Phong thủy âm trạch Long Mạch Huyệt Mộ Phần 1

Long Mạch – Huyệt Mộ​ (Phần 1)

Trong phong thủy âm trạch, long mạch là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Long mạch là địa mạch mạnh mẽ, mềm mại, thoắt ẩn thoắt hiện như rồng. Địa mạch lấy hướng núi sông làm tiêu chí. Vì vậy, các nhà phong thủy gọi địa mạch là long mạch, là khí mạch đi theo mạch núi.

Nói về long mạch phải phân biệt mạch chính và mạch nhánh. Tìm được mạch chính mà lại đặt huyệt ở mạch nhánh là không cát.

Long mạch có quan hệ mật thiết với các núi, gò của huyệt mộ. Nếu chân long (long mạch chính) thì cần có nhiều gò núi bảo vệ. Nếu có nhiều gò núi hộ vệ, chủ về sự phú quý. Nhưng nếu mất khí của long mạch là đại hung.

Nhận đúng long mạch sau đó phải quan sát thủy khẩu (gò, núi xung quanh hoặc ở giữa cửa sông), Án Sơn (núi che chắn phía trước huyệt mộ), Triều Sơn (núi ở phía trước nhưng xa huyệt mộ hơn Án Sơn), minh đường (khoảng trống phía trước huyệt mộ), Thanh Long (gò, núi ở bên trái huyệt mộ), Bạch Hổ (gò, núi ở bên phải huyệt mộ).

Thế của long mạch lấy mềm mại, linh hoạt làm quý. Long mạch lên xuống trùng trùng, uốn lượn như cá nhảy chim bay gọi là sinh long, là địa huyệt cát. Nếu long mạch thô thiển, ngang, ngược, cồng kềnh, uể oải như cây khô, cá chết là tử long, là địa huyệt hung. Nhà phong thủy chia long mạch thành các loại: cường long, nhược long, phì long, thuận long, nghịch long, tiến long, thoái long, bệnh long, kiếp long, sát long, chân long, giả long, quý long, tiện long…

Long mạch được núi vây quanh dày đặc là sự bao bọc, hộ vệ tốt hay còn gọi là có tình – không lệch, không đi ngược. Hình thế long mạch được xem là cát thì phải đoan trang, nho nhã, tú lệ. Nếu chủ (long mạch chính) và khách (long mạch nhánh) không phân biệt được rõ ràng, núi mọc lung tung, đá núi lộn xộn, hình thù kỳ quái là ác hình. Nơi đây an táng rất hung, là đại kỵ.

Phân chia long mạch

Mạch núi căn cứ vào hướng núi được chia làm 5 loại, tức 5 thế:

– Thế chính: long mạch phát ở phương Bắc, hướng tới phương Nam.
– Thế nghiêng: long mạch phát ở phương Tây, hướng lên phía Bắc, Bắc có huyệt hướng về Nam.

– Thế nghịch: long mạch nghịch thủy hướng lên rồi theo dòng nước đi xuống.

– Thế thuận: long mạch theo thủy chảy xuống rồi lại nghịch thủy đi lên.

– Thế hồi: long mạch trở về Tổ Sơn (nơi phát nguồn của long mạch bao gồm hàng loạt núi kế tiếp nhau: Thái Tổ Sơn, Thái Tông Sơn, Thiếu Tông Sơn).

Dựa vào hướng lượn lượn vòng, có thể chia long mạch làm 2 loại:

– Dương long: long mạch từ Thái Tổ Sơn lượn vòng theo hướng chiều kim đồng hồ.

– Âm long: long mạch từ Thái Tổ Sơn lượn vòng ngược chiều kim đồng hồ.

Một cách chia âm long và dương long khác là căn cứ vào phương hướng của dòng chảy 2 bên mạch núi:

– Dòng nước từ 2 bên mạch núi chảy đi, nếu dòng từ bên trái chảy sang bên phải, long mạch là dương long.

– Dòng nước từ bên phải mạch núi chảy sang bên trái, long mạch là âm long.

Cụ thể hơn, theo hình thái của mạch núi có thể chia long mạch làm 9 loại:

– Hồi long: hình thế long mạch quay đầu về Thái Tổ Sơn, như rồng liếm đuôi, hổ quay đầu.

– Xuất dương long: hình thế long mạch phát tích ngoằn ngoèo như thú xuất lâm, như thuyển vượt biển.

– Giáng long: hình thế long mạch như rồng từ trên trời lao xuống.

– Sinh long: hình thế long mạch vòng cung, mạch nhánh nhiều như chân rết, như dây leo.

– Phi long: hình thế long mạch tụ tập như nhạn bay ưng lượn, 2 cánh mở rộng như phượng hoàng nhảy múa.

– Ngọa long: hình thế long mạch như hổ ngồi, voi đứng, trâu ngủ, thế vững vàng.

– Ẩn long: hình thế long mạch không rõ ràng, mạch long kéo dài.

– Đằng long: hình thế long mạch cao xa, hiểm yếu, rộng lớn như rồng bay vút lên trời cao.

– Lãnh quần long: hình thế long mạch như hội tụ các nhánh, như đàn cá đang bơi, đàn chim đang bay.

Phúc họa với hình và thế đất huyệt mộ

Cái gọi là “hình” trong phong thủy chính là hình dạng của núi kết huyệt. Hình là điều kiện quan trọng nhất để tụ khí. Khí vận hành (di chuyển) theo thế núi, thế đất vì vậy bị ngưng tụ lại. Nơi ngưng tụ được linh khí như thế gọi là chân huyệt.
Cuốn Táng Kinh viết: “Hình ngăn khí tụ, hóa sinh vạn vật là đất thượng đẳng”. Nếu không có hình tốt tức thế đất không ngăn được khí. Khí không tụ lại được thì an táng vô nghĩa. Hình có to nhỏ, cao thấp, sấp ngửa, béo gầy, cân lệch.

Các nhà phong thủy chia hình thế đất thành 6 kiểu: tròn, bẹt, thẳng, cong, vuông, lõm.
Yêu cầu hình thế đất: Thứ nhất là phải ngăn được khí (khí tụ); thứ 2 là phải tàng (giấu), đất lộ, khí tán theo gió; thứ 3 phải vuông cân, nếu đất nghiêng lệch khí uế sẽ phát sinh; thứ 4 là thế đất phải có hình vòng cung, khí tụ và lưu thông trong huyệt, đất ẩm.

Thế đất cát thì huyệt sẽ cát; huyệt cát thì nhân sẽ cát. Thông thường, an táng ở trên thế đất phình, cheo leo, lộ lồi, nham nhở, tản mạn, tàn tạ đều mang lại hung họa khôn lường cho đời sau.

Táng Kinh viết rất cụ thể như sau:

– Thế đất có bình phong (đằng sau huyệt mộ có đất hoặc núi cao như bức bình phong để dựa, được che chắn) chôn đúng phép, vương hầu nổi lên.

– Thế đất như tổ yến (tròn, vuông, cân đối) chôn đúng cách, được chia đất phong.

– Thế đất như rìu kép (tròn, vuông, cân đối, phẳng phiu) mộ huyệt có thể giàu có.

– Thế đất lởm chởm (đất không có hình thế), bách sự hỗn loạn.

– Thế đất như loạn y (quần áo bừa bãi), thê thiếp dâm loạn.

– Thế đất như túi rách (chỉ đất, cát, sỏi, phù sa bồi), tai họa liên miên.

– Thế đất như thuyền lật, nữ bệnh nam tù.

– Thế đất ngang lệch (thế đất xiên xẹo, không ra hình thế), con cháu tuyệt tự.

– Thế đất như kiếm nằm (thế đất dài như thanh kiếm), chu di bức hại.

– Thế đất như đao ngửa (thế đất dài như thanh đao), hung họa suốt đời.

Như vậy, sách xưa khẳng định: “Hình thế rõ ràng thì tìm huyệt dễ, không rõ ràng thì tìm huyệt khó khăn”; “Thế đến, hình ngăn gọi là toàn khí. Đất toàn khí khi an táng thì tụ được khí”.

Không những thế, khi chọn đất táng, vai trò của hình và thế cần được coi trọng như nhau. Vì: “Hình và thế thuận là cát, hình và thế nghịch là hung. Thế cát hình hung thì bách phúc không còn, thế hung hình cát thì họa hại vô cùng”.

Bát phong hung dữ – 8 loại gió bất lợi đối với huyệt mộ

Theo khái niệm âm dương, thì gió (phong) bao gồm 2 loại: gió từ đỉnh núi thổi xuống gọi là gió dương, gió từ khe núi thổi lên gọi là gió âm.
Ở vùng đồng bằng thì huyệt không sợ gió. Các loại gió thổi từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc là gió ấm, gọi là gió dương thì không cần đề phòng. Các loại gió hướng Tây, hướng Bắc gọi là gió âm thường lạnh, vì vậy huyệt nên có Án Sơn – núi che phía trước, nếu không xương cốt trong mộ sẽ bị lạnh, gia chủ sẽ khuynh gia bại sản.

Theo sách Địa lý giảm giả lục: “Gió âm sẽ làm tản sinh khí. Vì vậy, nếu gió này thổi trực xạ (thổi thẳng) vào mộ là hung (xấu). Ở đồng bằng và vùng sông, biển mênh mông, an táng mộ không cần núi gò cao che chắn gió dương, vì gió này không kỵ, không có sát khí.”

Long khí không thông gió sẽ vượng, dương trạch (nhà ở) nên đóng cửa sổ vì nếu gió dữ thổi, cửa không đóng, khí lạnh tràn vào nhà sẽ hung. Nếu triều án sơn lõm khuyết bị gió thổi gọi là trực xạ.

Theo sách Địa lý 88 hướng chân quyết, có 8 loại địa hình xấu không vì không che được 8 loại gió hung dữ (bát phong):

1. Tiền phong: Minh đường (khoảng đất trước huyệt mộ) bị nghiêng lệch, Án Sơn (ngọn núi che chắn trước mộ) lõm khuyết, bị gió âm (gió Tây Bắc) trực xạ, không thể tụ khí chủ về sự bần hàn, con cháu phải chịu cuộc sống long đong, xa quê.

2. Hậu phong: Không có Phụ Mẫu Sơn (núi che chắn phía sau mộ), gió thổi lưng huyệt thì chủ về sự khốn cùng, đoản mệnh…

3. Tả phong: Gò Thanh Long thấp bé, không cản nổi gió tả phong thì gia chủ vong, nữ chủ nhân quả phụ.

4. Hữu phong: Gò Bạch Hổ thấp bé, không cản nổi gió hữu phong thì nữ gia chủ vong, dễ tuyệt tự.

5 – 6. Lưỡng mày phong: Gió thổi vào chỗ giao nhau dưới Chủ Sơn và gò Thanh Long hoặc gò Bạch Hổ bị lõm khuyết thì gia chủ vong, tự tuyệt.

7 – 8. Đuôi Long Hổ phong: Đuôi Long Hổ thấp, gió thổi qua chỗ đó gọi là đuôi Long Hổ phong, là đại hung. Chủ nhân dễ bị khuynh gia bại sản. Nếu gió từ hướng (Cấn) Đông Bắc thì rất dữ.

Tuy nhiên, nếu huyệt mộ được Sa và Thủy bao bọc tầng tầng, lớp lớp thì sẽ không lo 8 loại gió hung nói trên.

An táng ở vùng núi cần chọn đất tàng phong

“Tàng phong” chỉ huyệt địa được gò, núi che chở kín, gió không thổi vào huyệt mộ nên khí không bị tiêu tán.

Các nhà phong thủy cho rằng, sinh khí do nước mà tụ, do gió mà tản. Vì vậy, “đắc thủy” là tiêu chuẩn hàng đầu để xét huyệt mộ tụ khí; nếu mộ không được che chắn, sinh khí tản theo gió thì dù thủy bao bọc cũng vô ích.
Sách Táng Thư viết: “Khí thừa phong (theo gió) thì tản, giới thủy (ngăn dòng nước) thì dừng”.

Sách cũng chú giải thêm: “Muốn ngăn khí lại, thành quách phải dày đặc, bao bọc trước sau, trái phải. Như vậy sẽ tàng phong, không để gió thổi tự do, làm tản khí mạch”. Vì vậy, thành quách trở thành bình phong che chắn gió, giúp gia chủ khỏe mạnh. 4 phương 8 hướng huyệt mộ đều phải được gò, núi che chắn, gió không thổi vào minh đường là tốt. Ngược lại, chủ gặp tai họa khôn cùng.

Nếu phía trước huyệt mộ không có núi che chắn, gió sẽ thổi trực diện, khí huyệt tản mát. Tọa đất này, gia chủ bần hàn, bại tuyệt. Nếu sau huyệt không có núi, chủ cô quả. Nếu bên phải không có núi che chắn (Bạch Hổ khuyết), gió thổi bên phải mộ, con cháu yểu tướng. Nếu cả 2 bên trái và phải mộ không có núi che chắn, mộ bị gió, chủ bại tuyệt; 2 chân mộ bị gió, chủ phá gia.

Đất đồng bằng, sinh khí chìm trong đất, khí từ dưới bốc lên, không sợ gió thổi. Vì vậy, huyệt tuy ở giữa nơi thoáng đãng, 4 phương 8 hướng không có núi che chắn cũng không ảnh hưởng gì đến việc tụ khí. Vì vậy, thuyết “tàng phong” chỉ nói về huyệt mộ ở vùng núi mà thôi.

Ý nghĩa của tứ linh đối với huyệt mộ

Tứ linh tức tứ thú vốn là tứ tượng trong thiên văn học cổ. Nó bao gồm: Thanh Long (rồng xanh), Bạch Hổ (hổ trắng), Chu Tước (sẻ đỏ), Huyền Vũ (rùa đen).
Các nhà phong thủy cho rằng, tứ linh do khí 4 phương tạo ra. Nếu tứ linh nhu thuận, quy phục, bao bọc ủng hộ huyệt ở trung ương là đại cát, gia chủ con cháu vinh hoa, phú quý.

Quách Phác trong “Táng kinh” nói: “Huyền Vũ cúi đầu, Chu Tước nhảy múa, Thanh Long uốn lượn, Bạch Hổ thuần phục”. Tuy là chỉ riêng từng thú nhưng tứ thú phải hội tụ được cả 4 yếu tố: cúi đầu, nhảy múa, uốn lượn, thuần phục. Nếu một thứ quay lưng là hung tượng (xấu). Điều này khiến con cháu có thể gặp nhiều bất trắc.

Tứ linh rất quý và hiếm. Nó cũng có những yêu cầu cụ thể:

– Hình dáng thanh tú, tròn, tươi. Cỏ cây tươi tốt, tú lệ.

– Thủy trong, ngưng lắng, uốn lượn, đẹp, nước sông đầy, không chảy xiết, phá…

– Tứ linh phối hợp, long cao hổ bao, núi sông hữu tình, bao bọc huyệt mộ.

– Thế thuần phục, sinh động, có tình, tiền hô hậu ủng, hướng về.

“Táng thư” của Quách Phác gọi là tứ linh, tứ thế. Lấy mộ làm vật chuẩn, tả là Thanh Long, hữu là Bạch Hổ, phía trước là Chu Tước, phía sau là Huyền Vũ.

Nguyên tắc chọn đất đặt mộ

Các nhà phong thủy xưa đã vận dụng đạo tam cương (cha con: Cha là giềng mối của con; vua tôi: Vua là giềng mối của tôi; vợ chồng: Chồng là giềng mối của vợ), ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) vào phong thủy. Tam cương chỉ khí mạch, minh đường và thủy khẩu. Ngũ thường chỉ long, huyệt, sa, thủy, hướng.

Theo sách Ngũ quyết địa lý:

Tam cương là: 1. Khí mạch là giềng mối của phú quý bần tiện; 2. Minh đường là giềng mối của đẹp xấu sa thủy; 3. Thủy khẩu là giềng mối của sinh vượng tử tuyệt.

Ngũ thường là: 1. Long cần phải là chân long; 2. Huyệt cần phải là huyệt bằng phẳng; 3. Sa cần tú (đep); 4. Thủy cần phải có sự bao bọc; 5. Hướng cần là cát hướng.

Thủy là nguồn gốc tiền tài, là ngoại khí của sinh khí. Nếu chảy quanh huyệt mộ là sinh thủy thì sẽ vượng. Nếu thủy đi không về thì tiền của tiêu tán, là đất không vong, còn gọi là tử địa hoặc tuyệt địa. Vì thế cửa sông (thủy khẩu) là yếu tố quan trọng nhất của sinh vượng tử tuyệt.

Trong ngũ thường (long, huyệt, sa, thủy, hướng) thì:

– Long mạch (khí mạch) xa, lớn, mạch dài, uốn lượn có thể nghênh đón là cát mạch

– Huyệt bằng phẳng gọi là long thể ngăn khí, huyệt cát

– Sa cần tú lệ – đẹp đẽ

– Thủy chảy bao bọc bảo vệ huyệt là cát thủy. Nước chảy xung quanh huyệt là hữu tình.

– Hướng huyệt, tránh hướng Ngũ Quỷ, Tuyệt Mệnh, Họa Hại, Lục Sát; nên chọn hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị (Phúc Đức). Cách tìm hướng này có thể dựa theo công thức tính Quái số.

Ngũ bất táng: 5 loại núi kỵ đặt mộ

Ngũ bất táng còn gọi là ngũ hại, chỉ 5 loại núi không tụ khí, an táng sẽ bất lợi. Quách Phác trong sách Táng Thư viết: “Ngũ hại bất thân” ý chỉ 5 loại núi không nên an táng gồm: đồng sơn, đoạn sơn, thạch sơn, độc sơn, quá sơn.

1. Đồng sơn: Màu đất khô cháy, cây cỏ không mọc được, núi trọc. Núi như vậy thì đất khô, mạch kiệt, không thể sinh khí, vì vậy không nên chôn cất.

2. Đoạn sơn: Chỉ thế núi gãy ngang, sinh khí đi theo mạch đất; thế mạch gãy, sinh khí đứt đoạn, vì vậy không nên chôn cất.

3. Thạch sơn (núi đá): Ý nói đất kết huyệt không thể là vách núi cheo leo, hoặc núi đá nhô nổi. Đây là nơi oán khí trong núi đá sinh ra, đất nhiều sát khí vì vậy không nên an táng. Tuy nhiên, nếu chất đá mềm, vân đá ấm mượt, màu sắc tươi lại là cát địa.

4. Quá sơn: Thế núi không dừng, giống như lao đi, khí cũng giống như là khách ra đi do vậy mà sinh khí không còn. Những nơi như thế không nên an táng.

5. Độc sơn: Mạch long cô độc, núi không có thế bao bọc huyệt mộ, các dòng nước không tụ, không có núi Thiếu Tổ, núi Thái Tổ, núi Phụ Mẫu. Nơi như thế thì chỉ nên xây đền chùa, miếu mạo và không nên an táng.

28 điều kiện về huyệt mộ trong phong thủy học

28 yếu” là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca. Đó là 28 yêu cầu về long, huyệt, sa, thủy của huyệt mộ bao gồm:

1. Long phải sinh vượng nghĩa là long mạch phải dài, khí đến thì huyệt kết.

2. Long mạch phải nhấp nhô nghĩa là khí đi theo triền núi ở trong đất đến huyệt mộ, nếu không lên xuống sẽ bị đứt mạch khí và không đến được huyệt mộ.

3. Mạch phải nhỏ vì mạch lớn khí sẽ bị tản.

4. Huyệt phải tàng thì mới giữ được khí mạch, tàng phong.

5. Lai long phải gặp huyệt cát có nghĩa là long mạch phải gặp huyệt tàng phong đắc thủy thì huyệt mới kết phát.

6. Đường phải rộng, sáng, phẳng có nghĩa là minh đường phải rộng, sáng, phẳng thì mới giữ được khí, gió, thủy.

7. Sa phải sáng có nghĩa là gò Thanh Long, gò Bạch Hổ phải rõ ràng, sáng sủa.

8. Thủy phải đọng nghĩa là nước phải ngưng đọng, bao bọc huyệt mộ.

9. Sơn phải bao nghĩa là núi bao quanh huyệt mộ. Câu này có ý chỉ triều mộ và gò hướng mộ.

10. Thủy phải ôm là dòng nước chảy phải ôm huyệt mộ.

11. Long phải miên là gò Thanh Long “ngủ”, ý nói gò Thanh Long phải nhu thuận.

12. Hổ phải thấp có nghĩa là gò Bạch Hổ không được cao hơn gò huyệt.

13. Án phải gần có nghĩa Án Sơn phải ở gần huyệt mộ.

14. Thủy phải tĩnh tức là dòng nước phải trong, tĩnh lặng, không được chảy ồ ạt.

15. Tiền có quan ý chỉ trước mộ phải có tinh quan (gò nhỏ).

16. Phòng có thần là chỉ sau mộ phải có quỷ tinh (gò nhỏ).

17. Hậu có chẩm lạc nghĩa là sau mộ phải có gò nhỏ như chiếc gối.

18. Hai bên có giáp chiếu nghĩa là 2 bên mộ phải có gò nhỏ như 2 tai mộ để bảo vệ mộ.

19. Thủy phải giao là chỉ các dòng nước phải giao nhau và bao bọc lấy huyệt mộ.

20. Thủy Khẩu phải có gò che chắn là nói cửa sông phải như cái hom, nước vào không bị tản đi.

21. Huyệt phải tàng phong là chỉ huyệt phải được núi, gò bao bọc và có gió tụ ở bên trên huyệt.

22. Huyệt phải tụ khí là nói huyệt phải có núi, sông, gò bao bọc và có khí tụ.

23. Bát quốc không được khuyết có nghĩa là 8 hướng đều có núi và gò che chắn.

24. La Thành không được tản là chỉ các núi bao bọc như la thành không được tản mát.

25. Núi không được lõm chỉ các núi có long mạch và không được lõm, trũng.

26. Thủy không được phản cung ý chỉ dòng nước không được quay lưng vào huyệt mộ mà phải chảy bao quanh mộ.

27. Đường phải vuông vắn là chỉ minh đường phải vuông vắn, rộng lớn.

28. Núi phải cao là chỉ các núi như Thái Tổ Sơn, Thiếu Tổ Sơn, Phụ Mẫu Sơn, gò mộ, Án Sơn, Triều Sơn, gò Thanh Long, gò Bạch Hổ phải cao.

Tổ Sơn đắc thế, con cháu vinh hoa

Tổ Sơn còn gọi là Tổ Tông Sơn – núi Tổ, bao gồm Thái Tổ Sơn, Thái Tông Sơn, Thiếu Tông Sơn, hàm chỉ núi nơi phát nguồn của long mạch.

Thái Tổ Sơn là ngọn núi cao nhất của các mạch núi, là chúa của các núi trong vùng.

Thiếu Tổ Sơn là ngọn núi lớn sau Thái Tổ Sơn. Ngoài ra, nó có thể là 1 núi tổ tiếp theo Thái Tổ Sơn.

Trong phong thủy học, việc tìm long mạch và thế đất (tầm long vọng thế) trước tiên phải quan sát Tổ Sơn, bao gồm các núi nói trên. Trong tổ hợp núi đó, Thái Tổ Sơn được xem là quan trọng nhất vì mộ kết hay không là do long mạch sinh khí bắt nguồn từ núi này.

Hình thế Thái Tổ Sơn hùng vĩ, nhìn xa như cung điện nguy nga, tráng lệ, xung quanh có nhiều núi bao bọc, chủ long mạch vô cùng vinh hoa phú quý, kết huyệt thâm hậu.

Thiếu Tổ Sơn là quả núi quan trọng bổ sung khí cho long mạch. Nếu thế của Thiếu Tổ Sơn cong, lệch, vẹo, nghiêng, cô lộ, gầy phá, thô, ác thì không tốt. Đây là dấu hiệu khí không tụ, huyệt không kết.

Lưu Cơ trong sách Kham Dư mạn hứng nói: “Núi ở giữa huyệt mộ và Thái Tổ Sơn là Thiếu Tổ Sơn, cát hung của núi này liên quan đến việc ngưng tụ khí ở huyệt mộ. Núi đẹp, có thế hùng vĩ là cát; thấp nhỏ, cô lẻ là hung”.

Phụ Mẫu Sơn ở gần huyệt mộ, là cầu nối giữa núi tổ và huyệt mộ. Phụ Mẫu Sơn tuy to lớn nhưng không được cao hơn Thiếu Tổ Sơn. Nếu cao hơn thì long mạch gọi là thoái long, cho dù mộ kết nhưng cũng không được lâu dài, con cháu nghèo khổ.

Thập tiện: 10 loại địa hình xấu

Thập tiện là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca về 10 kiểu địa hình xấu, rất kỵ trong việc an táng.

1. Nhất tiện, bát phong xúy huyệt: Bát phong là gió từ 8 hướng thổi vào huyệt làm khí tiêu tán.

2. Nhị tiện, Chu Tước tiêu sách: là gò Chu Tước trước mộ vô tình, không triều bái, không nhảy múa.

3. Tam tiện, Thanh Long phi khứ: chỉ gò Thanh Long không ôm huyệt mộ có thế bay đi.

4. Tứ tiện, Thủy Khẩu phân lưu: nước ở cửa sông chảy đi không bao huyệt mộ.

5. Ngũ tiện, bãi đầu kiều vĩ: Bãi đầu là chỉ các núi không hướng về huyệt mộ; kiều vĩ là cong đuôi, ý chỉ dòng nước chảy đi không bao bọc huyệt mộ.

6. Lục tiện, tiền hậu xuyên phong: Tiền hậu chỉ gò Chu Tước, gò Huyền Vũ nhỏ và thấp hoặc không có gió thổi tản khí huyệt mộ.

7. Thất tiện, sơn phi thủy tẩu: chỉ núi không triều, nước không ôm huyệt.

8. Bát tiện, tả hữu giai không: không có gò Thanh Long, gò Bạch Hổ.

9. Cửu tiện, sơn băng thủy liệt: núi đổ, nước cạn.

10. Thập tiện, hữu chủ vô khách: Hữu chủ là có huyệt mộ; vô khách là không có án sơn, triều sơn.

Thập quý: 10 loại địa hình tốt theo phong thủy

Thập quý (10 loại địa hình quý) là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca. 10 kiểu địa hình đẹp về long huyệt, sa, thủy được coi là 10 kiểu đất sang để xây nhà, xây mộ và con cháu sẽ được giàu có, đó là:

1. Nhất quý, Thanh Long song ủng: Thanh long chỉ gò Thanh Long có gò Tùy Long cùng ôm huyệt mộ.

2. Nhị quý, Long Hổ cao tủng: Long Hổ, chỉ gò Thanh Long và gò Bạch Hổ; cao tủng tức là có thế cao nhưng không cao hơn gò huyệt mộ.

3. Tam quý, Hằng Nga thanh tú: Hằng Nga chỉ gò huyệt mộ (núi huyệt mộ); thanh tú nghĩa là đẹp.

4. Tứ quý, cờ trống viên phong: Cờ trống chỉ các ngọn núi có long mạch; viên phong có nghĩa là đầy đặn.

5. Ngũ quý, nghiên tiền bút giá: Nghiên tiền chỉ Án Sơn, Triều Sơn; thanh tú là chỉ 2 ngọn núi trên đẹp và cao như giá bút.

6. Lục quý, quan lộc phúc chung: Quan lộc là lộc quan; phúc chung là chỉ huyệt như chuông úp.

7. Thất quý, viên sinh Bạch Hổ: chỉ gò Bạch Hổ thuần nhu.

8. Bát quý, đốn bút Thanh Long: chỉ gò Thanh Long cao đẹp.

9. Cửu quý, bình phong tẩu mã: Bình phong là chỉ núi Huyền Vũ sau huyệt mộ, vuông cao, lớn phẳng; tẩu mã (ngựa phi), huyệt được che chắn.

10. Thập quý, Thủy Khẩu trùng trùng: Thủy Khẩu là chỉ cửa sông; trùng trùng có ý chỉ các dòng sông ôm huyệt mộ.
(Còn nữa) – Bài & Ảnh trích từ tái liệu sưu tầm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *