?
Dịch trừ huyền lảm, năng vô tỳ hồ?…”
(khiến cho hồn phách con người luôn được hợp nhất thành một khối và liên kết với khí trời, có thể không lìa chăng? Chăm chú cho hơi thở điều hóa, có thể được như trẻ thơ chăng? Gột bỏ đam mê hão huyền, có thể không bệnh hoạn chăng?). Phép tu dưỡng bản thân để đạt được sống lâu của Lão Tử rất dễ hiểu và khoa học, đó là phương pháp điều hòa dòng khí lưu thông trong cơ thể con người một cách sao cho đều đặn nhịp nhàng như hơi thở trẻ thơ, các huyệt đạo có thể đóng mở nhịp nhàng được “như con mái”, chứ không phải là trò luyện đan ra viên thuốc trường sinh như các đạo sĩ đời sau bày trò. Thực tế cho thấy, con người ta sống được nhờ bằng ăn, uống và thở. Vậy nhưng xét về mức độ cần thiết thì: có thể không ăn cả tuần mà vẫn sống, nhịn uống vài ngày mà chưa chết, song chỉ cần thiếu dưỡng khí vài phút thôi là kết thúc cuộc đời như chơi, từ đó để thấy khí rất quan trong cho sự sống.
+ Tôi sẽ bình luận về hai phương pháp chôn và hỏa thiêu người chết:
Theo Đạo Nho, con người có “nợ ba sinh”, đó là ba kiếp sống: Trần gian, Địa phủ và Thiên đường. Trình tự của sự siêu thoát là, sau khi kết thúc kiếp trần gian, con người sẽ tiếp tục kiếp thứ hai ở cõi âm ti. Sau kiếp sống ở âm ti thì linh hồn sẽ được siêu thoát lên thiên đàng sống kiếp thứ 3. Mỗi kiếp 100 năm. Tôi không biết khi xưa các cụ căn cứ vào đâu, chỉ nghe người ta thường nói: một năm ở Thiên đường bằng 36 năm Trần gian; còn 36 năm trần gian thì lại bằng 100 năm Địa phủ. Khi xuống Địa phủ, linh hồn được gọi là ma, sự độ trì của ma trong khuôn khổ gia đình; khi siêu thoát lên thiên đang, linh hồn sẽ thành tiên, sự phù trì sẽ ở mức độ rộng hơn, bao trùm họ tộc. Những linh hồn từng có chức vị xã hội ở kiếp Trần gian, tuy theo khả năng có thể phù hộ độ trì được cho dân lành. Khi linh hồn siêu thoát thành tiên rồi, mộ phần không còn cần đến, có thể dùng để chôn người mới chết. Và sau vòng luân hồi 300 năm của 3 kiếp (quy đổi ra năm trần gian, thì 3 kiếp của linh hồn khoảng từ 400 – 500 năm), nếu linh hồn không phạm lỗi đạo, thì sẽ trở thành linh hồn bất tử, ngụ trên 9 tầng mây, linh hồn bất tử được tôn vinh là Bụt, sự độ trì của Bụt bao trùm nhân loại. Từ đó để đặt cho chúng ta suy nghĩ, sống làm sao được cho hết 500 năm không tội lỗi để được là linh hồn bất tử khó khăn vô cùng? Quan niệm này hoàn toàn khác xa so với bên Phật Giáo cho rằng sau 49 ngày, linh hồn sẽ siêu thoát và tự do không còn quan tâm đến cội nguồn ở kiếp trần gian?. Tôi cũng tin trong đất trời có 9 phách giao thức giữa Thiên – Địa – Nhân và muôn loài. Mỗi phách là một kho lưu trữ dữ liệu về vũ trụ mà, người nào năng rèn luyện sẽ thu nạp được để biến thành năng lượng cuộc sống của mình! Từ triết lý trên, quan niệm Đạo Nho cho rằng Địa phủ cũng có 7 tầng vía để kết nối thường hằng với 7 tinh phách của Tạng phủ (con người) và với 7 vì tinh tú của Thiên phủ. Sau sự dứt lìa khỏi thể xác, linh hồn không phải cứ thế là xuống địa ngục được ngay. Mà còn phải trải qua 7 cửa ngục thất. Linh hồn sẽ phải trải qua chu kỳ thanh trọc các sa khí. Mỗi cửa ngục thất là 7 ngày, chung thất là 49 ngày. Do đó, trong 49 ngày này, vì linh hồn còn chưa chính thức được hóa kiếp để sống cuộc sống mới ở cõi âm ti. Nên mới có tục mời cơm linh hồn ngày hai bữa đủ đầy, bởi người trần gian cho rằng nếu không cúng cơm, linh hồn sẽ bị đói khát vật vờ trước các cửa ngục rất đau khổ xót xa. Linh hồn của người bình thường, sau khi vượt qua kỳ sát hạch 49 ngày, sẽ được bổ nhiệm để có danh phận kiếp thứ 2 trong thế giới Địa phủ. Linh hồn có đức độ cao dày có thể được tiếp tục thăng chức cao hơn ở trần gian và được sắp xếp cuộc sống vương giả; Ngược lại, với linh hồn phạm trọng tội ở trần gian thì có thể bị giam cầm ở tầng địa ngục. Thậm chí khi ở trong địa ngục rồi mà không chịu khó tu luyện, tiếp tục phạm tội, thì linh hồn càng bị nhiễm đầy sa khí khiến cho 7 tầng tinh thức càng ngày càng thiếu hụt độ tinh anh, ngu si dần thành linh hồn súc vật. Linh hồn của trẻ sơ sinh thì sẽ được siêu thoát sớm nhất vì không có tội lỗi. Do đó mới có quan niệm rằng bà cô ông mãnh linh thiêng hơn là vì như vậy (bên Thiên Chúa giáo cũng thường làm đám tang trẻ sơ sinh long trọng hơn người già). Tôi thì nghĩ, linh hồn nhiễm nhiều sa khí sẽ khó siêu thoát hơn những linh hồn chứa nhiều nguyên khí, nên phải ở lại trong đất lâu hơn. Cho nên học sĩ Thân Nhân Trung ở đời Lê đã viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” là vì như vậy. Quan niệm thế giới Địa phủ của Đạo Nho chỉ có ngục thất. Trong khi quan niệm của Phật giáo người ta vẽ ra bức tranh “Thập điện Diêm Vương” với những hình thức tra tấn linh hồn man rợ?
Tóm lại, hai đặc điểm khác nhau cơ bản cần bàn trong quan niệm về linh hồn giữa Đạo Nho Giáo và Phật Giáo là:
– Phật Giáo: linh hồn sau khi chết 49 ngày thì siêu thoát và không còn là người nhà của bất kỳ ai nữa. Sẽ có sự đầu thai kiếp người trở lại tại một nơi hoan toàn xa lạ, không liên quan gì đến kiếp trước.
– Đạo Nho: Con người có nợ ba sinh, tức ba kiếp sống. Linh hồn sau khi kết thúc kiếp sống trần gian, sẽ tiếp tục sống kiếp thứ hai ở địa ngục. Sau kiếp sống địa ngục là kiếp thứ 3 ở thiên đàng. Linh hồn khi sống ở thiên đàng được gọi là siêu thoát, vì đến kiếp thứ 3, linh hồn hoàn thành chu kỳ tu luyện, trở nên siêu độ vĩnh hằng, không còn đầu thai mà trở thành đấng linh tiên, là nguyên khí thần khí phi phàm có năng lực phù trợ của một họ tộc, hay một quốc gia. Đặc biệt, với Đạo Nho, kiếp sống thứ 2 ở Địa phủ không hề là kiếp khổ nàn. Nếu như kiếp Trần gian có sự chuẩn bị kỹ càng về đức độ, về cơ sở vật chất, thì chức danh trong thế giới Địa phủ sẽ tương đương như trên trần gian. Những linh hồn vô phước bị thất lạc mộ phần, bị không có người nối dõi thờ cúng, thì có cuộc sống cũng tương tự như trẻ mô côi, và người sa cơ thất nghiệp trên trần gian. Từ đó, người đời mới sinh ra chuyện cúng cô hồn ngày rằm tháng 7 để hỗ trợ hoàn cảnh khó khăn của linh hồn. Câu chuyện cúng cô hồn vào rằm tháng 7 có cả trong Tam giáo, nhưng Phật giáo cũng quan niệm khác với Đạo Nho.
Lê Quí Đôn đã viết trong “Vân đài loại ngữ”: «Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mùi (tháng 6), chính là tiết Đại Thử, cho đến tiết Bạch Lộ vào giữa tháng Dậu (tháng 8), là Thái Âm thấp thổ làm chủ khí, tiết trời lúc ấy mây mưa nhiều, khí ẩm thấp bốc lên…” Đơn giản chỉ là yếu tố “thấp thổ làm chủ khí’ sinh âm vượng, linh hồn thuộc cõi âm, nên chọn ngày âm vượng nhất trong năm làm lễ, thì dễ dàng kêu gọi linh hồn đói khát lên ban phát đồ ăn, thức uống hơn mà thôi. Sự cúng của người theo Đạo Nho có mặn ngọt, âm binh (áo quần), gạo muối, tựa hồ như người trên trần gian đi làm từ thiện tới trại mồ côi, hay là bố thí cho người ăn xin, chứ không cúng đồ chay như Phật giáo. Trong khi thế giới Phật giáo có câu chuyện bà Thanh Đề để răn đe phật tử, rằng do khi sống trên Trần gian, bà Thanh Đề độc ác, nên bị đọa đày hành hạ ở kiếp Địa phủ (“vu lan”盂蘭, nghĩa là treo ngược lên). Và nhà Phật cho rằng, các sư thầy cùng hợp lực làm phép trong ngày rằmg tháng 7 thì sẽ giải thoát được linh hồn tội lỗi ra khỏi địa ngục.
Mục đích tu hành của Phật Thích Ca là thoát khổ. Có lẽ do khi biết linh hồn phải trải qua 3 kiếp sinh tử mới được siêu độ, thì Phật Thích Ca cho rằng kiếp sống như thế thật là khổ nàn lê thê, nên có tham vọng tìm một con đường tắt, để có thể rút ngắn khổ lụy. Lúc đầu Phật Thích Ca cho rằng nhịn ăn, chỉ uống nước để thanh lọc cơ thể, hóa giải ô trọc, thì có thể siêu thoát, nhưng rồi Phật đã thất bại. Sau khi thất bại, Phật chuyển hướng, lấy phép thiền kết hợp với ăn chay để thực hiện. Phật cũng quyết định cho đệ tử hỏa thiêu thân xác mình, không chôn xuống đất, để không bị hệ lụy gì đến địa ngục, cắt đứt mối tơ duyên với kiếp sống thứ hai này. Giới Phật giáo cho đó là sự thành công của Phật. Mâu thuẫn ở chỗ là con người biết rõ, kiếp Trần gian là kiếp đọa đày. Nhưng sao lại không tìm cách kết thúc kiếp người sớm hơn để thoát khổ, mà vẫn tỏ ra rất yêu kiếp người của mình, những cố gắng bằng mọi cách để được trường thọ? Trộm nghĩ, biết đâu linh hồn khi sang kiếp sau ở âm ti, cũng lại giống như con người trong kiếp trần gian, dù biết là khổ nàn vẫn muốn tìm cách kéo dài? Nếu quả thực như vậy thì sự cầu nguyện để linh hồn được mau siêu thoát là vô ích? Thậm chí, chắc gì kiếp thứ 3 ở thiên đường đã là vô tư sung sướng hơn? Bằng chứng là trong lý thuyết của các trường phái đạo giáo đều cho là trên thiên đường vẫn có thiên ngục đó thôi? Ngày nay, ngành công nghiệp phát triển rực rỡ, bao nhiêu là ống khói tỏa đen ngòm bầu trời thế kia, xem ra chẳng ai đảm bảo được tầng khí quyển ở nơi thiên đường trong lành tuyệt đối, không có sa khí? Mà mỗi khi đã có sa khí ắt có sự nhiễm độc để khiến cho linh hồn trở nên tội lỗi. Có lẽ thuyết của Lão Tử, “con người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước tự nhiên” là sự đúng đắn khó bàn cãi? Khi xác định con người ta có 3 kiếp sống, thì đồng nghĩa cần phải xác định, tổ chức dòng họ cùng huyết thống cũng có 3 thế giới tương tự: Trần gian – Địa phủ – Thiên đường. Sự tổ chức chôn cất theo nghĩa trang gia đình, dòng họ, là đồng nghĩa với quần tụ tập trung linh hồn cùng huyết thống được sum vầy bên nhau trong kiếp thứ 2 ở âm ti; Tổ chức thờ phụng tập trung theo họ tộc, đồng nghĩa với tổ chức kết nối 7 trường tinh thức cùng huyết thống của Thiên đường -Địa phủ – Nhân gian. Đó chính là nguyên lý “âm phù dương trợ” mà con người sống trên trần gian cần phải hiểu biết để hành đạo cho đúng cách. Như tôi đã phân tích, linh hồn ở cõi thiên đàng chưa chắc đã hết khổ nàn. Có thể gặp sấm sét giông bão khiến cho bị phá vỡ. Thờ phụng theo dòng họ là để kêu gọi, tập hợp trường khí cùng huyết thống thành khối lớn hơn, đoàn kết vững bền hơn, khả năng chống lại thiên tai và ngăn ngừa sa khí cao hơn, cũng như phù hộ độ trì linh nghiệm hơn.
