Untitled Post

Cd__sm
by Unknown
Cd & sm
Mục Lục sách “Cuộc đời và số
mệnh”
Tác
giả:     NGUYỄN PHÚC VĨNH TÙNG
Đời người mười hai bến nước,
Thân cư bến nào ? Mẫu người Thân Mệnh Đồng
Cung      Mẫu người Thân Cư Phúc Đức  Mẫu
người Thân Cư Quan LộcMẫu người Thân Cư Thiên Di  Mẫu người Thân Cư Tài
Lộc  Mẫu người Thân Cư Phu Thê  
          
         Mẫu người Mệnh Vô Chính Diệu
          
            Mẫu người Tham Vũ
Đồng Hành  Mẫu người Nửa Đời Nửa Đạo
          
         Mẫu người Hà Tì Ngọc  Mẫu
người Nhật Nguyệt Đồng Lâm         Mẫu
người Thai Phục Vượng Tướng         Mẫu
người Khốc Hư           
         Mẫu người Văn Tinh Ám Củng
          
            Mẫu người Dịch
Mã            
       Mẫu người Đài Các
          
         Mẫu người Đào Hoa
                 
  Mẫu người Tài Mệnh Tương Đố
          
       Mẫu người Bạch Thủ Thành Gia
          
        
           Mẫu người Lưng
Trời Gãy CánhMẫu người Nhật Trầm Thủy Để
          
       Mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt        
Mẫu người Cự Cơ Mão Dậu
          
         Mẫu người Đa Tài Đa Năng Như vậy,
cải số được không ?
BÀI 1
ĐỜI NGƯỜI MƯỜI HAI BẾN NƯỚC
THÂN CƯ BẾN NÀO ?
Khi nói đến Dịch Lý, Tử Vi,
Phong Thủy và Tướng Mệnh thì hầu hết người Á Đông chúng ta ai cũng công nhận đó
là những khoa học huyền bí rất có giá trị của người Trung Hoa từ hơn bốn ngàn
năm về trước. Nói là có giá trị vì những khoa học này tuy gọi là huyền bí nhưng
lại rất sát thực với cuộc sống hiện tại và giúp ích cho chúng ta rất nhiều
trong những sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho chúng ta
khi đang sống trên đời biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa đổi cho tốt đẹp hơn căn
nhà chúng ta đang ở, cơ sở thương mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta
buông tay từ giã cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi để yên giấc ngàn thu.
Quan niệm này rất quan trọng đối với người xưa, vì đây không phải cho chính bản
thân chúng ta nữa mà cho con cháu chúng ta sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long khi
còn tại vị, ngài đã đích thân chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi vậy,
những triều vua về sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như vua Gia Long, lại thêm
lịch sử đã có nhiều biến chuyển, nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được hơn 150 năm.
Khoa Tướng Mệnh giúp chúng ta biết người, biết ta trong vấn đề dùng người, kết
bạn hoặc trong những việc gi­ao dịch hằng ngày rất dễ dàng, chỉ qua một cái bắt
tay nhau, đối diện nhau trong vài giây phút hoặc trao đổi với nhau vài câu
chuyện mà có thể tránh được cái ân hận “lầm người” như chúng ta thường thấy.
Còn thâm sâu hơn, như khoa Tử Vi Đẩu Số cũng giúp cho chúng ta biết mình, biết
người một cách tường tận từ những chi tiết nhỏ nhặt cho đến tổng quát cả một
đời người…
Những khoa học huyền bí nêu
trên tuy có đối tượng khác nhau, nhưng mục đích giống nhau, ví dụ, đối tượng
của khoa Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc sống là nhà, là cơ sở làm ăn, lúc
chết là mộ phần, còn đối tượng của khoa Tử Vi Đẩu Số là con người, và cuộc đời
của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Còn điểm tương đồng là những
lãnh vực mà các khoa này diễn đạt và chi phối trong cuộc sống hằng ngày của một
đời người. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy chia căn nhà của chúng ta ra làm 8 cung,
mỗi cung là biểu tượng một lãnh vực trong đời sống hằng ngày của chúng ta, đó
là các cung Quan Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo, cung Tài Lộc, cung Địa Vị,
cung Tình Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi cung là mỗi hướng của căn
nhà. Khoa Tử Vi cũng diễn đạt đời người qua 12 cung, cung Mệnh, cung Phụ Mẫu,
cung Phúc Đức, cung Điền Trạch, cung Quan Lộc, cung Nô Bộc, cung Thiên Di, cung
Tật Ách, cung Tài Lộc, cung Tử Tức, Cung Phu Thê, và cung Huynh Đệ. Trong ba bộ
môn, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh, thì Tử Vi là khoa nặng về thiên mệnh hơn
cả. Khi nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta sẽ thấy rằng, một người sinh
ra đời vào giờ nào, tháng nào và năm nào thì cuộc đời của người này đã được an
bài từ giây phút đó.
Bởi vậy, chúng ta có thể nói,
đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào thì cuộc đời của mình sẽ có sắc
thái của bến mà thuyền đời mình đã buông neo.
Khi nói khoa Tử Vi chia cuộc
sống của một người thành 12 lãnh vực là chúng ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh
vực này thì lãnh vực nào sẽ nỗi bật nhất trong cuộc đời của người ấy? Khoa Tử
Vi diễn đạt điều này bằng cung thứ mười ba, đó là cung Thân. Cung Thân không có
một vị trí nhất định trong Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên, mà vị
trí của cung Thân tùy thuộc vào giờ sinh của mỗi người và cung Thân chỉ đóng
vào 1 trong 6 cung chính yếu là cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung
Tài Lộc, cung Thiên Di và cung Phu Thê mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh
quan hợp lý của xã hội phong kiến: cuộc đời một người lúc sinh ra đã bị chi
phối bởi số mệnh của mình (Thân cư Mệnh hay còn gọi là Thân Mệnh đồng cung),
khi ra đời thì bị chi phối bởi xã hội (Thân cư Thiên Di), bởi công danh sự nghiệp
(Thân cư Quan Lộc hay Thân cư Tài Lộc), bởi vợ chồng (Thân cư Phu Thê) và bởi
phúc đức của chính mình tạo ra hoặc thừa hưởng của ông bà cha mẹ (Thân cư Phúc
Đức), chứ không bị chi phối bởi con cái (Tử Tức), anh chị em (Huynh Đệ) hoặc
bạn bè hay người ăn người làm của mình (Nô Bộc)…
Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho
rằng, trong 13 cung của một lá số thì cung Mệnh và cung Thân là hai cung quan
trọng nhất. Cung Mệnh nói lên nét tổng quát cả cuộc đời của người đó và nhấn
mạnh gi­ai đoạn khởi đầu của cuộc đời gọi là tiền vận, tức là từ lúc sinh ra
cho đến đoạn đời trong khoảng 30 đến 36 tuổi và cung Thân là bức tranh của đoạn
đời còn lại hay còn gọi là hậu vận.
Bởi sự quan trọng của cung
Thân như vậy, cho nên một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là: “Thân cư cung
nào thì cung đó sẽ là lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người
đó”. Như chúng ta đã nói ở trên, Thân chỉ ở vào 1 trong 6 cung chính và Thân an
theo giờ sinh, cho nên những người sinh vào giờ Tý hay giờ Ngọ thì Thân đóng ở
cung Mệnh, gọi là Thân cư Mệnh, hay Thân Mệnh đồng cung, những người sinh vào
giờ Sửu hay giờ Mùi thì Thân cư Phúc Đức, những người sinh vào giờ Dần hay giờ
Thân thì Thân cư Quan Lộc, những người sinh vào giờ Mão hay giờ Dậu thì Thân cư
Thiên Di, những người sinh vào giờ Thìn hay giờ Tuất thì Thân cư Tài Lộc và
những người sinh vào giờ Tỵ hay giờ Hợi thì Thân cư Phu Thê.
Từ ý nghĩa căn bản đó của
khoa Tử Vi, khi biết một người sinh vào giờ nào, chúng ta có thể phác họa được
một nét tổng quát về cuộc đời của người này sẽ như thế nào, và đó chính là một
trong những sự kỳ diệu của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những khoa học huyền bí
của người Trung Hoa đã có từ hơn bốn ngàn năm trước. Và kỳ sau, chúng ta sẽ nói
về những nét đặc điểm và ý nghĩa về cuộc đời của những người có số Thân cư
Mệnh, hay còn gọi là mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung, tức là những người sinh vào
giờ Tí, giờ theo đồng hồ là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, hay những người sinh
vào giờ Ngọ, từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều.
BÀI 2
MẪU NGƯỜI “MỆNH THÂN ĐỒNG CUNG”
Nếu khoa Phong Thủy chia căn
nhà ra làm 8 cung và mỗi cung là lãnh vực trong đời sống con người, và cũng là
biểu tượng của mỗi thành viên trong gia đình, thì khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cùng
một quan niệm như vậy. Khoa Tử Vi còn chi tiết hơn chia lá số ra thành 12 cung
và mỗi cung cũng là một nét sinh hoạt, là một khoản thời gi­an nào đó của một
đời người. Như chúng ta đã nói ở chương trước, 12 cung của khoa Tử Vi theo thứ
tự gồm có Mệnh, Phụ Mẫu, Phúc Đức, Điền Trạch, Quan Lộc, Nô Bộc, Thiên Di, Tật
Ách, Tài Lộc, Tử Tức, Phu Thê, và Huynh Đệ. Nhưng thực tế một lá số không chỉ
có 12 cung mà còn có một cung thu 13 gọi là cung Thân. Đặc biệt cung Thân không
đóng riêng rẽ ở một vị trí nào trên lá số mà nó luôn luôn đóng chung với 1
trong sáu cường cung là Mệnh, Tài, Quan, Phúc, Di hoặc Phu Thê.
Trong 13 cung, cung Mệnh và
cung Thân là quan trọng nhất. Đầu tiên là cung Mệnh. Khi nói về chữ “mệnh”
chúng ta thấy nó mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Cái ý nghĩa thứ nhất của chữ
mệnh đó chính là bản thân của đương số. Xung quanh cuộc đời của cá nhân đương
số còn có cha mẹ (Phụ Mẫu), anh em (Huynh Đệ) vợ chồng (Phu Thê) con cái (Tử
Tức) rồi tới bạn bè đồng nghiệp, thuộc hạ (Nô Bộc) và cả cái xã hội mà đương số
phải đương đầu va chạm hằng ngày (Thiên Di)
Ý nghĩa thứ hai của chữ “mệnh”
là Thiên Mệnh, là số trời, là cái quan niệm mỗi người sinh ra vào giờ nào, ngày
nào, tháng nào, năm nào thì cuộc đời đã được an bài sắp đặt sẳn rồi. Bởi vậy
Mệnh được xem như nền móng của một căn nhà. Nếu nền móng không vững chắc, kiên
cố thì những gì xây dựng trên đó cũng không thể nào tồn tại lâu dài được. Đó là
trường hợp của những người có các cung chính như Quan Lộc, Tài Bạch, Diền Trạch
v.v… tốt đẹp, sáng sủa, nhưng Mệnh yếu thì tiền tài, danh vọng, của cải cũng
chỉ như cái bóng to lớn trên tường mà thôi.
Tuy nhiên, dù là môn khoa học
huyền bí nhưng ngoài quan niệm chủ yếu “Thiên Mệnh” khoa Tử Vi không quên một
yếu tố thứ hai sẽ dự phần vào đời người, đó là quan niện “nhân định” Vì thế Tử
Vi Đẩu Số mới có một cung di động gọi là cung Thân, là cung quan trọng thứ nhì
trong một lá số.
Khoa Tử Vi cho rằng cung Mệnh
là căn bản của một đời người. Nhưng cung Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào gi­ai
đoạn của một đời người hay gọi là ”tiền vận”. Tiền vận là khoản thời gi­an từ
lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi. Nhưng có người tính tiền vận theo Cục. Ví
dụ:
Thủy Nhị Cục thì tiền vận từ
1 đến 32 tuổi
Mộc Tam Cục thì tiền vận từ 1
đến 33 tuổi
Kim Tứ
Cục     ……………..1 đến 34 tuổi
Thổ Ngủ Cục  
………………1 đến 35 tuổi
Hỏa Lục
Cục   ………………1 đến 36 tuổi
Chúng ta thấy quan niệm này
của Tử Vi rất hợp lý vì con người từ lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi hầu như
sống dưới mái ấm của gia đình, bên cạnh tình thương yêu của cha mẹ, và sự dùm
bọc của anh em. Mãi cho đến khi 30 tuổi trở lên là lứa tuổi trung bình cho hầu
hết mọi người để tự lập thân, bước chân vào bương trải với đời. Đó là lúc ứng
vào cung Thân của lá số.
Sau tiền vận thì cung Thân
ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoản thời gi­an còn lại của cuộc đời, nó bao gồm cả
trung vận và hậu vận của mỗi người. Bởi vậy khi nói đến sự quan trọng của cung
Mệnh và Thân, chúng ta thấy có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất chú
trọng cung Thân hơn cung Mệnh và luận cứ của quan điểm này là trong khỏan tiền
vận chúng ta thường sống dưới mái ấm gia đình, trong vòng tay che chở của cha mẹ
cho nên nếu cung Mệnh có tốt thì cũng chưa làm nên cơm cháo gì được. Ngược lại
nếu cung Thân tốt thì sẽ hữu hiệu hơn cho cái tuổi “tam thập nhị lập” tức là
tuổi bắt đầu lăn lộn vào đời lập nghiệp cho nên rất cần có một cung Thân tốt
đẹp.
Quan điểm thứ hai thì cho
rằng, cuộc đời như một cái cây mà Mệnh là gốc rễ, Thân là những nhánh cây, cành
lá. Nếu gốc rễ không vững chắc thì cành lá cũng khó mà xanh tươi, đơm hoa kết
qủa được. Người viết đồng tình với quan điểm này. Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ ở tiền
vận nhưng vẫn luôn là căn cơ, cốt lỏi là nền tảng của một đời người. Và khi nói
về cung Thân, chúng ta phải nhớ một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là khi
cung Thân đóng chung với cung nào thì những ý nghĩa tốt xấu của cung ấy sẽ là
những nét chính yếu trong cuộc đời của ngưòi ấy. Như vậy thì người có Thân cư
Mệnh là mẫu người như thế nào?
Sắc nét đặc biệt đầu tiên của
người này là lòng tin vào thiên mệnh rất mạnh. Vì như chúng ta đã nói ở trên,
cái ý nghĩa đầu tiên của chữ Mệnh là ý trời = mọi việc đều do Trời định, là
định mệnh. Mẫu người này ít tin vào quan niệm “Nhân định thắng thiên” cho nên
khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, trắc trở họ thường nhắm mắt buông tay mặt cho
số phận xoay vần vì thuyền đời của họ đã lỡ neo vào bến Mệnh rồi, chỉ còn biết
trong nhờ đục chịu mà thôi.
Một đặc điểm thứ hai đáng kể
của người Thân Mệnh đồng cung là không có những khúc quanh cũng như những biến
đổi lớn lao nào trong suốt cuộc đời của họ. Như đã bàn ở trên, Mệnh ảnh hưởng
mạnh vào tiền vận. Thân ảnh hưởng mạnh vào trung vận và hậu vận. Bởi vậy khi
Thân và Mệnh đồng cung thì Mệnh và Thân đều ảnh hưởng chung vào cả cuộc đời từ
lúc sinh ra cho đến lúc lìa đời. Có nghĩa là nếu đương số giàu có thì suốt đời
giàu có, nếu nghèo thì sẽ nghèo suốt đời chứ không giống như những người khác
chẳng hạn nếu cung Mệnh xấu thì tiền vận có thể cực khổ nhưng cuộc đời về sau
có thể thay đổi khá hơn nếu cung Thân tốt đẹp hơn cung Mệnh. Hay ngược lại nếu
cung Mệnh tốt đẹp thì cuộc đời của đương số có thể sung sướng từ lúc lọt lòng
mẹ cho đến tuổi lập thân. Rồi sau đó có thể đổi đời, trở nên vất vả, cực khổ
nếu cung Thân xấu hơn cung Mệnh.
Và điểm đặc biệt cuối cùng là
có người cho rằng nếu Mệnh Thân đồng cung tại tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và
hai cung Tí Ngọ thì đó là những vị trí không tốt cho người Mệnh Thân đồng cung.
Tóm lại, cuộc đời của những
người Thân Mệnh đồng cung là một con đường tương đối bằng phẳng. Dù đường đời
của họ có đầy hoa lá hay chỉ toàn sỏi đá, chông gai thì cũng không có những
khúc quanh đột ngột, hay những biến động lớn làm thay đổi cả cuộc đời.
BÀI 3
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ PHÚC ĐỨC”
Những người sinh vào giờ Sửu
(1am đến 3am) và những người sinh vào giờ Mùi (1pm đến 3pm) đều có số Thân cư
Phúc Đức. Trước khi nói đến những nét đặc biệt của mẫu người này chúng ta hãy
bàn qua vài ý nghĩa căn bản của cung Phúc Đức. Trong những chương trước chúng
ta có nhắc đến một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung
nào thì cung đó trở thành lãnh vực chính yếu trong cuộc sống của đương số. Bởi
vậy, ý nghĩa đơn giản đầu tiên của cung Phúc Đức là nói về phước đức của đương
số có được là do chính bản thân tạo dựng nên hay là do thụ hưởng từ ông bà, cha
mẹ, hay của giòng họ nói chung. Cho nên, từ quan niệm đó, khoa Tử Vi xem cung
Phúc Đức như nền tảng của một lá số. Nó có thể cứu giải hay làm chiết giảm đi
độ số tốt xấu của cung Mệnh hay của một đại hạn, tiểu hạn v.v…Nói một cách
khác, cung Phúc Đức cũng như gốc rễ của một cái cây, nếu gốc rễ tốt thì cho dù
một vài nhánh cây hư hỏng thì cây cũng có thể ra hoa, kết trái. Nếu gốc rễ đã
bị úng thối thì cành cây bên trên dù có xanh tươi thì cũng chẳng được là bao
lâu. Cũng có thể đơm hoa kết qủa những cũng không thể tồn tại lâu dài được.
Từ đó chúng ta có một quan
điểm đặc biệt đầu tiên của người Thân cư Phúc Đức. Cuộc đời của họ sướng hay
khổ, thành hay bại không hoàn toàn do chính khả năng của họ mà phần nào do
những trợ lực khác như được người nâng đở, hay thường gặp những vận hội may mắn
nào đó. Điều này dễ nhìn thấy ở các lá số Thân cư Phúc Đức mà cung Phúc Đức lại
được mọi điều tốt đẹp thì cuộc dời của những người này thường gặp được những
may mắn kỳ lạ, giúp họ thành công dễ dàng, hoặc họ có thể vượt qua những hoàn
cảnh khó khăn, tai nạn mà không ai có thể ngờ được. Ngược lại, chúng ta cũng
thấy có những người Thân cư Phúc Đức nhưng cung Phúc Đức lại xấu xa mờ ám, cho
dù các cung chính yếu Mệnh, Tài, Quan…đều tốt đẹp nhưng chắc chắn cuộc đời của
họ vẫn gặp nhiều cảnh thăng trầm.
Như vậy, phải chăng đối với
người Á Đông chúng ta thì Phúc Đức là một yếu tố siêu hình đã ảnh hưởng phần nào
trong cuộc sống của một đời người?
Một quan niệm khác của khoa
Tử Vi đối với cung Phúc Đức là cung này biểu tượng cho cả một giòng họ. Qua
cung Phúc Đức mà chúng ta có thể nhìn thấy một cách đại cương về giòng họ của
đương sự. Như vậy, những người có Thân cư Phúc Đức thì đặc điểm thứ hai chính
là sự liên hệ chặc chẽ của cá nhân đương số với giòng họ của mình. Tùy theo sự
tốt hay xấu và ý nghĩa của cung Phúc Đức. Có người tuy khả năng, tài đức không
có gì đáng nói cả nhưng vẫn có địa vị chức tước hay bổng lộc nhờ vào sự nâng đở
của bà con. Ngược lại, cũng có người được may mắn, có công danh sự nghiệp, giàu
sang phú quý, cũng vì cái tình gia tộc mạnh mẽ, họ phải vươn dài cánh tay đễ
cưu mang cho cả giòng họ. Đó là trường hợp mà ông bà chúng ta thường nói: “Một
người làm quan, cả họ được nhờ.”
Và một điểm đặc biệt sau cùng
của mẫu người này là những gì tốt xấu của cung Phúc Đức sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ
sau khoản tiền vận, nghĩa là thời điểm đương số thực sự lăn lộn vào đời. Cung
đối diện Phúc Đức là Tài Lộc, và đó cũng là cung đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng
nề những sự tốt, xấu của cung Phúc Đức. Cho nên người Thân cư Phúc Đức sẽ có
những thay đổi khá rõ rệt trong khoản thời gi­an lập thân. Cuộc sống của họ có
thể sung sướng hơn nếu cung Phúc Đức tốt đẹp, hoặc cực khổ hơn nếu cung Phúc
xấu, nhất là trên vấn đề tiền bạc.
Tóm lại, mẫu người Thân cư
Phúc Đức là những người có tinh thần gia đình, gia tộc rất mạnh. Họ thích cuộc
sống đại gia đình và giữ được những liên hệ mật thiết với tất cả bà con trong
giòng họ dù gần hay xa.   Đây là mẫu người rất nặng tình quê
hương. Họ thường lớn lên và sống suốt đời tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình
chứ không muốn ly hương hay sống rời xa giòng họ của mình.
Đi xa hơn, cung Phúc Đức trên
một lá số cũng tương tự như lãnh vực âm trạch của khoa Phong Thủy, tức là
chuyên về mộ phần. Qua cung Phúc Đức, chúng ta có thể nhìn thấy những nét tổng
thể về mộ phần của một giòng họ, như mộ phần của một người nào phát, mộ phần
của ngườ nào hư, hoặc có thể biết được mộ phần của người nào đó trong giòng họ
đã kết phát và đang đặc biệt phò trợ cho đương số.
BÀI 4
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ QUAN LỘC”
Những người sinh vào giờ Dần
(3am tới 5am) hoặc vào giờ Thân (3pm tới 5pm) là những người có số Thân cư Quan
Lộc. Như chúng ta đã biết, cung Quan Lộc trong lá số của mỗi người biểu hiện
con đường công danh và sự nghiệp của người đó. Hai chữ “Công Danh” và “Sự
Nghiệp” nghe có vẽ rộng lớn và mơ hồ qúa. Nếu nói một cách gần gũi và rõ ràng
hơn thì cung Quan Lộc diễn tả nghề nghiệp của một người và có thể chỉ rõ một
ngành nghề nào đó như y khoa, điện tử, giáo sư, cảnh sát, quân nhân, ngân hàng,
ngoại gi­ao, văn học, nghệ thuật, kinh doanh thương mại v.v… Cung Quan Lộc cũng
nói lên sự thành bại trong nghề nghiệp của một người.
Như chúng ta đã nói trước
đây, Thân cư cung nào thì cung đó sẽ trở thành lãnh vực sinh hoạt chính yếu
trong cuộc đời của người ấy. Do đó, người Thân cư Quan Lộc ngay từ khi còn
trong trường học, họ đã có những ý tưởng rõ ràng về ngành học mà họ chọn lựa vì
đó là cửa ngõ đưa họ vào đời, là nghề nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và
thận trọng trong việc chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn năng
khiếu và ưa thích.
Người Thân Cư Quan Lộc không
thích làm những nghề có tính cách tạm bợ. Cho nên khi họ đã bước vào một ngành
nghề nào thì đó sẽ là công việc mà họ sẽ theo đuổi suốt cả một đời. Mẫu người
này cho dù làm công hay làm chủ cũng không thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì
ít khi bị mất việc. Có thể nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không
phải vất vả đi tìm việc như những người khác.
Thân cư Tài Lộc là mẫu người
thừa hành đắc lực nhất. Họ là những nhân viên, những thuộc cấp và là những
người cộng tác rất có tinh thần và trách nhiệm trong chức vụ của họ. Điều này
dễ hiểu vì họ là những người yêu nghề, thích học hỏi.
Người Thân cư Quan Lộc coi sự
làm việc như một lạc thú ở đời chứ không phải là một nghề để sinh sống. Họ rất
hăng say với công việc.
Những đặc điểm nêu trên là
mẫu người Thân cư Quan Lộc mà có cung Quan Lộc tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan
Lộc xấu xa thì đó là hình ảnh của một người chậm công danh, lận đận trên đường
công danh, và đây cũng là người sống chết với nghề của mình một cách vất vả,
lao đao, hoặc là trường hợp đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là
“sinh nghề, tử nghiệp” chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh liệt, hay bị
tù tội vì nghề nghiệp nếu có thêm hung sát tinh, bại tinh hội hợp. Như vậy,
quan niệm cho rằng người có Thân cư Quan Lộc sẽ làm Quan là một điều sai lầm.
Làm quan hay làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng phải tùy
thuộc vào cung Quan Lộc tốt hay xấu.
Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi
Đẩu Số, sự sắp xếp của 12 cung trên một lá số rất có ý nghĩa. Cung Quan Lộc nằm
đối diện với cung Phu Thê cho nên cung Quan Lộc có thể xem như cái bóng phản
chiếu của cung Phu Thê vậy. Do đó khoa Tử Vi cho rằng đối với những người có số
2 đời vợ, 2 đời chồng thì cung Quan Lộc là hình ảnh của người vợ hay người
chồng thứ hai của đương số.
Điều này rất có ý nghĩa đối
với những người Thân cư Quan Lộc, cuộc đời còn lại của họ và cả nghề nghiệp của
họ sẽ bị ràng buộc một cách chặt chẽ với người vợ/chồng thứ hai. Điều này chúng
ta sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người Thân cư Phu Thê.
Riêng đối với nữ Mệnh, các bà
có số Thân cư Quan Lộc thì ngoài những nét đặc biệt đã nêu trên, cung Quan Lộc
trong trường hợp này còn có ý nghĩa như một cung Phu, và một vài trường hợp
điển hình mà chúng ta nói đến như: Một người đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà
cung Quan Lộc bị Tuần hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không
khác gì Tuần hay Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.
Trong trường hợp như vừa nêu
trên, một quan điểm khác của nhà tướng số Thiên Đức trong một bài viết về “Tai
Nạn Trinh Tiết” ông khẳng định một cách mạnh mẽ rằng “…bất cứ là lá số của một
người phụ nữ nào khi cung Quan Lộc hay cung Thân có Tuần hoặc Triệt, bất luận
về yếu tố sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái khi về nhà chồng”
Như vậy theo quan điểm này
thì bất cứ cung Thân an tại đâu và bất kể cung Thân hay Quan Lộc cho dù có các
sao đoan chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt thì hai chữ “trinh tiết” của đương số
cầm bằng như không có khi bước lên xe hoa lần đầu trong cuộc đời.
Cũng trong trường hợp nữ Mệnh
có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị
Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp
nhiều hung tinh hay sát tinh thì đương số nên lập gia đình muộn hoặc lập gia
đình với một người đã trải qua một lần đổ vỡ trên đường tình thì mới có thể
tránh được cảnh cô đơn góa bụa về sau.
Một điểm đặc biệt nữa là đàn
bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh
hưởng thì đó cũng là số của những người có thể gặp những hoàn cảnh hay tai nạn
làm mất danh tiết của mình.
Riêng đối với các ông, nếu là
những người có quan niệm sống bảo thủ như ông bà của chúng ta ngày xưa, cho
rằng người vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là người đàn bà ở trong nhà lo việc
nhà, săn sóc cho chồng cho con thì mẫu người đàn bà Thân cư Quan Lộc hoàn toàn
không thích hợp với quý ông có quan niệm “chồng chúa, vợ tôi” Lý do dễ hiểu là
những người đàn bà có Thân cư Quan Lộc có khuynh hướng độc lập rất mạnh. Họ
muốn ra đời và muốn có một nghề nghiệp như đàn ông để suốt đời không bị lệ
thuộc vào người chồng.
Cuối cùng, trong ý nghĩa về
nghề nghiệp, dù nam hay nữ, khi cung Quan Lộc bị
Tuần/Triệt thì trong đời của
đương số phải thay đổ nghề nghiệp ít nhất 1 lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những
ngành nghề gì thì còn tùy thuộc vào cung Quan Lộc và toàn bộ lá số. Đặc biệt
đối với những người Thân cư Quan Lộc thì nghề nghiệp mà họ thay đổi thường là
cùng nghề hay cùng trong một lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của
đương số.
Tóm lại, cung Quan Lộc biểu
hiện cho công danh, sự nghiệp, tiền tài và danh vọng của một người, cho nên
những người có số Thân cư Quan Lộc thì những yếu tố trên là mục đích mà họ sẽ
mang hết tâm huyết của họ để đạt được.
BÀI 5:
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ THIÊN DI”
Nằm ở vị trí đối diện với
cung Mệnh trên lá số, cho nên cung Thiên Di có một tầm quan trọng không kém gì
cung Mệnh. Có thể nói cung Thiên Di là cái bóng của cung Mệnh trong nhiều ý
nghĩa. Cung Thiên Di xung chiếu với cung Mệnh, cho nên những gì xấu tốt của
cung này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Mệnh hơn là hai cung Quan Lộc và Tài
Lộc, tức hai cung có vị trí hợp chiếu với cung Mệnh. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn
điều này đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu, tức là cung Mệnh không có chính
tinh tọa thủ, cho nên phải mượn chính tinh của cung Thiên Di mà nói lên ý nghĩa
của cung Mệnh.
Đầu tiên, hai chữ Thiên Di
không phải chỉ nói lên ý nghĩa của sự dời đổi hay di chuyển, mà cung Thiên Di
còn nói lên cái lãnh vực hay địa bàn sinh hoạt của mỗi người ngoài đời, ngoài
xã hội. Nói một cách khác, nếu cung Mệnh biểu hiệu con người của mình khi sinh
ra đời, thì cung Thiên Di biểu hiệu con người của mình, vị trí của mình ngoài
xã hội nói chung, và trong môi trường sinh hoạt hằng ngày của mình nói riêng.
Cung Thiên Di còn nói lên
nhiều nét đặc biệt khác như nghề nghiệp, sự gi­ao thiệp, khuynh hướng tôn giáo,
sống hay làm ăn xa ở nơi quê người, chết tha phương hay chết trên quê hương của
mình, ra đời được người thương mến hay không, chẳng hạn những người có số Hoa
Cái cư Thiên Di là những người ra ngoài thường được nhiều người thương mến, hay
ngoài đời thường có được người giúp đỡ hay không, như những người số có cung
Thiên Di giáp Tả Hữu, giáp Nhật Nguyệt hay giáp Quang Quý là số mà người ta
thường nói là được quý nhân phò trợ, hay những người thân phải tự lập thân,
suốt đời chỉ là kẻ độc hành, cũng vì hai sao Cô Quả đóng ở Thiên Di, hoặc số ra
đời là được tiền hô hậu ủng, cũng là vì cung Thiên Di được cách tiền Cái, hậu
Mã vậy. Và một lần nữa, chúng ta thấy sự sắp xếp các cung trên một lá số của
khoa Tử Vi rất có ý nghĩa: cung Thiên Di tam hợp với hai cung Phúc Đức và Phu
Thê, cho nên, sự may mắn hay bất hạnh, sự thành công hay thất bại của mỗi người
ở ngoài đời đều một phần nào do phước đức của dòng họ cũng như của chính mình
tạo nên, và sự hỗ trợ của người bạn đời, là người chồng hay người vợ, đến từ
đằng sau hay bên cạnh mình là những yếu tố không thể chối bỏ.
Những đặc tính căn bản của
cung Thiên Di vừa nói trên sẽ giúp chúng ta dễ dàng nhìn thấy nét đặc biệt của
mẫu người Thân Cư Thiên Di. Thân cư tại Thiên Di nên cá tính đầu tiên mà chúng
ta nhìn thấy ở mẫu người này là tính thích hoạt động, thích cuộc sống phải có
sự thay đổi cũng như thích di chuyển. Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không
phải là mẫu người trong gia đình, họ là mẫu người ngoài xã hội, là mẫu người
như ông bà chúng ta thường ví là ăn cơm nhà vác ngà voi hay việc nhà thì nhác,
việc chú bác thì siêng.
Từ đó, nếu quý bà mà đức lang
quân có số Thân Cư Thiên Di thì đừng mong cuối tuần các ông sẽ ở nhà dọn dẹp
nhà cửa hay cắt cỏ, làm vườn, và cũng đừng có buồn với những bữa ăn cơm lạnh,
canh nguội bởi các ông về trễ vì phải họp hội đoàn, thăm bạn bệnh, đến chùa hay
nhà thờ giúp thầy, giúp cha v.v…
Và ngược lại, nếu phu nhân
của quý ông mà có số Thân Cư Thiên Di, thì trước khi cưới hỏi, quý ông cũng nên
lo học trước cách luộc trứng, nấu cơm sao cho chín, cũng như học cách pha sữa,
thay tả, ru con sao cho con ngủ v.v…, bởi vì người đàn bà có số Thân Cư Thiên
Di cũng là mẫu người ngoài xã hội, họ thích cuộc sống bên ngoài hơn là cuộc
sống trong gia đình, những sinh hoạt bên ngoài mang đến cho họ nhiều niềm vui
và sự thích thú hơn là những việc của một người đàn bà phải làm cho chính bản
thân họ, hoặc cho chồng con bên trong gia đình.
Bởi vậy, người Thân Cư Thiên
Di không chịu được cảnh sống lẻ loi đơn chiếc vì họ là con người của đám đông,
của bạn bè, của hội hè đình đám… Người Thân Cư Thiên Di thích gi­ao thiệp
rộng nên thường là những người có năng khiếu trong lãnh vực ngoại gi­ao và tổ
chức.
Trong lãnh vực nghề nghiệp,
người Thân Cư Thiên Di thích làm những nghề có tính cách di động, thường được
đi đây, đi đó, tiếp xúc với nhiều người… Chẳng hạn như hoa tiêu hàng không
hay hàng hải, tiếp viên hàng không, chuyển vận đường bộ, hướng dẫn viên du
lịch, phóng viên báo chí hay truyền thanh, truyền hình, đại diện thương mãi,
ngoại gi­ao v.v… đều là những ngành nghề thích hợp với cá tính của mẫu người
Thân Cư Thiên Di.
Hầu hết những người có số
Thân Cư Thiên Di thường ra đời sớm, vào nghề và tự lập sớm hơn những người cùng
lứa tuổi, điều này có thể vì hoàn cảnh và cũng có thể vì cá tính như vậy. Người
Thân Cư Thiên Di có nhiều cơ hội để đi đây, đi đó, sống xa nhà, xa quê hương,
nhất là trường hợp cung Thiên Di đóng tại Dần, Thân, Tị, Hợi là những vị trí
của Thiên Mã, một sao chỉ về sự di chuyển và thay đổi, như vậy chắc chắn họ là
những người thường có cuộc sống nơi đất khách quê người, làm ăn, sinh sống và
chết cũng tại quê người.
Và một nét đặc biệt nữa của
mẫu người Thân Cư Thiên Di là cung Thiên Di lúc nào cũng đối diện với cung
Mệnh, cho nên khi Thân cư vào cung Thiên Di thì Thân và Mệnh đối diện nhau, do
đó, người Thân Cư Thiên Di như có “hai con người” trong họ, một con người với
những bản chất đã có từ lúc sinh ra, và một con người khác là con người ngoài
xã hội, đậm nét nhất là trong môi trường mà họ sinh hoạt hằng ngày.
Tóm lại, mẫu người Thân Cư
Thiên Di là mẫu người có một cuộc sống sôi động và thích hợp với ngoài xã hội
hơn là trong gia đình. Họ sinh ra để làm việc, để hoạt động và có máu gi­ang
hồ, cho nên thường thích ra đời sớm, thích sống xa nhà, xa quê hương cho thỏa
chí tang bồng.
Kỳ sau, chúng ta sẽ nói đến
mẫu người Thân Cư Tài Lộc, là những người sinh vào giờ Thìn, tức là từ 7 giờ
sáng đến 9 giờ sáng, hoặc những người sinh vào giờ Tuất, tức là từ 7 giờ tối
đến 9 giờ tối.
BÀI 6
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ TÀI LỘC”
Trong một lá số, cung Quan
Lộc và Tài Lộc là hai cung có vị trí hợp chiếu với Mệnh và được xem là hai cung
quan trọng. Chữ Tài Lộc cũng nói lên hết ý nghĩa của cung này. Nếu như cung
Quan Lộc diễn đạt con đường công danh, sự nghiệp và cả một phần nào chuyện vợ
chồng, thê thiếp thì cung Tài Lộc không chỉ đơn thuần nói về vấn đề tiền bạc mà
cũng phần nào phản ảnh lãnh vực nghề nghiệp của mình.
Điều mà chúng ta sẽ thấy
trong một vài lá số mà nghề nghiệp của đương sự được mô tả trong cung Tài Lộc
còn rõ ràng hơn cung Quan Lộc nữa. Trường hợp này thường thấy trong các lá số
của người Thân Cư Tài Lộc mà chúng ta sẽ bàn đến.
Cung Tài Lộc diễn tả vấn đề
tiền bạc của một đời người. Có tiền nhiều hay ít, có tiền bằng cách nào, làm ra
tiền sớm hay muộn, kiếm tiền dễ dàng hay khó khăn, tiền do chính bàn tay mình
tạo dựng nên hay được thụ hưởng di sản của giòng họ. Tiền bạc do lộc của trời
như trúng số, hoặc do người khác mang đến. Có tiền rồi giữ được hay không? Hay
dễ bị hao tài? Tiền bạc có mang lại hạnh phúc cho đương số hay không, hay có
tiền thì có tai họa đi liền theo sau v.v…
Cung Tài Lộc ở vị trí đối
diện với cung Phúc Đức cho nên ông bà chúng ta có câu: “Có phúc mới có phần”
ngụ ý là số giàu cũng do Phúc Đức. Bởi vậy cung Tài Lộc cũng chỉ rõ người có số
được hưởng gia tài, sản nghiệp của ông bà, cha mẹ để lại hoặc tiền tài phải do
tự hai bàn tay của mình tạo dựng nên mới có được. Nói một cách khác, tất cả
những tốt xấu của cung Phúc Đức đều có ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Tài Lộc hơn
những cung khác, và đó cũng là sắp xếp rất có ý nghĩa của khoa Tử Vi Đẩu Số,
một trong những môn học huyền bí của người Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng sâu xa
triết lý nhà Phật.
Những người sinh vào giờ Thìn
(từ7am tới 9am) hay là những người sinh vào giờ Tuất (từ 7pm tới 9pm) thì Thân
sẽ rơi vào cung Tài Bạch. Có người nghĩ rằng nếu Thân cư Quan Lộc thì sẽ làm
quan, Thân cư Tài Lộc thì sẽ giàu có. Quan niệm này không chính xác bởi vì tuy
là số thân cư Quan Lộc nhưng làm quan hay làm người bình dân thì cũng còn tùy
vào cung Quan Lộc của đương sự tốt hay xấu. Tương tự, như số Thân cư Tài Lộc,
giàu hay nghèo cũng còn tùy vào cung Tài Lộc tốt xấu ra sao. Tuy nhiên, những
người Thân cư Tài Lộc, họ có những nét đặc biệt khái quát như sau:
Trước tiên, tiền bạc là vấn
đề chủ yếu và là mục đích quan trọng trong cuộc sống của họ. Nói như vậy không
có nghĩa là người có Thân cư Tài Lộc quan niệm sống của họ chỉ có tiền mà họ là
những người có khả năng làm ra tiền. Làm ra tiền nhiều hay ít, dễ dàng hay khó
khăn, và bằng cách nào thì cũng còn tùy vào lá số của mỗi người. Dù nghèo hay
giàu, người Thân cư Tài Lộc thấu hiểu giá trị của đồng tiền và sử dụng đồng
tiền ra sao cho xứng đáng với giá trị của nó. Chuyện đáng xài thì xài, chuyện
không đáng thì 1 xu cũng không bỏ ra. Mẫu người này quan niệm tiền là cái đích
tiên quyết phải có, rồi từ đó xử dụng tiền như một phương tiện để được những
mục đích khác mà họ mong muốn.
Người Thân cư Tài Lộc thường
có năng khiếu về thương mại, kinh doanh. họ là những người thích hợp để trở
thành chủ nhân của những cơ sở làm ăn mua bán và thường trở nên giàu có bằng
đường kinh doanh nếu cung Tài Lộc của họ tốt đẹp. Ngược lại, một người có Thân
cư Tài Lộc mà cung Tài Lộc lại không được sáng sủa thì họ sẽ là người suốt đời
vất vả vì tiền, hay thường gặp những tai họa về tiền bạc. Có thể đến một vận
hạn nào đó, họ cũng có cơ hội làm ra tiền nhưng lại không giữ được tiền trong
tay.
Cuối cùng, như chúng ta đã
nói ở trên, khi Thân cư vào cung Tài Lộc thì Thân sẽ ở vị trí đối diện với cung
Phúc Đức. Có nhiều vị nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số thì họ cho rằng cung Thân
quan trọng hơn Mệnh vì cung Thân biểu tượng cho trung vận và hậu vận, là khoảng
thời gi­an mà chúng ta bắt đầu rời khỏi vòng tay của cha mẹ để lăn lộn vào đời
tự lập thân. Và như vậy, những người Thân cư Tài Lộc, cung Thân sẽ chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của cung Phúc Đức kể từ khi họ bước chân vào đời. Nói một cách
khác, hậu vận của một người Thân cư Tài Lộc sẽ ra sao cũng là một phần tùy
thuộc vào sự tốt xấu của cung Phúc Đức. Nếu nói theo triết lý của đạo Phật là
đương số hưởng được sự tích đức của ông bà, cha mẹ hay là đương số phải trả
nghiệp cho ông bà, cha mẹ của mình.
BÀI 7
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ PHU/THÊ”
Dù trong thời đại nào, dù
phương Đông hay phương Tây thì gia đình vẫn luôn luôn là nền tảng của xã hội.
Trong khoa Tử Vi Đẩu Số gia đình được thể hiện qua hai cung Phu Thê và Tử Tức.
Hai cung này nói lên những vấn đề vợ chồng, con cái của mỗi người. Chúng ta vẫn
thường nghe câu: “Sau lưng một người đàn ông thành công là một người đàn bà đảm
đang tài giỏi.” Có phải vì vậy mà cung Phu Thê của người đàn ông có tầm quan
trọng không kém gì hai cung chính là Quan Lộc và Tài Bạch? Còn đối với phụ nữ
thì cung Phu Thê lại càng quan trọng hơn. Sự đánh giá này rất hợp lý với thời
phong kiến xa xưa. Trong xã hội phong kiến, người đàn bà chỉ là cái bóng mờ,
hầu như không có những sinh hoạt nào ngoài xã hội. Và cuộc đời của họ như thế
nào cũng do cung Phu Thê của họ định đoạt mà thôi. Thật đúng với ý nghĩa “xuất
giá tòng phu”
Ngày nay, người đàn bà đã ra
ngoài xã hội, đã có vai trò và vị trí không thua kém gì người đàn ông. Nhưng dù
sao, đối với quan niệm của người Á Đông chúng ta thì không phải vì vậy mà sự
quan trọng của cung Phu Thê bị giảm đi. Trong thực tế hai chữ “gia đạo” lúc nào
cũng là nền tảng của cuộc sống con người trong bất cứ thời đại nào hay xã hội
nào. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng và đậm nét trong mẫu người Thân cư Phu
Thê.
Những người sanh vào giờ Tỵ
(từ 9am tới 11am) hoặc giờ Hợi (từ 9pm tới 11 pm) thì Thân sẽ nằm vào cung Phu
Thê. Người ta cho rằng rằng ông có Thân cư Phu Thê là số được nhờ vợ và nể vợ.
Đàn bà có Thân cư Phu Thê là số nhờ chồng và nể sợ chồng. Điều này không đúng,
chúng ta sẽ bàn đến sau.
Mẫu người Thân cư Phu Thê có
nhiều nét đặc biệt, nhất là trên lãnh vực tình cảm. Người Thân cư Phu Thê
thường gặp người chồng/vợ mình trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ gặp nhau và
có tình cảm với nhau như đã quen biết nhau từ kiếp trước, nay lại gặp nhau để
xây tiếp lâu đài tình ái còn đang dang dở, hoặc trả tiếp cho xong cái duyên nợ
chưa tròn, tùy theo lá số của mỗi người.
Từ nét đặc biệt đó mà người
Thân cư Phu Thê có một cuộc sống ràng buộc nhau rất mật thiết. Sự ràng buộc
chặt chẽ này có thể do từ tình cảm tốt đẹp mà họ có được, nhưng cũng có thể là
vì hoàn cảnh mà họ phải chịu trói buộc với nhau. Hình ảnh bị trói buộc với nhau
vì hoàn cảnh điển hình nhất mà chúng ta đã thấy trong thời gi­an trước đây đó
là hình ảnh của cựu Tổng Thống Bill Clin­ton. Dù đang gặp một hoàn cảnh đắng cay,
hay có thể nói là “còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi” Nhưng họ vẫn ở bên nhau,
xuất hiện bên nhau trên truyền hình, trước công chúng đễ diễn tiếp cho xong vở
tuồng mà họ phải diễn.
Nói một cách khác, trong lĩnh
vực tình cảm, người Thân cư Phu Thê thường có một cuộc sống khăng khít với
nhau, cho dù trong những trường hợp cuộc sống không được hạnh phúc hay gặp
những hoàn cảnh ngang trái, dường như có một sợi dây vô hình nào đó cứ buộc
chặt họ lại với nhau, không chia ly dễ dàng như những người khác.
Ngoài sự ràng buộc trong vấn
đề tình cảm, người Thân cư Phu Thê còn có sự ràng buộc trong lãnh vực nghề
nghiệp. Hầu hết họ và vợ/chồng của họ là những người làm cùng ngành nghề hay
cùng chung một cơ sở thương mại với nhau. Có thể không cùng nghề nghiệp nhưng công
việc của hai người luôn có sự liên hệ và hợp tác hổ trợ cho nhau.
Ngoài ra, người Thân cư Phu
Thê thường có thêm một nghề tay trái nữa. Nghề tay trái này lúc đầu chỉ như một
cái thú tiêu khiển của đương số, hoặc cũng có thể như một nghiệp mà họ phải theo
đuổi. Dần dần có thể trở thành một lãnh vực sinh hoạt không thể thiếu được
trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cũng có một số người thành công, thành danh
bởi nghề tay trái này hơn là nghành nghề chính của họ. Bây giờ chúng ta có thể
trở lại với hai nghi vấn mà chúng ta đã đề cập lúc mở đầu:
1.     Có
phải những người Thân cư Phu Thê là có số nhờ chồng/vợ hay không?
Đối với người Á Đông chúng ta
thì chuyện “xuất giá tòng phu” là một quan niệm bình thường. Do đó, nếu một
người đàn bà có số Thân cư Phu Thê mà cuộc đời phải nương tựa vào chồng của
mình thì đó là một điều hợp tình hợp lý. Nhưng đối với nam giới, nhất là trong
xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, một người đàn ông có Thân cư Phu Thê là
bị phán ngay là số nhờ vợ thì cũng tội nghiệp cho đương số.
Để giải đoán cho phân minh,
chúng ta phải cân nhắc giữa cung Phu Thê và cung Mệnh của đương sự. Chẳng hạn,
người có Thân cư Phu Thê, nếu Mệnh của đương số yếu hơn cung Phu Thê (Mệnh
nhược Thê cường) có nghĩa là người vợ của đương số có khả năng hơn chồng về mọi
mặt từ trong nhà cho đến những gi­ao tiếp ngoài xã hội. Như vậy chúng ta có thể
nghĩ rằng những gì tạo dựng nên trong cuộc sống chung của hai người thì phần
lớn đều do tay của người vợ. Đối với người đàn bà có Thân cư Phu Thê, vì bối
cảnh xã hội ngày nay có khác, hai chữ “tòng phu” không còn nữa cho nên chúng ta
cũng phải cân nhắc như vậy.
Ngược lại nếu cung Mệnh của
đương số tốt đẹp, sáng sủa hơn cung Phu Thê (Mệnh cường, Thê nhược) thì đây
không phải là số nhờ chồng/vợ. Trường hợp này thông thường thì hai người cùng
làm chung một ngành nghề hay cùng chung một cơ sở làm ăn, họ cùng góp sức tạo
dựng với nhau trong cuộc sống chung, dĩ nhiên họ cũng có những sự ràng buộc
chặt chẽ với nhau như đã bàn ở trên.
2.     Có
phải người Thân cư Phu Thê là số nể, sợ vợ/chồng hay không?
Để trả lời vấn đề này, chúng
ta cũng phải cân nhắc vấn đề mạnh và yếu giữa cung Mệnh và cung Phu Thê của
đương số. Nếu Mệnh nhược Phu cường thì phải nể, sợ chồng là điều đương nhiên
rồi. Chẳng hạn, lá số của một ông chồng có bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ
Mệnh, là bộ sao tiêu biểu cho văn cách nhưng cung Phu Thê lại có bộ sao Sát Phá
Liêm Tham là biểu tượng cho võ cách. Trường hợp này việc điều hành từ trong ra
ngoài cũng nhu vai trò chánh yếu trong gia đình đều do người vợ một tay thao
túng hết.
Điều này chúng ta cũng thấy
rõ những đấng mày râu tuy cung Mệnh không thua kém gì cung Phu Thê nhưng cung
Phu Thê lại có các sao như Thái Âm, Hóa Quyền tọa thủ hoặc hợp chiếu thì đấy
cũng là hội viên cùng hội với Thúc Sinh rồi.
BÀI 8
MẪU NGƯỜI “MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”
Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản
trên 118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh. Những sao này được phân bố trên 12
cung của một lá số theo các quy tắc đã định dựa vào ngày, tháng, năm và giờ
sinh của mỗi người. Chính tinh có những đặc tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ
tinh cho nên những cung quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính
tinh tọa thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà Mệnh không có
chính tinh nào tọa thủ, hay chúng ta thường gọi là Mệnh Vô Chính Diệu (VCD).
Một cung Mệnh không có chính
tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên
Mệnh VCD phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay
mượn cho nên Mệnh VCD chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu
của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi.
Cung xung chiếu Mệnh là cung
Thiên Di. Trong những bài trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh
hoặc ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên
Di cho Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của người VCD là tính uyển chuyển,
dễ thích nghi với hoàn cảnh.
Phải chăng vì Mệnh không có
chính tinh cho nên những người VCD thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu
là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó
nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường
sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, và tuổi đời không được thọ.
Một đặc điểm quan trọng khác
mà người VCD phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như đoàn
quân không có tướng cho nên người VCD khi ra đời dù là làm công hay tự mình làm
chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như chỉ huy trưởng
của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại.
Người VCD chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau lưng một người
khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ
những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ
đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình hoặc cho đơn
vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành.
Người VCD tánh tình thâm
trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn
thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với họ, điển hình
như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Hen­ry Kissinger ngày
nay.
Ở đây chúng ta thấy một điều
oái ăm cho người VCD. Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi
họ làm cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường
khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là
trong khoản tiền vận của cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm
đi.
Người VCD thường lao đao vất
vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc
sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp
vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại
hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt
đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn.
Là mẫu người có tài, có trí
họ có thể đạt được những công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ
Phước-​Lộc-​Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta
thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh” Cho nên người VCD ít ai có được tuổi thọ cao.
Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm con nuôi của người khác và phải
đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất khách quê
người.
Với sự bất lợi là Mệnh không
có chính tinh thủ, nhưng người VCD vẫn được hai cách tốt:
1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt,
Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao
nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không,
hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì sách có
nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi.” Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát
nhanh như sấm chớp. Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì
đó là bản chất của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như
Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi.
Trường hợp Mệnh VCD gặp các
sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không
thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của
Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt xấu lẫn lộn cho nên không được tròn vẹn.
Cách tốt nhất là đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân
biệt rõ ràng giữa các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường
hợp nào tốt, trường hợp nào xấu.
Trường hợp đắc tam không:
Mệnh VCD có một sao không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là
tốt nhất. Có câu: “Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ” Cách này rất ứng
hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên
đây cũng là một trong những cách hoạch phát.
Trường hợp kiến tam không:
Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1
sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di) Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay sát
tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù
tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ.
Trường hợp ngộ tam không:
Mệnh VCD có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung
chiếu có có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh. Cách này là “Mệnh VCD ngộ tam
không phi yểu tắc bần” có nghĩa là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo
hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá
tán.
2. Mệnh VCD được hai sao Thái
Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm
trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào
khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rở. Khoa Tử Vi gọi là “Mênh VCD Nhật Nguyệt
chiếu hư không chi địa” Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì
mới đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không” Điều đó xét ra không cần thiết lắm. Người
đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời
Tam Quốc phân tranh.
Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh
vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu. Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở
Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm,
cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng
ư kim diện” Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ
thua một đấng quân vương mà thôi.
Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi
thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo
phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên
văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm
thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh
VCD, chiu dưới chỉ 1 người mà trên muôn vạn người.
Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời,
ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định
tất cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích
hợp với người Mệnh VCD. Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì
cũng 6 lần phải rút quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn
cãi số trời, ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không
thành.
Đó là đặc tính đáng chú ý của
người có Mệnh VCD: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì khó.
Người ta cũng cho rằng, Gia
Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt
chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa
công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta
xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay
nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD?
BÀI 9:
MẪU NGƯỜI “THAM VŨ ĐỒNG HÀNH”
Mẫu người “Tham Vũ Đồng Hành”
là những người có cung Mệnh an tại tứ mộ, tức là bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
và có hai sao Tham Lang và Vũ Khúc tọa thủ đồng cung hoặc xung chiếu với nhau.
Nếu cung Mệnh an tại Thìn và Tuất, thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ xung chiếu với
nhau. Nếu cung Mệnh an tại Sửu và Mùi thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ tọa thủ đồng
cung. Sau phần trình bày khái quát về cuộc đời của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành
nói chung, chúng ta sẽ đi vào chi tiết để xem sự khác biệt của mẫu người tuy là
Tham Vũ Đồng Hành, nhưng Tham Vũ đồng cung tọa thủ tại Mệnh có gì khác biệt với
người Tham Lang thủ Mệnh và Vũ Khúc xung chiếu, cũng như Vũ Khúc thủ Mệnh và
Tham Lang xung chiếu?
Trước tiên, chúng ta nói qua
về đặc tính của hai sao Tham Lang và Vũ Khúc là hai chính tinh trong cách Tham
Vũ Đồng Hành Cư Tứ Mộ, rồi sau đó mới nói đến hai sao phụ khác nữa là Linh Tinh
và Hỏa Tinh thì mới đủ bộ và đúng cách. Tham Lang là Bắc Đẩu tinh, hành của
Tham Lang có người cho là hành Thủy, có người cho là hành Hỏa và cũng có người
cho là hành Mộc. Theo thiển ý của người viết thì Tham Lang thuộc hành Mộc, bởi
vậy, khi Tham Lang (đào hoa) tọa thủ tại cung Tí (cung Thủy), khoa Tử Vi gọi
đây là cách Phiếm Thủy Đào Hoa, nghĩa là hoa đào trôi dạt trên dòng nước. Bản
tính của Tham Lang là đặt nặng vấn đề vật chất trong cuộc sống. Thích hội hè
đình đám, những chỗ đông người với những cuộc vui. Tính rất năng động, háo
danh, háo thắng và thích làm những chuyện lớn cho nên có nhiều tham vọng. Ưu
điểm của Tham Lang là có năng khiếu về kinh doanh, có khả năng tổ chức, nhưng
khuyết điểm là mau chán nản và dễ bỏ cuộc nửa chừng. Nếu Tham Lang ở các vị trí
miếu hay vượng địa thì chủ về uy quyền, giàu sang và sống lâu.
Vũ Khúc cũng là Bắc Đẩu tinh
và thuộc hành Kim. Bản chất của Vũ Khúc rất nghịch với Tham Lang ở điểm Tham
Lang thích vui chơi ở chỗ đông người thì Vũ Khúc lại thích cô đơn, làm việc gì
cũng muốn độc hành. Người có Vũ Khúc thủ Mệnh tính gan dạ, táo bạo, có khả năng
tổ chức, có đầu óc kinh doanh, chủ quyền uy, danh vọng và giàu sang. Chính
những điểm tương đồng này giữa Vũ Khúc với Tham Lang mà bộ Tham Vũ là một bộ
sao của những tay kinh doanh có hạng trên thương trường. Có người cho rằng Tham
Vũ là hai sao thuộc về võ cách, tượng trưng cho võ nghiệp thì tại sao lại hợp
với lãnh vực kinh doanh? Để trả lời cho điều này, chúng ta hãy nhìn vào cuộc
sống của người Hoa Kỳ cũng như cộng đồng người Việt tị nạn, một số những cựu
quân nhân, sau khi giã từ vũ khí, họ đã thành công một cách dễ dàng trên thương
trường. Vậy phải chăng, những đức tính và khả năng cần có của một người điều
binh trên chiến trường cũng cần thiết cho một người lăn lộn trên thương trường,
đúng với câu mà người Trung Hoa vẫn nói: thương trường như chiến trường.
Được xem là đắc cách Tham Vũ
Đồng Hành thì hai sao Tham Lang và Vũ Khúc phải đóng tại bốn cung Thìn, Tuất,
Sửu, Mùi gọi là tứ mộ, bốn cung này thuộc hành Thổ cho nên đó là bốn vị trí
miếu địa, vượng địa của hai sao Tham Vũ. Một điều kiện quan trọng khác là tại
bốn vị trí này, bộ Tham Vũ phải gặp một hoặc cả hai sao Linh Tinh, Hỏa Tinh.
Hai sao Linh Hỏa có thể đồng cung, xung chiếu hay tam hợp chiếu với hai sao
Tham Vũ thì mới đầy đủ uy lực mà khoa Tử Vi thường gọi là cách Tham Vũ đồng
hành cư tứ mộ, ngộ Linh, Hỏa hào phú gia tư, hầu bá chi quý. Có nghĩa là người
Mệnh an tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, có Tham Lang và Vũ Khúc đồng cung
hay xung chiếu, lại thêm có một hoặc hai sao Hỏa Tinh, Linh Tinh chiếu vào là
số giàu sang, phú quý như bậc hầu bá dưới thời phong kiến ngày xưa.
Điều mà chúng ta lưu ý ở đây
là sự thành công, phú quý của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành không phải từ quan
trường, mà chính là từ thương trường. Như trên chúng ta đã nói, mẫu người Tham
Vũ Đồng Hành rất gan dạ, tự tin, nhiều tham vọng, có óc tổ chức và có năng
khiếu về thương mãi, cho nên họ là những tay kinh doanh có tầm vóc chứ không
phải chỉ làm ăn buôn bán lẻ tẻ. Đó phải chăng là do sự ảnh hưởng kỳ diệu của
vòng Ngũ Hành tương sinh trong cách này: hành Hỏa của Linh Tinh, Hỏa Tinh một
mặt phù trợ cho hành Thổ của bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi để tương sinh cho
hành Kim của Vũ Khúc, đồng thời cũng đốt cho Kim này thành Thủy để dưỡng Mộc
của Tham Lang, rồi Mộc của Tham Lang lại là củi cho ngọn lửa Linh, Hỏa cháy
bùng lên…
Một đặc điểm khác đáng lưu ý
của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là vì ảnh hưởng của Vũ Khúc, cho nên mẫu người
này thường lao đao, lận đận trong tiền vận, và sớm lắm thì cũng phải qua trung
vận, đa số phải đến hậu vận mới có thể gọi là thành công như ý muốn và lúc đó
cơ nghiệp mới có thể bền vững được.
Hỏa Tinh và Linh Tinh là hai
sao Hỏa, cho nên lúc phát thì sẽ giúp cho bộ Tham Vũ phát rất nhanh, nhưng nếu
phát không đúng vào thời vận thì cũng chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên rồi cũng
tắt đi một cách nhanh chóng. Nếu biết được lý lẽ này, mẫu người Tham Vũ Đồng
Hành chẳng nên bôn ba sớm trong cuộc đời mà chuốc nhiều phiền não, đắng cay.
Điều này rất nhiều người đã biết, nhưng họ không cam lòng, để cuối cùng cũng
nói được một câu an ủi với chính mình như Nguyễn Du đã nói: càng phong trần
danh ấy càng cao! Đặc điểm này thấy rõ nhất ở những người Tham Vũ Đồng Hành mà
Mệnh an tại hai cung Sửu và Mùi, hai sao Tham Vũ sẽ đồng cung, khắc chế nhau
mạnh mẽ trong tiền vận (khoảng 33 hoặc 36 tuổi) khiến cho đương số bao lần thấm
mệt và sớm ngộ được cái ý nghĩa của câu: có tài mà cậy chi tài… Phải qua
trung vận và bắt đầu vào hậu vận thì sự nghiệp của người Tham Vũ Đồng Hành có
Mệnh an tại Sửu hay Mùi mới được ổn định và bền vững cho đến cuối cuộc đời.
Nói đến sự thành công của mẫu
người Tham Vũ Đồng Hành nhanh hay chậm, bền vững hay ngắn ngủi thì chúng ta
cũng nên lưu ý trường hợp nếu Mệnh an ở tứ mộ, có Tham Lang tọa thủ đồng cung
với Hỏa Tinh, thì đây còn gọi là cách Tham Hỏa Tương Phùng, nếu gặp Linh Tinh
thì gọi là cách Tham Linh Tịnh Thủ, cũng là những dạng của Tham Vũ Đồng Hành,
nhưng với cách này, khi đến thời, đương số sẽ phát rất nhanh vì ảnh hưởng mạnh
mẽ của Ngũ Hành tương sinh giữa Tham Lang thuộc Mộc và Hỏa Tinh thuộc Hỏa đồng
cung với nhau. Tuy nhiên, công danh sự nghiêp dù có phát rất nhanh chóng, nhưng
cũng chẳng giữ được lâu bền, vì đây cũng chỉ là cách bạo phát, bạo tàn mà thôi.
Tương tự như vậy, chúng ta
xét đến vị trí của hai chính tinh Tham Vũ tại tứ mộ. Đối với những người Tham
Vũ Đồng Hành mà Mệnh an tại hai cung Thìn và Tuất thì sự khắc chế của hai sao
Tham Vũ tương đối nhẹ hơn vì nằm trong vị trí xung chiếu nhau, vì vậy, sự
nghiệp của mẫu người này sẽ thành đạt sớm hơn, nhưng mức độ của sự thành đạt
lại không có kích thước bằng những người Mệnh an tại Sửu Mùi.
Và một điểm khác biệt nữa là
cá tính của mỗi mẫu người Tham Vũ Đồng Hành sẽ có sự khác biệt tùy theo cung an
Mệnh. Khi Mệnh an ở Thìn Tuất thì nếu chúng ta gi­ao tiếp với những người này,
chúng ta sẽ nhận ra họ như có hai con người khác nhau: một con người vì ảnh
hưởng của Vũ Khúc nên thường sống cô độc, suy nghĩ và quyết định một mình,
nhưng khi ra ngoài, sao Tham Lang lại làm cho họ thành một con người khác, họ
biết nói, biết làm cho vui lòng người khác, mặc dù trong thâm tâm họ không
thích như vậy, và phải chăng đây cũng là một đặc tính giúp họ thành công trong
lãnh vực kinh doanh?
Tóm lại, mẫu người Tham Vũ
Đồng Hành là một mẫu người lý thú khi chúng ta quen biết hoặc hợp tác trong vấn
đề làm ăn mua bán với nhau. Họ là những người có cá tính rất mạnh, gan lì, táo
bạo và nhiều tham vọng. Địa bàn giúp họ thành công là thương trường. Và thời
điểm mà họ xây dựng được sự nghiệp như ý là hậu vận của cuộc đời.
BÀI 10
MẪU NGƯỜI “NỬA ĐỜI NỬA ĐẠO”
Khoa Tử Vi chia và xếp hạng
các tinh đẩu ra làm 3 loại: Chính Tinh, trung tinh và phụ tinh. Sao Tử Vi được
xem như chủ tể của các vì sao hay còn gọi là đế tinh. Vì vậy, Tử Vì cũng tựa
như một vị Vua dưới thời phong kiến. Vua cũng có thể là minh quân, cũng có thể
là hôn quân hoặc chỉ là Vua bù nhìn. Bản chất của sao Tử Vi cũng vậy. Nếu ở
những vị trí miếu, vượng thì Tử Vi là một ông Vua đức độ, được thêm hiền thần
(cát tinh) phò trợ thì chắc chắn là một minh quân. Ngược lại nếu ở vị trí hãm
địa hay bị bọn gi­an, nịnh thần (ám tinh, hung tinh) vây quanh thì đương nhiên
sẽ trở thành một hôn quân. Nhưng cũng có một vài vị Vua tuy sa cơ thất thế, lạc
vào hãm địa nhưng lại không trở thành xấu xa mà chỉ có khuynh hướng chán mùi
trần thế, muốn bỏ đời tìm đạo. Đó chính là nét đặc thù của mẫu người Tử Tham
Mão Dậu. Hay cũng có thể gọi là mẫu người Nửa Đời Nửa Đạo.
Trước tiên chúng ta thử tìm
xem những nguyên nhân nào đã khiến cho bộ Tử Tham khi cư ở Mão Dậu lại trở
thành tốt không tốt hẳn, mà xấu cũng không xấu hẳn như vậy? Hai cung Mão và Dậu
là hai vị trí không tốt cho sao Tử Vi. Cũng tại hai vị trí này Tử Vi gặp Tham
Lang hãm địa. Tuy là đế tinh nhưng nằm ở nơi bất lợi cho nên Tử Vi mất hết uy
lực nên dễ đưa đến khuynh hướng chán đời., yếm thế, và hay có cái nhìn nghiêng
nhiều về lãnh vực tâm linh. Muốn tìm sự yên ổn cho tâm hồn nơi tôn giáo.
Đi xa hơn, chúng ta hiểu rằng
khi nói về phương vị trong khoa Tử Vi thì cung Mão là phương Đông, là hướng của
mặt trời mọc, là biểu tượng ban mai. Cung Dậu là phương Tây, là hướng mặt trời
lặn, là biểu tượng của hoàng hôn. Hai cung Mão và Dậu là hai thời điểm bắt đầu
và chấm dứt của một ngày, cũng là biểu tượng của sự sớm nở tối tàn, sớm nắng chiều
mưa, và chính những biểu tượng này đã góp phần vào khuynh hướng bi quan, yếm
thế cho Tử Vi tại hai cung Mão Dậu.
Ngược lại, bản tánh của Tham
Lang là ham vui, thích sự náo nhiệt ồn ào trong cuộc sống. Khi hãm địa thì sự
ham thích danh lợi của Tham Lang lại càng mạnh mẽ hơn và ba chữ “Tham, Sân, Si”
đều có đủ. Chữ “Tham” dẫn đầu để lôi kéo quyến rũ Tử Vi vào vòng lẩn quẩn của
thế tục.
Như vậy, chúng ta có thể nói
đây là nét đặc biệt của mẫu người Tử Tham Mão Dậu. Nhưng chúng ta cũng nên phân
biệt 2 mẫu người sau đây:
1.     Mẫu
người có khuynh hướng về tôn giáo mạnh hơn những người khác khi còn nhỏ, giống
như một bản tính trời sinh. Đó là trường hợp chúng ta thấy những đứa bé lúc nhỏ
theo cha mẹ đến chùa, nhà thờ, hoặc tham dự những lễ lạt, thờ cúng, v.v…Có
những em bé làm theo như bổn phận, nhưng cũng có những đứa bé lại có ý thích
thú, tự ý học thuộc kinh sách, tự ý đến chùa, đến nhà thờ để tham dự những sinh
hoạt một cách tích cực… Và dần dần cái ý tưởng về tôn giáo ngày càng rõ ràng
hơn những đứa bé khác cùng trang lứa… Khi lớn lên, tùy theo mỗi hoàn cảnh
trải qua trong cuộc sống, nội tâm của họ phải chịu sự giằng co giữa đời và đạo
khiến cho họ nhìn đời mà ít khi thấy màu hồng.
Và tùy theo mức độ hướng về
đời hay đạo, bên nào mạnh hơn, có nghĩa là còn tùy theo sự ảnh hưởng của các
sao đi cùng với chính tinh Tử Tham. Có người thể hiện khuynh hướng tôn giáo một
cách tiêu cực như thích làm việc xã hội, bỏ công bỏ của ra làm việc từ thiện,
hoặc tích cực hơn thì đó là những người tu tại gia, và hơn thế nữa thì theo con
đường tu hành ngay từ khi còn bé.
Những biến chuyển này đều do
tính trung hậu, phúc đức của Tử Vi mà ra. Nhưng ở Mão và Dậu, oái ăm thay Tử Vi
lại ngồi chung với Tham Lang hãm địa. Đây là hình ảnh cho một cuộc đời khổ não.
Bởi vậy dù đã bước vào con đường tu hành nhưng nợ trần vẫn chưa dứt.
2.     Mẫu
người Tử Tham Mão Dậu là lúc khởi đầu của cuộc đời, họ hoàn toàn chưa có một ý
niệm mạnh mẽ gì về tôn giáo cả. Nhưng đến một lúc nào đó họ bị vấp ngã để rồi
chính những sự đau đớn chua cay ở đời đã dẫn dắt họ đến với đạo. Nhưng vào được
với đạo hay không thì còn tùy vào các sao đi cùng Tử Tham. Chẳng hạn nếu gặp
Không Kiếp thì khả năng và sác xuất tu hành rất cao. Nếu gặp Xương, Khúc thì
tâm còn vướng nặng chuyện của trần tục cho nên khó mà tu thành.
Ngoài ra nếu không đề cập đến
phương diện tâm linh thì cuộc đời của những người Tử Tham Mão Dậu cũng ba chìm
bảy nổi, thành bại thất thường từ cuộc sống vật chất cho đến vấn đề tình cảm
lúc nào cũng đòi hỏi ở đương số một sự phấn đấu. Nhưng cuộc đời cũng buồn nhiều
hơn vui, ít khi được xúng ý toại lòng.
Tóm lại: Mẫu người Tử Tham
Mão Dậu có một nét đặc biệt là có lòng tín ngưỡng rất mạnh ngay từ khi còn bé.
Cuộc sống của họ bị giằng co giữa đời và đạo, điển hình như những người tu tại
gia, tu xuất v.v… Điểm này có phần giống những người có Thiên Không thủ Mệnh,
là những người tuy không bi quan, yếm thế như Tử Tham Mão Dậu mà họ chỉ hướng
về tôn giáo mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bị vấp ngã, hay lưng trời gãy
cánh (bán thiên triết sĩ).
BÀI 11:
MẪU NGƯỜI “TỲ HÀ NGỌC (CỰ
KỴ)”
Tâm lý chung của nhiều người
khi nghiên cứu về khoa Tử Vi là thường chỉ chú tâm đến những bộ sao chính như
Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương v.v… Thật ra
những cách đơn giản như Cự Kỵ, hoặc các bộ sao nhỏ như Thai Phục Vượng Tướng mà
chúng ta sẽ bàn đến cũng cho chúng ta thấy một số mẫu người có những nét rất
đặc biệt trong cuộc đời, nếu không muốn nói là những cách, những bộ sao nhỏ này
đôi khi còn ảnh hưởng sâu đậm hơn và chi phối mạnh mẽ hơn trên cuộc đời của
đương số. Và trước khi phác họa những nét đặc biệt cũng như những điểm giống
nhau và khác nhau của hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người Thai Phục Vượng Tướng,
chúng ta hãy bàn qua bản chất của mỗi sao trong hai cách này.
Trước tiên, Cự Môn thuộc nhóm
Bắc Đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Về ý
nghĩa thì Cự Môn là cái miệng, và chúng ta đã biết, con người sống cũng nhờ cái
miệng, chết cũng vì cái miệng, được người thương cũng do cái miệng, bị người
ghét cũng bởi cái miệng của mình mà thôi… Ngoài ý nghĩa trên, nếu Cự Môn tọa
thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của sự giàu sang,
thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành
ngoại gi­ao, gi­ao thiệp, dạy học, luật sư… Chẳng hạn nếu thấy lá số của con
cái mình có cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá và
Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành luật,
vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại,
nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ,
cứ mở miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyện thị
phi khẩu thiệt mà thôi.
Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là
viên ngọc. Chẳng hạn, Cự Môn ở Tí Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là
ngọc còn ẩn trong đá, Cự Môn gặp Thái Dương là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh
dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến,
còn gọi là Tì Hà Ngọc, có nghĩa là ngọc bị tì vết.
Sao thứ hai của cách này là
Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai
tiếng, thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn… Với bản
chất như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng
Hóa Kỵ cũng có một điểm tốt là giữ được của.
Cách Cự Kỵ không có gì đáng
nói đối với nam mệnh, ngoài những nét tổng quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại
thường hay bị nhiều điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà
cách này chỉ đáng lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ
ngọc hàm ý chỉ vào phái nữ, hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của
một người đàn bà, cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến
lá số của những người đàn bà có cách Cự Kỵ.
Khi lá số của một nữ mệnh có
Cự Môn tọa thủ và có Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều
cũng có điểm bất lợi. Ở đây chúng ta phải lưu ý một điều là khi luận đoán một
lá số của nữ mệnh mà có những cách như Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục
Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề cập tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết
sức thận trọng, vì vấn đề sẽ liên quan đến danh tiết và phẩm hạnh của một người
đàn bà. Do đó, chúng ta nên phân biệt rõ ràng mỗi trường hợp sau đây.
Trường hợp lá số của một
người đàn bà mà cung Mệnh có Cự Môn miếu vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta
phải quan sát thêm ở cung Mệnh và các cung chính khác như cung Thân, cung Phúc,
cung Phu, cung Quan, cung Nô… để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính
như Thái Dương, Tứ Đức… hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa,
Thiên Hình… thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay gặp các hoàn cảnh
khiến cho mình bị những tai tiếng thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh
giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu
tình dục (sex­ual ha­rasse­ment). Mức độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên
Hình, Kiếp Sát… thì có thể vì bệnh tật mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng,
tử cung v.v… Hoặc có thể là những tai nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những
tai họa về sông biển như một số người đã gặp trên đường vượt biển trong những
năm về trước. Như vậy, trong trường hợp này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn
là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị
lăn xuống đường nên có tì vết, đó là ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà
thôi.
Trường hợp nếu Cự Môn tuy là
miếu, vượng mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn,
như Văn Xương, Văn Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần
tình dục như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu v.v… thì những gì không tốt xảy
ra cho đương số là do bản tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn
cảnh chỉ là những trợ lực thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự
Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe
hoa, và khi đã có gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn
vì chồng con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa
vị trong xã hội, là những mệnh phụ phu nhân… Trường hợp này có thể ví như mẫu
người của Vương Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa đó, với xã hội phong kiến đó, mà
nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng đánh đàn, thì làm sao trách được sự
đánh giá nghiêm khắc của người sau: Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như
vậy, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong trường hợp này là một viên ngọc vốn đã
có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải do tay người dũa ngọc hay
người chủ của viên ngọc.
Trường hợp nữ mệnh có Cự Môn
hãm địa tọa thủ mà không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao “đoan chính”
hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người đặc biệt. Là mẫu người có một bề
ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới
thấy rõ con người thật được che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen
tương, đố kỵ đủ điều… Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì
Hà Ngọc thật là đúng nghĩa!
Khoa Tử Vi cũng cho rằng,
cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung chính yếu khác như cung Phúc
Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc hay cung Phu Thê cũng còn nói lên sự bất ổn
trong cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ
có một mối tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với
nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người
này, nếu không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm
thường là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như
lòng ích kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.
Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt
cho cả nam mệnh và nữ mệnh, nhưng đối với nữ mệnh thì sự ảnh hưởng nặng nề và
tai hại hơn trong lãnh vực trinh tiết và phẩm hạnh của đương số. Nói chung, nữ
mệnh mà gặp cách Cự Kỵ thì cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác
nhau ở mức độ nặng nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp
đặc biệt, cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi Thân, khoa Tử
Vi Đẩu Số gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt vì có sự ứng
hợp.
BÀI 12
MẪU NGƯỜI “NHẬT NGUYỆT ĐỒNG
LÂM”
Nhật là Thái Dương, là mặt
trời. Nguyệt là Thái Âm, là mặt trăng. Hai vầng Nhật Nguyệt là 2 trong 14 chính
tinh của khoa Tử Vi. Những đặc tính của Nhật Nguyệt rất thực tế. Mặt trời là
nguồn năng lượng lớn nhất đối với qủa đất của chúng ta cho nên người có Thái
Dương thủ Mệnh là người rất năng động. Dù nam hay nữ tính tình cũng có phần
nóng nảy.
Từ cổ chí kim mặt trăng luôn
là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân cho nên người có Thái Âm thủ Mệnh
thường mang tính đa sầu, đa cảm. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn bản chất của
mỗi sao trước khi có cái nhìn khái quát về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.
Thái Dương thuộc nam đẩu
tinh, hành Hỏa, miếu địa ở Tỵ, Ngọ tức là mặt trời vào lúc giữa trưa, và vượng
địa ở Dần, Mão, tức là mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí trên, Thái Dương chủ
về sự thông minh, lòng nhân đức, tài lộc và uy quyền. Thái Dương rất hợp với
người Dương Nam, Dương Nữ, và những người sinh vào ban ngày.
Thái Âm thuộc bắc đẩu tinh,
hành Thủy, miếu địa ở Dậu, Tuất, Hợi, là lúc mặt trăng tỏa sáng nửa đêm, vượng
địa ở hai cung Thân (lúc trăng mới mọc), và Tí (lúc trăng sắp tàn)
Ở những vị trí miếu vượng,
Thái Âm là sự nhân từ, tánh đa sầu, đa cảm và lãng mạn, có khiếu về văn chương,
nghệ thuật. Đồng thời Thái âm cũng chủ sự giàu có về điền sản như nhà cửa, đất
đai…Thái Âm đặc biệt phò trì cho người Âm Nam, Âm Nữ, những người mạng Mộc,
Thủy, và người sinh vào ban đêm, nhất là sinh vào những đêm trăng tròn 15, 16
thì càng tuyệt hảo.
Trong cơ thể, Nhật Nguyệt
tượng trưng cho đôi mắt. Trong gia đình, Thái Dương là ông, là cha, là chồng,
Thái Âm là bà, là Mẹ, là vợ…Điều này rất rõ khi cung hạn có Nhật hay Nguyệt tọa
thủ thì những gì xảy ra trong hạn đó không những là cho chính bản thân của mình
mà còn nói lên những sự việc xảy ra cho chồng, cho vợ, cha mẹ, ông bà của đương
số nữa. Sự biểu tượng này cũng nói lên tình cảm hay sự gần gũi mật thiết trong
cuộc sống giữa người con đối với cha hay mẹ. Chẳng hạn, khi chúng ta thấy lá số
của một người có Thái Dương thủ Mệnh thì người này chịu ảnh hưởng tánh tình của
cha nhiều hơn, có thể sẽ nối nghiệp cha, hoặc có thể vì hoàn cảnh, đương số sẽ
sống gần gũi và hợp với cha nhiều hơn là với mẹ.
Khi nói đến hai sao Nhật
Nguyệt, khoa Tử Vi có một nguyên tắc mà chúng ta thường nghe là: “Chính bất như
chiếu” nghĩa là: Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Điều này nghĩ cũng
hợp lý, rất thực tế. Chẳng hạn như chúng ta đặt một ngọn đèn ngay trước mặt mà
đọc sách thì ánh sáng chiếu trực tiếp vào mắt sẽ làm cho mắt bị chói và mau mỏi
mệt hơn là để ngọn đèn chiếu lên chụp đèn, hay chiếu vào tường rồi phản chiếu
vào trang sách.
Chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn
khi đi sâu vào trường hợp Nhật Nguyệt đồng cung. Trong 12 cung của lá số, bộ
Nhật Nguyệt chỉ đồng cung ở hai vị trí Sửu, Mùi tạo nên một mẫu người khá đặc
biệt gọi là mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.
Nhật Nguyệt Đồng Lâm cũng
giống như hiện tượng Nhật Thực, Nguyệt Thực. Nghĩa là trong một khoảng thời gi­an
nào đó, mặt trời, mặt trăng, và trái đất cùng ở một đường thẳng. Như chúng ta
đã thấy, khi Nhật Thực hay Nguyệt Thực thì mặt trăng che mặt trời hoặc mặt trời
che mặt trăng, cho nên ánh sáng mờ mờ ảo ảo, ngày chẳng ra ngày, đêm cũng không
giống đêm. Đó chính là nét đặc thù đầu tiên của mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.
“Những người bất hiễn công
danh
Cũng bởi Nhật Nguyệt đồng
tranh Sửu Mùi.”
Ý nghĩa thật qúa rõ ràng:
Những người có Mệnh an tại Sửu/Mùi, có Nhật Nguyệt tọa thủ thì một đời công
danh cũng như sự nghiệp khó lòng được như ý. Ngoại trừ một vài trường hợp đặc
biệt mà chúng ta sẽ bàn đến sau.
Mệnh an tại Sửu/Mùi có
Nhật-​Nguyệt đồng thủ, mặc dù không phải là những vị trí miếu vượng của
Nhật-​Nguyệt nhưng cũng là người khá thông minh vì đó là bản chất thuần túy của
vầng Nhật-​Nguyệt. Tuy nhiên vì hai nguồn ánh sáng nằm cùng với nhau cho nên
Nhật-​Nguyệt tự che lấy ánh sáng của nhau như đã nói ở trên. Vì vậy người Nhật
Nguyệt Đồng Lâm có trí nhớ kém và thường hay có những quyết định lầm lẫn, mãi
cho đến khi việc đã xong, quay mình nhìn lại thì mới thấy ân hận tại sao lúc đó
mình làm như vậy. Nhật-​Nguyệt là biểu tượng của ngày và đêm, và cũng là biểu
tượng của Âm và Dương trong vũ trụ cho nên người có NN thủ hay chiếu Mệnh
thường có năng khiếu về ngành điện tử, điện toán, vi tính v.v…
Nhật – Nguyệt đồng cung cũng
như Nhật Thực, Nguyệt Thực là khoảng thời gi­an mà ánh sáng và bóng tối hòa lẫn
với nhau, trắng đen lẫn lộn, và như chúng ta thường gọi là lúc tranh tối tranh
sáng. Bởi thế, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị những
chứng nhức đầu kinh niên, căng thẳng thần kinh, dễ bị xúc động, và chắc chắn
một điều là hai mắt kém, có nhiều bệnh tật khi còn bé.
Riêng đối với phái nữ, người
Nhật Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần có kinh nguyệt thường bị đau bụng dữ dội hơn những
người khác. Và họ thường hay bị những chứng bệnh mà đông y gọi là bệnh khí
huyết.
Nếu nói như vậy, Mệnh có
Nhật-​Nguyệt đồng thủ tại Sửu/Mùi thì đây không phải là một cách tốt, ngoại trừ
những trường hợp đặc biệt như sau:
1.Mệnh có Nhật Nguyệt tọa thủ
tại Sửu/Mùi mà có Tuần án ngữ, và được các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt,
Quang Quí, Thai Tọa, Đào Hồng Hỷ hội hợp thì trở nên tốt. Đây là số của những
nhà văn, nhà thơ, nhà báo, những người làm ngành truyền thông, hay là giới văn
nghệ sĩ danh tiếng và có địa vị trong giới văn chương, nghệ thuật.
2.Mệnh có Nhật Nguyệt đồng
thủ tại SửuMùi, có Hóa Khoa, Hóa Lộc đồng cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu
thì lại trở nên tốt đẹp. Công danh sự nghiệp vững vàng, có quyền cao chức trọng
trong xã hội.
Tóm lại, ngoài hai trường hợp
vừa nêu trên, Nhật Nguyệt Đồng Lâm ở Sửu/Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo
ấm nhưng đây là mẫu người bất đắc chí, có khả năng mà không gặp được thời vận
điển hình như nhà thơ Tú Xương ngày trước.
Cũng là Nhật-​Nguyệt đồng
cung, nhưng đúng với nguyên tắc căn bản mà chúng ta đề cập ở trên “Nhật Nguyệt
chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh” Như vậy nếu Mệnh an ở Sửu được NN đồng cung ở Mùi
xung chiếu thì chắc chắn tốt hơn Nhật-​Nguyệt tọa thủ tại Mệnh. Và phú Tử Vi
cũng khẳng định điều này: “Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài.”
Trong trường hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của Nhật-​Nguyệt,
và có Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng cho
Nhật-​Nguyệt. Được cách này, công danh phú quý càng rực rỡ và bền vững hơn.
Như vậy, khi nói đến mẫu
người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta phải phân biệt 2 trường hợp. Nếu
Nhật-​Nguyệt đồng thủ Mệnh thì cuộc đời được mô tả khái quát như câu: “Những
người bất hiển công danh, cũng vì Nhật-​Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi” Nếu
Nhật-​Nguyệt đồng cung xung chiếu Mệnh thì công danh sự nghiệp chắc chắn sẽ
trong tầm tay.
Nhưng cho dù ở trường hợp nào
thì mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm giống nhau ở chổ mắt yếu, nhức đầu kinh
niên, thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ kém, phái nữ thường bị đau bụng dữ dội khi
hành kinh. Năng khiếu nổi bật nhất của họ là văn chương và nghệ thuật.
BÀI 13
MẪU NGƯỜI “THAI PHỤC VƯỢNG
TƯỚNG”
Trong khoa Tử Vi Đẩu Số,
“Thai Phục Vượng Tướng” chỉ là một bộ sao nhỏ, gồm các sao: Thai, Phục Binh, Đế
Vượng, Tướng Quân hay Thiên Tướng. Trong cơ thể, sao Thai chỉ bộ phận sinh sản
của đàn bà, cũng có nghĩa là bào thai, là sự sinh đẻ, là vấn đề sinh lý, tình
dục, một cấu tạo mới hay sự thay đổi mới. Phục Binh chỉ sự lừa gạt, dối trá, âm
mưu, gài bẫy, hãm hại. Đế Vượng có nghĩa là cái lưng, là số nhiều, là sự hưng
thịnh, phát đạt. Đế Vượng còn chỉ sự sinh sôi nảy nở, sự canh cải mới mẻ. Thiên
Tướng/Tướng Quân trong cách này hàm ý nghĩa là người đàn ông.
Bộ Thai Phục Vượng Tướng
(TPVT) không có ý nghĩa gì nhiều về công danh, sự nghiệp hay giàu sang phú quý,
và cũng không có gì đáng nói với nam giới. Đối với nữ giới, bộ sao này rất là
quan trọng. TPVT cũng phần nào giống như bộ Cự Kỵ, hay Tham Kỵ, nói lên bản
tánh, những biến cố, cũng như những khúc quanh quan trọng về mặt tình cảm, hay
khuynh hướng tình dục trong cuộc đời của một người, đặc biệt là phụ nữ. Vì vậy
chúng ta phải rất thận trọng và cân nhắc khi thấy một lá số nữ mệnh có cách
TPVT. Bởi vì lời giải đoán là sự đánh giá về danh tiết và phẩm hạnh của đương
số. Điều đó đối với một người đàn bà tối ư quan trọng.
Trường hợp nữ mệnh có TPVT
nằm trong các cường cung như Mệnh, Tài, Quan, Phúc, Di, Thê mà chính cung có
những sao chủ sự đoan chính, hay những sao có khả năng khắc chế tính lãng mạn,
dâm đãng, lẳng lơ, sự buông thả trong vấn đề tình dục, thì lá số đó sẽ có 2
trường hợp:
1.     “Tiền
Dâm Hậu Thú” có nghĩa là ăn ở với nhau trước rồi mới cưới hỏi sau. Với nhịp
sống của một xã hội tân tiến hôm nay thì vấn đề này trở nên hết sức bình
thường. Nhưng nếu ngược trời gi­an trở về một thế kỷ trước đây thì qủa là một
điều khó có thể chấp nhận được. Điều lý thú là khoa Tử Vi có thể nói lên những
điều thầm kín ấy một cách khá chính xác.
2.     Sao
Thai, Phục Binh nói lên sự hư thai, Đế Vượng ý nói nhiều lần. Đương số có thể
gặp cả hai trường hợp nêu trên.
Cũng cách TPVT nhưng Mệnh và
các cung chính lại không có những sao khắc chế, ngược lại có thêm những dâm
tinh khác như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu, Mộc Dục…đồng thủ hay hợp chiếu
thì đương số sẽ thất trinh, thất tiết với người khác khi lấy chồng, hoặc sống
với nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng, chứ không có cưới hỏi gì.
Trường hợp nữ Mệnh gặp cách
TPVT mà cung Mệnh và những cung chính bị nhiều sát tinh như Địa Không, Địa Kiếp
đồng cung hay hợp chiếu thì sự thất tiết có thể là do hoàn cảnh hay tai nạn
ngoài ý muốn. Không hẳn đương số là hạng đàn bà lẳng lơ mất nết.
Trường hợp có sao Thai thủ
Mệnh, nhưng không đủ 4 sao mà Thai lại gặp Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ đồng
cung hoặc hợp chiếu thì ý nghĩa ở đây không những chỉ đơn thuần vấn đề ăn ở với
nhau trước khi cưới hỏi mà còn chỉ bản tánh lẳng lơ, mất nết, thích chuyện
ngoại tình, cho nên phú Tủ Vi mới có câu:
“Đào Hồng mà ngộ sao Thai
Tiền dâm hậu thú mới ra vợ
chồng.”
hay
“Đồng Hồng mà ngộ sao Thai
Chồng vừa khỏi cửa đón trai
vào nhà”
Trường hợp nữ mệnh có TPVT mà
sao Thai cùng với những dâm tinh khác tọa thủ tại Mệnh, mà đương số đã có gia
đình thì sẽ có thai do ngoại tình. Nếu Thai gặp Song Hao thì dễ bị hư thai, gặp
Lưu Hà hay Hóa Kỵ thì dùng thuốc mà phá thai, hặp Thiên Hình hay Kiếp Sát thì
nạo thai, hay khi sanh phải bị mổ xẻ.
Nếu Thai tọa thủ tại Mệnh có
Thiên Riêu đồng cung hay hợp chiếu thì đây cũng là mẫu đàn bà có cuộc sống rất
buông thả. Nếu Thai Riêu gặp thêm Đào Hoa nữa thì phải chịu một kiếp phong
trần, và nếu không được những sao khắc chế bớt sẽ dễ trở thành gái gi­ang hồ,
đàn bà lăng loàn, xem thường luân thường đạo lý.
Cũng cách TPVT mà có Phục
Binh thủ Mệnh hoặc xung chiếu từ Thiên Di thì sự thất trinh của đương số thường
là bị dụ dỗ, cưỡng bức, hay gài bẫy. Nếu có thêm sát tinh Không Kiếp đồng cung
hay hợp chiếu thì càng chắc chắn hơn.
Trường hợp nữ Mệnh không
thuộc cách TPVT nhưng trong lá số bộ sao này nằm ở một cung nào đó thì chúng ta
cũng nên cân nhắc 2 trường hợp sau đây:
1.     Mệnh
của đương số là người đoan chính, đến hạn gặp TPVT thì vấn đề sinh con đến
trong hạn này.
2.     Nếu
Mệnh là người đa tình, lãng mạn mà hạn gặp TPVT (phải đủ 4 sao) thì phải nên
thận trọng trong vấn đề gi­ao lưu tình cảm. Trong hạn này (thường ứng nghiệm
vào tiểu hạn 1 năm) cuộc đời sẽ có nhiều thay đổi, những khúc quanh trong vấn
đề tình cảm, và có thể khúc quanh này sẽ thay đổi cả cuộc sống hiện tại của
đương số.. Và một điều đáng lưu ý là sự việc không chỉ đơn thuần trên vấn đề
tình cảm mà TPVT còn có ý nghĩa sâu đậm trên vấn đề xác thịt.
Đối với nam giới thì cách
TPVT chỉ rõ bản tính đặt nặng vấn đề vật chất hơn tình cảm. Trong tình yêu, họ
cho rằng trái tim và tâm hồn của người yêu chưa đủ, mà phải chiếm đoạt cho được
cả thân xác. Nếu hội thêm những sao như Tham Lang, Phá Quân hãm địa, Không
Kiếp, Quan Phù, Quan Phủ…thì đương số chắc chắn là bà con của họ Sở.
Tóm lại, trong cách TPVT, đặc
biệt đối với phụ nữ thì nói lên sự chủ ý hay tự nguyện của đương số nặng hơn là
vì hoàn cảnh, hay tai nạn như cách Cự Kỵ. Nhìn chung, mẫu người TPVT có thể bao
gồm mọi thành phần, mọi gi­ai cấp trong xã hội, từ một người đàn bà tầm thường
cho đến một mệnh phụ phu nhân, vì đây chỉ là lãnh vực tình cảm hay khuynh hướng
tình dục, là vấn đề phẩm hạnh của con người.
BÀI 14
MẪU NGƯỜI “KHỐC HƯ”
Thiên Khốc và Thiên Hư chỉ là
hai sao nhỏ trong những phụ tinh của khoa Tử Vi. Nhưng không phải vì thế mà
chúng không có ý nghĩa gì đáng kể trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật
vậy, con người khi lọt lòng mẹ đã cất tiếng khóc chào đời, khi lớn lên cũng qua
tiếng cười mà biết được niềm hạnh phúc, cũng như tiếng khóc đễ biết được nổi
thống khổ, thành bại ở đời. Khốc Hư là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, vì vậy
cho dù bất cứ lãnh vực nào của cuộc đời, khi nói đến sức khỏe, tình duyên, hôn
nhân, tiền bạc, hay công danh sự nghiệp thì sự hiện diện của Khốc Hư cũng cho
ta biết đương số khi nào đi vào những lãnh vực này, con đường với những nụ cười
thoải mái hay con đường đầy nước mắt thương đau.
Chẳng hạn, chưa nói đến khốc
hư tọa thủ tại Mệnh mà chỉ nói đến Khốc Hư tọa thủ tại cung Quan Lộc thì cũng
hiểu được công việc làm của đương số phải vất vả, lận đận, ba lần bại mới được
một lần nên. Cùng một ngành nghề nhưng người có Khốc Hư ở Quan Lộc phải lao tâm
khổ lực hơn những người không có. Nếu Khốc Hư ở Tài Lộc thì đồng tiền kiếm được
chắc chắn phải đổi bằng nhiều mồ hôi và nước mắt. Khốc Hư ở Phu Thê thì việc
hôn nhân phải trải qua nhiều trở ngại, nếu ăn ở với nhau rồi thì nước mắt cũng
nhiều hơn là nụ cười. Khốc Hư ở cung Tử Tức thì cha mẹ nuôi con rất cực khổ,
đến khi con lớn lên lại phải gánh chịu nhiều phiền muộn vì con cái. Khốc Hư ở
Nô Bộc thì từ bạn bè đến kẻ ăn người ở, và cả người tình của mình đều thường
xuyên đem đến những phiền muộn cho mình trong việc gi­ao tế, làm ăn và chuyện
tình cảm.
Thiên Khốc, Thiên Hư đều
thuộc hành Thủy, đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu, và Mùi. Là biểu tượng của 2 giọt
nước mắt, cho nên người có KH thủ Mệnh thường hay lo lắng, hay suy tư, và cũng
rất hay bị đau ốm bệnh tật. Đây là mẫu người kín đáo và có phần cô đôc tựa như
Vũ Khúc hay Đẩu Quân thủ Mệnh vậy. Lúc còn sống trong gia đình thì khắc với cha
mẹ, anh em. Khi có gia đình thì khắc với vợ con, nhưng sự xung khắc không đến
nổi trầm trọng. Người KH nếu chưa qua khỏi tiền vận thì đừng nên toan tính
nhiều để rồi thất vọng. Muốn được xứng ý toại lòng phải từ trung vận trở về
sau.
Tuy nhiên, nếu trên cương vị
một người chủ hay một cấp chỉ huy thì mẫu người KH thủ Mệnh là một cấp thừa
hành tốt vì họ là người có tinh thần trách nhiệm. Gi­ao việc cho họ, chúng ta
sẽ thấy họ lo lắng, suy nghĩ, soạn thảo kế hoạch, đắn đo cân nhắc rất thận
trọng. Và khi đã làm thì làm đến nơi đến chốn.
Nhưng oái oăm thay, với tinh
thần làm việc như thế mà ít khi người KH đạt được kết qủa một cách dễ dàng ngay
từ phút đầu tiên. Vì thế khoa Tử Vi gọi mẫu người KH là “Tiền Trở Hậu Thành” Có
nghĩa là thường bị trở ngại lúc đầu rồi sau đó mới thành công. Tuy nhiên đặc
tính Tiên Trở Hậu Thành chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trong tiền vận mà thôi, rồi sau
đó sự tác hại sẽ nhẹ dần. Về đặc tính này, người KH có phần nào giống người Vô
Chính Diệu: trong một hạn, dù tiểu hay đại hạn, và trong cả một đời người, chỉ
được may mắn, hanh thông vào nửa đời sau mà thôi.
Có phải chăng vì vậy mà người
KH rất có ý chí, luôn luôn có gắng để vươn lên trong mọi tình huống. Khi vượt
qua khỏi cái tiền vận gi­an nan sẽ bước vào một hậu vận tốt đẹp hơn. Điểm nổi
bật của người KH là khả năng thuyết phục người khác, có tài hùng biện và rất
sắc bén trong lĩnh vực chính trị. Nếu KH đi chung với Cự Nhật hay Tang Hổ thì
đây là những thầy giáo giỏi, những nhà ngoại gi­ao hay chính khách có tài.
KH có hai vị trí tốt đẹp là
hai cung Tí và Ngọ mà chúng ta quen gọi là Khốc Hư Tí Ngọ là cách tiền bần hậu
phú. Nếu Mệnh an tại Tí/Ngọ có KH đồng cung (ờ Tí tốt hơn Ngọ) thì cuộc đời
trước nghèo sau giàu. Sự thay đổi ở vào thời điểm nào, nhanh hay chậm còn tùy
thuộc vào toàn bộ lá số.
BÀI 15
MẪU NGƯỜI “VĂN TINH ÁM CỦNG”
Khoa Tử Vi Đẩu Số đã có từ
hơn 4000 năm nay cho nên những ý niệm cũng như cách sắp xếp các sao đều đặt căn
bản trên một xã hội phong kiến. Mỗi sao là một biểu tượng. Có sao biểu tượng
cho một vị Vua như Tử Vi, có sao biểu tượng cho quan văn như bộ Cơ Nguyệt Đồng
Lương, cho quan võ như Sát Phá Liêm Tham, cho giới sĩ phu như Xương Khúc, Khôi
Việt, Hổ Tấu v.v… Đặc biệt hai sao Văn Xương, Văn Khúc được gọi là văn tinh,
biểu tượng cho văn cách của học vấn và khoa bảng.
Văn Xương là bắc đẩu tinh,
hành kim, còn có tên là Văn Quế, chủ về văn học và sự cao quý. Văn Khúc là nam
đẩu tinh, hành thủy, có tên là Văn Hoa, chủ về nghệ thuật và sự sinh đẹp. Cả
hai đều đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi. Khi đắc địa Xương khúc chủ về
công danh qua con đường khoa bảng. Những người Mệnh có Xương Khúc tọa thủ đồng
cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì khoa Tử Vi gọi là cách Văn Tinh Ám Củng.
Đây mà mẫu người thông minh
và hiếu học, có năng khiếu đặc biệt về văn chương, thi phú, ca nhạc, kịch, điêu
khắc, hội họa…nói chung là lĩnh vực văn học và nghệ thuật. Cho nên Xương Khúc
đắc địa mà gặp thêm Đào Hồng Hỷ hoặc Long Phượng Tuế Tấu thì đây là số của
những ca nghệ sĩ , tài tử điện ảnh nổi danh.
Người đắc cách Văn Tinh Ám
Củng (VTAC) thường theo học những khoa về văn chương, nhân văn ngoại ngữ, và
nếu toàn bộ lá số tương đối tốt, họ là những người đạt được bằng cấp cao và đặc
biệt là có năng khiếu về sinh ngữ. Trường hợp Xương Khúc hãm địa thì đường học
vấn của họ thường bị dang dở, nhưng vẫn có năng khiếu về nghệ thuật. Cho nên họ
thường là những người khéo tay. Nếu sinh hoạt trong ngành thủ công như đan,
may, thêu, dệt, thợ bạc, nghề tóc, nails.v.v… thì tuy không giàu có nhưng suốt
đời cũng được cơm no áo ấm.
Đặc biệt đối với nữ mệnh,
người có Xương Khúc dù đắc hay hãm thì cũng là người có nhan sắc, biết cách ăn
mặc và khéo trang điểm. Chữ nhan sắc đây không chỉ nói đến vẻ đẹp trên khuôn
mặt mà còn phải nói đến một thân hình đẹp, nhất là bộ ngực bởi vì Xương Khúc là
biểu tượng của đôi nhủ hoa của người đàn bà.
Tuy nhiên khi nói về nhan sắc
của một người đàn bà qua lá số, chúng ta phải phân biệt cái đẹp của Đào Hoa và
cái đẹp của Xương Khúc khác nhau ở chổ nào. Đào Hoa là nét đẹp lộ hẳn ra bên
ngoài, tất cả vẻ đẹp hầu như đều lộ rõ trên khuôn mặt như một đóa hoa đã nở,
cái đẹp của một khuôn mặt mà khoa tướng mệnh gọi là Đào Hoa Diện, vẻ đẹp trên
phương diện thẫm mỹ, nhưng chưa hẳn đã đẹp dưới cái nhìn của khoa tướng mệnh.
Nét đẹp của Đào Hoa dễ lôi cuốn, khêu gợi, hấp dẫn, dễ thu hút đối phương ngay
từ phút ban đầu. Nhưng khi tiếp xúc lâu hơn, có thể gây cho đối phương một chút
thất vọng nào đó chẳng hạn như ăn nói không có duyên, hời hợt bên ngoài, suy
nghĩ nông cạn, cởi mở qúa trớn hay suồng sã lẳng lơ…
Ngược lại, nét đẹp của Xương
Khúc không loè loẹt phô trương như Đào Hoa. Có thể nói cái nét duyên dáng nhiều
hơn là đẹp. Một người có Xương Khúc thủ Mệnh thì nhan sắc có thể chỉ ở mức
trung bình, nhưng khi tiếp xúc càng lâu thì càng bị thu hút bởi cái duyên ngầm,
cái nét đa tình hấp dẫn, hoặc có thể do những yếu tố khác như sự thông minh, có
kiến thức, và có trình độ học vấn, có chiều sâu tâm hồn, ăn nói khéo léo, tế
nhị, hoặc có một tâm hồn lãng mạn…
Tuy nhiên, nữ Mệnh có Xương
Khúc đặc địa thì ngoài những đặc tính vừa nêu trên, có thể nói đây là mẫu người
đàn bà có một bản năng tình dục rất mạnh, nhưng khác với sự buông thả, lẳng lơ
của Đào Hoa ở chổ họ có thể tự kiềm chế được. Họ chỉ bộc lộ điều này với người
yêu hay vợ chồng của họ mà thôi. Và trong cái khung cảnh của xã hội ngày nay,
có lẽ đây không hẳn là một điều xấu. Có thể nói, đối với những người đàn ông có
khuynh hướng cởi mở trong vấn đề tình cảm thì người đàn bà có Xương Khúc thủ
mệnh đúng là một người tình lý tưởng.
Nhưng trường hợp nữ mênh có
Xương Khúc hãm địa tọa thủ thì khuynh hướng buông thả trong vấn đề tình cảm và
tình dục rất gần với Đào Hoa. Do đó, cuộc đời phải ba chìm bảy nổi và nhiều
phiền muộn với chồng con. Nếu Xương Khúc hãm địa mà lại gặp thêm sát tinh, hung
tinh hội chiếu thì đây là mẫu người đàn bà hình phu khắc tử, có nghĩa là số sát
chồng, hại con.
Nữ Mệnh có Xương Khúc hãm địa
và có Thiên Riêu đồng cung hay hợp chiếu là người mê tính dị đoan, thích những
chuyện đồng bóng. Nếu bộ ba Xương, Khúc, Riêu gặp thêm Hóa Kỵ thì đây là người
đàn bà có bề ngoài rất kiều mị, ai gặp cũng phải động lòng vì nét hấp dẫn và
lôi cuốn. Nhưng bản tính rất dâm đãng, cuộc sống rất phóng túng, buông thả và
tuổi thọ cũng chẳng được bao nhiêu.
Trường hợp Mệnh có Văn Khúc
và Vũ Khúc đắc địa đồng thủ, đây là cách Nhị Khúc Vượng Cung, là người văn võ
song toàn, công danh sự nghiệp rất bền vững. Đặc biệt đối với những người tuổi
Giáp có sự ứng hợp nên càng tốt đẹp hơn những tuổi khác. Mẫu người Nhị Khúc
Vượng Cung thường lúc nào cũng có 2 nghề, hoặc sinh hoạt trong hai lĩnh vự khác
nhau và đối nghịch nhau nhưng bên nào cũng đều đạt mức thành công dễ dàng.
Trường hợp cung Mệnh an tại
Tứ Mộ có Tham Lang và Hỏa Tinh tọa thủ đồng cung, thì đây là cách Tham Hỏa
Tương Phùng, một dạng của cách Tham Vũ Đồng Hành mà chúng ta đã nói đến. Nếu
cách này có thêm Văn Khúc đắc địa đồng cung hay hợp chiếu thì đương số là người
có chức tước và địa vi cao trong xã hội.
Tóm lại mẫu người VTAC là
người rất lý thú khi chúng ta tiếp xúc, kết gi­ao bằng hữu, cộng tác làm ăn, và
cũng là những người tình, người chồng hay người vợ lý tưởng. Nếu Xương Khúc
không nằm trong một lá số qúa tệ thì họ là những người có phong cách, có trình
độ, có chiều sâu tâm hồn. là những nhà văn, nhà thơ, những ca nhạc sĩ nổi danh…
Riêng đối với phái nữ thì đây
là người có nhan sắc, duyên dáng và đa tình. Thật xứng với cái tên Văn Quế, Văn
Hoa mà khoa Tử Vi thường gọi.
BÀI 16
MẪU NGƯỜI “DỊCH MÔ
Dịch Mã chỉ là một phụ tinh
nhưng lại đóng những vai trò khá quan trọng trong một lá số. Có thể nói từ lá
số của một bậc quân vương, một danh tướng, một thương gia, hay một người bình
dân mà đến thời điểm nào đó trong cuộc đời tạo dựng được những công danh sự
nghiệp cho mình thì hầu như lá số của họ không thể không có sự góp phần của Thiên
Mã. Lý do thật đơn giản vì Thiên Mã là biểu tượng của tài năng. Bởi vậy, một lá
số mà cung Mệnh và cung Thân có Thiên Mã tọa thủ gọi là cách Dịch Mã.
Người ta thường cho rằng
Thiên Mã thuộc hành Hỏa và trong 12 cung của lá số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung
là Dần, Thân, Tỵ, Hợi, và chỉ đắc địa ở hai cung Dần và Tỵ mà thôi. Trong khoa
Tử Vi, Thiên Mã là biểu tượng của chân tay, hoặc phương tiện di chuyển như xe
cộ, tàu bay, tàu hỏa…
Đặc tính chủ yếu của người
Dịch Mã là tính năng động, tháo vác, đảm đang, quán xuyến, thích di chuyển,
thích tranh cãi, hay thay cũ đổi mới…Vởi những đặc tính ấy cho nên Thiên Mã
không chỉ ảnh hưởng ở hai cung Mệnh và Thân mà nó còn tác động mạnh mẽ vào các
cung chính như Quan Lộc, Thiên Di…là những lãnh vực của công danh và sự nghiệp.
Tuy nhiên khi nói đến mẫu
người Dịch Mã, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ “dịch” là xê dịch, chuyển
đổi, di chuyển, biến động… do đó cũng có người cho rằng hành của Thiên Mã thay
đổi theo hành của cung mà Thiên Mã tọa thủ. Có nghĩa là, khi Mã tọa thủ ở Dần
(hành Mộc) thì Mã ứng với người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã ứng cho người
mạng Hỏa và Thổ. Khi ở cung Thân thì Thiên Mã ứng với người mạng Kim và
Thủy…v.v. Nhu vậy, khi hành của Thiên Mã ứng hợp với hành của Mệnh thì đương số
là người có tài năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết tài năng của mình.
Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời lại không được những
vận hội may mắn, không được đời biết đến khiến cho tài năng phải bị mai một như
một kẻ sinh bất phùng thời.
Người có Mệnh an ở hai cung
Dần Thân có Tử Phủ và Thiên Mã tọa thủ đồng cung gọi là cách Phù Dư Mã, là ngựa
kéo xe cho Vua chỉ những người có tài năng, giữ những chức vụ cố vấn, phụ tá
cho các cấp chỉ huy của một đơn vị quân đội, hay giám đốc của một cơ sở hành chánh,
thương mại…Hoặc cũng có thể là những người không giữ một chức vụ gì chính thức
nhưng ra đời thường được kề cận với những người có quyền thế trong xã hội.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh và
có Nhật Nguyệt đồng cung hay hợp chiếu là cách Thư Hùng Mã. Một đôi ngựa tốt,
chỉ người văn võ song toàn, nhưng cách này thường phát về văn nghiệp hơn là võ
nghiệp. Đây là mẫu người có kiến thức sâu rộng, có trình độ học vấn, có năng
khiếu về các ngành như ngoại gi­ao, chính trị, văn học và nghệ thuật. Nếu đã đi
vào những lãnh vực vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này sẽ đạt được những
công danh sự nghiệp một cách dễ dàng, và có người có thể thành công trên cả hai
lĩnh vực cùng một lúc. Chẳng hạn họ có thể là một nghệ sĩ nổi danh lại vừa giàu
có nhờ làm thương mại. Người Thư Hùng Mã có khả năng song thủ hỗ bác tương tự
như người có Thân cư trong tam hợp Phúc, Di, và Phu Thê.
Người có Thiên Mã gặp Lộc Tồn
đồng cung là cách Chiết Tiễn, có nghĩa là bẻ roi đánh ngựa, giục ngựa lên
đường, chỉ người có tài. Khởi sự làm gì cũng được may mắn thuận lợi. Nếu Thiên
Mã ở Mệnh có Lộc Tồn ở Thiên Di xung chiếu thì đây là cách Lộc Mã Gi­ao Trì,
ngựa ăn cỏ trên cách đồng xanh, là người được vận hội may mắn, được thừa hưởng
những công lao thành qủa của người khác làm. Và theo ý nghĩa của Lộc Tồn là lộc
trời cho, nên cả hai cách vừa nêu trên cũng chỉ những người trở nên giàu có nhờ
trúng số, hoặc được thừa hưởng tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Người có Lộc
Mã mưu sự chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được may mắn.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh
gặp Hỏa Tinh hay Linh Tinh là Chiến Mã, ngựa xuất trận. Cách này chỉ người có
tài năng là thường là phát về võ nghiệp nếu gặp một lá số tốt. Đây là số của
những quân nhân được thăng cấp rất nhanh chóng. Tuy nhiên cách Chiến Mã này
tiềm tàng những tai họa về chân tay như thương tật hay tàn khuyết nếu không có
những cách hóa giải. Nếu đủ bộ Mã Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại từ
nhỏ, hoặc bị bại liệt do các chứng bệnh khác đưa đến như bị tai biến mạch máu
não, tiểu đường .v.v…
Người có Thiên Mã thủ Mệnh
gặp Thiên Khốc, Điếu Khách là cách Mã Khốc Khách, có nghĩa là ngựa đeo lục lạc
vàng, chỉ những người có tài năng, có danh tiếng trong một lãnh vực nào đó. Hạn
gặp Mã Khốc Khách thì vận hội may mắn đã đến, là thời điểm mà danh tiếng của
mình được người đời biết đến. Đối với một lá số trung bình thì đương số cũng
gặp được những cơ hội may mắn như được cấp trên gi­ao phó công việc và được tín
nhiệm hay thăng thưởng do khả năng và những thành qủa tốt đẹp của mình.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh
gặp Phi Liêm đồng cung hay xung chiếu gọi là cách Phi Mã, là ngựa có cánh bay
như trong truyện thần thoại của Hy Lạp, ý nghĩa cũng tương tự như Mã Khốc
Khách, chỉ người có tài năng và được nhiều may mắn, làm việc gì cũng thành
chông dễ dàng và nhanh chóng. Hạn gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc di chuyển.
Nếu khởi sự một điều gì trong hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã đáo hạn là
thời cơ đã đến. Người có cách Phi Mã thường thích hợp với những công việc đi
đây đi đó, cuộc đời là những chuyến hành trình không dứt.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên
Hình đồng cung là cách Phù Thi Mã, là ngựa kéo xe tang. Người có cách này suốt
đời cực khổ, làm việc gì cũng khó khăn trắc trở, thành ít bại nhiều, và thường
gặp toàn những chuyện xui xẻo, đau thương, buồn khổ, tang tóc triền miên. Hạn
gặp Mã Hình thì phải hết sức thận trọng trong mọi việc, vì những gì sẽ đến
trong thời gi­an này chỉ là những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của mình.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Đà La
đồng cung gọi là Mã Đà hay Chiết Túc Mã. Có ý nghĩa là ngựa què, chỉ những
người không được may mắn, hay gặp khó khăn trắc trở. Cuộc đời nhìn chung toàn
là những lao đao lận đận. Cùng là một việc, người khác làm thì thuận lợi may
mắn, mình làm thì khó khăn, trở ngại. Bởi vậy trên phương diện dùng người, thì
gi­ao một công việc cần có kết qủa sớm, hay một kế hoạch quan trọng cho người
có số Mã Đà hay đang trong vận Mã Đà thì đây là một quyết định từ sai lầm đến
mạo hiểm của người có trách nhiệm.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuyệt
đồng cung, gọi là Mã Tuyệt hay Cùng Đồ Mã. Có nghĩa là ngựa chạy đến đường
cùng, chỉ người làm việc thường thất bại, cuộc đời thường lâm vào cảnh bế tắc.
Tương tự nếu Mã thủ Mệnh gặp tuần triệt, gọi là Tử Mã, nghĩa là ngựa chết, ngựa
vô dụng, ý nghĩa và tai họa còn nặng hơn Cùng Đồ Mã.
Thiên Mã là một trong những
lưu tinh (sao lưu) khi xem hạn. Có nghĩa l2 vị trí của Thiên Mã sẽ thay đổi
theo mỗi năm và gọi là Lưu Thiên Mã. Đó cũng là ý nghĩa thứ ba của chữ “Dịch”
khi gọi Thiên Mã là Dịch Mã.
Khi xem hạn, nếu thấy Thiên
Mã và Lưu Thiên Mã đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì những điều sau đây
sẽ xảy đến trong vận hạn: mua xe, đổi xe, đổi chổ ở, đổi việc làm, đi du lịch
v.v…Có thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi. Ví dụ: nếu đã đổi chổ ở thì sẽ không
thay đổi việc làm, đi xa v.v… Nhưng cũng rất có thể xảy ra hai sự việc cùng một
lúc. Những gì thay đổi trong vận hạn ít nhiều tùy theo vị trí của Thiên Mã và
Lưu Thiên Mã đồng cung hay xung chiếu. Mức độ tốt xấu của sự việc còn tùy thuộc
vào những sao chi phối trong hạn đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm
việc khác. Cũng có thể vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt).
Tóm lại, khi nói đến Thiên Mã
điều quan trọng mà chúng ta phải cân nhắc là hành của Thiên Mã và hành của bản
Mệnh. Nếu cả hai cùng hành, hoặc hành của Mã sinh cho hành của bản Mệnh thì Mã
này mới là Mã của mình. Ngược lại nếu không đồng hành thì Mã này chỉ là cái
bóng mà thôi.
Trên thực tế chúng ta thấy
hai lá số đều có Thiên Mã thủ Mệnh nhưng khả năng và sự may mắn của hai người
hoàn toàn khác nhau rất nhiều. Người có Thiên Mã không hợp với bản Mệnh thì
cũng là người có tài năng nhưng tánh tình rụt rè, nhút nhát, thiếu lòng tin, và
không có ý chí phấn đấu để nắm lấy cơ hội, cho nên cuối cùng dễ trở thành bất
đắc chí.
Với một lá số trung bình trở
lên, người Dịch Mã là người đa tài. họ có nhiều năng khiếu nổi bật và có thể
thành công trên nhiều lãnh vực khác nhau. Họ là những người năng động, thích sự
đổi thay và những chuyến hành trình như những bông hoa tô thắm cho cuộc đời của
họ. Về khía cạnh này, cá tính của người Dịch Mã có phần nào giống như mẫu người
Thân Cư Thiên Di mà chúng ta đã đề cập trước đây.
BÀI 17
MẪU NGƯỜI “ĐÀI CÁC”
Hoa Cái chỉ là một sao nhỏ
cho nên có nhiều người khi giải đoán lá số thường ít khi để ý đến sao này. Thật
ra, tuy chỉ la phụ tinh nhỏ, Hoa Cái cũng có thể tạo nên bản chất đặc biệt của
mẫu người mà chúng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Biết đâu, có
thể người đó là chính mình, chồng mình, vợ mình, người yêu của mình, bạn bè của
mình hay một người nào đó mà mình quen biết.
Hoa Cái là biểu tượng của cái
lọng, thuộc hành Kim và không thấy sách vở đề cập dến những vị trí đắc hãm của
phụ tinh này. Hoa Cái còn được gọi với tên rất đẹp là Đài Các Tinh. Chỉ hai chữ
Đài Các cũng đã nói lên bản chất của những người Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái
cư Thiên Di và có thể gọi chung là mẫu người Đài Các.
Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự
chưng diện, sự sang trọng quý phái. Cho nên, về hình dáng, người có Hoa Cái thủ
Mệnh, dù là đàn ông hay đàn bà đều có nét mặt thanh tú, vóc dáng thanh nhã, nói
năng và cư xử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây là mẫu người rất chú trọng bề ngoài, từ
mái tóc cho đến cách ăn mặc. Họ không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho
mái tóc, chọn lựa một cái cà vạt cho hợp với màu áo, một hiệu son phấn nào đó
cho phù hợp với màu da.v.v..Sự chưng diện đối với họ là một nghệ thuật, cũng là
một nhu cầu cần thiết như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa để
khoe sắc cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ.
Bởi vậy trong lĩnh vực sinh
hoạt, người có Hoa Cái thủ Mệnh nếu gặp thêm những sao Xương Khúc, Thái Âm, Đào
Hồng Hỷ…là những người của ngành quảng cáo hay trình diễn thời trang, diễn viên
kịch nghệ, điện ảnh, cải lương v.v…Nếu là những người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn
thì nét vẽ nhẹ nhàng, dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang nặng
khuynh hướng lãng mạn.
Dưới thời đại phong kiến của
Trung Hoa, cái quan niệm vương quyền được biểu tượng bằng những hình ảnh như
Long chầu, Hổ phục, phượng múa lọng che, và Hoa Cái là một trong 4 biểu tượng
đó, gọi tắt là Tứ Linh (Long Trì, Phượng Các, Hoa Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy
quyền, hiễn đạt hay công danh sự nghiệp.
Trường hợp nếu Hoa Cái không
thủ Mệnh nhưng phía trước của Mệnh, Thân, Thiên Di, Quan Lộc có Hoa Cái, phía
sau có Thiên Mã tọa thủ thì đây là cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là lọng đi
trước, ngựa theo sau, là cảnh tiền hô hậu ủng mà chúng ta thường gọi là cảnh
vinh quy bái tổ, chỉ sự hiễn đạt về công danh và sự nghiệp.
Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà
tọa thủ ở cung Thiên Di, bản tính cũng giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một
điểm đặc biệt là khi họ ra khỏi nhà là được người trên kẻ dưới thương mến. Có
thể vì tính tình của họ vui vẻ, thân thiện, cởi mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc,
lời lẽ, cử chỉ của họ nhẹ nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ
có cảm tình với mọi người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa Cái cư Thiên Di
rất thích hợp với những công việc như chào hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại,
ngoại gi­ao v.v…
Tuy nhiên những đặc tính của
Hoa Cái có thể thay đổi tùy theo ảnh hưởng của một số sao khác. Chẳng hạn,
người có Hoa Cái thủ Mệnh sẵn có khuynh hướng lãng mạn, nếu gặp thêm Đào Hoa,
Mộc Dục, Riêu…thì sự lãng mạn sẽ đi qúa trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt
tình cảm và tình dục. Vì Hoa Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài
các…Cho nên những người có khuynh hướng sa đọa này cũng thuộc loại gi­ai cấp
thượng lưu, của những kẻ có tiền, có quyền lực.
Riêng với phái Nam có Hoa Cái
thủ Mệnh cũng thích sửa soạn, chưng diện, nước bông, nước hoa…Hoa Cái ở đây
cũng nói lên phần nào sự biến thái về tâm sinh lý của đương số. Mức độ nặng hay
nhẹ thì còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
BÀI 18
MẪU NGƯỜI “ĐÀO HOA”
Đà Lạt là thành phố của mộng
mơ và nổi tiếng bởi những cành hoa Anh Đào khoe sắc trong nắng ấm mùa xuân. Màu
hồng nhạt của hoa Anh Đào như màu má của những người con gái Đà Lạt ở tuổi xuân
thì hấp dẫn biết bao du khách, và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho người văn
nghệ sĩ. Có phải chăng vì vậy mà người ta đã dùng tên của loài hoa này làm biểu
tượng cho những người có một sức hấp dẫn, thu hút người khác? Trong khoa Tử Vi
Đẩu Số, một phụ tinh có cùng ý nghĩa như vậy và cũng mang tên Đào Hoa, cho nên
có thể nói, những người có số Đào Hoa thủ mệnh là mẫu người Đào Hoa mà chúng ta
sẽ bàn đến.
Sao Đào Hoa và Hồng Loan
thường đi đôi và có cùng chung một đặc tính. Đào Hoa hành Mộc, Hồng Loan hành
Thủy. Những sách Tử Vi không đề cập đến những vị trí đắc địa hay hãm địa của
Đào Hồng. Tuy nhiên, có người căn cứ trên thực tại để định những vị trí tốt xấu
của Đào Hồng. Như cung Mão được xem là vị trí tốt nhất của Đào Hoa vì cung Mão
là thời điểm của bình minh, những cánh hoa còn đọng sương mai, khởi đầu của sự
khoe sắc tươi thắm rực rở nhất trong ngày. Cung Ngọ là giữa trưa, hoa không còn
tươi thắm nữa vì bị nắng cháy. Cung Tí thì ở vào ban đêm, là thời điểm mà hoa
đã khép cánh.
Quan niệm này cũng hợp lý,
tuy nhiên vẫn có những loài hoa chỉ nở về đêm như hoa Quỳnh, Dạ Lý Hương, Thiết
Mộc Lan v.v… chỉ khoe sắc và tỏa hương nồng trong bóng tối mà thôi. Đã mang
kiếp hoa thì tất phải sớm nở tối tàn, dù cho rực rở trong buổi bình minh thì có
còn tươi thắm được đến buổi bình minh hôm sau chăng?
Nhưng nếu nói theo quan điểm
trên, Đào Hoa đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu tức là Tứ Tuyệt, Hồng Loan đắc địa ở
Dần Thân Tỵ Hợi tức Tứ Sinh, thì quan điểm cũng có cái triết lý khi phân tích
về bản chất của Đào Hồng, là hai sao biểu tượng cho phái nữ. Khi nói Đào Hoa ở
Tứ Tuyệt, chúng ta có thể tưởng tượng hoàn cảnh của một cô con gái có nhan sắc
nhưng tư nhỏ đã sinh sống trong một hoàn cảnh rất nghiệt ngã, khiến cho người
con gái này phải có đầy đủ thủ đoạn để sinh tồn. Còn ngược lại, Hồng Loan ở tứ
sinh như một người con gái khuê các, nên bản chất hiền lương đoan chính.
Tuy vậy, theo thiển ý của
người viết, vị trí của Đào Hồng không quan trọng bằng những sao mà Đào Hồng
trao duyên gởi phận, và điều này sẽ được dẫn chứng ở phần sau. Ở đây, chỉ lấy
một ví dụ, bất kể Đào Hoa ở vị trí nào mà khi gặp Hồng Loan và Thiên Hỷ thì trở
thành bộ sao tốt gọi tắt là Đào Hồng Hỷ hay còn gọi là Tam Minh.
Đối với khoa Tử Vi, Đào Hồng
đều là biểu tượng của sự sinh đẹp, cho nên có ý nghĩa chỉ về phái nữ nhiều hơn
phái nam. Người có Đào Hoa hay Hồng Loan thủ mệnh, dù nam hay nữ đều có nhan
sắc, đẹp trai, đẹp gái. Nét mặt lúc nào cũng vui tươi, tính tình vui vẻ cởi mở.
Tuy nhiên, chúng ta phải phân biệt cái đẹp và cái nết của hai sao Đào Hồng khác
nhau ở điểm nào?
Khi nói về nhan sắc, hàm ý
nói về phái nữ, cái đẹp của Đào Hoa là nét đẹp lộ liễu ra bên ngoài, lồ lộ như
một đóa hải đường, vẻ đẹp mà khoa Tướng Mệnh gọi là Đào Hoa Diện, hoặc Đào Hoa
Nhãn, là nét đẹp có sức hấp dẫn, lôi cuốn thu hút người đối diện ngay từ phút
ban đầu từ khuôn mặt, đôi mắt, cử chỉ, lời ăn tiến nói có vẽ lôi cuốn, lẳng lơ,
hoặc có một lối sống buông thả…
Cái đẹp của Đào Hoa có thể
nhìn thấy ở bất cứ tầng lớp nào trong xã hội, từ một mệnh phụ phu nhân cho đến
một người mẫu, một diễn viên, một thôn nữ, thậm chí một cô gái gi­ang hồ… Nhưng
địa vị và vẻ đẹp bên ngoài đó không bảo đảm là nết hạnh của họ cũng tốt đẹp như
vậy.
Còn nét đẹp của Hồng Loan là
nét đẹp của sự nhu tình, duyên dáng, thanh cao, quý phái, đài các. Cái đẹp
nghiêng nhiều về tinh thần hơn là vật chất. Nữ mệnh có Hồng Loan có thể chỉ là
một người đàn bà nhan sắc trung bình, nhưng có duyên, là mẫu người nhu mì và có
chiều sâu tâm hồn. Tuy nhiên, khi đi chung với Đào Hoa cả hai sẽ có ảnh hưởng
tương hỗ nhau. Hồng Loan chỉ chế giảm được một phần nhỏ khuynh hướng vật chất
và buông thả của Đào Hoa mà thôi, còn phần lớn là bị lôi cuốn bởi Đào Hoa.
Ngoài ý nghĩa về nét đẹp và
tính nết, Đào Hồng còn chủ sự nhanh chóng, sớm sủa, dễ dàng và may mắn. Chẳng
hạn, Đào Hồng tọa thủ ở Mệnh, cung Thiên Di, hay cung Quan Lộc là số của những
người ra đời sớm, đi làm sớm hay có công danh sự nghiệp sớm hơn những người
cùng lúa tuổi với mình. Đây cũng là số của những người có nhiều may mắn trong
vấn đề học hành thi cử, và khi ra trường lại tìm được việc làm dễ dàng hơn
những người khác. Nếu cung Tài Lộc có Đào Hồng tọa thủ thì đương số sớm làm ra
tiền và kiếm tiền một cách dễ dàng.
Nếu hai sao Đào Hồng gặp thêm
Hỷ Thần hay Thiên Hỷ chủ sự may mắn về thi cử, sự thăng quan tiến chức, cũng là
việc cưới hỏi. Hạn gặp Đào Hồng Hỷ là sự báo hiệu một tin vui sắp đến. Trong
lãnh vực nghề nghiệp, Đào Hồng Hỷ chỉ những người sinh hoạt trong các bộ môn ca
nhạc kịch, điện ảnh. Trong gia đình, Hồng Loan là biểu tượng của con gái, nếu
Hồng Loan gặp Thiên Khôi là chỉ người trưởng nữ.
Nhu vậy đối với khoa Tử Vi,
mẫu người Đào Hoa là những người cung Mệnh có Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ hay
xung chiếu. Đặc tính đáng chú ý của họ là sức thu hút đối với người khác phái,
họ là những người đắt đào, đắt kép, bước ra khỏi nhà là có người thương, người
theo, có người sẳn sàng gánh vác, nâng đỡ mọi điều…
Tuy nhiên, người Đào Hoa
không phải lúc nào cũng được may mắn tốt đẹp như vậy, nhất là đối với nữ phái.
Nếu Đào Hồng bất hạnh trao duyên gởi phận cho những sao xấu thì thà đừng có Đào
Hồng còn hơn. Chẳng hạn nữ Mệnh có Đào Hồng tọa thủ, gặp Hóa Kỵ, Riêu hay Thai
đồng cung hay hợp chiếu, thì đương số là người đàn bà đẹp nhưng lẳng lơ, buông
thả và cuộc đời sẽ trầm luân với những buồn thương sầu hận. Nếu Đào Hồng những
sát tinh như Không Kiếp thì có thể nói là một nỗi bất hạnh cho đương số.
Chúng ta lấy cuộc đời của
Vương Thúy Kiều để làm một ví dụ điển hình: mối tình đầu vừa chớm nở đã đành
trao lại cho em để bán mình vào lầu xanh. Tấm thân đã phải đổi chủ biết bao
nhiêu lần, rồi xuống tóc, rồi trầm mình, nhưng nợ trần đâu dễ phủi tay? Đó là
mẫu người Đào Hoa lụy vì tình, oan nghiệt vì tình, vì nhan sắc mà gặp tai họa,
hoặc là lâm vào hoàn cảnh mà người đời thường hay gọi “trao duyên nhầm tướng
cướp” Nếu Đào Hồng ngộ Thiên Không thì cũng như Đào Hoa gặp lửa, chắc chắn
duyên phận phải bẽ bàng và có thể xa lánh cõi đời bằng con đường tu hành như
chuyện Lan và Điệp.
Đối với nam giới, nếu cung
Quan Lộc có Đào Hồng thì đương số ra đời sớm lý do có thể là do tính thích tự
lập hoặc vì hoàn cảnh đưa đẩy. Họ cũng là người lập được công danh sự nghiệp
rất sớm, và điều đáng nói là sự thành công đó không hẳn hoàn toàn do khả năng
của chính họ mà một phần là do sự nâng đỡ, giúp sức của người khác phái, nguyên
nhân chính là vấn đề tình cảm. Tương tự, đối với nam mệnh mà cung Tài Lộc có
Đào Hồng thì đương số làm ra tiền một cách dễ dàng. Nếu lá số tốt đẹp họ có thể
là những người giàu có lúc còn trẻ tuổi, và chắc chắn rằng sự thành đạt đó
không thể thiếu sự góp phần của người khác phái bởi những quan hệ tình cảm đặc
biệt nào đó., và đôi khi đó chỉ là tình cảm một chiều.
Chúng ta thường nghe câu:
“sau lưng một người đàn ông thành công là bóng dáng của một người đàn bà tài
giỏi” Nhưng không phải Đào Hồng lúc nào cũng cũng được may mắn tọa thủ trong
một lá số tốt đẹp để biểu tượng cho một người đàn bà giỏi. Nam số nếu Mệnh hay
cung Quan có Đào Hồng gặp hung tinh, sát tinh thì hậu qủa sẽ là những gì mà cựu
Tổng Thống Clin­ton hay Thái Tử Charles đã gánh chịu. Bởi vậy, trong lá số của
người đàn ông nếu Đào Hồng gặp những sao tốt như Tử Phủ hay Nhật Nguyệt…thì
đương số được công thành danh toại. Với phái nữ, đó là hình ảnh của một người
vợ “vượng phu ích tử”, một hồng nhan tri kỷ. Ngược lại, Đào Hồng gặp những sao
xấu, thì Đào Hồng cũng là một hồng nhan nhưng cũng là họa thủy. Chẳng hạn như
Đào Hồng ngộ Không Kiếp ở cung Mệnh hay cung Quan Lộc, nhẹ thì như đã nói ở
trên, nặng thì chung cuộc có khác gì cảnh Hạng Võ phải biệt Ngu Cơ rồi tự vẫn bên
bờ Ô Gi­ang. Hoặc nam mệnh có Đào Hồng tọa thủ ở cung Tài Lộc gặp Song Hao, Địa
Kiếp thì tiền kiếp được cũng nhờ đàn bà, tán gia bại sản cũng vì đàn bà.
Đối với khoa Tử Vi, không
phải chỉ có hai sao Đào Hoa và Hồng Loan là biểu tượng cho mẫu người đào hoa mà
còn có nhiều sao khác như Liêm Trinh, là một sao võ cách nhưng vẫn được mệnh
danh là đào hoa tinh. Ý nghĩa đào hoa của Liêm Trinh thường dùng cho Nam nhiều
hơn Nữ. Đàn ông cung Mệnh có Liêm Trinh, dù đắc hay hãm cũng là người có số đào
hoa họ có duyên ngầm, có một nét đa tình nào đó dễ thu hút người khác phái. Tuy
Liêm Trinh là một sao về võ cách nhưng bản tính vốn liêm khiết và tự trọng cho
nên trong tình trường, họ thường bị người khác phái chủa động và tấn công
trước. Trong lĩnh vực tình cảm, Liêm Trinh có những đặc tính gần với Hồng Loan
hơn là Đào Hoa.
Tham Lang cũng là một đào hoa
tinh, nhưng tình cảm của Tham Lam rất giống Đào Hoa, nặng về vật chất, buông
thả, sa đọa. Nếu cung Mệnh an tại Tí có Tham Lang tọa thủ là cách “phiếm Thủy
Đào Hoa” = Hoa đào trôi theo dòng nước, chỉ những người có tâm hồn lãng mạn,
đường tình lao đao lận đận, hoặc những người có cuộc sống buông thả, phong
trần. Cách Phiếm Thủy Đào Hoa có nghĩa ý đối với phái nữ nhiều hơn Nam.
Thái Âm cũng là biểu tượng
của người đào hoa bởi vì Thái Âm mặt trăng, là nguồn cảm hứng bất tận cho người
văn nghệ sĩ từ cổ chí kim. Cho nên, người mà cung Mệnh hay cung Phúc Đức có
Thái Âm thì ít nhiều cũng là người đa tình lãng mạn, yêu chuộng văn chương nghệ
thật, là mẫu người sống vì nhạc, thác vì tình. Đặc biệt đối với nam mệnh, nếu
Thái Âm tọa thủ tại cung Thê thì đương số là người đào hoa, thích bay bướm,
nhưng nể vợ, sợ vợ như Thúc Sinh trong truyện Kiều vậy.
Ngoài ra một số sao khác như
Cự Môn, Xương Khúc, Hoa Cái…hoặc một vài cách như Thai Phục Vượng Tướng, Cự Kỵ,
Tham Kỵ, Hoa Cái cư Thiên Di…. đều là đặc tính của mẫu người đào hoa, ít hay
nhiều, tốt hay xấu còn tùy vào mỗi lá số hoặc những sao mà chúng đi chung.
Những sao khắc chế được tính
đào hoa gồm có Thái Dương, Hóa Khoa, Lộc Tồn, Tứ Đức, Thiên Hình, Thiên
Không…riêng đối với nữ mệnh, Thiên Hình và Thiên Không có tác dụng khắc chế qúa
mạnh, không những làm mất hết tánh đào hoa mà còn khiến đương số phải chịu cảnh
lận đận trên đường tình duyên. Chẳng hạn nữ Mệnh có Đào Hoa gặp Thiên Hình, đây
là người đàn bà có nhan sắc, nhưng tâm hồn khô khan, ăn nói không duyên
dáng…hay nói một cách khác, đúng xa mà nhìn thì thấy đẹp, nhưng đến gần thì chỉ
là một cành hoa giấy.
Từ những nét vừa nêu trên,
chúng ta thấy rằng ý nghĩa chính của Đào Hồng là sự sinh đẹp và tình ái. Cho
nên Đào Hồng thích hợp với tuổi trẻ hơn là lúc về già. Vì vậy, trong tiền vận
hay trung vận nếu gặp Đào Hồng + sát tinh nhập hạn thì cũng không đáng sơ như
khi ở hậu vận, nhất là đối với những người mệnh Vô Chính Diệu.
Và sau hết, chúng ta cũng
đừng quên rằng, mẫu người đào hoa giống như lúc nào cũng nắm trong tay con dao
hai lưỡi. Con dao Đào Hoa trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu. trong hạnh phúc có
mầm móng của sự đau khổ.
Chúng ta thấy Đào Hồng cũng
cùng một nguyên tắc như Nhật Nguyệt đó là “chính bất như chiếu” Do đó cách tốt
đẹp hơn hết là Đào Hồng không nên tọa thủ ở Mệnh, nhất là đối vớ nữ phái. Một
chút nhan sắc trời cho mà phải đánh đổi cả một đời truân chuyên, điều này thử
nghĩ có đắng hay không? Vị trí tốt nhất cho Đào Hồng là cung Quan Lộc hay cung
Tài Lộc. tại đây, Đào Hồng chiếu về Mệnh thì đương số vẫn là người có nhan sắc,
tuy nhan sắc không rực rỡ và phô bày cái đẹp ra bên ngoài nhưng lại tránh được
bốn chữ “Hồng Nhan Đa Truân” Và nói chung cho cả nam nữ thì Đào Hồng ở hai cung
Tài và Quan giúp cho đương số thành công dễ dàng hơn trên phương diện công danh
và sự nghiệp chứ không chỉ trói buộc đương số vào cái vòng tình cảm như khi Đào
Hồng thủ Mệnh.
Đối với đàn bà, nhan sắc là
trời cho nhưng hồng nhan đa truân hay hồng nhan bạc mệnh thì cũng là ý trời. Dù
nam hay nữ, có thể một lúc nào đó, người đào hoa phải tự hỏi mình được nhiều
người thương là hạnh phúc hay phiền muộn? Cũng như mấy ai biết được giữa hồng
nhan tri kỷ va hồng nhan họa thủy phải chăng chỉ là một đường tơ? Phúc hay họa
thì chỉ có khoa Tử Vi Đẩu Số mới trả lời cho chúng ta rõ ràng mà thôi.
BÀI 19
MẪU NGƯỜI “TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ”
Trong truyện Thiên Long Bát
Bộ của Kim Dung có 4 nhân vật đại gi­an , đại ác hợp thành một nhóm gọi là Tứ
Ác, đứng đầu trong nhóm tà đạo để chống lại phe chính phái. Khoa Tử Vi cũng
vậy, có sao thiện thì cũng có sao ác. Cầm đầu trong nhóm hung tinh này là hai
đại sát tinh Địa Không và Địa Kiếp mà chúng ta thường gọi là Không Kiếp. Hai
sao này cũng như những sao khác, có thể nhìn thấy bất cứ một nơi nào trên lá
số, nhưng đặc biệt khi Địa Không tọa thủ tại cung Mệnh và Địa Kiếp tọa thủ tại
cung Thân, hoặc Kiếp ở Mệnh, Không ở Thân làm thành cách Mệnh Kiếp Thân Không,
và đó là mẫu người đặc biệt, có thể gọi chung là mẫu người Không Kiếp mà chúng
ta sẽ bàn đến.
Trước khi phác họa những nét
chính về cuộc đời của mẫu người này, chúng ta hãy nói sơ qua những đặc tính của
hai sao này. Không Kiếp thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi. Tại cung Tỵ
và Hợi thì KHÔNG KIếP đồng cung cho nên dù tốt xấu, uy lực của Không Kiếp sẽ
gấp đôi so với Không Kiếp xung chiếu nhau ở hai cung Dần Thân.
Xét về ngũ hành thì Không
Kiếp tọa thủ tại cung Tỵ là tốt nhất vì hành của sao và hành của cung cùng hành
Hỏa. Vị trí thích hợp thứ hai là cung Dần vì hành Mộc của cung tương sinh cho
hành Hỏa của Không Kiếp, làm cho uy lực của Không Kiếp khá mạnh mặc dù là đơn
thủ.
Nói chung, dù đắc hay hãm,
KHÔNG KIếP chủ sự hung hiểm, phá tán, bất hạnh, hoạch phát, hoạch phá. Dù nam
hay nữ mà cung Mệnh hay cung Thân có Không Kiếp đắc địa tọa thủ cùng với những
sao tốt là người kín đáo, thâm trầm, biết suy xét, có mưu trí và rất gan dạ.
Tuy nhiên người Không Kiếp không được kiên nhẫn, làm việc gì cũng muốn nhanh
chóng và sớm thấy kết qủa. Cho nên nếu không được như ý hay chỉ thất bại lần
đầu là nản chí ngay, bỏ cuộc dễ dàng. Nếu Không Kiếp đắc địa cùng những sao xấu
tọa thủ ở Mệnh thì những đức tính thăng trầm, gan dạ sẽ biến đương số thành
người thủ đoạn và dễ đi vào con đường tà đạo.
Nếu hãm địa thủ Mệnh + những
sao tốt, dù nam hay nữ, bản tánh trở nên bất nhất, lúc chính, lúc tà, lúc tốt
lúc xấu, vui buồn bất chợt khiến cho những người gi­ao tiếp với đương số phải e
dè. Nếu Không Kiếp hãm địa thủ Mệnh cùng với những sao xấu thì tánh tình nham
hiểm, xảo quyệt, thủ đoạn, hung dữ, bạo ngược.
Người Mệnh / Thân có Không
Kiếp đắc địa hay hãm địa thường bị những chứng bệnh về da như mụt nhọt, ghẻ
ngứa vì dị ứng, những chứng bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, viêm cuống
họng, hen suyễn, khó thở… Đã mang danh là đại sát tinh cho nên những bệnh tật
hay tai họa do Không Kiếp mang đến chắc không phải là đơn giản, nhẹ nhàng. Dưới
cái nhìn của khoa Tử Vi thì vấn đề chế giải tùy thuộc vào phúc đức của mỗi
người và tùy theo sự bất hạnh xảy ra ở thời điểm nào trong cuộc đời. Không Kiếp
như Đào Hồng, càng về cuối cuộc đời thì càng tác hại nặng nề hơn lúc trẻ.
Trong cuốn Tử Vi Ảo Bí của
Việt Viêm Tử có đề cập đến quan điểm Không Kiếp Vô Luận. Quan điểm này cho
rằng: những người sinh vào tháng 4 (tháng Tỵ) và tháng 10 (tháng Hợi) thì không
bị Không Kiếp phá tán vì có sự ứng hợp với hai cung Tỵ Hợi, là hai vị trí đắc
địa của Không Kiếp. Quan điểm này đưa đến 2 nghi vấn, đầu tiên là Không Kiếp an
theo giờ sinh, vậy tại sao chỉ vô luận đối với tháng sinh mà không áp dụng “vô
luận” với giờ sinh? Thứ hai là Không Kiếp cũng đắc địa ở Dần Thân, nhưng tại
sao những người sinh vào tháng Dần, và tháng Thân lại không được hưởng cách
Không Kiếp Vô Luận? Theo quan niệm cổ xưa của phương đông, đàn ông chú trọng
đến công danh sự nghiệp, còn đàn bà nặng về chồng con. Đối với người Không Kiếp
thì hai chữ công danh, phú quý phải nhìn theo một quan niệm căn bản của khoa Tử
Vi, hung tinh đắc địa phát dã như lôi, có nghĩa là hung tinh đắc địa sẽ phát
nhanh như sấm sét. Điều đó sẽ kéo theo một hệ qủa không thể nào tránh được, bạo
phát thì bạo tàn. Bởi vậy, người Không Kiếp làm việc gì cũng đạt đến kết qủa
một cách nhanh chóng, nhưng những gì đã ở trong tầm tay lại khó giữ được lâu
bền.
Đó chính là hai mặt của Không
Kiếp, con dao hai lưỡi, một tay nâng mình lên, một tay xô mình ngã, càng cao
danh vọng thì càng lắm đau thương. Ý nghĩa đó chúng ta phải nhìn thấy để đừng
qúa tin tưởng vào sự tốt đẹp của Không Kiếp khi hai sao này đắc địa, hoặc có
những sao khác kiềm chế. Đặc tính của Không Kiếp là như vậy, trong cái tốt có
ẩn tàng cái xấu, điều mà chúng ta nghĩ là may mắn thì đó cũng chính là mầm móng
của tai họa trong nay mai. Bởi vậy cái quan niệm thà một phút huy hoàng rồi
chợt tắt, xem ra có vẽ thích hợp với mẫu người Không Kiếp, cờ đến tay thì phất,
có trong tay thì hưởng.
Như vậy, những sao nào có thể
kiềm chế nổi hai đại sát tinh này? Có người cho rằng Tử Phủ miếu vượng thì đủ
uy lực chế ngự Không Kiếp. Nhưng theo thiển ý của người viết, nếu Tử Vi hay
Thiên Phủ cho dù có miếu địa mà đúng riêng lẻ một mình cũng tối kỵ Không Kiếp.
Tử Vi gặp Không Kiếp khác gì Vua bị gi­an thần lộng quyền. Thiên Phủ mà gặp
KHÔNG KIếP thì nhà kho trống trơn. Nói chung, các văn tinh, sát tinh, quý tinh
không đủ uy lực để chế ngự hai đại sát tinh này mà chỉ có những võ tinh như Sát
Phá Liêm Tham và Thiên Tướng miếu vượng là không sợ Không Kiếp. Trói buộc được
Không Kiếp chỉ có Tuần Triệt.
Trường hợp đặc biệt là các
văn tinh chỉ có Nhật Nguyệt là không sợ các sao “không” như Thiên Không, Địa
Không mà ngược lại, vì ý nghĩa chữ “không” đối với NN là một bầu trời xanh thẳm
không gợn áng mây, là điều kiện lý tưởng cho NN tỏa sáng.
Đối với nữ Mệnh, Không Kiếp
là hai sao bất hạnh cho đường tình duyên. Nữ mệnh có Không Kiếp là người cao
số, lúc thiếu thời thì tình duyên lận đận, khi lập gia đình thì khắc chồng,
khắc con. Sự xung khắc nặng hay nhẹ thì vẫn tùy thuộc vào từng lá số và mỗi
thời điểm trong cuộc đời, lúc còn trẻ, nhẹ thì sinh ly, giữa hay cuối đời, nặng
thì tử biệt.
Nổi bất hạnh của nữ mệnh có
KHÔNG KIếP còn tùy thuộc vào những sao mà Không Kiếp đi cùng, chẳng hạn hư Đào
Hồng, Riêu Thai, Cự Kỵ, Tham Kỵ, Xương Khúc… (điều này thấy không hợp lý bởi vì
KHÔNG KIếP không bao giờ đi cùng với Xương Khúc. Các bạn nên cân nhắc vấn đề
này) Gặp Không Kiếp thì là cách hồng nhan bạc phận mà cũng có thể là bạc mệnh.
Tình duyên trắc trở, việc cưới hỏi gặp nhiều trở ngại, làm kế, làm lẽ, hai ba
đời chồng, bị chồng ruồng rẫy phụ bạc, hay bạo hành vì tai nạn hay vì tính lẳng
lơ, buông thả mà thất trinh, thất tiết. Vì hoàn cảnh hay do mình tự chọn làm
gái gi­ang hồ v.v… đều là những nhịp cầu oan nghiệt mà người đàn bà gặp những
cách vừa nêu trên sẽ phải bước qua.
Tuy nhiên các tuổi Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi gặp Không Kiếp thì cuộc đời cũng khá nhiều gi­an truân nhưng
không đến nổi tan tác hay trầm luân như những tuổi khác. Nếu 4 tuổi Thìn, Tuất
Sửu, Mùi đắc cách Không Kiếp kiếp Tỵ Hợi thì công danh phú quý sẽ đạt được một
cách dễ dàng, và thật bất ngờ. Những tuổi khác cũng được hoạch phát nhưng không
giữ được lâu bền.
Trong một lá số nếu Mệnh và
Thân tốt thì cuộc đời từ ngày lọt lòng mẹ cho đến khi tư giã cõi đời đều được
sung sướng. Hoặc nếu Mệnh Thân được một tốt, một xấu thì ít ra cuộc đời cũng có
một khoảng thời gi­an sung sướng. Trường hợp nếu Mệnh và Thân cùng xấu thì cả
cuộc đời là những chuỗi ngày gi­an truân. Và đó là nét đặc biệt của mẫu người
Mệnh Không Thân Kiếp, hay Mệnh Kiếp Thân Không, một mẫu người có đầy đủ tất cả
những hình ảnh đã nêu trên. Và nếu Nguyễn Du dùng truyện Kiều đễ diễn đạt cái
quan niệm tài mệnh tương đố của mình, thì chúng ta cũng có thể nói rằng, mẫu
người Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không là mẫu người đa tài, đa
năng, đa dạng và cũng đa truân, là mẫu người mà khi bước chân vào đời đã phải ở
trong cái vòng tài mệnh tương đố của tạo hóa.
Tuy vậy, chúng ta cũng còn
một biệt lệ cho những người Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không sinh
vào các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì lại có sự ứng hợp, cho nên cuộc đời sẽ
chiết giảm được rất nhiều những điều bất hạnh do Không Kiếp mang đến.
Nếu đã nói như vậy thì niềm
an ủi cũng là sự kiêu hãnh mỗi một khi mình vươn lên được trước những thử thách
cay nghiệt đó, càng phong trần danh ấy càng cao.
BÀI 20
MẪU NGƯỜI “BẠCH THỦ THÀNH
GIA”
Khi nguyên cứu về khoa Tử Vi,
chúng ta nên lưu ý một điều là không phải chỉ những chính tình như Tử Vi, Thiên
Phủ, Liêm trinh, Thất Sát v.v… mới là những sao làm nên chuyện lớn. Nhưng đôi
lúc, chỉ là những phụ tinh, nếu ở đúng cách, đúng chỗ thì vẫn giúp đương số làm
nên sự nghiệp một cách dễ dàng. Đó chính là trường hợp của sao Kình Dương mà
khoa Tử Vi thường gọi là cách Kình Dương Độc Thủ, hay còn gọi là mẫu người Bạch
Thủ Thành Gia, có nghĩa là tay trắng làm nên sự nghiệp.
Kình Dương thuộc nhóm bắc đẩu
tinh, hành Kim, có tên là Dương Nhận, chủ về sát phạt và hình khắc. Kinh Dương
đắc địa ở tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) Người có Kình Dương đắc địa tọa thủ tại
Mệnh thì thân hình cao và gầy, mặt xương, tánh qủa quyết, can đảm, dũng mãnh,
thích phiêu lưu mạo hiểm, làm việc gì cũng muốn mau chóng. Là người túc trí đa
mưu, đa tài, đa năng và có lẽ vì vậy mà cái “tôi” rất lớn, dù cho có giữ sự
khiêm cung nhưng cũng khó có thể che giấu được nét kiêu căng tự phụ vốn sẳn là
bản chất.
Bởi những đặc tính vừa nêu
trên, người có Kình Dương thủ Mệnh rất thích hợp với võ nghiệp hoặc các ngành
kinh doanh về kỹ nghệ. Nam phái, Mệnh có Kình Dương đi kèm với bộ sao Sát Phá
Liêm Tham thì dễ làm nên sự nghiệp trên chiến trường. Nhưng nếu Kình gặp thêm
Linh Hỏa và Kiếp Sát thì đây cũng là cách sinh nghề tử nghiệp, khó tránh được
chuyện phơi thây ngoài chiến địa. Như chúng ta có nói, Tham Vũ đồng hành ở tứ
mộ là mẫu người của thương trường, nhưng nếu gặp thêm Kình Dương thì đấy lại là
người nghiêng về quân đội, là những quân nhân rất gan dạ và cũng là cấp chỉ huy
có khả năng trong lãnh vực tham mưu, chiến lược.
Nếu Kình Dương hãm địa thủ
Mệnh mà không có những sao tốt đi kèm thì cho dù nam hay nữ, tánh tình cũng rất
hung bạo, liều lĩnh, nông nổi, bướng bỉnh, ương ngạnh, xảo trá. Cuộc đời chỉ
gặp toàn là những tai họa, bệnh tật, và dễ dính dáng đến chuyện tù tội.
Kình Dương hãm ở Mệnh cũng là
người khéo tay, có năng khiếu về nghành thủ công. Nếu Kình hãm đi cùng với
những sao biểu tượng cho nghệ thuật như Nhật Nguyệt, Xương Khúc v.v… đây là
những nghệ nhân trong các lãnh vực như điêu khắc, hội họa, trang trí nhà cửa,
làm nữ trang…
Nhưng dù đắc hay hãm địa,
người có Kình Dương thủ Mệnh, nếu không có những sao chế giải, là người chủ
trương sống ở đời “vô độc bất trượng phu” Đối với họ, cứu cách mới quan trọng,
không cần phải câu nệ đến phương tiện.
Ngoài 4 vị trí tốt đệp của
Kình Dương là tứ mộ, Kình Dương cũng có nhiều ý nghĩa đáng kể tại một vài vị
trí khác như Tí Ngọ và Mão Dậu. Tại 4 cung này, nếu không có những sao tốt chế
giải thì Kình Dương chủ sự bệnh tật, tai họa và chết yểu.
Tuy nhiên, đặc biệt tại cung
Ngọ, Kình Dương đóng một vai trò hai mặt tốt và xấu. Nếu Mệnh an tại Ngọ có
Kình Dương tọa thủ là cách Mã Đầu Đới Kiếm, kiếm treo đầu ngựa, là kẻ anh hùng
lập công trên lưng và chết cũng trên lưng ngựa. Kình tại Ngọ, gặp được những
sao tốt đẹp tọa thủ đồng cung như Thiên Đồng, Thái Âm, hay Khoa Quyền Lộc…thì
đây là cách phát về võ nghiệp, là số của những bậc danh tướng, công trạng hiển
hách, thường được bổ nhậm trấn giữ biên cương. Nhưng với cách này, trong cái
tốt luôn ẩn tàng những điều bất hạnh. Lưỡi kiếm Kình Dương giúp anh hùng tạo
nên sự nghiệp, và cũng chính lưỡi kiếm oan nghiệt này đã giữ đúng định luật
khắc khe của tạo hóa:
“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gi­an kiến bạc
đầu…”
Đó chính là số của Quan Vân
Trường của thời Tam Quốc phân tranh. Cách Mã Đầu Đới Kiếm đã đưa đến cái chết
bi thảm của một đấng anh hùng như vậy.
Ngoài ra hai cung Dần thân
cũng không phải là vị trí tốt lành cho Kình Dương. Tại hai cung này. Kình Dương
chỉ sự bệnh tật tai họa, thất bại… Nói chung, Mệnh ở Dần Thân có Kình Dương thì
cuộc đời có thể diễn tả trong bốn chữ “tay làm hàm nhai” tệ hại nhất đối với
người tuổi Giáp và Mậu, dù cho có may mắn được thừa hưởng di sản của ông bà,
cha mẹ thì cũng phá tán hết tổ nghiệp mà thôi.
Tuy nhiên, nếu Mệnh ở Dần
Thân có Kình, được những sao tốt khác cùng tọa thủ thì cuộc đời sẽ được cơm no
áo ấm nhờ bẩm sinh có năng khiếu về nghề thủ công. Nếu có thêm những sao chế
giải bớt sự phá hoại của Kình thì khi vào trung hay hậu vận có thể sẽ trở mình
thành đại phú bởi một ngành thủ công nào đó như dệt, kim hoàn, điêu khắc v.v…
Như vậy chúng ta thấy rằng,
trong 12 cung của thiên bàn, chỉ có 4 cung tứ mộ là đất dụng võ của kình dương
mà thôi. Đối với nam phái, Mệnh an tại tứ mộ có Kình Dương cùng với những sao
tốt đẹp là số phát về võ nghiệp. Nhưng nếu ở tứ mộ, Kình gặp Tử Phủ thì lại
phát về kinh thương. Với những cách vừa nêu trên mà gặp những người có các tuổi
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì có sự ứng hợp, nên mức độ tốt đẹp được tăng lên gấp
bội, và khoa Tử Vi gọi là cách kình Dương Nhập Miếu.
Đối với phái Nữ, Mệnh tại tứ
mộ có Kình Dương là người đàn bà đảm đang, hành xử ngoài đời không thua gì đấng
mày râu, là người dám nói, dám làm. Có thể nói một cách không qúa đáng, đây là
mẫu người đàn bà làm quan cho chồng. Điều này không phải chỉ ảnh hưởng của một
Kình Dương đắc địa mà chúng ta phải nhớ rằng, đàn bà có Mệnh an ở tứ mộ là
người rất thông minh, sắc sảo, ít nhất là trong một lãnh vực nào đó.
Bởi vậy, có người cho rằng,
nữ phái, Mệnh ở tứ mộ có Kình, cùng với những sao tốt đẹp là người đàn bà
“vượng phu ích tử” chỉ nên hiểu theo ý nghĩa của một người đàn bà đảm đang, có
khả năng từ hai bàn tay trắng tự mình, hay giúp chồng tạo dựng sự nghiệp. Còn
trên những khía cạnh khác vấn đề tình cảm, sự tâm đầu ý hợp giữa hai vợ chồng…
chắc chắn không nhiều thì ít cũng khó tránh khỏi sự xung khắc trong gia đạo.
Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn trong trường hợp Kình Dương tọa thủ đồng
cung với Nhật Nguyệt, là hai sao biểu tượng cho vợ chồng, thì ý nghĩa lúc đó sẽ
ngược lại, nam thì khắc vợ, gái thì lúc trẻ cao số, lập gia đình thì khắc
chồng, sát chồng. Từ đó, chúng ta cũng thấy thêm một điều nữa là Nhật Nguyệt
không sợ Không Kiếp mà chỉ sợ Kình Đà.
Trong một lá số, Nhật Nguyệt
dù miếu vượng mà gặp phải Kình Đà thì sớm muộn gì cũng sẽ đau khổ, bệnh tật về
mắt, vợ chồng xung khắc, và nếu không có những sao hóa giải, nhẹ thì sinh ly,
nặng thì tử biệt.
Tóm lại cách Kình Dương Độc
Thủ trong một lá số tương đối tốt đẹp sẽ giúp cho đương số đạt được công danh
sự nghiệp. Tuy nhiên, cuộc đời của người Kình Dương thủ Mệnh là con đường đầy
chông gai. Sự thành công của họ là từ hai bàn tay trắng, bằng sức phấn đấu cũng
như khả năng của chính bản thân. Cho nên lúc thiếu thời thường gi­an nan vất
vả, cho đến trung vận hay hậu vận thì mới được công thành doanh toại.
BÀI 21
MẪU NGƯỜI “LƯNG TRỜI GÃY
CÁNH”
Trong nhóm hung sát tinh của
khoa Tử Vi, người ta ít chú trọng đến sao Thiên Không, một phụ tinh nhỏ xếp vào
hàng em út so với đại sát tinh Không Kiếp mà chúng đã đề cập trong chương
trước. Theo thiển ý của người viết thì Thiên Không là một phụ tinh rất đáng cho
chúng ta lưu ý khi giải đoán một lá số và nhất là lúc xem hạn. Ngoài những ý
nghĩa căn bản và đơn giản của một ác tinh, Thiên Không còn mang nhiều sắc thái
đối nghịch nhau rất lý thú mà chúng ta phải cân nhắc thận trọng khi giải đoán
một lá số có Thiên Không thủ Mệnh để khỏi đi đến những kết luận sai lầm đáng
tiếc.
Thiên Không thuộc hành Hỏa,
đắc địa ở Dần, thân, Tỵ, Hợi và đó cũng là nơi đắc địa của Không Kiếp, cho nên
tại những vị trí này, Thiên Không sẽ có uy lực không kém gì không kiếp, và cũng
như các đàn anh, Thiên Không chủ sự phá tán, thất bại, gãy đổ nửa chừng.
Người có THIÊN KHÔNG hãm địa
thủ mệnh thì tính tình gi­an xảo, qủy quyệt, chuyên dùng sự gi­an dối, thủ đoạn
để ăn ở với người, để mưu sự với đời, nhưng rốt cuộc cũng không làm được việc
gì ngoài những trò tiểu xảo hầu thủ lợi cho cá nhân mình, nhưng chung cuộc thì
cũng tự hại mình mà thôi.
Người có THIÊN KHÔNG đắc địa
thủ mệnh tính tình táo bạo, thăng trầm, túc trí đa mưu, thích toan tính những
chuyện lớn lao, nhưng nếu không có những sao chế giải thì từ anh hùng trở thành
gi­an hùng dễ như trở bàn tay. Bởi vậy, như đã nói ở trên, ý nghĩa lý thú của
THIÊN KHÔNG là chúng ta có thể ví người Thiên Không là người “nhị trùng bản
ngã”. Trong con người THIÊN KHÔNG có một người thiện, một người ác, có chính,
có tà…Một lá số với cách cục tốt đẹp nào đó khiến chúng ta kết luận đương số là
anh hùng, nhưng cẩn thận, anh hùng có thể là gi­an hùng nếu có thêm Thiên Không
đồng thủ mệnh.
Cái bản ngã thứ nhì của THIÊN
KHÔNG hiểu theo triết lý nhà Phật thì THIÊN KHÔNG còn có ý nghĩa “sắc sắc không
không” Cho nên, người có THIÊN KHÔNG đắc địa thủ mệnh gần giống với mẫu người
Tử Tham Mão Dậu, bẩm sinh từ lúc còn trẻ đã có khuynh hướng yếm thế, có những ý
nghĩ và cuộc sống gần gũi với tôn giáo. Cái khổ của người THIÊN KHÔNG là sự dằn
vặt trong nội tâm bởi hai cánh tay của THIÊN KHÔNG, một thiện một ác, một chánh
một tà, một đời một đạo, lôi kéo, giằng co đương số suốt cả cuộc đời: Mệnh tọa
Thiên Không định xuất gia, có nghĩa là người Thiên Không thủ mệnh lòng chỉ muốn
xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện được hay không đớ còn tùy thuộc vào những sao
phối hợp mà chúng ta đề cập sao đây.
Sự cân nhắc thận trọng với lá
số THIÊN KHÔNG lại càng nên thận trọng hơn đối với hai sao Đào Hồng, là biểu
tượng cho sắc đẹp, nghệ thật và nhất là nữ phái. Có nhiều sách cho rằng THIÊN
KHÔNG thủ mệnh gặp Đào Hoa, dù nam hay nữ, cũng là những người có khả năng
quyến rũ người khác phái bằng những ngón nghề riêng của mình. Theo thiển ý của
người viết, chúng ta phải phân biệt hai trường hợp.
Đối với nam mệnh, THIÊN KHÔNG
là biểu tượng cho bản chất của đương số, và Đào Hoa là đối tượng đeo đuổi. Cho
nên nam phái có TH + ĐH ở mệnh là người đào hoa và biết dùng những ưu điểm trời
phú cho mình như nhân dáng, lời ăn, tiếng nói ngọt ngào, địa vị, quyền
thế..v.v…Nói chung là dùng mọi khả năng quyến rũ của mình dễ lợi dụng đàn bà
vào một mục đích nào đó. Nếu gặp thêm những sao như Phục Binh, Quan Phù, Quan
Phủ… thì mức độ lợi dụng sẽ đi đến chuyện dụ dỗ, lừa gạt, phản bội một cách
trắng trợn.
Đối với phái nữ, Đào Hoa là
biểu tượng chính của đương số, là cánh hoa biết nói, còn THIÊN KHÔNG là lửa
trên trời. Đào Hoa gặp lửa thì làm sao không khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách
này là người có nhan sắc nhưng lại không có duyên. Chữ duyên ở đây bao hàm cả
hai ý nghĩa: Sự duyên dáng từ cử chỉ đến cách ăn nói của người đàn bà, và cũng
là ý nghĩa của duyên phận. Chúng ta thường thấy những người đàn bà có sắc đẹp
bên ngoài nhưng khi tiếp xúc thì không tìm thấy một nét hấp dẫn nào qua tính tình
hay nội tâm. Họ cũng như cành hoa hữu sắc vô hương, và phải chăng vì vậy mà Đào
Hoa ngộ Thiên Không thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có sức quyến rũ
nam phái.
Và tương tự, chúng ta nên
thận trọng trong việc giải đoán với sao Hồng Loan, cùng ý nghĩa như Đào Hoa.
Mệnh có Thiên Không + Hồng Loan là người có tư cách thanh cao, thích an nhàn,
ẩn dật, và khuynh hướng xa lánh trần tục rất rõ ràng. Hai chữ “không hồng” với
quan niện triết lý của nhà Phật, phải chăng là không vướng bụi hồng trần?
Một ý nghĩa đáng kể mà chúng
ta đã nói ở trên là sự thất bại, sự đổ gãy nửa chừng của người có Thiên Không
thủ mệnh. Sự gãy đổ này có thể xảy ra trên mọi lãnh vực từ công danh, sự nghiệp
cho đến chuyện tình cảm gia đạo v.v…Bởi vậy, chúng ta có thể gọi người THIÊN
KHÔNG thủ Mệnh là mẫu người Bán Thiên Triết Sỉ = Lưng Trời Gãy Cánh.
Người có cách Tham Vũ Đồng
Hành là người làm nên sự nghiệp từ thương trường. Nhưng nếu mệnh có Thiên Không
thì chắc chắn thì đương số ít nhất cũng phải một lần thất bại đau thương rồi
mới làm nên sự nghiệp. Tùy theo mỗi lá số, có người đổ vỡ trên đường công danh,
có người gãy đổ trên đường tình ái… Và cho đến việc tu hành cũng không phải là
con đường nhẹ nhàng đối với những người đã có lòng thoát tục. Cho nên cuối cùng
họ đành chấp nhận cuộc sống nửa đời nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời.
Chúng ta cũng thấy rất rõ đặc
tính lưng trời gãy cánh khi THIÊN KHÔNG nhập hạn. Một tay chọc trời khuấy nước
như Hạng Võ mà hạn gặp THIÊN KHÔNG cũng đành phải mất nước, biệt Ngu Cơ và tự
vẫn bên dòng Ô Gi­ang. Hạn gặp Thiên Không thì tốt nhất là khoanh tay ngồi yên,
chớ mưu tính chuyện gì cho tốn công phí sức. Dù có mưu cầu toan tính tới đâu
thì chung cuộc cũng chỉ là đầu voi đuôi chuột mà thôi. Nếu gặp hạn xấu thì kết
quả có thể còn tệ hại hơn, kể cả chuyện tán gia bại sản hay gia đình ly tán.
Những tác hại của THIÊN KHÔNG
sẽ nhẹ nhàng hơn đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu vì cung mệnh của họ vốn
đã là “không” nếu gặp thêm không nữa thì cũng không gì đáng ngại. Những người
có Nhật Nguyệt thủ mệnh cũng không sợ Thiên Không vi hai vầng nhật nguyệt lại
càng sáng tỏ trong bầu trời không gợn áng mây che.
Cuối cùng, một đặc điểm oái
oăm khác của mẫu người Thiên Không là cho dù hôm nay có làm nên công danh sự
nghiệp, có quyền cao chức trọng, thì cũng nên hiểu rằng chung cuộc của mình rồi
cũng hai bàn tay trắng mà thôi.
Như vậy, chúng ta thấy rõ
rằng không phải chỉ những chính tinh mới quyết định số mệnh của một con người,
mà đôi lúc những phụ tinh lại là những khúc quanh rất quan trọng của một đời
người.
BÀI 22
MẪU NGƯỜI “NHẬT TRẦM THỦY BỂ”
Khi phác họa về mẫu người
Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta đã nêu rõ những đặc tính của sao Thái Dương
trong một vài vị trí đặc biệt. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc lại những đặc tính của
Thái Dương trong những vị trí tốt đẹp trước khi nói đến Thái Dương sẽ như thế
nào ở vào các vị trí hãm địa.
Thái Dương thuộc Nam Đẩu
tinh, hành Hỏa, miếu ở hai cung Tỵ Ngọ, tức là mặt trời lúc giữa trưa và vượng
địa ở hai cung Dần Mão, là lúc mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí này, Thái
Dương chủ sự thông minh, lòng nhân đức, tài lộc và uy quyền. Thái Dương hợp với
những người Dương Nam, Dương Nữ và những người sinh vào ban ngày. Ngoài những
vị trí miếu vượng vừa nêu trên, hai cung Sửu Mùi cũng là hai vị trí đắc địa của
Thái Dương, mặc dù đó là thời gi­an đã là gi­ao điểm giữa đêm và ngày.
Như vậy sáu cung còn lại từ
cung Thân đến cung Tí là những vị trí hãm địa của Thái Dương, là thời điểm của
bóng đêm, mặt trời không ánh sáng. Trong sáu cung hãm địa này, Thái Dương có
hai vị trí khá đặc biệt là cung Tí và Hợi, khoa Tử Vi gọi là cách Nhật Trầm
Thủy Bể (NT­TB), nghĩa là mặt trời chìm xuống đáy nước. Tuy vậy, nhưng ít nhiều
mặt trời vẫn còn giữ được ánh quang huy, vẫn còn giá trị của một vầng Thái
Dương.
Người có Thái Dương thủ Mệnh
tại hai cung Tí Hợi là người hiền lương rộng lượng, có lòng nhân từ với mọi
người nhưng đôi lúc tính tình cũng hơi cố chấp, có lẽ vì lúc nào cũng đối xử
tốt đẹp với mọi người, cho nên nghĩ rằng người khác cũng sẽ đối xử với mình như
vậy. Là người thông minh, tuy nhiên không được bền chí, làm việc gì cũng muốn
nhanh chóng, gặp trở ngại thì dễ dàng nản lòng, bỏ cuộc. tính khí thanh cao,
thích sự tao nhã, thích cuộc sống an nhàn, đặc biệt là có năng khiếu về thẩm
mỹ, văn chương và nghệ thuật.
Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể
từ nhỏ đã có nhiều bệnh tật. Đáng kể nhất là những bệnh về mắt, bệnh về máu
huyết như áp huyết cao, thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị chứng đau đầu kinh
niên. Nếu muốn qua khỏi bệnh tật này, lúc trẻ phải sống xa gia đình hoặc xa quê
hương càng tốt. Được như vậy thì sức khỏe sẽ ngày một khá hơn và tuổi thọ cũng
kéo dài hơn. Tuy nhiên vẫn phải thận trọng với đôi mắt của mình, nếu trong
người hay tay chân không bị khuyết tật gì bẩm sinh, và nếu có thêm nhưng sao
như Kình Đà, Thiên Hình, Kiếp Sát thì mắt có thể bị vật nhọn đâm vào hay phải
chịu sự mổ xẻ.
Nói về đường công danh sự
nghiệp thì mẫu người NT­TB là những người có khả năng thiên phú, nổi bật nhất
là trong lãnh vực văn học, nghệ thuật. Nhưng oái oăm thay, tài năng của họ cũng
như mặt trời chìm sâu đáy nước cho nên hầu hết, họ là những ngưới bất đắc chí.
Trong cuộc sống, trong công việc, hoặc trong những môi trường sinh hoạt hàng
ngày họ thường gặp phải những hoàn cảnh khiến cho họ không thể thi thố hết tài
năng của mình được. Đây cũng là trường hợp những người mang khả năng tâm huyết
đạt thành qủa, nhưng thành qủa đó lại do người khác hưởng chứ người đời không
biết đến mình. Chẳng hạn như những người chuyên dự thảo chương trình, kế hoạch,
tham mưu, cố vấn, các chuyên viên, các khoa học gia âm thầm làm việc trong
những phòng thí nghiệm v.v…
NT­TB dù nam hay nữ cũng là
những người khéo tay và có khiếu về thẩm mỹ. Họ xuất sắc trong những lãnh vực
như nấu ăn, trang điểm, thêu thùa, trang trí nhà cửa… Nếu có thêm những sao về
văn học như Thái Âm, Xương Khúc, Khôi Việt, Đào Hồng Hỷ… hợp chiếu thì họ là
những nghệ sĩ có thực tài nhưng vì hoàn cảnh mà tài năng phải bị mai một, hoặc
là tác phẩm của họ chỉ được người đời biết đến khi họ đã khuất. Và những trường
hợp mà chúng ta vẫn thường thấy là đôi lúc tên tuổi của một ca sĩ, một diễn
viên trên sân khấu, màn ảnh… lại được nhiều người biết đến và hâm mộ hơn là
những nhạc sĩ, người soạn tuồng, đạo diễn. Cũng như những tác phẩm nổi tiếng,
những hồi ký của một chính khách, một nhân vật nào đó, thường vẫn do một người
khác viết dùm (người Mỹ gọi là Ghost Writ­er) Đó là ý nghĩa của mặt trời chìm
đáy nước.
Riêng với nữ mệnh, Thái Dương
ở Tí Hợi là người có nhan sắc nhưng nét mặt lúc nào cũng phảng phất một nét
buồn bởi có câu “Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung.” Tính tình đa sầu đa
cảm, tâm địa hiền thục thanh cao và có thể nói bốn chữ công dung ngôn hạnh đều
hội đủ. Họ thường hợp và sống gần với cha hơn mẹ, nhưng cũng vì Thái Dương hãm,
cho nên khi lập gia đình thì lại khắc chồng, chuyện tình duyên buồn nhiều hơn
vui.
Nói chung, Thái Dương dù hãm
nhưng nếu không gặp những hung tinh hay ám tinh thì cuộc đời cũng đủ ăn đủ mặc.
Nếu may mắn được những sao tốt đi kèm, hoặc được Tuần Triệt án ngữ thì hậu vận
cũng có một cuộc sống an nhàn sung sướng. Người Thái Dương hãm địa thủ mệnh
thiếu thời thường gặp những nghịch cảnh để rồi lúc nào cũng phải phấn đấu, chỉ
khi về già thì cuộc sống mới có phần toại nguyện.
Nhưng đặc biệt với những
người tuổi Bính và tuổi Đinh thì lại rất hợp với Thái Dương tại cung Tí, cuộc
đời vẫn được giàu sang phú qúy: “Thái Dương cư tí, Bính Đinh phú qúy trung
lương.” Với các tuổi khác, tuy là có tài năng, nhưng suốt đời chỉ gặp toàn là
những cảnh bất đắc chí, cũng giống như nhà thơ Tú Xương hay Cao Bá Quát mà
thôi.
BÀI 23
MẪU  NGƯỜI  “MỆNH TUẦN
THÂN TRIỆT”
Trong 118 vì sao của khoa Tử
Vi có hai sao được xem là đặc biệt nhất. Đó là sao Tuần và Triệt. Tuần Triệt
(TT) an theo năm sinh và hàng can của năm sinh, và đặc biệt là vị trí của Tuần
Triệt nằm giữa ranh giới của hai cung chứ không tọa thủ trong một cung nào như
các sao khác. Điểm đặc biệt thứ hai là vị trí đắc hãm và hành của chúng. Đây
cũng là một vấn đề tranh cãi rất nhiều. Có người cho rằng Tuần thuộc hành hỏa
và Triệt hành kim. Cũng có người cho rằng Tuần và Triệt đều hành thủy. Một số
khác lại cho rằng Tuần và Triệt không có hành cố định, đóng ở cung nào thì mang
hành của cung đó. Như vậy, lập luận này sẽ đưa đến kết qủa là Tuần Triệt có lúc
chỉ có một hành trong trường hợp chúng đóng giữa hai cung Thân và Dậu đều thuộc
hành kim. Nhưng giả sử Tuần Triệt đóng giữa hai cung Ngọ và Mùi thì thì Tuần
Triệt phải mang hai hành Hỏa của cung Ngọ và Thổ của cung Mùi. Xét cho cùng,
điều này xem ra không hợp lý lắm.
Khi nói về ngũ hành, ví dụ
như nói về hành của một hướng, như Đông Nam thì chúng ta nói là Mộc đới Hỏa,
hoặc hành của Phượng Các là Mộc đới Thổ chứ không thấy ai nói vừa mang hành Mộc
và mang hành Thổ. Chữ “đới” ở đây có nghĩa là “nghiêng về” hay “thiên về” Trong
cuốn tử vi Ảo Bí của Việt Viêm Tử, tác giả cho rằng Triệt có hành Kim đới Thủy
và Tuần có hành Hỏa đới Mộc.
Về những vị trí đắc hãm của
Tuần Triệt thì cũng có người cho rằng TT chỉ đắc địa ở Tỵ Ngọ và Thân Dậu, còn
những vị trí khác đều hãm địa. Nhưng điều này cũng không hợp lý vì chúng ta
biết Triệt không đóng ở Tỵ Ngọ. Và cũng theo quan điểm này thì nếu TT đắc địa
sẽ không tác hại, còn nếu hãm địa thì sẽ tác hại. Đây là điều không hợp lý thứ
hai. Sau khi nói đến ý nghĩa của hai sao TT dưới đây, chúng ta sẽ thấy bản chất
của TT là như thế nào.
Tóm lại, người viết đồng ý
với quan điểm của Thái Thứ Lang, tác giả của cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, “hai
sao Tuần Triệt không có những vị trí đắc địa hay hãm địa và cũng không thuộc
một hành nào trong ngũ hành.”
Đầu tiên chúng ta thấy rằng,
chỉ với cái tên của hai sao này cũng đã nói lên rất nhiều ý nghĩa. Tuần có
nghĩa là tuần tiểu, tuần phòng, canh giữ, vây hãm. Triệt là chặc đứt, phá tan,
tiêu tán, làm mất hết. Từ đó, hai sao TT vừa đóng vai trò vừa chính vừa tà, vừa
thiện vừa ác đối với các sao trong cung mà chúng trấn đóng.
Khi nói đến ảnh hưởng của TT,
có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng TT làm đảo ngược ý
nghĩa tốt xấu của tất cả những sao trong hai cung mà chúng đóng. Ví dụ: một sao
đắc địa gặp TT thì những đặc tính tốt đẹp của sao này bị mất đi và trở nên hãm.
Ngược lại nếu sao hãm địa gặp TT thì lại trở nên tốt đẹp giống như đắc địa. Như
vậy thì uy lực của TT qúa lớn vì TT không phải chỉ ảnh hưởng lên 1 sao mà chúng
ảnh hưởng lên tất cả các sao mà chúng trấn đóng. Quan điểm đảo ngược này chúng
ta thấy trong một vài trường hợp đặc biệt. Ví dụ: Liêm Tham ở Tỵ, Hợi rất xấu,
nhưng nếu gặp TT thì trở nên tốt đẹp, và được gọi là phản vi kỳ cách, đổi xấu
thành tốt.
Quan điểm thứ hai thì cho
rằng TT không hề đảo ngược ý nghĩa của các sao trong vòng ảnh hưởng của chúng,
mà chỉ giảm bớt những đặc tính tốt xấu của các sao. Theo thiển ý của người
viết, quan điểm này xem ra có phần hợp lý hơn. Tỉ lệ chiết giảm của Triệt tuy
rất cao nhưng cũng chưa đếm mức độ 100% để có thể thay đổi hẳn bản chất của một
sao nào đó. Hơn nữa, cũng có trường hợp những sao đắc địa mà gặp TT thì lại
càng tốt hơn chứ không hề bị đảo ngược, như trường hợp Cự Cơ ở hai cung Tí Ngọ
(Thạch Trung Ẩn Ngọc) là ngọc còn ẩn trong đá, nếu gặp TT phá vỡ cho ngọc lộ ra
bên ngoài thì càng đúng cách.
Khi nói về mẫu người Mệnh
Tuần Thân Triệt hay Mệnh Triệt Thân Tuần, Thái Thứ Lang đã gián tiếp xác định
mức độ ảnh hưởng của TT nói chung. Theo Thái Thứ Lang, người Mệnh Tuần Thân
Triệt cần có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa thứ mệnh thì cuộc đời về già mới được
xứng ý toại lòng. Như vậy chúng ta có thể ghi nhận một điều, đối với Tuần, thà
có chính tinh đắc địa để chấp nhận mức độ tốt bị giảm bớt còn hơn là gặp chính
tinh hãm địa rồi trông chờ Tuần làm cho tốt đẹp.
Đối với người Mệnh Triệt Thân
Tuần thì Thái Thứ Lang cho rằng, Mệnh cần phải Vô Chính Diệu thì lúc về già mới
được xứng ý toại lòng. Như vậy chúng ta thấy rằng, ảnh hưởng của của Tirệt mạnh
mẽ hơn Tuần nhiều, cho nên cung Mệnh thà không có chính tinh vẫn còn tốt hơn có
chính tinh, dù đắc hay hãm địa.
Trên thực tế chúng ta thấy
hai sao TT không có uy lực để thay trắng đổi đen một cách hoàn toàn, chẳng hạn,
một người có Thái Dương đắc địa thủ Mệnh gặp TT thì bản tính của người này
không thể trở thành giống bản tính của người có Địa Kiếp thủ Mệnh được. Nói một
cách khác, TT chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trên lãnh vực công danh, sự nghiệp của
đương số chứ không triệt tiêu được bản chất lương thiện của một Thái Dương vốn
đã đắc địa.
Ngoài ra, ảnh hưởng của TT ở
mức độ nào còn tùy thuộc vào ý nghĩa của mỗi sao, hay ý nghĩa của một cách do
nhiều sao hợp lại, chứ không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn như sao Thiên
Hình, Thiên Mã, Thiên Tướng, Tướng Quân…dù đắc hay hãm cũng tối kỵ TT hơn các
sao khác bởi vì kiếm gãy, ngựa què, tướng mất đầu…thì tất nhiên là vô dụng.
Tương tự, Thất Sát ở Dần thân là người anh hùng một mình một kiếm, nhất hô bá
ứng, nhưng gặp Triệt lại trở thành anh hùng gãy kiếm.   Tuy vậy,
cũng có những trường hợp đặc biệt, ví dụ như hai sao Cự Cơ ở Tí Ngọ như chúng
ta đã nói ở trên. Vì ý nghĩa của cách Thạch Trung Ẩn Ngọc cho nên TT lại rất
cần thiết.
Chúng ta vừa nói đến ảnh
hưởng của TT trên các sao, còn ảnh hưởng của TT trên các cung thì như thế nào?
Có phải sự ảnh hưởng của TT trên hai cung mà chúng trấn đóng đều như nhau? Điều
này chúng ta cũng có hai quan điểm:
1.     Ảnh
hưởng của TT trên mỗi cung nặng hay nhẹ còn tùy thuộc đương số là Dương Nam, Âm
Nữ hay là Âm Nam, Dương Nữ. Nói một cách khác là theo chiều của vòng đại hạn
của mỗi lá số. Ví dụ: Lá số có vòng đại hạn đi theo chiều thuận, có nghĩa là từ
cung Mệnh rồi qua Phụ Mẫu, Phúc Đức v.v… Và nếu Triệt đóng giữa cung Mệnh và
cung Huynh Đệ, như vậy chúng ta nói là Triệt chặn đầu cung Huynh Đệ và vuốt
đuôi cung Mệnh. Khi nói Triệt chặn đầu một cung nào thì ảnh hưởng của Triệt ở
cung đó sẽ mạnh hơn đối với cung mà Triệt vuốt đuôi, và tỉ lệ ảnh hưởng được
xác định cũng theo nguyên tắc Âm Dương:
Dương hành tam thất (3/7)
Âm quy nhị bát )2/8)
Như vậy, nếu theo chiều thuận
của vòng đại hạn thì cung nào bị TT chận đầu sẽ chịu ảnh hưởng 7 phần, nếu đi
ngược sẽ chịu ảnh hưởng 8 phần và tương tự các cung xung chiếu hay tam hợp
chiếu với các cung có TT đóng cũng chịu ảnh hưởng nặng nhẹ theo nguyên tắc này.
2.     Ảnh
hưởng của TT phân phối đều trên hai cung mà chúng trấn đóng chứ không có cung
nào nặng hơn cung nào như ý nghĩa của quan điểm thứ nhất. Người viết đồng ý với
quan điểm thứ hai vì chúng ta thấy rằng ảnh hưởng của TT chỉ khác nhau trên các
cung có chính tinh mà thôi. Thường những cung có chính tinh không nên gặp TT.
Trái lại, những cung nào VCD thì lại rất cần có TT . Trong trường hợp này TT
đóng vai trò của một người giám hộ để bảo vệ cho một gia đình không có gia chủ.
Từ đó, chúng ta rút ra một hệ luận là ảnh hưởng của TT đối với chính tinh có
tầm quan trọng hơn đối với các phụ tinh.
Ngoài ra, TT đôi lúc còn đóng
hai vai trò khác nhau, một thiện, một ác. Chẳng hạn nếu ba cung tam hợp, gọi là
tam phương, bị nhiều sát tinh thủ hay hợp chiếu mà được Triệt đóng thì mọi sự
hung hiểm cũng giảm đi rất nhiều. Ngược lại, bốn cung Mệnh, tài Quan, Di, gọi
là Tứ Chính, dù có đắc cách tới đâu nhưng đã gặp Tuần thì cũng xem như bị phá
hết: “Tam phương vô sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng. Tứ chính gi­ao phù kỵ,
nhất không chi trực phá.”
Và trên đây chúng ta mới nói
đến vùng ảnh hưởng của TT, còn thời gi­an ảnh hưởng của hai sao này thì như thế
nào? Thường có người cho rằng Triệt ảnh hưởng 30 năm đầu của cuộc đời, Tuần ảnh
hưởng 30 năm sau của cuộc đời. Theo thiển ý của cá nhân, Triệt ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất trong khoảng tiền vận, rồi từ yếu dần ở trung vận và hậu vận. Ảnh hưởng
của Tuần thì không có khoảng thời gi­an nào mạnh hay yếu, cứ ở mức trung bình,
đều đặn và bền bỉ từ tiền vận cho đến hậu vận.
Trường hợp cung Mệnh có Triệt
thì ảnh hưởng của Triệt sẽ như thế nào? Cung Mệnh cũng như các cung khác thông
thường có đủ sao xấu và tốt xen lẫn nhau. Có sao đắc địa, có sao hãm địa. Đối
với những sao tốt đắc địa thủ Mệnh, đương số sẽ gặp sự bất lợi vì Triệt sẽ làm
giảm bớt những ý nghĩa tốt đẹp của các sao này. Sự bất lợi sẽ xảy ra trong thời
ky tiền vận của đương số, và sau đó, khi uy lực của Triệt yếu dần thì sự tốt
đẹp của các sao tốt sẽ được phục hồi ở một mức độ nào đó mà thôi chứ không thể
nào được 100% như trường hợp không bị Triệt.
Ngược lại, trong khoảng tiền
vận thì đương số lại được một lợi điểm là, giả sử, nếu có những hung tinh hay
sát tinh thủ mệnh, thì nhờ ảnh hưởng của Triệt mà đương số tránh được phần nào
những điều không tốt do các hung sát tinh gây nên. Nhưng từ trung vận trở lên,
khi Triệt yếu dần, không còn đủ uy lực để trói buộc hung sát tinh nữa, và sự
tốt xấu lúc đó chỉ còn tùy thuộc vào công lực của các sao tốt và sao xấu, bên
nào mạnh thì chế ngự được bên đó.
Nói chung, Triệt đóng tại
Mệnh thì tiền vận (từ lúc sinh ra cho đến 32 tuổi đối với người Thủy Nhị Cục,
33 với Mộc Tam Cục, 34 với Kim tứ Cục, …) Thường bị lao đao lận đận và dễ gặp
hoàn cảnh mồ côi sớm (trường hợp Triệt đóng giữa hai cung Mệnh và Phụ Mẫu )
Trường hợp Triệt đóng tại
cung Thân thì ảnh hưởng của Triệt không có gì đáng kể vì uy lực của Triệt mất
dần trong khoảng trung vận và hậu vận, có thể xem Triệt như một áng mây, gây
rắc rối trở ngại cho đương số những lúc khởi sự một việc gì mới mà thôi.
Trường hợp cung Mệnh có Tuần
đóng thì tất cả những gì tốt đẹp do các sao tốt mang đến, cũng như những hung
họa do hung sát tinh gây ra cho đương số đều giảm xuống ở mức trung bình, và
muốn biết cuộc đời của đương số thế nào trong khoảng tiền vận thì chúng ta phải
đặt cả tốt và xấu lên bàn cân. Thường người ta cho rằng Mệnh ứng với tiền vận,
nhưng thật ra Mệnh vẫn là cái gốc của đời người, cho nên sau tiền vận, Mệnh vẫn
còn ảnh hưởng ở mức độ nhẹ. Như vậy, khi Tuần đóng ở Mệnh, thì sau khoảng thời
gi­an của tiền vận những mức độ tốt hay xấu của cung Mệnh do Tuần chi phối vẫn
còn âm hưởng.
Nếu Tuần đóng tại cung Thân
thì vấn đề tốt hay xấu cũng tương tự như trên. Nếu có khắc thì trong trường hợp
này là Tuần chỉ chi phối trong khoảng thời gi­an trung vận và hậu vận mà thôi.
Nếu cả Tuần và Triệt cùng
đóng ở cung Mệnh hay cung Thân thì thế nào? Điều này cũng có hai ý kiến khác
nhau.
1.     Một
số cho rằng khi TT gặp nhau thì sẽ tự hoá giải cho nhau và hai cung đó xem như
không có mặt của TT nữa. Điều này xét ra không hợp lý lắm bởi vì khoa Tử vi
không có những sao nào cùng nhóm lại triệt tiêu nhau. Những sao cùng nhóm luôn
hỗ trợ cho nhau, tốt thì tốt thêm, xấu thì xấu hơn. Chẳng hạn như Nhật Nguyệt
gặp Xương Khúc, hay hủy hại nặng nề khi Không Kiếp gặp thêm Hỏa Linh. Chỉ có
những sao khác nhóm mới khắc chế nhau như Thiên Hình khắc chế và làm giảm đi sự
lẳng lơ của Đào Hoa.
2.     Mệnh
có cả TT như một nhà tù có hai ông cai ngục. Ông chính là Triệt, ông phụ là
Tuần. Hết khoảng thời gi­an của tiền vận khi Triệt về hưu thì cũng còn ông Tuần
cai quản, chứ không hề nhà gi­am được bỏ ngỏ.
Sau hết, trường hợp chúng ta
muốn nói ở đây là những lá số có Tuần đóng ở Mệnh và Triệt đóng ở Thân mà chúng
ta thường nghe là mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt, hay trường hợp Mệnh Triệt
Thân Tuần, thì cuộc dời của hai mẫu người này như thế nào?
Để có câu trả lời, cách tốt
nhất là chúng ta để lên bàn cân từng phần một rồi cộng trừ các số thành với
nhau để có đáp số cuối cùng. Mệnh có Tuần đóng, nếu Mệnh tốt thì mức độ chiết
giảm do Tuần gây ra tương đối nhẹ nhàng, còn nếu cung Mệnh xấu, thì sự cứu vãn
của Tuần cũng không được bao nhiêu. Những hung sát tinh cũng như những đúa con
phá gia chi tử trong một gia đình bất hạnh. Họa chăng chỉ có người cha là triệt
còn đủ uy lực để chế ngự, chứ còn mẹ Tuần thì không đủ sức.
Qua trung vận và hậu vận thì
ứng vào cung Thân. Nếu cung Thân tốt mà có Triệt đóng thì cũng không gây ảnh
hưởng gì đáng kể, có chăng chỉ là những trở ngại gây rắc rối lúc ban đầu mà
thôi. Trường hợp nếu cung Thân xấu thì Triệt ở đây cũng như người nộm dùng để
dọa chim chứ không có năng lực gì đáng kể. Như vậy, nếu người Mệnh Tuần Thân
Triệt mà có cung Thân tốt đẹp thì về già cuộc đời cũng đạt được nhiều mãn
nguyện.
Trường hợp đối với những
người Mệnh Triệt Thân Tuần thì cũng tương tự. Mức độ tốt xấu của cung Mệnh sẽ
bị chiết giảm nhiều hơn, và sự ảnh hưởng này chỉ xảy ra trong khoảng tiền vận
mà thôi. Rồi từ đó cho đến hết cuộc đời, ảnh hưởng của sự tốt xấu trên cung
Thân chỉ ở mức độ ôn hoà. Như vậy đối với mẫu người Mệnh Triệt Thân Tuần thì
thời gi­an thử thách nhất là thời thanh xuân, sau đó, nếu cung Thân tốt đẹp thì
cuộc đời tương đối cũng được bình ổn.
Tuy nhiên, người Mệnh Tuần Thân
Triệt, hay Mệnh Triệt Thân Tuần cũng có những trường hợp đặc biệt như, nếu cung
Mệnh hay cung Thân VCD mà có Tuần hay Triệt đóng thì tốt hơn là không có TT.
Hoặc là cung Mệnh vừa có cả Tuần lẫn Triệt vừa thêm hai sao Thiên Không và Địa
Không, tùy theo có bao nhiêu sao KHÔNG, chúng ta gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị
không, tam không hay tứ không, đều là những cách hoạch phát. Hoặc là nếu TT
đóng tại Mệnh hay Thân mà hai cung này VCD lại được Nhật Nguyệt hợp chiếu thì
cũng rất tốt đẹp.
Tóm lại, TT là hai sao đặc
biệt nhất trong 118 sao của khoa Tử Vi, và cũng đã trở thành đề tài tranh luận
rất nhiều. Nhưng tốt nhất là tùy theo kinh nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự
chọn cho mình một quan điểm riêng. Dù sao, khi nói đến TT, chúng ta đều thấy
ảnh hưởng tốt xấu của hai sao này trên một lá số nào đó không phải là điều đơn
giản. Giống như một người bị bệnh phải uống thuốc, như người bị chứng đau nhức
phải uống thuốc giảm đau. Nhưng khi uống thuốc giảm đau nhiều thì lại sinh ra
chứng đau bao tử, uống thuốc chữa bệnh đau bao tử nhiều thì lại sinh ra chứng
bất lực.. Ảnh hưởng của TT cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này thì phá bên
kia, và có lẽ cái thâm sâu của khoa Tử Vi là ở chổ đó.
BÀI 24
MẪU NGƯỜI “CỰ CƠ MÃO DẬU”
Gi­ai cấp xã hội của thời
phong kiến xa xưa được xếp hạng thứ tự Sĩ, Nông, Công, Thương. Kinh doanh
thương mại được đứng vào hàng thú tư. Nhưng thật sự thì ai cũng hiểu một quan
niệm, gần như là một định luật đó là “phi thương bất phú”. Khoa Tử Vi cũng đề
cập đến những mẫu người của thương trường, trong đó có mẫu người Cự Cơ Mão Dậu,
là một trong những mẫu người doanh thương mà chúng ta khảo sát sau đây.
Cự Môn là một bắc đẩu tinh,
thuộc hành Thủy. Có lẽ hành Thủy khiến cho Cự Môn trở nên uyển chuyển theo hoàn
cảnh, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” Cự Môn đắc địa đi với những võ tinh thì
sẽ hỗ trợ cho võ tinh thêm mạnh mẽ để phát về võ nghiệp. nếu đi với những sao
văn tinh thì sẽ thành công trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu đi với những
sao có khuynh hướng về kinh doanh thì sẽ trở thành những tay kinh doanh cự
phách, và tương tự, khi đi với dâm tinh thì Cự Môn rất buông thả.
Cự Môn miếu địa ở Mão Dậu,
vượng địa ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân và Hợi, hãm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Tỵ. Mặc
dù bị xếp hạng là ám tinh nhưng Cự Môn miếu vượng thủ Mệnh là người thông minh
và nhân hậu. Cự hãm thì thật sự đúng với biệt danh là ám tinh.
Cự Môn là biểu tượng của cái
miệng, của lời ăn tiếng nói…cho nên khi đắc địa thì khéo ăn nói, có tài hùng
biện, có khả năng thuyết phục người. Nhưng nếu hãm thì lời nói thiếu suy nghĩ,
dễ mất lòng người và dễ bị tai tiếng thị phi, đôi lúc còn đưa đến tai họa cũng
vì cái miệng của mình thiếu thận trọng.
Với bản tính bất nhất như đã
nói trên, may mắn cho Cự Môn tại hai vị trí miếu địa Mão Dậu, ám tinh này gặp
được thiện tinh Thiên Cơ, thuộc nam đẩu tinh, hành Mộc. Và Thiên Cơ cũng góp
một phần bản chất vào mẫu người doanh thương Cự Cơ Mão Dậu này. Thiên Cơ miếu ở
Thìn Tuất Mão Dậu, vượng ở Tỵ, Thân, đắc ở Tí Ngọ Sửu, hãm ở Dần Hợi. Thiên Cơ
là một phúc thiện tinh cho nên dù hãm cũng không hề mất hết thiện tính của
mình. Khi đắc địa, Thiên Cơ chỉ sự khéo léo về tay chân, sáng suốt về trí óc,
có mưu trí nhưng lại xử sự nhân từ và cởi mở. Nếu ở vị trí miếu vượng thì chủ
về phú quý, phúc thọ, và đặc biệt là có năng khiếu về kinh doanh.
Như vậy, hai sao Cự Cơ cùng
miếu tại Mão Dậu. Hành Thủy của Cự Môn càng sinh vượng cho hành Mộc của Thiên
Cơ, hơn nữa, cũng tại vị trí này, Thiên Cơ đặc biệt có năng khiếu về kinh
doanh, cho nên Cự Môn trở thành kẻ đồng hành rất tốt. Với bản tánh gan dạ, liều
lĩnh, Cự Môn đã hỗ trợ Thiên Cơ mạnh mẽ trong lãnh vực này.
Người Cự Cơ Mãu Dậu là những
người trong thương trường. Nhưng chúng ta cần phân biệt lãnh vực hoạt động của
đôi bên. Người Tham Vũ Đồng Hành thường hoạt động trong lãnh vực kỹ nghệ chuyên
môn v.v… Còn người Cự Cơ Mão Dậu không chuyên về một lãnh vực nào cả, có thể là
ngành hàng tiêu dùng, có thể là những sản phẩm về văn học nghệ thuật v.v…Hay
nói một cách khác là bản tính uyển chuyển của Cự Môn, cho nên những sao đi kèm
với Cự Cơ sẽ quyết định đương số sẽ kinh doanh trong lãnh vực nào.
Ví dụ: Mệnh ở Mão hay Dậu có
Cự Cơ với Hổ Tuế Phù, thì đây là những người có năng khiếu về luật pháp, những
nhà làm luật, những quan tòa hay những danh sư danh tiếng, và chắc chắn những
tổ hợp luật sư sẽ là những lãnh vực kinh doanh của họ.
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm
Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa, Tấu là người có năng khiếu về văn học, nghệ thuật,
cho nên khi vào đường kinh doanh thì lãnh vực hoạt động thường là những nhà
xuất bản sách, báo chí, nhạc, hay phim…
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm
Tả Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang, Qúy là người kinh doanh trong các ngành y dược
học. Nhỏ thì là phòng mạch, một phar­ma­cy, lớn thì một clin­ic, một bệnh viện,
một viện bào chế dược phẩm…
Nhưng cách Cự Cơ Mão Dậu cũng
chỉ mới là giới tiểu thương, nếu muốn kinh doanh với tầm vóc lớn thì phải có
thêm Song Hao mới gọi là đắc cách Chúng Thủy Triều Đông, có nghĩa là tất cả các
dòng sông đều chảy về hướng Đông.
Khi nói về cách Song Hao ở
Mão Dậu, chúng ta thấy có hai nguyên nhân. Đầu tiên là do địa thế của nước
Trung Hoa, tất cả những dòng sông đều chảy về hướng Đông, cho nên cổ thi có
câu: “tự cổ nhân sinh thường hận, thủy thường đông” có nghĩa là từ xưa đến nay
người đời ai mà không ôm một mối hận lòng, điều này cũng tự nhiên như dòng sông
chảy về hướng Đông.
Song Hao thuộc hành Thủy, lại
được hành Kim của cung Dậu tương sinh, cho nên nguồn nước sẽ được dồi dào bất
tận. Trong thiên nhiên, nước là biểu tượng của tiền bạc. Song Hao lại là biểu
tượng của số nhiều. Những dòng sông từ Dậu là phương Tây, chảy về Mão là phương
Đông, khiến cho hành Mộc của Thiên Cơ được hưng thịnh, và đây mới đúng là tầm
vóc của mẫu người kinh doanh Cự Cơ Mão Dậu. Cũng vì thế mà Mệnh an tại Mão tốt
hơn ở Dậu, tốt nhất đối với những tuổi Ất, Tân, Kỷ và Bính, những tuổi này sẽ
đạt phú quý một cách dễ dàng hơn những tuổi khác. Nếu Mệnh ở Dậu, thì đương số
cũng là người kinh doanh mà trở nên giàu có, nhưng càng giàu thì tuổi thọ càng
giảm:
“Cự Cơ Dậu, thượng hóa cát dã
Túng hữu tài quan, dã bất
chung”
Nhưng Cự Cơ Mão Dậu đắc cách
Chúng Thủy Triều Đông thì lại có người cho rằng Cự Cơ đã gặp Song Hao thì chớ
nên có Hóa Lộc mà bị phá cách. Lý do quan điểm này cho rằng Hóa Lộc hành Thổ,
khắc với hành thủy của Song Hao khiến cho Thiên Cơ thiếu nước. Lý luận này xét
ra không được ổn vì cũng có nhiều sao khác thuộc hành Thổ như Lộc Tồn, tại sao
chỉ áp dụng cho Hóa Lộc mà thôi?
“Song Hao Mão Dậu ái ngộ Cự
Cơ, tối hiềm Hóa Lộc”
Thật ra Song Hao ở Mão Dậu kỵ
với Hóa Lộc không phải nguyên nhân chính là do sự sinh khắc của ngũ hành mà là
do ý nghĩa của Song Hao mà ra.
Hao là hao tốn, tiêu hao. Với
ý nghĩa đó cho nên Hóa Lộc, Lộc Tồn không nên gặp Hao, nếu gặp thì khác nào
mang tiền thả trôi theo dòng nước. Tóm lại, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ + Song Hao
+ Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì đương số cũng là ra tiền một cách dễ dàng, nhưng tiền
vào tay mặt thì ra tay trái.
Đối với nữ phái, Mệnh ở Mão
Dậu có Cự Cơ là người đàn bà có tay làm ăn buôn bán, trên thương trường đương
số không thua gì những đấng mày râu. Tuy nhiên, một Thiên Cơ hiền lành không
thể trói buộc nổi Cự Môn với bản tánh liều lĩnh, phóng khoáng. Cự Môn dù miếu
vượng cũng có điều bất lợi cho phái nữ bởi vì Cự Môn là cái miệng, là lời ăn
tiếng nói, là khẩu thiệt thị phi, khắc khẩu, vợ chồng xa nhau thì thương nhớ,
gần nhau thì cãi vã suốt ngày…Cho nên đàn bà có Cự Môn thủ Mệnh hay Thân thì
bên ngoài giỏi, tháo vát nhưng bên trong gia đạo thường vẫn có điều không ổn,
ít nhiều hạnh phúc gia đình bị những đám mây đen của Cự Môn lãng vãng đâu đó.
Đó chính là nguyên nhân khiến cho Cự Môn phải mang danh là ám tinh.
Nhưng nếu dùng lăng kính của
Freud mà chiếu rọi cho tận cùng, thì một phần chính cũng vì đàn bà Cự Cơ Mão
Dậu có khá nhiều tham vọng và khuynh hướng tình dục rất mạnh mẽ. Với bản chất
đặc biệt đó chúng ta thấy có hai mẫu người đàn bà Cự Cơ Mão Dậu:
1. Họ có thể che dấu hay dồn
nén khuynh hướng tình dục của mình thành những tham vọng trên lãnh vực làm ăn
kinh doanh của họ, và đây chính là con đường mà Freud gọi là “tình dục thăng
hoa thành tài năng”
Trong những trường hợp tương
tự như thế, chúng ta mới thấy quan điểm của Freud đã được khoa Tử Vi chứng
nghiệm. Thật vậy, khi xét đến những là số của những vị chân tu chúng ta đều
thấy hầu hết những lá số này đều có bóng dáng của Đào Hồng hay những dâm tinh
khác. Điều này không có gì nghịch lý, kẻ chân tu vốn cũng đầy đủ thất tình lục
dục như mọi người, có khi còn mạnh hơn, nhưng cái hay là họ đẩy tất cả những
thất tình lục dục đó vào một chữ “không” biến tình dục thành tài năng, và được
như vậy họ mới quán triệt được chữ “đạo”, rồi mới hiểu được chữ “ngộ” là gì.
2. Là người có cuộc sống
buông thả, phóng khoáng. Họ dùng những thành qủa, gi­ai cấp mà họ đạt được
trong xã hội đễ biện minh cho quan niệm sống của họ. Và trên thương trường, đây
cũng là người đàn bà không thua sút ai, mà cả trong cuộc chơi, họ cũng là người
dám bỏ ngàn vàng để mua lấy trận cười làm vui…Đó chính là mẫu người đàn bà mà
chúng ta thường gọi là “đàn bà dễ có mấy ai”
BÀI 25
MẪU NGƯỜI “ĐA TÀI ĐA NĂNG”
Chúng ta vẫn thấy những người
tuy sống trong một hoàn cảnh thoải mái, một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng
nét mặt của họ lúc nào cũng có sự tư lự, một nét suy tư nào đó, hay phảng phất
trên mặt một thoáng buồn miên man như người đang ôm một nỗi niềm tâm sự sâu
kín. Khoa Tử Vi, những người này thường cung Mệnh của họ đều có Tang Môn hoặc
Bạch Hổ tọa thủ, và chúng ta gọi là mẫu người Tang Hổ.Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ
là hai bại tinh trong nhóm lục bại. Tuy là hai bại tinh, nhưng người Tang Hổ
không phải là người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói đến.
Ngược lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ vào hai sao Tang Hổ.
Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch
Hổ thuộc hành Kim, cả hai đắc địa tại Dần Thân Mão Dậu. hai sao này lúc nào
cũng đi đôi với nhau ở vị trí xung chiếu. Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là người gan
dạ, cương quyết và ngay thẳng. Người Tang Hổ có đủ sự gan lì để thử thách với
nghịch cảnh. Khả năng đó có thể xem như ông Trời dành riêng cho họ vì cuộc đời
của những người này kể từ lúc lột lòng mẹ thì sự thử thách dành cho họ đã chờ
sẳn rồi.
Người Tang Hổ thường chịu
cảnh mồ côi từ lúc còn bé, nếu không thì tuổi thơ ấu cũng phài chịu cảnh xa cha
mẹ, gia đình ly tán, thiếu tình thương và sự đùm bọc của cha mẹ, anh chị. Phải
chăng vì vậy mà người Tang Hổ luôn có một nét buồn sâu kín trên khuôn mặt, và
nét buồn này sâu đậm nhất trong khoảng thời gi­an của tuổi thanh xuân tức là
khoảng tiền vận rồi sau đó sẽ phai nhạt dần.
Để bù trừ cho những bất hạnh
đó, người có Tang Hổ đắc địa là người đa tài đa năng, đa hiệu. Tuy tính tình
cương quyết và đôi khi trở thành ương ngạnh, nhưng họ là người quyền biến và có
khả năng giải quyết công việc cho thích ứng với hoàn cảnh. Năng khiếu nổi bậc
nhất của họ là sự suy luận và phán đoán rất sắc bén. Đó chính là yếu tố căn bản
cho khả năng hùng biện cũng như khả năng thuyết phục người khác. Vì vậy, những
lãnh vực về chính trị, ngoại gi­ao và luật pháp đều là những sở trường của
người Tang Hổ.
Trong trường hợp Tang Hổ hãm
địa thủ mệnh thì cuộc đời luôn gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, ngang trái.
Nếu không làm những ngành nghề liên quan như cảnh sát, toà án, luật sư…thì dễ
vướng vào vòng tù tội và tuổi thọ cũng ngắn ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung
cả nam lẫn nữ, dù đắc hay hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật,
nhất là những bệnh về xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong máu…Riêng với nữ
mệnh thì nét mặt u sầu, chưa lập gia đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi
có gia đình rồi lại khắc chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ
hình khắc có thể thành sát phu. Cho nên nếu lập gia đình muộn cũng có thể chế
giải được phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó khăn,
khi có con thì lại khổ vì con cái và dễ mắc những bệnh về các bộ phận sinh sản
như tử cung, buồng trứng…Ngoài ra, người Tang Hổ, dù nam hay nữ, lúc còn trẻ
không có tay nuôi súc vật, phải vào trung vận thì đặc tính này mới giảm dần.
Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ là
cách Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong rừng sâu. Đây chỉ người có tài, có địa vị, quyền
uy, và thường phát về võ nghiệp.
Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là
cách Hổ Xuất Sơn Lâm. Cung Mão thuộc phương đông, là thời gi­an của bình minh,
là thời điểm bắt đầu của một ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ, biểu tượng cho một
vận hội tốt đẹp đang chờ đón. Cho nên, người đắc cách này, cuộc đời thường hay
gặp được những may mắn đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão
Dậu còng gọi là cách “tứ phương củng phục anh hùng” ý nói những người có khả
năng lãnh đạo, thâu phục được anh hùng hào kiệt bốn phương.
Người mệnh an tại Dậu có Bạch
Hổ là cách Hổ Khiếu Tây Phương. Cung Dậu thuộc phương Tây, là thời gi­an của
hoàng hôn vì vậy có người cho rằng Bạch Hổ ở Dậu không tác hại vì đó là lúc cọp
đã ăn no nên vào sâu trong rừng mà ngủ. Theo ý của người viết thì hai chữ Tây
Phương hàm ý là “cõi Phật” Khiếu Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng
có nghĩa là có lòng hướng Phật. Người có cách này là người có tánh tình nhân
hậu và thường có khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm
linh, thì người Bạch Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão
Dậu.
Trong hai sao Tang Hổ thì Bạch
Hổ có tầm ảnh hưởng đáng kể hơn Tang Môn. Ví dụ như Bạch Hổ đi với Tấu Thư (Hổ
Tấu) có nghĩa là Hổ mang hòm sách, chỉ người có số khoa bảng, học rộng hiểu
nhiều. Bạch Hổ gặp Phi Liêm (Phi Hổ) như Hổ mọc thêm cánh, cách này giống như
Phi Mã, chỉ những người thường gặp được các vận hội may mắn đưa đến sự thành
công rất dễ dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay Phi Mã là vận may đang đến,
nếu dự tính điều gì thì nên mạnh dạn xúc tiến, thi cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm
sẽ được như ý, có việc rồi thì sẽ được thăng chức thăng lương…
Bạch Hổ cũng là một trong Tứ
Linh (Long Phượng Hổ Cái) Mệnh, Quan, Phúc, Di đắc Tứ Linh thì đường công danh
thuận lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ Linh cũng chế giải được phần nào
những tai họa do các hung sát tinh gây ra. Hạn Tứ Linh là cơ hội tốt cho vấn đề
công danh.
Bạch Hổ và Thiên Hình hay
Kình Dương đồng cung thủ Mệnh là cách “hổ hàm kiếm” = Hổ ngậm kiếm, chỉ người
gan dạ, oai dũng, có tư cách và chí khí, nếu có thêm những võ tinh hội họp thì
đường binh nghiệp sẽ phát rất nhanh.
Tang Hổ cũng là những sao
lưu, cho nên hạn có Tang Hổ, gặp Lưu Tang, Lưu Hổ là có tang trong hạn đó. Tang
Hổ nhập hạn gặp Khốc Hư cũng cùng một ý nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn gặp Tang
Hổ cũng nên đề phòng tai nạn và bệnh tật, nhất là những chứng bệnh về máu huyết
và bệnh về xương như đau khớp, rỗng xương… Đàn bà lúc có thai và sinh nở mà hạn
gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai.
“Nam nhân Tang Hổ hữu tài
uyên bác
Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự qủa ưu”
Hai câu trên có thể dùng để
tóm lược những nét đặc thù của mẫu người Tang Hổ: đàn ông Tang Hổ thì đa tài đa
năng. Đàn bà Tang Hổ tình duyên ngang trái, gia đạo buồn phiền.
BÀI 25
CẢI SỐ ĐƯỢC KHÔNG ?
Con người từ khi bước chân
vào đời ai cũng hăm hở, lạc quan và đầy lòng tự tin. Ở vào cái tuổi mà người ta
gọi là “Tam Thập Nhị Lập” ít có ai nghĩ đến hai chữ “số mệnh”. Nhưng dần dần
khi đã va chạm với cuộc sống, trải qua một vài lần thất bại đổ vỡ … thì lúc đó
mới bắt đầu thấm mệt mới bắt đầu hiểu ý của Nguyễn Du, “có tài mà cậy chi tài”
hoặc có phần khắt khe và hoàn toàn ràng buộc vào cái ý niệm “thiên mệnh” là
“bởi số, chạy đâu cho khỏi số ?”
Tin hay không tin, tin ít hay
nhiều, mức độ tin tưởng sẽ tỷ lệ theo tuổi đời, và có thể tin sớm hay tin muộn
vào hai chữ ‘số mệnh” thì cũng còn tùy thuộc đường đời của mỗi người, là con
đường đầy hoa lá hay sỏi đá chông gai ? Và người Á Đông của chúng ta cho rằng,
vào khoảng lứa tuổi 40, có thể gọi là khoảng đời mà con người đã “tận nhân lực”
cho nên có thể bắt đầu “tri thiên mệnh”
Như vậy biết số để làm gì? Và
biết số rồi có cải được hay không?
Vấn đề đầu tiên, biết số để
làm gì, biết số có lợi ích gì không, là những điều có thể có câu trả lời tương
đối dễ dàng. Có người nói rằng:
–     Tôi
không bao giờ xem Tử Vi, biết rồi thêm buồn thêm lo mà thôi.
Khi nói như vậy, họ đã hàm ý
tin rằng mỗi người đều có số mệnh, và ít nhiều họ đã thấy hay cảm thấy được
cuộc đời của họ không có gì lạc quan lắm, cho nên chấp nhận một cuộc sống “đến
đâu hay đến đó” biết trước chỉ thêm lo nghĩ mà không làm được gì để thay đổi.
Nhóm người này rất ít và mang
cái tâm trạng của loài đà điểu, sợ thì chui đầu xuống đất cát, còn hầu hết đều
muốn biết số của mình như thế nào. Và những người này lại có hai quan niệm, một
thụ động và một chủ động. Những người thụ động là khi biết số của mình rồi thì
thôi, phó mặc cho số như “thuyền đời mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu”
ngược lại, những người có quan niệm chủ động thì họ tin vào số, dựa vào số,
nương theo số để tránh hết những trở ngại mà họ đã biết trước. Đây chưa phải là
một hình thức cải số mà chúng ta sẽ đề cập đến. Có thể nói đây là một hình thức
tích cực của sự cải số, biết số và làm đúng với số cũng là một cách giúp chúng
ta tránh được phần nào trở ngại, có thể là những trở ngại nhỏ nhặt, nhưng cũng
có thể là những nguyên nhân đưa đến những sự thất bại to lớn. Ví dụ, người Mệnh
Vô Chính Diệu, nếu biết số của người VCD là không nên đứng mũi chịu sào, có
nghĩa là nếu trong quân đội thì không nên giữ chức vị trưởng, dù lớn hay nhỏ,
hoặc bên hành chánh thì không nên giữ những chức vụ như trưởng phòng, giám đốc
v.v… hoặc trong lãnh vực làm ăn kinh doanh thì không nên là người ra mặt điều
hành. Một ví dụ khác, người làm ăn mua bán nếu biết hạn của mình năm nay không
tốt thì họ chỉ giữ cơ sở của họ như cũ chứ không bỏ công bỏ của để khuếch
trương phát triển rồi chuốc lấy sự thất bại lỗ lã. Còn ngược lại, nếu biết là
hạn tốt, họ sẽ mạnh dạn mạo hiểm hơn mà vẫn gặt hái được những thành qủa như ý.
Và trên khía cạnh tiêu cực, nếu mình biết trước số mình nghèo, tình duyên mình
lận đận, con cái mình sẽ hư hỏng, về già mình sẽ cô đơn lẻ bóng v.v…thì ít ra
mình đã biết, đã ít nhiều có sự chuẩn bị về tâm lý. Khi sự việc xảy đến, những
ảnh hưởng về tinh thần sẽ có phần nhẹ nhàng, có thể chịu đựng được và có thể
vượt qua dễ dàng hơn là trường hợp bất ngờ.
Đi xa hơn, bậc làm cha mẹ nếu
biết được số mệnh là một điều rất hữu ích trong vấn đề giúp đỡ con cái của
mình. Mặc dù chúng ta vẫn nói, không ai hiểu con cái bằng cha mẹ, nhưng thật ra
sự hiểu biết của cha mẹ về con cái rất hạn hẹp. Ngoài tính tình và những sở
thích hiện tại, có nghĩa là đang trong lứa tuối đó của mỗi đứa con, thì cha mẹ
không thể nào nhìn thấy được những biến chuyển và những thay đổi trong tương
lai của mỗi đứa con của mình. Nhưng khoa Tử Vi có thể nhìn thấy được những điều
đó và giúp cho cha mẹ hiểu rõ năng khiếu, sở trường, sở đoản của mỗi đứa con để
hướng dẫn con cái chọn ngành mà học, chọn nghề mà làm. Nói chung, nếu cha mẹ có
thể nhìn thấy trước cuộc đời của con mình, sung sướng hay cực khổ, may mắn hay
gi­an truân, tình cảm được hạnh phúc hay lận đận, thì ít ra cha mẹ cũng có sự
bù đắp trước về mặt tâm lý giúp cho con cái khỏi bị ngỡ ngàng và thất vọng khi
phải đối diện với nghịch cảnh của đời mình.
Trên một phương diện khác,
biết số là một yếu tố hữu ích cho thuật dùng người. Ba chữ “thuật dùng người”
không hẳn mình phải là một cấp lãnh đạo, chỉ huy v.v… nhưng trong vấn đề hợp
tác làm ăn với nhau, biết rõ người hợp tác với mình cũng là một điều quan
trọng. Hoặc trong vấn đề gi­ao thiệp của cuộc sống hằng ngày, biết số giúp mình
biết người và khỏi lầm người thì cũng tránh được sự ân hận về sau.
Những điều vừa nêu trên đề
cập vấn đề chúng ta biết số và thuận theo số, như vậy biết số rồi, chúng ta có
cải số được hay không?
Đối nghịch lại với quan niệm
“thiên mệnh” là quan niệm “nhân định thắng thiên” Nhân sinh quan này phản ảnh
phần nào khả năng tự tôn của con người, sự phấn đấu là tự tin của những tâm hồn
lạc quan. Trong những bộ môn Khoa Học Huyền Bí thì môn Phong Thủy, Tướng Mệnh,
và Tử Vi Đẩu Số đều đề cập đến phần nhân định, có nghĩa là con người có phần
nào chủ động trong số mệnh của họ, chỉ khác nhau ở chỗ mức độ mà con người có
thể cùng tạo hoá dự phần vào sự thay đổi số phận của mình.
Nói như vậy là chúng ta đã
sớm có câu trả lời, con người có thể cải số được nhưng rất hạn hẹp và chỉ ở một
mức độ nào đó thôi chứ không thể nào thay đổi, lật ngược lại cả 180 độ. Trong
những môn vừa nêu trên thì khoa Phong Thủy có thể sửa đổi một cách dễ dàng nhất
vì đối tượng của Phong Thủy là nhà ở, cơ sở thương mại hay mộ phần. Về khoa Tướng
Mệnh, sự sửa đổi không thể nhờ vào khoa thẩm mỹ mà chỉ đặt trên yếu tố cái tâm
của con người, “tướng tùy tâm sinh” Và khoa Tử Vi mà chúng ta đề cập ở đây chỉ
dẫn cho chúng ta những trường hợp và phương cách cải số nhưng xét ra cũng rất
hạn chế và kết qủa của cuộc cải số này vẫn còn ràng buộc chặt chẽ vào những yếu
tố quan trọng mà con người khó lòng kiểm chứng được, đó là phúc đức của mỗi
người. Khi nói phúc đức của mỗi người chúng ta đã hiểu rằng phúc đức tạo được
do chính bản thân mình tạo ra và phúc đức mà mình thừa hưởng được từ cha mẹ,
ông bà hay nói chung là của dòng họ.
Như vậy, chúng ta đã nói biết
số và thuận theo số cũng là một hình thức cải số nhưng tiêu cực. Còn những cách
cải số tích cực hơn nhưng cũng rất hạn hẹp, ví dụ, một vài trường hợp thấy
trong các sách Tử Vi như nếu một đứa con nào đó có số khắc với cha mẹ thì đứa
con ấy sẽ bị đau ốm, bệnh tật hoặc là có thể từ khi sinh ra đứa con này, cha mẹ
của nó thường hay gặp những chuyện không may như mất việc, làm ăn thua lỗ
v.v…Trong trường hợp này, cách hóa giải là cho đứa con ở với ông bà nội/ngoại,
hay chú bác cô dì…
Cách hóa giải của khoa Tử Vi
thoạt nghe thì có vẻ dễ dàng nhưng thực tế thì đây là một vấn đề rất tế nhị. Có
cha mẹ nào sinh con ra mà không muốn chính tay mình nuôi con. ở đây chưa nói
đến sự ảnh hưởng sâu xa về tâm lý sau này của đứa bé. Tuy vậy, nếu làm được thì
đổi lại sự bình yên cho cả hai bên, cha mẹ và con cái.
Một ví dụ khác như đối với
những người con gái mà khoa Tử Vi gọi là “cao số” hoặc có số hình khắc với
chồng con, nặng nề hơn là số sát phu thì những lời khuyên thông thường là không
nên cử hành đám cưới hỏi linh đình, mà càng nên đơn giản, càng lặng lẽ âm thầm
càng tốt. Tùy theo mức độ khắc sát nặng nhẹ, hoặc lễ cưới không đốt đèn long
phụng, không rướt dâu, hoặc có thể ở mức độ là cô dâu lặng lẽ xách vali về nhà
chồng, hay một hình thức khác mà chúng ta thường nghe nói là cưới chạy tang.
Cưới chạy tang là trường hợp đôi bên chưa có ý định làm đám cưới, nhưng nếu
trong gia đình hai bên có tang, thì đây cũng là một cơ hội hóa giải sự khắc sát
nặng nề, những giọt nước mắt ngày sau khóc chồng thì nay đã đổ xuống cho tang
sự.
Như vậy, đối với khoa Tử Vi,
chúng ta có thể cải số, nhưng chỉ ở một mức độ nào đó và cũng giới hạn trong
một vài lãnh vực. Việc cải số đối với khoa Tử Vi vẫn đặt căn bản trên quan niệm
phúc đúc là chính yếu, đức năng thắng số. Cái yếu tố phúc đức này có được hay
không là tùy ở cái tâm, cái tánh và hành động của mỗi cá nhân. Ví dụ như một gi­ai
đoạn về đức năng thắng số là một cậu bé được ông thầy coi số và nói với cha mẹ
cậu ta sẽ không sống qúa tuổi 17. Một ngày tình cờ đi qua con suối, cậu bé thấy
tổ kiến có hàng ngàn con kiến đang bị cuốn trôi theo dòng nước. Cậu bé can đảm
lội xuống suối để cứu tổ kiến. Và cha mẹ đã ngạc nhiên khi thấy cậu vẫn sống
qua tuổi 17.
Còn thời Tam Quốc phân tranh,
Khổng Minh Gia Cát Lượng, trên thông thiên văn, dưới rành địa lý, làm phép cầm
sao bổn mạng của mình để sống thêm vài năm nữa mà thất bại. Người xưa đã nói:
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô” Gia Cát Lượng vì phò tá nhà Hán mà đã ra
tay đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốt Hồ Lô, rồi đốt luôn
80 vạn quân Tào trên sông Xích Bích thì như vậy phúc đức còn đâu mà toan cải số
?
Tóm lại, những phương pháp
cải số của khoa Tử Vi vừa giới hạn, vừa khó thực hiện. Một cách được xem là căn
bản và áp dụng tổng quát là quan niệm “đức năng thắng số”
Nhưng hai chữ phúc đức vừa
khó đo lường, vừa có vẻ mơ hồ khiến cho con người đâm ra nghi ngờ và đưa đến
những ý nghĩ có vẻ đùa giỡn nhưng cũng phần nào hàm ý sự hoài nghi như có câu “
người ngay thường mắc nạn, kẻ ác lại sống lâu.” Và nếu đem cái triết lý qủa báo
của nhà Phật thì lại đi vào một nghi vấn khác: đâu phải lúc nào cũng thấy “qủa
báo nhãn tiền” ? Nếu không “nhãn tiền” thì đến bao giờ? Đi xa qúa sẽ làm lung
lay niềm tin của con người.
 Trong quan niệm nhân gian
của người xưa cho rằng THẦN TÀI là vị thần chuyên quản tài phúc của thiên hạ.
nhận được sự chiếu cố giúp đỡ của ông nhất định xẽ
tài nguyên quảng
tiến
. Cho nên rất nhiều người
đặt tượng thần tài trong nhà hy vọng có thể giàu có. Còn một số người ngày đên
thắp hương cúng thần tài, nhưng rất nhiều người có cùng một băn khoăn đó là
trong nhân gian có rất nhiều loại thần tài, rốt cuộc THẦN TÀI nào bày trong nhà
hoặc cúng hợp với mình đây? THẦN TÀI lưu truyền trong nhân gian tuy nhiều nhưng
có thể phân làm hai loại: THẦN TÀI VĂN và THẦN TÀI VÕ.                          1, THẦN TÀI VĂN: chia
làm hai: TÀI BẠCH TINH QUÂN và  PHÚC LỘC THỌ TAM TINH ( TAM ĐA )  a, TÀI BẠCH TINH QUÂN: ông này trông rất phúc
hậu, là một cụ mặt trắng râu dài mặc áo bông thắt lưng ngọc, tay trái cầm thỏi
vàng, tay phải cầm cuộn sớ trên sớ viết CHIÊU TÀI TIẾN BẢO, mặt giống như PHÚ
GIA ÔNG. Tương truyền ông là SAO THÁI BẠCH trên trời, thuộc KIM THẦN, chức vụ
của ông trên trời là “ĐÔ THIÊN CHÍ PHÚ TÀI BẠCH TINH QUÂN” chuyên quản kim ngân
tiền tài, cho nên rất nhiều người cầu tài rất tôn sùng ông, có một số người còn
ngày đêm thắp hương cúng bái. b, BA ÔNG PHÚC LỘC THỌ:ÔNG PHÚC tay ôm đứa trẻ
tượng trưng cho phúc khí:”
hửu tử vạn sự túc” ( có con cái thì vạn sự
đầy đủ, mãn nguyện ). ÔNG THỌ: tay vác cành đào, mặt nở nụ cười hạnh phúc cát
tường, tượng trưng cho
an khang trường thọ.ÔNG LỘC: mặc áo quan, tay ôm NGỌC NHƯ Ý tượng trưng cho tăng quan tiến chức,
tăng tài thêm lộc
. Trong ba ông PHÚC LỘC THỌ,
vốn chỉ có ông lộc mới là THẦN TÀI nhưng thường được làm liền nhau cho nên được
mọi người cúng cả ba ông như thần tài. Có ba ngôi sao PHÚC LỘC THỌ cùng chiếu
thì sẽ
mãn đường cát khánh, chưa
cần nói đến vấn đề phong thủy, khi ta bày tam đa trong nhà chỉ cần nhìn dáng vẻ
của ba ông thì trong lòng đã thấy thoải mái vô cùng. Những người làm công viên
chức, những người đi lính, các ông chủ cửa hàng nên bày hoặc thờ THẦN TÀI
VĂN.2, THẦN TÀI VÕ: có hai loại. a, TRIỆU CÔNG MINH: còn gọi là TRIỆU HUYỀN, là
một vị mãnh tướng oai phong lẫm liệt, nhân gian tương truyền rằng ông có khả
năng phục yêu trừ ma và có thể chiêu tài lợi thị, cho nên ở miền bắc TRUNG QUỐC
đa số các cửa hàng đều thờ cúng ông, còn miền nam đa số thờ QUAN CÔNG.

b,QUAN CÔNG: tên thường gọi:
QUAN VŨ, tự VÂN TRƯỜNG, là danh tướng thời TAM QUỐC, ông không chỉ trung dũng
cảm động lòng người mà còn có thể chiêu tài tiến bảo, hộ gia tịch tà. Có một
điểm cần phải
chú ý: bày THẦN TÀI
VĂN và THẦN TÀI VÕ có sự khác biệt cần phân biệt rõ. THẦN TÀI VĂN bất luận là
TÀI BẠCH TINH QUÂN hay PHÚC LỘC THỌ TAM TINH phải quay mặt vào trong nhà (
phòng, ốc ) nếu làm ngược lại xẽ là tống tài ( cho đi cuả cải ). Còn THẦN TÀI
VÕ thì phải quay mặt ra cửa chính, làm như thế vừa là chiêu tài tiến bảo vừa có
thể trấn thủ môn hộ, không cho ngoại tà vào nhà quấy nhiễu. 3, Hướng đặt thần
phật. Nước ta là quốc gia sùng bái đa thần, tín ngưỡng tự do. Mặc dù ngày nay
nước ta đang phát triển theo hướng tây hóa nhưng trong rất nhiều gia đình VIỆT
vẫn giử được tập tục truyền thống : trong nhà có bàn thờ thần. Bàn thờ thần đặt
trong nhà có một vài điều cấm kỵ cần chú ý:a, Bàn thờ thần phải quay ra cửa
chính. Nếu mọi người không tin thì cứ để ý tất cả chùa miếu, tượng thần phật đa
số đều quay mặt ra ngoài.b, Bày QUAN ÂM: Rất nhiều người đặt QUAN CÔNG và QUAN
ÂM cùng nhau và thờ cúng, nhưng làm như thế là không đúng. Vì QUAN ÂM là thần
trong PHẬT GIÁO, còn QUAN CÔNG là hình tượng anh hùng được nhân gian sùng bái.
Vả lại tấm lòng của QUAN ÂM từ bi, kỵ sát sinh, còn QUAN CÔNG giết giặc lập
công, có thể nói là lập công khởi nghiệp bằng máu vì thế mà không hợp đặt hai
vị này gần nhau. QUAN ÂM thì đặt theo hướng “ tọa tây hướng đông ” ( tức là
ngồi ở hướng tây, mặt quay về hướng đông ), ngoài ra vì QUAN ÂM thanh tịnh cho
nên có ba hướng kỵ: (1) Không được quay về phía nhà vệ sinh. (2) Không quay về
phía cửa phòng.(3) Không quay QUAN ÂM về phía bàn ăn.

c, Tổ tiên và thần phật
không dược bày bằng nhau, nhiều người đặt ảnh bài vị của tổ tiên trên bàn thờ
thần thánh đặt ngang bằng với QUAN ÂM, QUAN ĐẾ, HOÀNG ĐẠI TIÊN… để thờ. Thật ra
làm như thế là không đúng, bởi vì tổ tiên là gia thần ( thần trong nhà ) còn
các vị kia là thiên thần. Ta nên đặt bàn thờ tổ tiên phía dưới bàn thờ thần
thánh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *