Phá quân tọa thủ Mệnh Thân

Phá quân tọa thủ Mệnh Thân
Phá quân tọa Mệnh ở những
cung dương Tý Ngọ Dần Thân Thìn Tuất

      Phá quân có sao Lộc
rất tốt, là có gốc rễ. Có thể tiêu trừ khuyết điểm hao tổn và phá
tán của Phá quân, làm tăng năng lực sáng tạo. Phá quân Hóa Quyền ở
Dần có Lộc tồn đồng độ cũng cát, có điều, tuy phú quý nhưng đời
người ắt sẽ có khiếm khuyết, ví dụ như bản thân có sức khỏe không
tốt… Phá quân Hóa Quyền ở Thân có Lộc tồn vây chiếu, cũng có cùng
tình huống.
      Phá quân gặp Tả phụ,
Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, chủ về phú quý, nhưng quý lớn hơn
phú, tức tiền bạc nhờ địa vị mà có. Nhưng nếu có tứ Sát lẫn lộn
trong đó, thì thích hợp làm việc trong ngành công thương nghiệp. Nếu
gặp Văn xương, Văn khúc, mà có Sát tinh, chủ về người thuộc loại hàn
sỹ mang tâm trạng có tài mà không gặp thời. Nếu gặp Sát tinh nặng mà
Cát tinh nhẹ, thì nên theo ngành công nghệ, hoặc làm công nhân chuyên
nghiệp.
      Phá quân ở Hợi Tý
Sửu, đều không nên có Văn khúc đồng độ, ngại nhất là Văn khúc Hóa
Kị, chủ về tuổi trẻ rời xa quê hương, hoặc bị tàn tật, hoặc gặp
trắc trở nghiêm trọng. Cổ nhân nói “Cùng với Văn khúc vào thủy vực,
thì tàn tật rời xa quê hương” (Dữ Văn khúc nhập vu thủy vực, tàn
tật ly hương
), là nói lý luận này. “Thủy vực” là nói ba cung Hợi
Tý Sửu.
      Phá quân sợ Kình dương
Đà la hơn là sợ Hỏa tinh Linh tinh. Gặp Hỏa tinh Linh tinh chỉ chủ về
vất vả bôn ba mà thôi; còn gặp Kình dương Đà la thì có họa tai, chủ
về cuối mang tật, hoặc nhiễm thú vui không lành
mạnh.
      Phá quân có đặc tính
thừa kế cái cũ mà đổi mới, cho nên phần nhiều đều làm kiêm nhiều
nghề, hay kiêm nhiều chức vụ khác nhau. Phá quân Hóa Lộc chủ về nhờ
sự nghiệp cũ mà có sự nghiệp mới, mà còn đồng thời phát triển cả
hai, kinh doanh cả hai, cả mới lẫn cũ.
      Lực phá hoại của Phá
quân tuy lớn, nhưng lại khác với Thất sát. Lực phá hoại của Phá quân
chủ về xảy ra thay đổi lập tức, biểu hiện chủ yếu là “thà là ngọc
nát, chứ không chịu là gạch ngói nguyên vẹn”, cho nên có tính chất
hao tán. Nếu đồng độ với Kình dương, gọi là hệ
hình hao”, thường làm mạnh thêm ý vị “thà là ngọc
nát”.
      Phá quân ưa đồng độ
với Tử vi, hoặc có Tử vi vây chiếu, chủ về có quyền. Nhưng khác với
quyền của hệ “Tử vi Thất sát”. Quyền của hệ “Tử vi Phá quân” là ở
phương diện lớn, mang tính mở rộng; còn quyền của hệ “Tử vi Thất