+ linh hồn sẽ vô thức sau khi siêu thoát ?
Nếu quả như vậy thì sự thờ phụng của dòng họ trở nên vô nghĩa? Nói dại mồm, nếu là một linh hồn tội lỗi, thì có lẽ nên hỏa thiêu để cho hồn trở nên vô thức với quá khứ, đó là một cách giải thoát. Nhưng nếu linh hồn là một bậc hiền tài thì hỏa thiêu là sự phá vỡ nguyên khí, làm cho mất đi tính linh thiêng, sự “âm phù dương trợ” e là không còn ?! Chôn là hình thức để cho thể xác tan hòa dần vào trong đất một cách tự nhiên, linh hồn được trải qua kiếp tu luyện trong đất, các tầng phách vốn âm tính, sẽ có cơ hội hấp thụ tinh túy của đất, lực âm được nuôi dưỡng mạnh lên, từ đó năng lực hút hồn càng lớn. Linh hồn khỏe khoắn sẽ trở nên siêu phàm khi sang kiếp sống thiên đàng. Nhưng điều quan trọng là chôn thì cơ hội bảo toàn được IQ, EQ và zen của linh hồn một cách chắc chắn hơn, từ đó mà khả năng phù trợ cao hơn cho người thân trong gia quyến.
Khi tôi đem vấn đề ra bàn luận, có người thắc mắc, nếu không hỏa thiêu mà cứ chôn dài dài thì lấy đất đâu cho con người sống trên trần gian?
Đó là vì người thắc mắc hiểu chưa tới ngọn ngành mà thôi. Đạo Nho cho rằng khi linh hồn đã tu luyện đủ 3 kiếp, đã thực sự siêu thoát sang kiếp thứ 3 là kiếp không cần nương nhờ vào vật chất, thì thể xác hay lăng lăng mộ không còn cần thiết (khoảng 36 – 50 năm Trần gian), có thể sử dụng để chôn cất người mới chết khác. Sự phôi thai ở kiếp Trần gian là đầu tiên và duy nhất. Kiếp thứ 2, 3 không gọi là phôi thai nữa, mà chỉ là sự tinh luyện nguyên khí của Trời Đất mà thôi.
Sự phù trợ, thực chất là khi con người đứng giữa luồng nguyên khí âm dương có sự tương đồng về huyết thống, hoặc về một vài yếu tố tương tác được lẫn nhau của từng nhóm hồn phách, thì sẽ dễ dàng lĩnh hội được, thâu nạp được luồng nguyên khí phù hợp với cơ địa của mình, từ đó mà làm cho hồn phách mạnh mẽ lên, tinh ranh hơn. Và trường nguyên khí ấy mạnh nhất khi có sự thờ phụng tập trung. Nên nhớ là “âm phù, dương trợ”, nghĩa là âm mới có năng lực phù hộ, dương chỉ là hỗ trợ thêm mà thôi. Nếu bỏ qua sự chôn thì lấy đâu âm để “phù”?
Điều quan trọng là bạn hãy hiểu thờ phụng trước hết là vì lợi ích của chính bản thân mỗi con người trong kiếp Trần gian!
+ Tôi nói thêm một chút về vấn đề thiêu hóa vàng mã:
Khi xưa ở bên Trung Quốc từng có chuyện vua chết thì không những chôn theo vàng bạc châu báu, mà các hậu, phi cũng đều phải chết theo để vua có người hầu kẻ hạ ở dưới cõi âm ti. Sau thì tự bản thân các vua thấy hành động đó là thất đạo, nên đã đổi sang bắt các hậu, phi phải vào tu trong chùa không được lấy ai cho đến hết đời. Ở nước ta thì không có lệ đó, nhưng các hoàng hậu hầu như cũng đều tự nguyện vào chùa đi tu sau khi vua băng hà, ít có người tái giá. Sách “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính chép: “Khi tắt hơi rồi, lấy chiếc đũa, để ngang hàm, bỏ một vốc gạo và ba đồng tiền vào miệng. Nhà phú quý thì dùng ba miếng vàng sống, chín hạt châu trai, gọi là ngậm hàm”. Ấy cũng là hình thức gửi của mang theo cho người chết. Tuy nhiên thứ ấy rất nhỏ, gọi là hình thức, tránh bỏ nhiều sẽ khiến kẻ gian nổi lòng tham mà quậy phá mồ mả.
Tục trên là do quan niệm linh hồn còn có đủ 6 giác quan của con người, nên nhân dân nghĩ rằng, kiếp thứ hai do thể xác tuy đã chết nhưng vẫn còn hình hài, linh hồn chưa dứt hẳn được những ham muốn tục trần như ăn, uống, tiêu pha, vv… Nhưng nhân dân cũng nhận thức rằng do linh hồn không còn thể xác, nên chỉ cần nhìn thấy hình ảnh và ngửi thấy mùi vị thôi là được rồi, từ đó mà sinh chuyện cúng tiền vàng in trên giấy. Cúng xong thì chẳng dùng được, đương nhiên phải thiêu hóa. Vàng mã cúng cô hồn thì đốt ngoài ngã ba đường; vàng mã cúng gia tiên thì đốt trong góc sân kẻo cô hồn cướp mất.
Riêng việc thiêu hóa kim ngân chắc chắn không nghi ngút đến độ cháy chùa, cháy nhà như bây giờ? Thiết nghĩ, việc đóng quan tài sơn son thếp vàng, xây huyệt mộ gạch men cao cấp chắc chắn, cũng là tương đương với xây nhà đổ trần bê tông trên Trần gian rồi, hà cớ còn phải đốt mỗi năm một ngôi nhà để làm gì? Hưởng thụ làm sao cho hết? Theo “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính thì trước kia, nhân dân nghèo, khi chôn thậm chí không có quan tài, mà phải bó chiếu, nên thường làm nhà ma bằng tre và rơm, hoặc bằng giấy, cùng các thứ vật dụng cũng đều bằng giấy. Sau khi chôn thì hỏa thiêu luôn ngôi nhà và các vật dụng giấy đó, coi như tài sản đã được mang theo. Nhưng chỉ một lần đó thôi. Còn sau này mỗi năm có cúng giỗ thì đốt bổ sung thêm một chút kim ngân với số lượng tương tự như chúng ta trên Trần gian mỗi lần về thăm quê thì biếu cha mẹ một ít tiền, quà vậy thôi. Còn kiểu đốt vàng mã như các doanh nhân nhiều tiền ngày nay, nhà cửa, ô tô, xe máy mà mỗi năm đốt ba bốn lần thì người thân quản lý thế nào? Xe đốt xuống nhiều thế đậu ở đâu? Hãy suy nghĩ thử coi, con người trên trần gian, nhiều tiền quá chắc gì đã an toàn, sung sướng?
Nho giáo là sự triển khai phần “Đức” của Đạo giáo, cho nên có sự tương đồng về quan niệm, không gây ra mâu thuẫn đáng quan ngại. Chỉ có Phật giáo là thế giới quan rất khác so với Đạo Nho. Do đó mà tôi cho rằng các dòng họ cần cẩn trọng, chỉ nên lựa chọn một trong hai, hoặc là thờ cúng theo Đạo Nho; hoặc là thờ cúng theo Phật giáo, bởi nếu theo cả hai tôi e là mâu thuẫn, phúc họa khó lường. Phúc họa ấy tôi cho rằng đang xảy ra trước mắt. Nhà số đẹp, xe số đẹp, chủ nhân cúng bái thường xuyên mà tai hoa vẫn hoàn tai họa, ngày càng nhiều tai họa ?!