Mục lục bài viết
- 1 Tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ: Mạng lưới dịch vụ trong điện thờ
- 2 Đền Cô Bé Xương Rồng
- 3 Bài trí phong thủy bàn học cho trẻ: Món quà giá trị hơn tiền bạc của cha mẹ dành cho con
- 4 Hướng bàn làm việc hợp mệnh, hợp tuổi, giúp 12 con giáp dễ dàng mở cung Tài lộc và Công danh
- 5 TÁC DỤNG CỦA ĐĨA THẤT TINH Tác dụng của đĩa ngọc thất tinh bằng thạch anh
mười phương phật”
trời :
theo dân gian Việt Nam gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam,
Đông
Bắc và trung ương.
Người Trung Quốc cổ đại gọi chín phương trời là cửu
dã hay cửu thiên bao gồm trung ương và tám phương hướng – tức là tứ chính (bốn hướng chính:
Đông, Tây, Nam, Bắc) và tứ ngung (bốn góc: Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây
Bắc).
Thu (chương Hữu thủy lãm) đời nhà Tần, chín phương trời có tên gọi và vị trí như
sau:
Quân Thiên (quân: đều đặn, quân bình);
(2)
Phương Đông là Thương Thiên (thương: màu xanh biếc);
(3)
Phương Đông Bắc là Biến Thiên (biến: thay đổi);
(4)
Phương Bắc là Huyền Thiên (huyền: màu đen huyền);
(5)
Phương Tây Bắc là U Thiên (u: tối tăm, kín đáo, sâu xa);
(6)
Phương Tây là Hạo Thiên (hạo: sáng trắng);
(7)
Phương Tây Nam là Chu Thiên (chu: màu đỏ như son);
(8)
Phương Nam là Viêm Thiên (viêm: nóng, ngọn lửa);
(9)
Phương Đông Nam là Dương Thiên (dương: trái với
âm).
Nam Tử (chương Thiên văn) giải thích gần giống Lã Thị Xuân Thu, chỉ thay khác
nhau hai điểm: phương Đông Bắc là Mân Thiên (mân: bầu trời); phương Tây là Hạo
Thiên (hạo: sáng trắng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân
Thu).
Thích thiên) giải thích cũng hơi khác: Phương Đông là Hạo Thiên (hạo: rộng rãi,
lồng lộng; chữ Hán viết khác với Lã Thị Xuân Thu và Hoài Nam Tử), phương Tây là
Xích Thiên (xích: màu đỏ). Các phương còn lại thì cũng giống giải thích của hai
sách trên.
Dương Hùng chỉ liệt kê chín tầng trời (cửu thiên) là: Trung Thiên (Trung: ở
giữa); Tiện Thiên (tiện: dư thừa); Đồ Thiên (đồ: không có); Phạt Canh Thiên
(phạt: hình phạt; canh: thay đổi); Tối Thiên (tối: trọn một năm); Quách Thiên
(quách: tường thành bọc phía ngoài); Hàm Thiên (hàm: bao gồm tất cả); Trị
Thiên (trị: sửa sang, cai trị); và Thành Thiên (thành: thành tựu, làm
xong).
trời, đạo Lão quan niệm có chín tầng trời và gọi là: cửu trùng, cửu giai, cửu
tiêu, cửu thiên. Một thuyết cho rằng chín tầng trời
là:
Thiên ;
(2) Thượng Thượng Thiền Thiện Vô Lượng Thọ
Thiên;
(3) Phạn Giám Tu Diên Thiên ;
(4)
Tịch Nhiên Đâu Suất Thiên ;
(5) Ba
La Ni Mật Bất Kiêu Lạc Thiên ;
(6) Động Huyền
Hóa Ứng Thinh Thiên ;
(7)
Linh Hóa Phạn Phụ Thiên ;
(8)
Cao Hư Thanh Minh Thiên ;
(9) Vô
Tưởng Vô Kết Vô Ái Thiên .
Triết chủ biên, Đạo giáo văn hóa từ điển, Giang Tô Cổ Tịch xuất bản xã, 1994,
trang 82).
khi nói chín phương trời thường ngụ ý là trọn cả bầu trời, khắp nơi khắp
chốn.
Phật:
Phật . Mười phương (hay thập phương) gồm có Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông
Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên trời, dưới đất (hay trung
ương).
cho rằng thập phương không phải là mười phương mà hàm nghĩa tất cả mọi nơi. Nói
mười phương Phật hay thập phương chư Phật tức là chỗ nào cũng có Phật; Phật có ở
khắp nơi.
Phật
“Chín phương Trời mười phương Phật”. Cho nên kẻ thế lầm tưởng rằng Phật lớn hơn
Trời vì Trời chỉ có chín phương mà Phật lại mười phương. Lời nói cổ truyền ấy có
nghĩa là kẻ thế không tu luyện lúc lâm chung thần hồn sẽ xuất ra cửu khiếu thì
tất nhiên không vượt ra ngoài bầu trời đất đặng, vẫn còn trong vòng chín phương
Trời. Còn người có tu luyện, nhờ phép Ðạo vận chuyển khai phá Thiên Môn (Nê Hườn
cung) là cửa thứ mười, con đường duy nhất thẳng đến Thiên môn Phật cảnh; cho nên
đến lúc quy liễu giác hồn xuất ra nơi đó; nếu giác hồn xuất tại Thiên môn thì tự
nhiên thoát khỏi bầu Trời Ðất thẳng đền Phật phương. Từ nơi đơn điền mà muốn
vượt khỏi Thiên Môn, chơn thần phải vượt qua 3
cửa.
nhất: cung Khôn. Nơi đây có đường đi xuống mà không có đường đi lên.
Nếu không nhờ phép đạo vận hành càn khôn nghịch chuyển thì chỉ có phương giáng
hạ chứ không thể thăng thượng được.
bùng không nẻo qua rồi cũng phải nhờ phép chiết khãm điền Ly làm cho đường cốt
tủy thông thì chơn hồn mới lên cửa Thiên Môn
đặng.
ba: cung Càn. Cửa đóng then cài kín mít cũng nhờ phép đạo vận hành
biến Càn vi Khôn, chuyển Khôn thành Càn mà khai phá Thiên Môn, thông đồng Thái
Cực. Nhờ vậy, mà đến khi quy liễu, mới do con đường quen thuộc là cửa thứ mười
(phương Phật) mà quy nhứt bổn.
SAO GỌI LÀ MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT
phương chư Phật được giải thích theo 2
cách:
phương. Thập phương là: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây
Nam, phương trên, phương dưới.Ý của Thập
phương chư Phật là tất cả các vị Phật ở khắp mọi nơi trong càn khôn vũ
trụ
từng trời thứ 10, gọi là cõi cực lạc niết bànTrời có 36 tầng, dưới 36 từng trời còn có một từng nữa
là Nhứt mạch đẳng tinh vi gọi là Cảnh Niết Bàn.Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là 9
phương trời, cộng với Niết Bàn là 10, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi 9 phương
trời 10 phương Phật là do đó.
Bàn là chỗ Phật ngự: Phật Tổ ngự nơi hướng Tây, Quan Âm ngự nơi hướng Nam. Mỗi
từng đều có sơn xuyên hà hải, tứ phương bát hướng, liên đài hằng hà sa số Phật.”
Cảnh Niết Bàn là ở từng trời thứ 10, bên trên Cửu Trùng Thiên, do Đức Nhiên Đăng
Cổ Phật chưởng quản. Nơi từng trời thứ 10 nầy có: Ngọc Hư Cung ở tại trung tâm
và Cực Lạc Thượng Gioi ở hướng Tây nên cũng gọi là Tây phương Cực
Lạc.
ĐOẠN:
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay
ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông
cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật,
Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra
tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật
rằng:
“Chúng sanh các ngươi phải
nên tin kinh:
Xưng Tán Bất Khả
Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật-
Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật,
Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật…
Hằng hà
sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài
trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các
ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật
Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế
giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng
Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang
Phật…
Hằng hà sa số những đức
Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam
thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin
kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm
Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới
phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh
Phật, Võng-Minh Phật…
Hằng hà sa
số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm
khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi
phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ
Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới
phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật,
Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật…
Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước
mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời
thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư
Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm
Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật,
Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật,
Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật…
Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước
mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời
thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư
Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm
Này”.
PHƯƠNG
Một thời đức Thế Tôn trú tại chùa Trúc Lâm gần thành
Vương Xá. Vào buổi sáng Ngài đắp y mang bát đi khất thực. Lúc bấy giờ đức Thế
Tôn trông thấy thanh niên Sin Ga La lễ bái sáu phương đông nam tây bắc trên
dưới, Ngài hỏi tại sao làm thế. Sin Ga La trả lời: Khi thân phụ lâm chung nhắn
nhủ phải thường lễ bái sáu phương. Ðức Thế Tôn dạy rằng: Cách thức lễ bái
sáu phương trong đạo lý thánh hiền không giống như
vậy.
Thanh niên
Sin Ga La thỉnh cầu đức Phật giảng dạy đạo lý ấy. Ðức Phật dạy
rằng:
Nầy gia chủ,
Phương đông được hiểu là cha mẹ
Phương nam được hiểu là thầy tổ
Phương
tây được hiểu là người hôn phối
Phương
bắc được hiểu là bạn bè
Phương
dưới được hiểu là người giúp việc
Phương
trên được hiểu là sa môn (niết bàn, pháp đạo)
Nầy gia chủ,
đối với phương đông tức cha mẹ, người con nên làm năm việc:
Một là phụng dưỡng cha mẹ
Hai là
làm công việc thay cha mẹ
Ba là
gìn giữ gia phong
Bốn là khéo quản trị tài sản thừa kế
Năm là
tạo phước hồi hướng
Ðáp lại, đối
với con, cha mẹ nên làm năm việc:
Một là ngăn con không làm điều ác
Hai là
dạy con làm việc lành
Ba là
hướng dẫn nghề nghiệp
Bốn là
tác thành gia thất
Năm là trao tài sản thừa kế khi thích hợp
Ðó
là cách lễ bái phương đông tức đạo nghĩa cha mẹ con cái. Làm như vậy được an lạc
không gì lo lắng.
Nầy gia chủ, đối với phương nam tức thầy tổ,
người học trò nên làm năm việc:
Một là
giữ lòng kính trọng
Hai là quan tâm săn sóc
Ba là
chăm chỉ học hành
Bốn là đáp ứng khi cần
Năm là
hấp thụ những gì được truyền dạy
Ðáp lại, đối với trò, thầy nên làm năm
việc:
Một là dạy trò những chuyên môn của mình
Hai là
dùng phương pháp dễ hiểu
Ba là
không giấu nghề
Bốn là giới thiệu tiến thân
Năm là
bố trí an toàn cho trò
Ðó là cách
lễ bái phương nam tức đạo nghĩa thầy trò. Làm như vậy được an lạc không gì lo
lắng.
Nầy gia chủ,
đối với phương tây tức người hôn phối thì người chồng nên làm năm
việc:Một là đối xử hoà ái
Hai là
không bạc đãi khinh khi
Ba là
một dạ thủy chung
Bốn là giao quyền nội chính
Năm là
tùy khả năng mua sắm tư trang cho vợ
Ðáp lại, đối với chồng, người vợ nên làm năm
việc:
Một là quán xuyến công việc gia đình
Hai là
cư xử với hai họ một cách đồng đều
Ba là
một lòng tiết hạnh
Bốn là gìn giữ tài sản
Năm là
cần mẫn trong bổn phận.
Ðó là cách
lễ bái phương tây tức đạo nghĩa vợ chồng. Làm như vậy được an lạc không gì lo
lắng.
Nầy gia chủ, đối với phương bắc tức bạn bè nên làm năm
việc:
Một là
rộng rãi
Hai là nhã nhặn
Ba là
quan tâm lợi ích của bạn
Bốn là
đồng cam cộng khổ
Năm là thành thật
Ðáp lại, đối
với một bạn tốt, nên làm năm việc:
Một là cảnh giác bạn trước những cám dỗ
Hai là
giữ hộ tài sản khi bạn sa ngã
Ba là
làm nơi nương tựa cho bạn lúc sa cơ
Bốn là
không bỏ bạn lúc nguy biến
Năm là
cư xử tốt với người thân của bạn
Ðó là cách
lễ bái phương nam tức đạo nghĩa bạn bè. Làm như vậy được an lạc không gì lo
lắng.
Nầy gia chủ,
đối với phương dưới tức người giúp việc thì người chủ nên làm năm
việc:Một là không giao việc quá sức
Hai là
trả thù lao tương xứng
Ba là
chăm sóc khi đau yếu
Bốn là chia sớt món ngon vật lạ
Năm là
không bắt làm việc quá giờ
Ðáp lại, đối
với chủ, người giúp việc nên làm năm việc:
Một là thức trước chủ
Hai là
ngủ sau chủ
Ba là không lấy những thứ không cho
Bốn là
siêng năng làm việc
Năm là giữ tiếng tốt cho chủ
Ðó là cách
lễ bái phương dưới tức đạo nghĩa chủ tớ. Làm như vậy được an lạc không gì lo
lắng.
Nầy gia chủ,
đối với phương trên tức sa môn thì người cư sĩ nên làm năm việc:
Một là cử chỉ thân thiện
Hai là
lời nói thân thiện
Ba là tư tưởng thân thiện
Bốn là
luôn mở rộng cửa đón tiếp
Năm là
cúng dường tứ sự
Ðáp lại, đối
với cư sĩ, sa môn nên làm năm việc:
Một là
hướng dẫn cư sĩ xa điều ác
Hai là
hướng dẫn cư sĩ làm việc lành
Ba là
luôn cư xử với tâm từ ái
Bốn là
giảng giải đạo lý tường tận
Năm là
chỉ đường an vui đời sau
Ðó là cách
lễ bái phương nam tức đạo nghĩa tăng tục. Làm như vậy được an lạc không gì lo
lắng.Nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, thanh
niên Sin Ga La bày tỏ niềm hoan hỷ: Thật vi diệu, bạch đức Thế Tôn, Chánh Pháp
được giảng dạy như người lật lên những gì bị úp xuống, phơi bày những gì bị che
phủ, chỉ đường cho người lạc lối, đem ánh sáng vào chỗ tối. Con xin qui y Phật,
con xin qui y Pháp, con xin qui y Tăng. Xin Ngài nhận biết cho con là đệ tử từ
nay cho đến trọn đời.
phương trời, mười phương phật ta phải biết cách lạy Phật đúng nhất, lạy Phật
đúng cách đó là học và làm theo các lời Phật dạy, noi gương các đức tính tốt đẹp
của Phật mà làm theo.