sát” thuộc phạm vi nhỏ, nội bộ, như quản đốc phân xưởng. Một công một
tư, một lớn một nhỏ, cần phân biệt tỷ mỷ.
      Hễ Phá quân ở cung
Mệnh hay cung Thân, bất kể Cát tinh hội hợp như thế nào, ắt cũng không
toàn mỹ, phú thì không quý, hoặc quý thì không phú, hoặc vợ (chồng)
bất toàn, hoặc mắc bệnh mãn tính, phá tướng.
      Phá quân Hóa Lộc mà
gặp các sao Sát Hình, nữ mệnh chủ về giải phẫu thẩm mỹ, nam mệnh
chủ về bị tổn thương làm phá tướng phải giải phẫu thẩm
mỹ.
      Phá quân thủ mệnh chủ
về tay trắng lập nên sự nghiệp. Nhưng khác với Thiên đồng là phá sạch
tổ nghiệp rồi mới lập nên sự nghiệp. Còn Phá quân có thể nhờ sự che
chở, giúp đỡ của cha mẹ, rồi tự khai sáng, cải cách mà tạo sự
nghiệp.
      Phá quân ắt sẽ đối
nhau với Thiên tướng, Thiên tướng ngoại trừ bị ảnh hưởng của các sao
Tả phụ Hữu bật giáp cung ra, còn bị ảnh hưởng của Phá quân cũng khá
lớn. Do người Phá quân thủ mệnh, phần nhiều đều rời xa quê hương, vì
vậy cát – hung của Phá quân sẽ gây ảnh hưởng đến cát – hung của Thiên
tướng ở cung Thiên di. Mức độ chịu ảnh hưởng của Thiên tướng cũng có
quan hệ rất lớn đến đời người, cho nên không thể xem thường cung Thiên
di.
      Phá quân tọa mệnh ở
Tý hoặc ở Ngọ, cung Thiên di có “Liêm trinh Thiên tướng”, cấu tạo này
Liêm trinh có thể “hòa với khí” của Phá quân, vì vậy nếu được Cát
hóa và có Cát tinh thì có thể phú quý. Có điều, khi Liêm trinh Hóa
Kị, hoặc Thiên tướng bị cách “Hình kị giáp ấn”, thì trở thành
bại cục. Phá quân có Kình dương đồng cung, hội Thiên mã mà không có
Lộc, cũng là bại cục.
      Phá quân tọa Mệnh ở
Tý hoặc ở Ngọ, được Cát hóa gọi là cách “Anh tinh nhập miếu”,
rất ưa Thiên tướng ở cung Thiên di gặp sao Lộc, đây nói ở thời cổ đại
chủ về lập công ở biên cương, hoặc là trọng thần quân lữ; ở thời
hiện đại thì chủ về đột nhiên hưng
phát sự nghiệp, cho nên cũng có thể trở thành nhân tài lãnh đạo
(cty).
      Cách “Anh tinh nhập
miếu
” bắt đầu phát đạt ở vận gặp Thái âm hoặc gặp Thiên đồng,
nhưng không nên đến lưu niên Phá quân, cũng không ưa đến cung hạn Vũ khúc
Hóa Kị, hoặc Liêm trinh Hóa Kị. Cung hạn chỉ hơi có chút Sát tinh là
không toàn mỹ. Vì vậy nên xem xét kỹ khiếm khuyết ở 12
cung.
      Phá quân tọa Mệnh ở
Tý hoặc ở Ngọ, mà không thành cách “Anh tinh nhập miếu”, thì
không có duyên với lục thân, việc gì cũng phải đích thân làm, mà còn
dễ mắc bệnh.
      Đối với Phá quân tọa
Mệnh ở Tý hoặc ở Ngọ, các cung hạn:
     
“Tử vi Thiên phủ”
     
Cự môn độc tọa.
     
Vũ khúc độc tọa.
     
Thiên lương độc tọa
      Những cung hạn này là
những lưu niên có tính then chốt. Đại vận thì xem những cung
hạn:
     
Vũ khúc độc tọa.
     
“Tử vi Thiên phủ”.
      Hai cung hạn này có
tính then chốt của đại vận. Vũ khúc và Thiên phủ là hai sao tiền
tài, nếu Phá quân nguyên cục không có sao Lộc mà gặp Sát tinh, đến
đại vận gặp hai sao tiền tài, có Cát tinh và có sao Lộc, cũng có
thể bổ cứu; nếu không gặp sao Lộc mà gặp Sát tinh, thì vận trình
cuộc đời nhiều trắc trở.
      Phá quân tọa Mệnh ở
Dần hoặc ở Thân, không cần gặp Hỏa tinh Linh tinh, đã chủ về lúc nhỏ
chia ly với gia đình. Gặp Lộc tồn, Thiên mã ở cung Thiên di, chủ về
phát đạt ở nơi xa, tha hương. Nếu gặp Hỏa tinh Linh tinh ở cung Mệnh
hoặc cung Phụ mẫu, chủ về làm con nuôi của người khác, còn chủ về
cấp trên hay người trên của mình hay bị thay đổi.
      Phá quân tọa Mệnh ở
Dần hoặc ở Thân, hội “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, chủ về cuộc đời gặp
nhiều sóng gió, trắc trở rất lớn, bạo phát bạo bại, hoạch phát
hoạch phá. Nguyên do gây ra thất bại thường do quá chủ quan, lại cố
xuất đầu lộ diện, hoặc không tự lượng sức đi cạnh tranh với người
khác.
      Phá quân tọa Mệnh ở
Dần hoặc ở Thân, đối với hai cung hạn Thiên cơ độc tọa và cung hạn
“Liêm trinh Thiên phủ” là có tính then chốt. Nếu hai cung hạn này Cát,
thì hậu vận cũng khá thuận lợi toại ý. Nếu không, gặp niên hạn hội
Vũ khúc Hóa Kị, hoặc niên hạn Thiên tướng bị “Hình kị giáp
ấn
” thì sẽ suy sụp nhanh chóng, có thể từ đó không còn khả năng
đứng lên được.
      Phá quân và Tham lang
mà gặp Lộc tồn, Thiên mã, cổ nhân cho rằng, nam phần nhiều phóng đãng
nữ phần nhiều đa dâm, tức là nói Phá quân ở Dần hoặc ở Thân hội Tham
lang. Rất kị có Địa không Địa kiếp đồng độ, chủ về cuộc đời cô độc.
Nếu cung đối diện “Vũ khúc Thiên tướng” hội Tả phụ, Hữu bật, Văn
xương, Văn khúc mà còn kèm Sát tinh, ở thời cổ đại là Mệnh lang thang
khắp nơi.
      Đối với Phá quân tọa
Mệnh ở Dần hoặc ở Thân, các cung hạn “Vũ khúc Thiên tướng”, hay “Thái
dương Thiên lương”, hay “Thiên đồng Cự môn”, hay “Liêm trinh Thiên phủ”, là
lưu niên hay đại vận then chốt.
      Phá quân tọa Mệnh ở
Thìn hoặc ở Tuất, chịu ảnh hưởng của cung đối diện là hệ “Tử vi
Thiên tướng”, cho nên danh lớn hơn lợi. Cổ nhân nói “Gặp Tử vi thì mất
uy quyền” (Phùng Tử vi tắc thất uy quyền), tức là nói trường
hợp này. Vì vậy, tuy có danh vọng, cũng chỉ là hư danh, chẳng có
thực quyền, thực chức. Gặp hệ “Hỏa Tham” hay hệ “Linh Tham”, nếu có
phát cũng chủ về danh mà không chủ về lợi.
      Phá quân tọa Mệnh ở Thìn hoặc ở Tuất, nữ
mệnh, nếu Liêm trinh Hóa Kị hoặc Tham lang Hóa Kị ở cung Phu chủ về
tái giá. Các cung hạn Thất sát, Tham lang, “Tử vi Thiên tướng”, “Thiên
cơ Cự môn”, là những lưu niên hay đại
vận có tính then chốt.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *