GIAI THOẠI PHONG THỦY: KIỂU ĐẤT NGŨ PHỤNG TRIỀU DƯƠNG – 4

Sự kiện đó có đúng không ? Nếu đúng, thì thời gian Vũ Hồn được cử làm Đô Hộ Sứ ở An Nam là năm nào, mà vị đại thần Trung Quốc ấy lại có thể tìm được đất, di cư đem con cháu qua lập nghiệp, phát đạt hiển hách làm được cả đền thờ, viết được cả câu đối, ghi nhớ công ơn người khai sáng, để khi Cao Biền có dịp đi qua, chỉ còn biết ngẫn ngơ, trước kiểu đất văn học tuyệt vời đó !
Nếu bảo rằng Vũ Hồn sang An Nam sau Cao Biền, thì giả thuyết ấy e rằng không đúng !
Vì cái chức An Nam Đô Hộ Sứ chỉ được đặt ra về đời Vua Cao Tôn nhà Đường, đồng thời với danh từ An Nam Đo Hộ Phủ.
Nhưng đến khi Cao Biền đánh thắng được quân Nam Chiếu, nước ta trở lại nội thuộc nhà Đường, thì vua Đường lại đổi An Nam làm Tỉnh Hải và phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ.
Do đấy mà chúng tôi tin rằng ngôi Mả Táng Treo chỉ có thể được an táng từ trước ngày Cao Biền qua nước ta, căn cứ vào số quan Trung Quốc “Thiên Triều” phải qua đây, trong những thời kỳ nước ta bị Bắc thuộc, không đời nào còn thấy có chức An Nam Đô Hộ Sứ nữa !
Tóm lại chúng tôi không tin rằng : ngôi mả táng treo, được táng sau thời Cao Biền đem binh sang đánh quân Nam Chiếu, vì một lẽ dể hiểu : nếu được thấy kiểu đất ấy thì một người tinh thông phong thủy như họ Cao, có đâu lại chịu bỏ qua, nhường chốn cát địa cho người khác hưởng thụ.
Nhưng ngôi mộ nếu đã không được táng trong thời kỳ Cao Biền sang bình định nước ta, thì mả ấy được táng từ đời nào ? trước đấy hay sau đấy.
Điều đáng cho ta thắc mắc nhiều hơn hết là cái chức An Nam Đô Hộ Sứ của Vũ Hồn, vì như chúng tôi đã trình bày trong kỳ trước : Xứ Giao Châu chỉ được đổi tên là An Nam từ đời Vua Cao Tôn Nhà Đường cũng như chức vị Đô Hộ Sứ, chỉ được đặt trong thời gian ít năm gần đây, cho đến khi Cao Biền dẹp tan quân Nam Chiếu, dâng biểu về triều báo tiệp, thì vua Đường lập tức đổi An Nam là Tỉnh Hải, và đặt ra chức Tiết Độ Sứ để cai trị nước ta.
Nếu bảo khu đất “Cửu Thập bát Tú triều dương” và làng Mộ Trạch, còn là những vùng hoang địa cho đến khi Cao Biền đi qua thì thật là vô lý !
Một nhà phong thủy kỳ tài lỗi lạc như Cao Biền, lại mang nặng chiếu mạng của vua Đường : phải triệt hạ trấn yểm cho kỳ hết, những kiểu đất trong những miền sơn thủy kỳ khu, quy tụ long mạch đế vương, hay công hầu, khanh tướng, thì có bao giờ lại chịu bỏ qua một kiểu đất văn học tuyệt vời như nơi có ngôi mả táng treo của Vũ Hồn và nơi quy tụ con cháu dòng họ Vũ tức là làng Khả Mộ, mà theo tài liệu ghi chú trong gia phả họ Vũ, sau được đổi tên là làng Mộ Trạch. Nhất định Cao Biền không thể nào giữ thái độ thản nhiên, bất động như thế được.
Một là nhà địa lý tài ba ấy phải chiếm đoạt lấy, để an táng hài cốt tổ phụ, nhất là vào hoàn cảnh của họ Cao lúc đó, đang bị kẻ thù âm mưu hãm hại, tìm đủ cách sàm tấu với triều đình thì một nhân vật lổi lạc văn võ song toàn, trí mưu gồm đủ như Cao Biền, rất có thể xưng hùng một cõi bằng cách tạo lập riêng biệt cho mình một sự nghiệp, bắt đầu bằng ngôi mả “Cửu Thập bát Tú”, và sau đó, dùng làng Mộ Trạch để quy tụ con cháu làm vây cánh, há không phải là mưu kế vạn toàn sao ?
Hai là, nếu Cao Biền không muốn hoạt động cho sự tư lợi của mình, thì chiếu theo chiếu mạng của nhà vua, nhà phong thủy đó cũng phải phá huỷ kiểu đất, triệt hạ long mạch, để không cho một ai, lợi dụng khu cát địa ấy, ngóc đầu lên được ?
Vậy mà cả hai giải pháp trên, đều không được Cao Biền xử dụng, thì đủ hiểu vùng đất đai kỳ tú đó đã có chủ từ lâu, hoặc giả Cao Biền không hề được đặt chân đến vùng Lương Đường, Ngọc Cục một lần nào hết !
Đặt giả thuyết là ngôi mả táng treo được an táng từ khi bắt đầu có chức Đô Hộ Sứ và xứ Giao Châu được mang tên là xứ An Nam, nghĩa là vào đời vua Cao Tôn nhà Đường bên Tàu.
Đồng thời ta cũng cứ tạm tin Vũ Hồn là quan Đô Hộ Sứ đầu tiên do nhà Đường bổ nhiệm sang cai trị đất An Nam, theo như lời ghi chú trong gia phả họ Vũ mà tài liệu còn được đặt thờ trên ngai, mặc dầu trong sử sách, chúng tôi đã tốn công tra cứu, không hề thấy một viên quan văn võ, lớn nhỏ nào của nhà Đường, được phái qua đất An nam, mang họ Vũ, chứ đừng nói là chức Đô Hộ Sứ, một chức vụ nếu chúng tôi không lầm, không thua kém gì chức Thái Thú về trước, hay chức Tiết Độ sứ sau này, cũng do nhà Đường đặt ra.
Nếu tạm tin là có quan Đô Hộ Sứ Vũ Hồn, từ bên Tàu qua cai trị đất này, rồi đặt thêm một câu hỏi phụ : họ Vũ đóng doanh trại ở đâu mà lại có thể tìm được kiểu đất ” Cửu Thập bát Tú triều dương” và làng Mộ Trạch để có thể sau đấy, về triều đình xin phép nhà vua cho di cư con cháu qua An nam lập nghiệp ?
Thời gian tìm kiếm được đất, trở về Tàu, rồi lại qua An Nam, theo sự chuyển vận ngày xưa, đường lối giao thông không thuận tiện, nào qua suối băng rừng, nào trèo non, vượt bể liệu mất bao nhiêu ngày tháng ?
Đó là chưa kể đến những sự trở ngại khác, rất có thể xãy ra, về phương diện chính trị, cho một viên quan nhận mệnh vua đi trấn nhậm phương xa chưa làm được điều gì đặc biệt đã lại về triều xin đem con cháu qua lập nghiệp ở nơi mình đang cai trị, thì há không sợ nhà vua nghi ngờ, và các bạn đồng liêu dị nghị rồi tìm cách ngăn cản sao ?
Ai cũng biết rằng cái nghề làm quan ỡ bên Tàu, một khi được bổ đi trấn nhậm các vùng bị nội thuộc là có một cơ hội làm giàu chắc chắn, tha hồ mà vơ vét, đục khoét, làm mưa, làm gió với đám dân đen bản xứ !
Vậy thì trước miếng mồi ngon béo bở ấy, các triều thần văn vỏ nhà Đường, đâu có dại gì mà để cho Vũ Hồn được độc quyền hưởng thụ ? Mà không những chỉ hưởng thụ một mình, Vũ Hồn lại còn về đem con cháu, họ hàng qua An nam lập nghiệp, một cách quá dể dàng, khiến cho giờ đây, khi đọc đến đoạn này, người ta đã phải bâng khuâng tự hỏi : Trong thời đại phong kiến cực thịnh, vấn đề di dân lại thực hiện nhanh chóng đến thế sao ?
Nếu tính cộng tất cả thời gian từ lúc Vũ Hồn sang An Nam làm Đô Hộ Sứ, cho đến khi tìm được đất về Tàu, xin nhà vua đem con cháu qua thành lập làng Mộ Trạch, rồi lại tiếp tục cai trị dân An Nam, cho đến lúc chết để được mai táng trong kiểu đất Cửu Thập Bát Tú triều dương, thì thời gian tổng cộng đó là mấy năm ?, mà đến khi Cao Biền qua đấy, mọi việc đã đâu vào đấy cả rồi, nghĩa là đã có ngôi mả táng treo và làng Mộ Trạch đàng hoàng rồi, khiến cho Cao Biền đành chỉ còn nhìn kiểu đất mà tỏ ý tiếc hận.
Qua mấy kỳ vừa rồi, chúng tôi đã trình bày những nghi vấn về thời gian chính xác, của ngôi mả táng treo, và tin rằng, nếu Vũ Hồn có quả là người Trung Hoa thật sự, được làm quan tới chức Đô Hộ Sứ, thì ngôi mả ấy phải được táng trong khoảng thời gian từ năm quan Đô Hộ Sứ Khâu Hòa được bổ qua đấy đến năm quan Đô Hộ Sứ (sau là Tiết Độ Sứ) Cao Biền đem quân sang đánh quân Nam Chiếu, mặc dầu trong số các quan lại nhà Đường (xin nhắc lại thêm một lần nữa) đặt chân lên đất An nam , không hề có một ai mang họ Vũ hết, kể cả các quan lớn, nhỏ văn, võ !
Vả lại, nếu tài liệu được ghi trong gia phả của họ Vũ là đúng, thì Vũ Hồn đã xuất chinh làm quan to từ trước khi thấy kiểu đất Cửu Thập bát Tú triều dương và vùng Khả Mộ, nghĩa là họ Vũ vẫn là một thế gia lệnh tộc ở Trung Quốc từ lâu rồi, chứ đâu phải do kiểu đất Cửu Thập bát Tú triều dương đem lại được sự kết phát, tạo ra cho Vũ Hồn cái địa vị vinh quang, hiển hách ấy ?
Vậy thì những linh khí nhật nguyệt, kết tụ thành kiểu đất đặc biệt, có một không hai ở dưới gầm trời này, há chẳng bị giảm mất một phần nào sự hiệu nghiệm ư ?
Rút kinh nghiệm của những kiểu đất quý báu từ xưa tới nay, mà sự kết phát kỳ dị, qua những hiện tượng lạ lùng, có khi gần như hoang đường, quái đản, đã được phổ biến sâu rộng trong dân gian, khiến cho những giai thoại ấy được truyền tụng, thông thường không kém gì những câu ca dao tục ngữ, hoặc do tự chúng tôi sưu tầm được, thì những kiểu đất đặc biệt, phần nhiều điều đem lại sự kết phát rất bất ngờ, huyền diệu : từ dây rơm, áo vải đến mũ mảng, cân đai, từ hàn sĩ, không có đất cắm dùi, đến ông Nghè, ông Bảng nghênh ngang, võng lọng chớ ít khi thấy một kiểu đất quý đem lại sự kết phát cho một gia đình, đang được kết phát như trường hợp của quan An Nam Đô Hộ Sứ Vũ Hồn lúc mới được bổ nhiệm qua đây.
Hơn thế nữa, các Cụ nhà ta trước kia, mỗi khi có cơ hội đề cập đến chuyện mồ mả, đất cát, thường bao giờ cũng đem câu : “Tiên tích đức, hậu tầm long” ra, để khuyên bảo con cháu, không phải dụng ý khuyến thiện : cần phải tu nhân, tích đức, làm điều lành, tránh điều dữ trước đi, rồi sau mới có thể nghĩ đến truyện tìm thầy địa lý để nhờ kiếm cho một kiểu đất kết phát !
Ở đời, ai cũng biết đồng tiền có sức mạnh vô biên !
Vì đồng tiền, người ta có thể thay đen, đổi trắng, vẻ phấn bôi son mặc sức mua danh, bán lợi theo ý muốn của mình !
Nhưng riêng về việc mồ mả, đất cát thì đồng tiền quả thật không tạo được nổi một mảy may ảnh hưởng nào dù cho những nhà đại phú giàu có vào loại Thạch Sùng, Vương Khải ngày xưa, cũng đành tâm bó tay chịu phép, không thể ỷ mình dư vàng ngọc, dư tiền bạc, để mà tha hồ mượn thầy địa lý tìm những kiểu đất quý báu, hầu hy vọng một sớm, một chiều, từ địa vị phú hộ, nhảy lên quan lớn, muốn chém giết ai tùy thích !
Lão còn phân trần rành rẻ cho mọi người khỏi nghi ngờ thắc mắc :
– Sở dĩ lão muốn dùng kiểu đất có một không hai ở dưới gầm trời này, để an táng hài cốt họ Vũ, mà không chiếm đoạt lấy cho riêng mình, là vì lão đã biết chắc rằng tổ tiên họ Vũ rất dày âm công, phước trạch, nên Trời Phật mới dành riêng kiểu đất ấy cho họ Vũ, không một ai được phép xâm phạm.
Vả lại, Vũ Nghĩa là con trai thứ của Vũ Hồn, từ nay đã mang họ Vương, là con nuôi của lão, thì nhiều ít, dù muốn, dù không, sau này vận mạng của nó cũng phải liên hệ với mộ phần thân phụ nó.
Như vậy, lão dù có tặng họ Vũ kiểu đất đặc biệt song nghĩ cho cùng không thiệt thòi gì, vì chính con nuôi lão (Vũ Nghĩa) cũng được hưởng thụ một phần phước trạch của ngôi mả kết phát.
Trần thị vui vẻ bằng lòng. Họ Vương chọn ngày cải táng xong xuôi, rồi đem Vũ Nghĩa, nay đổi là Vương Nghĩa về Tàu !
Trần thị nhắn tin mời thân phụ nàng qua chơi để tiếp đải họ Vương, hầu tránh những lời dị nghị của dân làng, vì dù đã có hai con với Vũ Hồn, lại thêm mang vòng khăn tang trên đầu với chuổi ngày buồn tẻ của kiếp sống vị vong, người trong thôn xóm cũng vẫn không quên mối tình duyên ngắn ngủi giữa nàng với thầy lang họ Vương năm trước.
Đêm hôm ấy, nhân bàn đến chuyện cải táng Vũ Hồn, họ Vương vui miệng, đã thú thật các việc đã qua : từ khi lão theo dõi long mạch cho đến lúc tìm thấy huyệt quý, nhưng thử đi, thử lại nhiều lần, lão đành khoanh tay khuất phục số mạng, không sao cưỡng nổi mệnh trời, vì qua bao nhiêu hiện tượng quái đản, dị kỳ, lão tự biết, nhà mình bạc phước, chưa đủ âm công hưởng thụ kiểu đất kết phát hiển hách đó, mà Thượng Đế đã dành riêng cho Vũ Hồn.
Lão cũng không dấu những sự hiển linh ghê ghớm, khi bị sét đánh trúng tróc long, một mảnh lực huyền ảo nào đó đã phá tan luôn cả bùa phép, ngăn cản không cho lão hô thần, chiêu tập âm binh, và sau đấy, còn báo mộng cho lão biết lòng trời, chỉ ban kiểu đất cho họ Vũ, ai cố tình chiếm đoạt nhất định sẽ gặp tai họa.
Nghe lão thuật chuyện người nông dân xuất hiện, giữa một cơn mưa gió, gió mưa tầm tả, lúc lão phải vào tạm trú trong miếu cô hồn, để mách bảo rành mạch cho lão biết đích xác danh tánh người được hưởng thụ phước trạch của thánh thần, cả hai cha con Trần thị cùng ngơ ngác nhìn nhau nhu dò hỏi, nhưng cả hai đều không biết người nông dân kỳ dị ấy là ai, mặc dù họ Vương đã phác tả lại rõ ràng tỷ mỷ nét mặt và giáng điệu của người nông dân lạ lùng đó.
Cả hai cha con cùng một lượt, điểm danh dân làng ở từng thôn, từng xóm, xem có ai vào cở tuổi ấy, có tầm vóc người và nét mặt như thầy lang vừa phác tả.
Song họ chỉ thất vọng, ngao ngán nhìn nhau, lắc đầu, vẻ băn khoăn in hằn trên hai khuôn mặt một già, một trẻ !
Thấy thế, họ Vương chỉ còn biết kết luận mơ hồ : đó có lẻ là thổ thần hiển linh, chứ nếu là người ở trong vùng thì cha con họ Trần, vốn là dân sở tại, lẻ tất nhiên phải biết chứ có lý đâu lại chẳng có thể nào đoán ra được là ai ?
Họ Vương thuật tiếp đến sự dò hỏi cố tìm cho kỳ được Vũ Hồn.
Lão thú thật: Khi chưa tìm thấy họ Vũ , thâm tâm lão vẫn hoài nghi, không tin chắc sự hiển linh của thổ thần mách bảo, cũng như sự tiết lộ dị kỳ của người nông dân ở miếu Cô hồn. Nhưng đến khi tìm được Vũ Hồn, mướn được họ Vũ về làm quản gia cho tiệm thuốc, nhất là sau nhiều cuộc dò xét kín đáo, biết được rõ ràng về lai lịch, gốc tích cùng nền tảng âm công, tu nhân tích đức của tổ tiên họ Vũ thì lão mới thật sự giật mình, hoảng kinh hồn vía trước lẻ trời huyền bí, và bàn tay an bài kỳ diệu của Hóa Công. Nhờ đấy, lão mới tự nguyện, khấn vái cùng thánh thần, xin tuân theo mệnh trời, nhường kiểu đất quý đã tìm được cho Vũ Hồn, mà chỉ xin ghé hưởng một phần phước trạch.
Qua bao nhiêu đêm thao thức không ngũ, lão suy tính kỷ lưỡng, để tìm cơ mưu thực hiện ý định trên. Mãi sau mới suy nghĩ được cách mượn giống, nghỉa là cố sức gầy dựng cho Vũ Hồn sớm thành gia thất, rồi xin một đứa con họ Vũ đem về Tàu làm con nuôi cho mang họ Vương chính thức. Như vậy, vừa nên tình, nên nghĩa, lại vừa tạo được phước trạch cho riêng họ Lão mà vẫn không trái với lòng trời.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *