Mục lục bài viết
mạch và điều cấm kị trong xây dựng
nhánh đều bài bố thuận, thế đi đoàn tụ, tôn ty có trật tự cùng tiến tới, trên
dưới chiếu cố nhau, phải trái ôm vào, đều là hữu tình mà không quên. Loại long
mạch này rất quý. Nghịch long: Thế long mạch đang đi tới bỗng quay ra sau, cao
thấp loạn xạ, ngọn núi nghiêng lệch, phân nhánh đều theo hướng nghịch lại, thanh
long bạch hổ đều không hộ vệ thế đi trái khuấy. Loại long mạch này cũng rất
xấu….
MẠCH
học thuyết dựa vào việc lựa chọn hoàn cảnh môi trường được phát triển trong thực
tiễn cuộc sống trong suốt thời cổ đại ở Trung Quốc. Nó được sinh ra và phát
triển dưới tiền đề của thực tế cuộc sống, là một hệ thống tri thức có tính ứng
dụng rất cao, có những phương pháp thao tác ứng dụng đặc biệt. Qua một thời gian
dài, do sự truyền bá của phong thủy có tính thần bí, phương pháp thao tác của
phong thủybị người ta coi là điều cao sâu khó nắm bắt, vì vậy người hiểu biết
phong thủy thường chỉ biết điều tất nhiên mà không biết nguyên nhân. Ngày nay,
chúng ta nghiên cứu về phong thủy phải bắt đầu từ việc nghiên cứu phương pháp
thao tác của phong thủy, có như vậy mới có thể hiểu được chính xác toàn bộ quá
trình hình thành của môn phong thủy. Dù là phong thủy phái hình thế hay phong
thủy phái lý khí, “Tướng địa” (xem hình dạng cuộc đất) đều phải tuân theo một
trình tự là: trước tiên lựa chọn hình thế lớn của . núi sông, sau đó lựa chọn
hoàn cảnh môi trường nhỏ của cuộc đất, tức là từ lựa chọn vĩ mô đến lựa chọn vi
mô. Sự lựa chọn hoàn cảnh môi trường vĩ mô và hoàn cảnh môi trường vi mô đều
không thể tách rời la kinh phongthủy. Lựa
chọn mô hình núi sông chủ yếu là việc lựa chọn hoàn cảnh môi trường lớn bên
ngoài nơi ở, như long mạch, sa thủy, huyệt hình, tọa hướng, v.v… tức là tương
đương với 5 yếu tố lớn là “long, huyệt, sa, thủy, hướng” ở trong “Địa lý ngũ
quyết”. LONG MẠCH
LÀ GÌ Long
mạch là địa mạch mạnh mẽ, mềm mại, thoắt ẩn thoắt hiện như rồng. Địa mạch lấy
hướng núi sông làm tiêu chí. Vì vậy, các nhà phong thủy gọi địa mạch là long
mạch, là khí mạch đi theo mạch núi. Nói
về long mạch phải phân biệt mạch chính và mạch nhánh. Tìm được mạch chính mà lại
đặt huyệt ở mạch nhánh là không cát. Long
mạch có quan hệ mật thiết với các núi, gò của huyệt mộ. Nếu chân long (long mạch
chính) thì cần có nhiều gò núi bảo vệ. Nếu có nhiều gò núi hộ vệ, chủ về sự phú
quý. Nhưng nếu mất khí của long mạch là đại hung. Nhận đúng long mạch sau đó phải quan sát thủy khẩu
(gò, núi xung quanh hoặc ở giữa cửa sông), Án Sơn (núi che chắn phía trước huyệt
mộ), Triều Sơn (núi ở phía trước nhưng xa huyệt mộ hơn Án Sơn), minh đường
(khoảng trống phía trước huyệt mộ), Thanh Long (gò, núi ở bên trái huyệt mộ),
Bạch Hổ (gò, núi ở bên phải huyệt mộ). Thế
của long mạch lấy mềm mại, linh hoạt làm quý. Long mạch lên xuống trùng trùng,
uốn lượn như cá nhảy chim bay gọi là sinh long, là địa huyệt cát. Nếu long mạch
thô thiển, ngang, ngược, cồng kềnh, uể oải như cây khô, cá chết là tử long, là
địa huyệt hung.
Nhà phong thủy chia long mạch
thành các loại: cường long, nhược long, phì long, thuận long, nghịch long, tiến
long, thoái long, bệnh long, kiếp long, sát long, chân long, giả long, quý long,
tiện long… Long mạch được núi vây quanh dày đặc là sự bao bọc,
hộ vệ tốt hay còn gọi là có tình – không lệch, không đi ngược. Hình thế long
mạch được xem là cát thì phải đoan trang, nho nhã, tú lệ. Nếu chủ (long mạch
chính) và khách (long mạch nhánh) không phân biệt được rõ ràng, núi mọc lung
tung, đá núi lộn xộn, hình thù kỳ quái là ác hình. Nơi đây an táng rất hung, là
đại kỵ.TẦM LONG
Công việc thứ nhất trong thao tác
xem phong thủy là phải xác định hình thế của lai long (rồng đến, tức hướng long
mạch đến) trên phạm vi vĩ mô. Liên quan đến khái niệm “long mạch”, rất nhiều
sách phong thủy đã bàn tới, tác giả Diệp Cửu Thăng trong tác phẩm “Địa lý đại
thành, sơn pháp toàn thư” có ghi: “Long là gì? Chính là sơn mạch… đất là thịt
của rồng, đá là xương của rồng, cỏ cây là râu tóc của rồng”. Một tác phẩm
phongthủy khác là “Âm Dương nhị trạch toàn thư” cũng có ghi: “Địa mạch đi đứng
nhấp nhô là rồng”. Thật ra, long mạch trong phong thủy là chỉ tình trạng mặt đất
nhấp nhô (xét về ngoại hình, sơn mạch liên quan đến sinh khi ở trong
đất).
Nhìn thế đi của núi non để tìm
long mạch, trong phong thủy là nghiên cứu về nguồn gốc của long mạch đến, cũng
tức là liên quan đến sinh khí. Hoàng Diệu ứng đời Tống đã viết trong tác phẩm
“Bát sơn thiên”: “Phương pháp tìm long, tìm tổ tông, tìm nơi ở của tổ tông, phụ
mậu là phương pháp cao siêu”. Tức ý nói là tìm long trước tiên phải tìm núi tổ
tông, sau đó tìm núi phụ mẫu. Núi tổ tông là. nơi quần sơn phát mạch, núi phụ
mẫu là đầu vào của sơn. mạch ở huyệt trường. Thông thường bắt đầu từ nơi quần
sơn phát mạch, sự sắp xếp của các núi là: “Trước tiên đỉnh nhô cao là tổ, đỉnh
thứ đến là tông, sau đó hai đỉnh bên trái bên phải là phụ mẫu”, “Bắt đầu từ tổ
tông mà thấy thai tức dựng dục của phụ mẫu”, cuối cùng “xem xét hình thế mà tìm
huyệt”. Sở dĩ nhấn mạnh long mạch phải ở xa xôi đến là vì “Ở xa thì long mạch
dài, đắc thủy nhiều, ở gần thì long mạch ngắn, đắc thủy ít”. Trong phong thủy
lấy đắc thủy làm ưu tiên, tàng phong là kế đến, vì vậy long mạch từ xa đến
thường là nước chảy dài mà đến, cho nên mới nói “Nguồn xa chảy dài”. Long
lớn thế lớn, đó là điều trong phong thủy thường yêu cầu. Người ta đã dựa vào hình thái của dãy núi để chia long
mạch ra làm 9 hình thức là:– Hồi long –
Hình thế uốn lượn, hướng về tổ tông giống như rồng khoanh hổ ngồi.– Xuất dương long – Hình thế uốn lượn vươn tới giống
như con thú ra khỏi rừng, con thuyền vượt biển.– Giáng long – Hình thế sừng sững uy nghi, núi cao dốc
đứng, giống như nhập triều đại tọa, phi ngựa phất cờ– Sinh long – Hình thế cong lượn, tầng tầng lớp lớp,
như con rết dương chân, như chuỗi ngọc, như dây leo.– Phi long – Hình thế bay lượn, trầm bổng nhanh nhẹn,
như con nhạn vút lên, như chim ưng sải cánh, hai cánh mở rộng như phượng múa
loan bay.– Ngọa long – Hình thế vững vàng
chắc chắn như hổ ngồi, như voi đứng, như trâu ngủ, như tê giác nằm.– Ẩn long – Hình thế bàng bạc, mạch lý tiềm tàng, hiện
lên như tấm thảm trải dài ra.– Đằng long
– Hình thế cao xa, to lớn hiểm trở như vút lên trời cao, mây mù giăng
tỏa.– Lãnh quần long – Hình thế dựa theo,
thưa dầy tụ hợp như bầy hươu, bầy cừu chạy, như bầy cá bơi, như bầy chim
bay.Ngoài ra, trong “Bát sơn thiên” còn
đưa ra khái niệm “Ngũ thế” như sau:–
Chính thế – Long mạch phát xuất từ phương Bắc hướng về phương Nam. .– Trắc thế – Long mạch phát xuất từ phía tây, kết
huyệt ở phía bắc, mà hướng về phương Nam.– Nghịch thế – Long mạch ngược với thủy mà hướng lên,
thủy thuận chảy xuống.– Thuận thế – Long
mạch thuận theo thủy mà hướng xuống, thủy nghịch mà chảy lên.– Hồi thế – Thân long mạch quay về sơn tổ làm
hướngVì long mạch biến hóa đa đoan, cho
nên chủng loại của nó trong thực tế cũng rất nhiều. Nhưng khái quát lại, còn có
một phương pháp phân loại khác là: sinh long, tử long, cường long, nhược long,
thuận long, nghịch long, tiến long, thoái long, phúc long, bệnh long, kiếp long,
sát long. Trong số đó, sinh long, cường long, thuận long, tiến long, phúc long
là cát long (tức long mạch tốt) tử long, nghịch long, thoái long, bệnh long,
kiếp long, sát long là các long mạch xấu.
Sinh long:
Thế
núi hùng vĩ, tinh phong tú bạt, thế đi lỗi lạc, phải trái có vây cánh, các chi
hoạt bát mà hướng tới trước, đều có sinh khí. Cho nên loại long mạch đến này rất
tốt.Tử long: Thế
núi cứng nhắc như rắn chết, thiếu tay chân, loại long mạch này không hiển
linh.Cường long: Thế
núi hùng vĩ, thế đi ngang tàng, sức mạnh cực lớn như vạn mã phi nước đại. Cho
nên, đây là loại long mạch rất tốt.Nhược
long:
Thế núi đến ốm yếu, giống như bộ
xương khô, phân nhánh co rút, lực của sơn thể cũng vậy. Loại long mạch đến này
không tốt.Thuận long: Loại
long mạch này thế thuận mà xuất, phân nhánh đều bài bố thuận, thế đi đoàn tụ,
tôn ty có trật tự cùng tiến tới, trên dưới chiếu cố nhau, phải trái ôm vào, đều
là hữu tình mà không quên. Loại long mạch này rất quý.Nghịch
long:
Thế long mạch đang đi tới bỗng
quay ra sau, cao thấp loạn xạ, ngọn núi nghiêng lệch, phân nhánh đều theo hướng
nghịch lại, thanh long bạch hổ đều không hộ vệ thế đi trái khuấy. Loại long mạch
này cũng rất xấu.Tiến long: Thế
núi đế nhau dư, phân nhánh đều nhau giống như ôm xuống, hình thế hậu long từng
đoạn tăng cao dần. Loại long mạch này cũng rất tốt.Thoái
long:
Thế núi mất trật tự, tay chân ngắn
dần, thế long mạch lùi về sau, thế đi gắng gượng, bắt đầu nhỏ về sau càng lớn.
Loại long mạch này rất xấu.Phúc long: Long
mạch lấy tổ tông làm tôn quý, bản thân long mạch đến hai bên đều kín kẽ, trước
sau chiếu cố nhau, chân tay tuy không lớn nhưng cồ kho có lẫm, sơn minh thủy tú,
ngọn núi không không cao chót vót .nhưng không thô không xấu. Đây là long mạch
chủ về phát phúc lâu dài.Bệnh long : Bản
thân long mạch bất toàn, có đẹp có xấu, phân nhánh bên có bên không, bên sinh
tử, bên đẹp bên xấu, hoặc một bên thì kín kẽ, một bên thì khuyết hảm. Loại long
mạch này thuộc về long mạch xấu.Đồng bệnh
long:
Long mạch đến tinh phong tú bạt,
hẻm núi kín kẽ, phân nhánh thuận nhiều trông rất ưu mỹ. Nhưng vì chỗ trọng yếu
của long mạch đến: hoặc gãy khúc, hoặc nát vụn, hoặc lẫn lộn đất đá, nên không
tốt.Kiếp long: Loại
long mạch đến này phân nhánh rất nhiều, nhưng lại không đoan chính, đông tây
loạn xạ khiến chân khí phân tán, long mạch không tụ, không tốt.Sát
long:
Long mạch đến mang theo sát khí,
vì bản thân rời sơn tổ mà đến nên đá núi hiểm trở, lởm chởm. Loại long mạch này
rất xấu.“Cửu long”, “Ngũ thế” và cách
phân loại trên đều là những cách phân biệt long mạch trong quá trình xem cuộc
đất trong phong thủy. Tên gọi của chúng bắt nguồn từ “Phái hình pháp”, là một
cách phân loại địa thế, địa thể theo hình dạng thế núi dựa vào địa hình địa thế.
Nhưng những người đi tiên phong của phái Ly khí còn tiến hành phân loại những
hình thế tổng quát của hình dạng núi, đã đưa ra thuyết “Ngũ tinh” và thuyết “Cửu
tinh” .
Thuyết “Ngũ tinh” chủ yếu chịu ảnh
hưởng của thuyết ngũ hành, đã phân chia hình thái của các đỉnh núi ra thành 5
loại kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Kim đầu tròn mà chân rộng, mộc đầu tròn mà thân
thẳng, thủy đầu bằng mà có sóng giống như rắn bơi trong nước, hỏa đầu nhọn mà
chân rộng, thổ đầu bằng mà chân thanh tú đẹp đẽ.Trong phong thủy cho rằng nếu như trong môi trường có
đủ cả năm hình thế núi thì khí vận hành là tốt nhất, trong đó cũng có vẽ đính
kèm rất nhiều những hình đồ của thuyết Mệnh lý tinh quái. Vì
chịu ảnh hưởng của Lạ thư cửu cung, trong phong thủy lại chia thế núi ra thành 9
loại hình, gọi là “Cửu tinh”. Cửu tinh bao gồm: Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn
Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, Tả Phụ, Hữu Bật. Cửu
tinh thông thường liên hệ với quái vị, cát hung và ngũ hành sinh khắc hàm ý cơ
bản của chúng đều theo thuộc tính của ý nghĩa tên tinh tú, ngũ hành và thứ tự
cát hung như sau:– Tham Lang, Sinh Khí,
thuộc mộc – thượng cát.– Vũ Khúc, Diên
Niên, thuộc kim – thượng cát.– Cự Môn,
Thiên Y, thuộc thổ – trung cát.– Tả Phụ,
Phục Vị, thuộc mộc- tiểu cát.– Phá Quân,
Tuyệt Mệnh, thuộc kim – đại hung.– Liêm
Trinh, Ngũ Quỷ, thuộc hỏa – đại hung.–
Lộc Tồn, Họa Hại, thuộc thổ – thứ hung.–
Văn Khúc, Lục Sát, thuộc thủy – thứ hung.– Hữu Bật – Bất Định.Quan niệm cát hung của cửu tinh chủ yếu là dùng vào
việc xem dương trạch (xem nhà ở).Khi phân
biệt về hình thế của long mạch, còn phải chú ý đến hoàn cảnh chung quanh chủ
long, phải có che chắn bảo vệ, hai bên long mạch phải có tiền hô hậu ủng mới có
thể cho là khí thế to lớn hùng tráng.
QUAN SA
Sa
trong phong thủy là chỉ những đồi núi nhỏ xung quanh chủ long, đặc biệt là chỉ
những thế núi tầng tầng lớp lớp bao xung quanh huyệt trường. Có loại sa do vị
trí sắp xếp và tác dụng khác nhau mà có những tên gọi khác nhau. Trong sách “Bát
sơn thiên – Luận sa” có viết “Đứng thẳng hai bên, gọi là thị sa, có thể che chắn
ác phong, rất có lực, bao bọc xung quanh long, gọi là vệ sa, có thể làm tán gió
bên ngoài, tăng khí thế bên trong, bao bọc phía sau huyệt gọi là nghênh sa, thấp
nhỏ như vái chào, nhường nhịn, giống như thị vệ đứng chầu phía trước, gọi là
triều sa, bất kể xa gần đều rất quý” Trong phong thủy còn đặc biệt chú trọng lựa chọn hộ sa
bên trái, bên phải. Sa bên trái của huyệt trường gọi là thượng sa, hay còn gọi
là Thanh long sa; sa phía bên phải gọi là hạ sa hay còn gọi là Bạch hổ sa. Sở dĩ
có phân biệt trái phải trên dưới, ngoài việc liên quan hệ với quan niệm tôn
trọng bên trái của người Trung Hoa, có thể còn có quan hệ đến vấn đề chắn gió,
vì vậy thượng sa ở bên trái thường nên cao to hơn hạ sa ở bên phải. Qua
đó có thể thấy bất kể một huyệt địa phong thủy lý tưởng nào, cũng đều không thể
tách rời sự bảo vệ của cát hộ sa bên trái bên phải, ở phía. trước cũng không
được mở ra xa quá, mà phải có án sa, triều sa bảo vệ từ đó hình thành hoàn cảnh
môi trường có thể chắn gió tụ khí. Trong phong thủy cho rằng các tầng lớp của sa càng
nhiều càng tốt, “tầng tầng hộ vệ” phải hơi nghiêng và ôm vào phía trong, trông
rất hữu tình, vậy mới có thể hình thành “phát phú phát quý chi địa” (đất phát
phú quý), còn dưới chân sa phải có nước chảy uốn khúc, chậm rãi, đó mới gọi là
phong thủy tốt .
Trong phong thủy còn chú ý đến
hình thái bên ngoài của sa, cho rằng sa có ba loại: đầy đặn tròn kín ngay thẳng
là dáng phú (giàu); thanh tú nhỏ nhắn đẹp đẽ là dáng quý (sang), nghiêng ngả,
phình to là dáng thấp hèn…, vỡ nát, nhọn hoắt, nhỏ hẹp, thấp bé, nghiêng ngả,
thô kệch, gầy yếu, ngắn, lệch đầu, quay lưng, gãy quẹo, đều là loại tiềm ẩn mối
họa”. Nói tóm lại những sa nhìn bên ngoài dễ chịu thoải mái là sa tốt, sa quý
nhìn bên ngoài mà cảm thấy khó chịu là sa hung, sa xấu.
QUAN THỦY
“Bát
sơn thiên” viết: “Phàm khi nhìn núi (sơn, long mạch), đến nơi có núi, trước tiên
phải xem nước (thủy)… nơi nước đến là nơi long mạch phát, nơi nước hết cũng là
nơi long mạch tận. Vì sao xem núi (sơn) trước tiên phải xem nước (thủy)? Vì sơn
và thủy luôn đồng hành với nhau. Biết nguồn gốc của thủy, là cũng biết nơi phát
mạch của sơn; biết nơi tận cùng của thủy là cũng biết nơi long mạch chấm
dứt).
Khi xem thủy, các thầy phong thủy
căn cứ vào hình thái ngũ hành để chia trạng thái vây bọc của thủy ra thành năm
loại hình: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Đây gọi là năm loại thủy thành. Thủy thành
hình là lấy nước làm khuôn mẫu, thủy thành cố tác dụng giới hạn thủy, làm cho
long khí không bị tán thất.
Trong “Ngũ thành” có Kim thành và
Thủy thành, nước chảy như dải lụa, quanh co hữu tình cho nên là nơi đất thượng
quý (tốt nhất), Mộc thành và Hỏa thành có thế nước như tấn công, vỡ vụn, nhọn
nghiêng cho nên không thể cho là cuộc đất tốt; còn thổ thành thì có hung, có
cát, dòng chảy nhẹ nhàng, sâu, dâng nhẹ là tốt dòng chảy xiết là xấu. Trong
phong thủy người ta căn cứ tình hình nước chảy trên mặt đất để chia ra làm tốt
xấu, cho rằng chảy vòng vèo uốn khúc bao quanh hữu tình là đẹp, là cát; chảy
xiết, đâm thẳng, cuốn đi là xấu, là hung. Quan điểm về cái đẹp và cái xấu này
thoạt nhìn tường như rất hoang đường, nhưng trên thực tế nó là sự kế thừa và
phát triển từ kinh nghiệm thực tế của cuộc sống, từ đó hình thành nên nền văn
hóa truyền thống với mục tiêu tìm kiếm phong cách kín đáo, sâu sắc trầm
lắng.
Vì vậy yêu cầu đối với “Thủy khẩu”
là: “Nguồn phải bao quanh hữu tình, không được đâm thẳng, bít kín; cửa ra phải
kín kẽ, sợ nhất là đi thẳng ra xa mà không có uẩn khúc quay về. “Thủy khẩu” là điểm quan trọng nhất trong việc xem thế
nước. Thủy khẩu là chỉ nơi nước chảy vào và nơi nước chảy ra của một khu vực nào
đó, thông thường là chỉ nơi nước chảy ra. Thủy chủ về tài vận, cho nên tác dụng
của thủy khẩu là tụ tài (tập trung tiền tài) Sách “Nhập địa nhãn đồ thuyết –
“Thủy khẩu” viết: “Phàm nơi thủy đến gọi là thiên môn, nếu đến mà không thấy
nguồn nước thì gọi là thiên môn khai (cửa trời mở); nơi thủy đi gọi là địa hộ,
không thấy thủy đi thì gọi là địa hộ bế (cửa đất đóng). Nước chủ về tài, cửa vào
mở thì tài đến, cửa đi đóng thì tài dùng bất tận.” Vì
vậy trong “Táng thư” mới viết: “Phép xem phong thủy, lấy đắc thủy là ưu tiên,
tàng phong là kế đến.” Trên thực tế một môi trường phong thủy tốt tuyệt đối
không thể thiếu tác dụng của thủy. Thủy một mặt là phản ảnh của khí hậu, mặt
khác lại có ảnh hưởng đến thổ nhưỡng, lớp phủ thực vật của khu vực, cuối cùng là
ảnh hưởng đến cảnh quan sinh thái của một khu vực. Đối với cuộc đất để làm nơi ở
mà nói, nước lại là thứ không thể thiếu được cho sản xuất và đời sống. Vì vậy
các làng xóm thời xưa đều đặc biệt chú trọng việc lựa chọn thủy khẩu, lấy thủy
khẩu làm đường giao thông chính, làm tiêu chí cho các vườn cảnh của làng xóm.
Nhưng nơi này dân cư thường giàu có hơn những nơi khác, điều này chúng ta có thể
thấy rõ trong thực. tế.
Chính vì nước là tiêu chí của tài
nguyên, vì vậy ở rất nhiều khu dân cư ở Trung Quốc đều yêu cầu phía trước nhà
phải có sông nước, phía trước nhà không có sông nước thì phải đào hồ ao để làm
cho tài nguyên phong phú. Thông thường người ta cho rằng: “Trữ nước trong hồ ao
đủ để dưỡng địa mạch, dưỡng chân khí”. Công dụng của việc đào hồ ao trước nhà
còn có lợi cho sản xuất và sinh hoạt.
ĐIỂM HUYỆT
Huyệt trong phong thủy cũng gần giống như huyệt vị
trong cơ thể con người, là nơi có thể lấy được khí ra, khu được khí về, cũng
giống như huyệt vị của cơ thể con người thông với kinh lạc, huyệt vị của phong
thủy cũng thông với sinh khí của long mạch. Vì vậy trong phong thủy việc tìm
huyệt là một việc hết sức quan trọng, muốn cảm thụ được sinh khí của long mạch,
phải tìm được chân huyệt. Các thầy phong thủy cho rằng, huyệt là do trời đất tạo
nên, tức là: có long mạch tồn tại thì phải có huyệt, chân long phải kết chân
huyệt. Hình dáng của huyệt phong thủy, thường do sự khác
nhau của địa hình cục bộ nên chia ra làm các loại:– Oa huyệt; Kiềm huyệt, Nhũ huyệt, Đột
huyệt.Oa huyệt hay còn gọi là khai khẩu
huyệt (huyệt mở miệng). Trong Táng thư nói rằng loại huyệt này giống như tổ yến,
thường gặp ở nơi núi cao.– Kiềm huyệt,
giống cái kềm có hai chân mở ra, còn gọi là khai cước huyệt, ở nơi núi cao hoặc
nơi bình địa đều có thể gặp loại huyệt này.– Nhũ huyệt, huyệt mở rộng, ở giữa sinh nhũ (vú), còn
gọi là huyền nhũ huyệt, nhũ đầu huyệt, ở nơi đất cao hoặc bình địa đều có thể
gặp.– Đột huyệt, huyệt bằng ở giữa nổi gồ
lên, còn gọi là bào huyệt. “Táng thư” nói loại huyệt này hình dạng giống như
chiếc nồi úp ngược, thường gặp ở nơi bình địa. Hình dạng huyệt trong phong thủy, từ trái sang phải
là: oa huyệt, nhũ huyệt, kiềm huyệt, đột
huyệt.
Kiêng xây nhà, sửa nhà khi trong gia đình có người đang mang thai. Đặc biệt
kiêng việc cải tạo bếp nếu không người chửa sẽ bị sảy
thai
hung.
bắc nhà khuyết một góc (lấy mặt nhà làm chuẩn) sẽ hãm đường con cái, mắc bệnh về
đường hô hấp.
nam nhà khuyết một góc, không lợi cho việc sinh và nuôi dạy con
cái.
nam khu đất của nhà khuyết một góc, sức khỏe sa
sút.
góc ở phía đông bắc khu nhà, sức khỏe sa
sút.
tam giác, trước nhọn sau rộng, hao tổn người và của, bất lợi cho nữ giới. Nếu
đất trước rộng sau nhọn gọi là “đuôi sao chổi”, đại hung, trong nhà có người tự
sát hoặc gặp tai nạn.
hoặc mái nhà bên trái dài, bên phải ngắn sẽ tổn hại đến vợ
con.
hoặc hình nhà bốn góc đều khuyết, đại hung.
Kiêng đất ở hoặc hình nhà chữ nhật, mặt nhà quay về hướng đông tây, đại
hung.
hình mái nhà phía nam, bắc đều khuyết, dễ có chuyện thưa kiện, bệnh
tật.
hoặc hình mái nhà phía đông khuyết lõm, gia cảnh thiếu
thốn.
hoặc hình mái nhà khuyết lõm phía bắc, rất dữ, đại
hung.
hoặc hình mái nhà khuyết lõm phía nam, trong nhà thường cãi cọ, không
yên.
hoặc hình mái nhà khuyết lõm phía bắc, rất dữ, đại
hung.
to trong khu đất ở, rất dữ.
nhà ở khu đất trống (khu nhà kiểu hình móng ngựa) trồng cây hoặc làm bể nước,
rất dữ.
dăm mảng lớn trong sân vườn, sẽ có âm khí, gia cảnh sa
sút.
vào khu nhà mình ở, rất dữ.
vây quanh nhà quá cao, người trong nhà như thú bị nhốt, dẫn đến cùng
khốn.
người ở ít, rất dữ, vận hạn sẽ nghèo khó.
Kiêng nhà ở dài ngoẵng, người ở bệnh tật.
Kiêng chia số phòng trong nhà làm 3, 4, 8 phòng, rất
dữ.
phòng chia đôi sàn, rất dữ, con cháu hư hỏng, tiền tài thất tán, hoặc gia cảnh
sa sút.
khoảng không gian không sử dụng, rất dữ.
Kiêng nhà ở mà cửa chính thành một đường thẳng, không
tốt.
cửa hàng mà quay về hướng đông bắc hoặc tây nam, rất dữ, nhà có khí âm, buôn bán
kém, địa vị, tiền tài sa sút.
Kiêng nhà ở độc lập mà không có cửa sau, vợ chồng không sống với nhau dài
lâu.
sát vách bếp, rất dữ, nhất là với trẻ nhỏ.
Kiêng đặt tủ quần áo quá cũ trong phòng ngủ, đại
hung.
quay về hướng tây nam.
ra cửa để ngọn lửa ở bếp lộ ra ngoài, làm ăn không thuận lợi, hao tài tốn
của.
tắm ở hướng tây nam, đông bắc, rất dữ.
Kiêng đặt phòng vệ sinh giữa nhà ở, chủ nhà đau ốm, bệnh
tật.
hướng với cửa chính, rất dữ.
Kiêng cầu thang đặt chính giữa nhà, đại
hung.
cửa sổ hướng bắc, phụ nữ kinh nguyệt không
thuận.
lộ ra ngoài, người ngoài đi lại nhìn thấy.
Kiêng hiên nhà có cây to xuyên qua, rất dữ.
Kiêng trong nhà có bốn cột bốn phía, sát cửa, đại hung, người nhà dễ mắc
bệnh.
vào nhìn thấy cột chính lớn nhất của nhà, đại hung, con bất
hiếu.
không phải là một cây dài suốt mái, đặc biệt là nhà mái bằng, đại
hung.
nhà thấp hơn sàn ngoài nhà, dễ bị bệnh, tai họa, cãi
cọ.
diện nhìn vào nhà, mái có hình lồi, chữ sơn có hỏa tai, tán tài, không
tốt.
có hình lồi chữ sơn, dầm nóc giữa cao, trước sau đều thấp dẫn đến hao tài, cô
độc.
tơi mềm, đại hung, người ở thường sa sút.
Kiêng xây nhà trên ruộng cạn đã lấp, không lành vì ma quỷ thường quấy
nhiễu.
trên đất cỏ mọc tốt tươi. Phải nhổ cỏ tận gốc nếu không sẽ có tai họa, vận hạn,
khổ sở liên miên.
ngoài vào trong, phát triển không tốt.
Kiêng sửa nhà cục bộ khi có người đang ở, gia cảnh sa sút, con cháu không thuận,
có thể mất giống.
tầng của một tầng với móng nhà cũ, đại
hung.
ngôi nhà riêng biệt thành một, nối hai giọt gianh lại, đại hung. Vận nhà sa sút,
gia sản khuynh bại. Nếu nối giọt gianh mà dỡ cột thì càng nguy hiểm, có thể dẫn
đến chết người.
các khe hở giữa bốn bức tường, đại hung, trong nhà có người ốm, thường có ác
mộng.
tường quá nhiều đồ trang trí, đại hung.
Kiêng khi cất nhà, quay ngược đầu vật liệu để sử dụng chẳng hạn quay gốc cây
(gần rễ) lên trên, ngọn xuống dưới để sử dụng, người trong nhà sẽ gặp bất
trắc.
hoặc trụ cửa cong, người trong nhà sẽ mắc bệnh khó
chữa.
cửa lớn, không tốt.
sân vườn, hệ thống thoát nước đặt ở phía tây nam, không
tốt.
phía tây nam sân vườn, đại hung.
Kiêng lò bếp gần sát giường, có họa hư hao.
Kiêng phòng ngủ có dầm bắc qua giữa căn phòng, đại
hung.
nhà ở chiếu thẳng vào góc nhà của người khác, đại
hung.
để phơi quần áo trên kệ bếp, đại hung, dễ bị tai
họa.
ở phía tây nam, đông bắc, đại hung.
Kiêng mở cửa mái quá lớn, dưỡng khí quá thịnh, dễ gặp tai
họa.
lò để sưởi ấm ở vùng giữa nhà ở, chủ nhân dễ gặp tai
họa.
cửa sổ phần phía nam nhà ở mà không có mái che, tình cảm vợ chồng đổi thay,
không cãi cọ.
chứa dưới giường, đại hung.
hướng thẳng ra cửa, tối hay nằm mê thấy ma
quỷ.
của bàn trang điểm chiếu thẳng vào giường không
tốt.
bếp có đường cái, phía sau có đường ngang.
Kiêng sau bếp có giếng, hại cho phụ nữ.
Kiêng đặt bếp ở quay ra ngoài hai mái, dễ gây thị phi, thất tán tiền
của.
bếp đặt dằm, phụ nữ sẽ sinh lắm bệnh.
Kiêng mở cửa sổ lớn trên tường rào, thì phi, phiền
phức.
trước rộng, sau hẹp, đại hung, người nhà có thể bị bệnh nặng hoặc tự
sát.
phía trước nhọn, sau rộng dài, gọi là “thái điền bút”, người trong nhà kinh
doanh thua lỗ.
nhà người khác thành hình góc nhọn hoặc góc nhà của người khác chĩa vào nhà
mình, bất lợi, góc chĩa bên phải, nữ bị đau, người nhà hao tổn về vật chất và
tinh thần.
bao có mái hiên kiểu cổ quá rộng, thành hình hành lang, sẽ có chuyện kiện
tụng.
quanh ngoài cửa ra vào kiêng khuyết góc, sẽ ốm đau, kiện
tụng.
quanh nhà cao quá hoặc thấp quá vì sẽ có con gái
thọt.
xây tường bao trước, sẽ dẫn đến tù tội, hoặc gặp trắc
trở.
chọc thẳng vào nhà, sẽ mất hết tài sản.
Kiêng trước nhà có rãnh nước mà người ta bắc cầu qua đó, đời sống tinh thần của
người trong ngôi nhà đó sẽ bị quấy rầy.
Kiêng cầu gỗ chọc thẳng vào nhà từ phòng phía tây bắc, chủ nhân ngôi nhà sẽ
khuynh gia bại sản, tổn thọ.
Kiêng trước nhà có đền miếu, gia đình không yên ổn, làm ăn thất tài, phụ nữ bị
quỷ thần quấy nhiễu.
vào bốn phía xung quanh là núi cao, không
tốt.
nhà có núi cao, học không thành đạt.
Kiêng trước nhà có núi chạy liên tục từ phải sang trái, có nhà cũ nát, bất yên,
hay gặp chuyện kiện tụng.
đá chắn ngang đối diện với cổng, con cái gặp
nạn.
có đống đá, có thể mắc bệnh hô hấp.
Kiêng trong cửa hoặc trong nhà có đống đá, sợ người chửa trong nhà bị sảy hoặc
mắc bệnh về mắt.
có đá mọc, phụ nữ trong nhà mắc bệnh đau
tim.
đặc biệt trước cửa có đá chắn ngang, chó trong nhà hay cắn người, người thường
xuyên bị bệnh.
cối ở giữa sân vườn, hay bị bệnh tật.
Kiêng rễ cây trước cửa lộ trồi ra, tổn hại sức
khỏe.
nhà có bụi trúc, rừng trúc, người trong nhà không vui
vẻ.
hoặc tây nam gần nhà có cây, sợ trẻ con ngã từ trên cây xuống đất
chết.
nhà quấn nhiều dây leo, sẽ có chuyện thị phi, cãi cọ, tự
sát.
nhà phụ có mái che nối với nhà chính vì sẽ có tai họa, gia đình không
yên.
hiệu cao lớn hơn nóc nhà vì sẽ thất tài, hỏa tai, trộm cắp, mất quan
lộc.
ngã tư hướng về đông bắc, vợ vô sinh.
Kiêng trước nhà có đường hình vòng cung vòng ra phía ngoài, sợ đàn ông trong nhà
chết, phụ nữ dâm loạn, thua kiện, buôn bán thất
bát.
nhà có ao hồ hình dáng có góc nhọn chọc thẳng vào cửa nhà, người nhà có bệnh về
mắt, phụ nữ mắc nhiều bệnh.
nhà bên phải có ngã tư đường, đường ngang qua ngã tư lại là đường cong hướng ra
ngoài, sẽ có người tự sát, tổn thất tiền của, kiện
tụng.
nhà có đường rẽ hai bên, lại có hồ nước, nhà ở rất dữ, bệnh tật, người nhà bị
chết.
nhà có nhà cũ nát, cửa không đóng được, sẽ có nhiều chuyện không hay, bệnh tật,
ma quỷ quấy nhiễu.
phía là đường, sẽ rơi vào chữ “tù”, khó phát
đạt.
nhà là số chẵn, sợ tai họa, bệnh tật, phá sản hoặc chết
người.
nối với một nhà nhỏ thấp, sợ hao tổn tiền của, tai họa, bệnh
tật.
phía trước, phòng khách phía sau, sợ thoái tài, làm ăn sa
sút.
chiếu thẳng ra cổng, dễ ham muốn, dâm dục.
Kiêng phòng ngủ vuông góc với hành lang hoặc đường qua lại, vợ dễ tư thông với
trai.
tây, có một gian làm thành hai tầng, các gian khác một tầng, người trong nhà ham
mê tửu sắc.
quanh nhà dây leo phủ kín, sợ âm khí, kiện
tụng.
tường và cổng đối diện nhà khác mà lại thấp hơn, sẽ suy
thoái.
từ trong nhà ra chảy từ phải qua trái, đại
bại.
theo hướng thái tuế, tai họa rất nặng.
Những năm thái tuế, kiêng đặt thần vị lưng quay về hướng nam, mặt nhìn ra hướng
bắc, nguy hại đến tính mạng.
Những năm sửu, kiêng đặt thần vị ngồi ở tây hoặc nam, mặt nhìn ra hướng bắc,
bệnh tật hoặc chết người.
kiêng đặt thần vị ngồi ở tây, mặt quay về hướng đông, nhà có tang hoặc suy
thoái.
kiêng đặt thần vị ngồi ở phía tây hoặc tây bắc, nhìn ra hướng đông hoặc đông
nam, con cái không tốt.
kiêng đặt thần vị ngồi ở bắc hoặc tây bắc, mặt quay về hướng nam hoặc đông nam,
nhà không yên.
kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng bắc, quay mặt về hướng nam, sẽ gặp thủy
hỏa.
kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng bắc hoặc tây bắc, mặt nhìn về hướng nam hoặc tây
nam, họa không lường được.
kiêng đặt thần vị ngồi ở đông bắc, quay mặt về hướng tây, tây nam, đặc biệt hại
cho nam giới.
kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng đông, mặt quay sang hướng tây, sợ sẽ khóc quanh
năm.
kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng đông hoặc đông nam, mặt nhìn ra tây hoặc tây bắc,
đàn ông bị tổn hại.
kiêng đặt thần vị ngồi ở hướng nam hoặc đông nam, mặt nhìn về phía hướng bắc
hoặc tây bắc, bệnh tật quanh năm.
Kiêng làm nhà bằng loại gỗ nhiều mắt, sợ mụn
nhọt.
khi xây nhà, chẳng hạn kiêng dùng các loại cây như dẻ,
hòe.
hai bên cổng chính to nhỏ, bên trái lớn, sẽ thay đổi vợ, bên phải lớn, sẽ tổn
thọ.
nhỏ ra vào hai bên cổng chính, trong nhà không có trật tự, kỷ cương, lớn bé coi
khinh lẫn nhau.
bao hoặc lan can ở ngoài trời, sợ bị bệnh tim, đau
mắt.
đặt cạnh kho chứa, sẽ bệnh tật.
Kiêng các phòng trong nhà hình chữ T hoặc tam giác, sợ bệnh tật, sống phải chạy
vạy
nhìn thấy mồ mả vì mồ mả thuộc âm địa, nên người trong nhà sẽ dễ bị ám ảnh không
tốt cho sức khỏe.
dựa vào núi.
ngói xanh vì đó là biểu hiện nhà có tang.
Kiêng hành lang dài chạy xuyên nhà vì không
lành.
xung (hướng đường chĩa thẳng vào nhà)
Khi động thổ, kiêng tuổi năm thái tuế vì ở trên đầu thái tuế sẽ gặp rất nhiều
nguy hiểm, rủi ro.
đường nơi trũng thấp khí hỗn tạp, có hại.
Kiêng góc mái nhà nhọn uốn lượn chĩa thẳng vào cửa ra vào hoặc cửa sổ vì dễ gặp
tai họa nghiêm trọng.
tượng đá cỡ lớn.
cao tầng gần đường cầu vượt hay đường cao tốc vì nó giống như thanh kiếm dài
chém ngang sườn, tinh thần không yên, dễ gặp rủi
ro.
dưới đường sắt vì vận khí thấp, khó gặp may
mắn.
đuồn đuỗn sẽ không an toàn, làm ăn bị cản
trở.
tầng đứng chơ vơ, ở lâu sẽ bị cô lập, khó gặp
may.
cối mọc um tùm vì đó là biểu hiện vận mạt, khó phát
triển.
đường giao nhau, dễ gặp chuyện bất ngờ, không yên
ổn.
thấp vì đó là biểu hiện vật mạt, không tốt.
Kiêng xây nhà trên mảnh đất hình tam giác nhọn vì đó là đại hung do thế đất bị
cắt. Cách chống lại vị trí theo hình cái kéo này là chừa chỗ góc nhọn để trồng
cây sẽ giải được sự không may mắn.
Kiêng nhà ở hình tròn vì theo quan niệm của người Trung Quốc, nhà ở phải tĩnh,
vì thế mà không được tròn vì tròn là động, dễ xảy ra chuyện biến động, không yên
ổn. Kiêng nhà ở có tường che cao ngăn trước mặt vì không may mắn, nhất là khi có
đường cao tốc chạy qua.
đầu từ đoạn xuống dốc vì khí cũng như nước chảy xuống chỗ thấp nên ở trong ngôi
nhà đó sẽ không may mắn.
cư cao tầng lồi lõm, nhiều góc nhọn vì dễ có điều tiếng, không thể có điều
lành.
sau đền vì đền là đất âm, khó tụ khí, ở sẽ gặp điều chẳng
lành.
hồ nằm phía đông vì ánh sáng mặt trời chiếu lên mặt nước, phản xạ gây hoa
mắt.
hồ ở phía tây vì ao hồ ở phía tây tức là “bạch hổ khai khẩu” sẽ gặp chuyện chẳng
lành.
trên lớp phù sa của dòng sông cạn kiệt vì cửa sông bao giờ cũng là nơi “tán
khí”, ở lâu không có lợi.
và xây thêm tường cho cao hơn vì như thế dễ gặp rủi
ro.
vực, trên sườn núi vì dẽ nguy hiểm, tâm lý bất
an.
mở cửa nhìn thấy núi vì khí bị cản trở đại
hung.
nhìn vào cổng nghĩa trang, không lành.
Kiêng khung cửa nhà cong vênh, luôn có tai họa, bệnh
tật.
tận cùng ngõ hẻm vì mọi tia xạ như tên bắn xuyên vào nhà, đại kỵ. Người ở trong
căn nhà đó dễ bị điều tiếng thị phi, gặp nhiều bất lợi, thậm chí phá
tài.
cây leo bò trên tường rào, sẽ có chuyện không
lành.
có cây cầu chĩa thẳng vào theo hướng tây bắc, gia đình sẽ lụn bại, sức khỏe giảm
sút, hao tài, tốn của.
rác rưởi chất đống vì sẽ hẩm hiu.
Kiêng nhà ở gần nhà tang lễ vì đất ở đây âm khí rất nặng, không thể tốt
lành.
cửa lớn đối diện với đường thẳng tắp, kiểu nhà này gọi là nhà ở đầu đường chữ T,
không tốt, đại hung.
đê, sức khỏe và vận thế không tốt.
Kiêng nhà hình tàu thuyền, khó ở được lâu.
Kiêng làm phòng ngủ nếu căn phòng có góc nhà bên cạnh chiếu thẳng
vào.
trên đất cũ là nhà xưởng vì đại hung.
Kiêng trước nhà có cây to chắn lối hoặc cây khô vì dễ lụn
bại.
quanh nhà quá cao, nhất là có dây thép gai vì ở lâu sẽ cùng
khốn.
có đường đi cong như hình cây cung, mặt chính ngôi nhà như có cây cung chĩa vào
đe dọa, dễ có sự rủi ro, không có lợi cho mọi người, đặc biệt là phụ
nữ.
bên cạnh để ra vào vì nhà bị thoát khí, không
tốt.
cao, giữa thấp, khó an cư, không lành.
Kiêng sau nhà có tầng đá nằm kê sát, vận nhà khó phát triển, không lợi cho công
danh phú quý.
dưới làm nhà ở, tầng trên mở cửa hàng, không
lành.
cạnh cầu vượt hoặc đường cao tốc nhất là nằm ngoài vành cung tròn của đường vòng
cầu vượt hay đường cao tốc trên cao vì nó giống lưỡi liềm cứa ngang lưng, rất
xấu.
trúc như bức màn thủy tinh trong suốt, phạm điều kiêng kỵ “tiết” (thoát ra),
trong nhà hay cãi cọ, đàn bà dễ sinh ngoại
tình.
che hướng đông, hướng nam nhà, âm khí nặng nề, hại cho sức
khỏe.
tường rào vì người ta gọi kiểu nhà đó là “chim sẻ mở mồm”, ảnh hưởng xấu, dễ
sinh điều thị phi, luôn buồn phiền, rầu rĩ, khó
chịu.
sông hoặc mương to thoát nước vì khí ẩm, môi trường không sạch, có hại cho sức
khỏe, tài khí dễ mất mát.
các tượng đài có nhiều góc cạnh nhọn gây xung sát, không
lành.
cây to xuyên qua nóc nhà hoặc mái nhà, không
lành.
tháo đi một mái, thể hiện sự suy sụp, không
lành.
giữa hai cầu vượt, một cái cao, một cái thấp như hình lưỡi kéo, khó tránh điều
dữ, buôn bán không có lợi.
thấy ngay bếp, nhà ăn hoặc buồng vệ sinh, vận nhà sẽ suy khi ở một thời
gian.
đối diện cửa buồng ngủ vì sẽ khiến người trong đó đắm say sắc
dục.
đi trong nhà hình thành chữ lồi vì vận nhà gặp nhiều bất
lợi.
nghiêng theo đường dốc, sợ gặp vận thoái.
Kiêng luồng phản quang chiếu đến như lưỡi kiếm, không
tốt.
phòng không có cửa sổ, sợ ảnh hưởng xấu đến tài vận và sự phát
triển.
cùng ngõ cụt, sẽ có nhiều chuyện không hay, lắm điều thị phi, kiện cáo, trở ngại
cho sự nghiệp.
lồng sắt quá dày, sẽ cản trở vận thế, khó hưng
thịnh.
vách lở vì bại vận.
có nhiều kiến trúc, cột trụ lớn sẽ áp chế khí nhà mình, khó phát
triển.
bừa bãi trên nóc nhà, sẽ gặp điều không
lành.
giữa hai ngôi miếu, sẽ gặp vận xấu, sinh nhiều chuyện không
lành.
cụt lộ xung, bất lợi cho việc học hành, thi
cử.
giữa hai buồng ngủ, bất lợi cho người trong hai buồng
đó.
dưới cầu thang vì lửa bếp thể hiện vận khí của nhà, nếu bị đè lên cả nhà sẽ khó
phát triển.
trên bãi tha ma sau khi mồ mả đã được di dời đi. Để an toàn, phải làm lễ siêu độ
theo nghi thức tôn giáo nếu không dễ gặp
hung.
nằm giữa các nhà to, cao vì sợ buôn bán khó vươn
lên.
tân hôn chiếu thẳng vào cửa đền, cửa miếu sẽ không tốt cho chuyện hôn nhân và
người mang thai.
của người Đài Loan xưa
không được xây dựng trên sườn núi, đường phân hai phần núi hoặc lối ra vào khe
núi nếu không sẽ ảnh hưởng tới phúc trạch và dễ bị bệnh
tật.
chỗ giao nhau của hình chữ đinh tức là phần đường vuông góc chọc thẳng vào nhà,
trước mặt nhà kiêng không có con đường hẻm chạy xộc thẳng vào nhà vì vô cùng đại
họa. Người ta cho rằng hỏa tai thường đến với nhà loại này, tai họa có khi giáng
từ trên trời xuống hoặc bệnh tật, buôn bán thua lỗ, gây ra kiện
tụng.
ngõ cụt, dễ xảy ra tai họa, thua kiện thị phi, phá sản, bệnh
tật.
ngữ trước cửa chính, âm khí khó thải ra, dễ nguy
hiểm.
chính có cây chết khô, gia chủ sẽ nghèo hèn, không tốt với người
già.
ở phía tây bắc nhà vì theo quan niệm xưa, tây bắc là căn, cây to là mộc tinh
canh giữ cho người trong nhà, nếu chặt đi sẽ gây đại
họa.
kiêng xây cao hơn xung quanh vì sẽ không giữ được tiền tài, tâm lý không yên ổn,
âm dương không cân bằng, dương thịnh âm
suy.
con cái (trừ con trưởng) trong phần đất của cha mẹ vì cả hai nhà sẽ sa
sút.