Cách tính trùng tang theo quan niệm cổ nhân

Cách tính trùng tang theo quan niệm cổ
nhân

05/11/2011 07:07:16

Posted Image– LTS: Sau khi
KH&ĐS đăng 2 kỳ liên tiếp trên các số báo 127 và 128 lý giải hiện tượng
trùng tang, đã có nhiều chuyên gia, độc giả chia sẻ với tòa soạn về vấn đề này.
Lương y Vũ Quốc Trung (tập thể Sông Đà, Mỹ Đình, Hà Nội), người đã có nhiều năm
nghiên cứu về trùng tang cũng đã có bài viết gửi tới tòa soạn về vấn đề này.
Chúng tôi xin trích đăng để bạn đọc tham khảo (bài viết thể hiện quan điểm
riêng của chuyên gia).

Cách tính trùng tang
Từ xa xưa, dựa trên dịch
lý, cổ nhân đã xây dựng cách tính (xác định) trùng tang. Người xưa cho rằng đối
với người quá cố khi chết phải xem tình trạng ra đi có được “yên ổn”
hay không? Có gì oan khuất hay không, được thể hiện qua 3 nhóm biểu hiện trạng
thái vong linh của người đã khuất, đó là:
1. Nhập mộ: Yên ổn, đúng số, không có điều gì băn khoăn, oan ức… đóng ở các
cung THÌN – TUẤT – SỬU – MÙI.
2. Trùng tang: Chết thiêng, chết oan, còn vương vấn ở trần gian đóng ở các cung
DẦN – THÂN – TỴ – HỢI.
3. Thiên Di: Có ảnh hưởng xấu đến người thân đang còn sống ở các cung TÝ – NGỌ
– MÃO – DẬU.
Theo sách “Tam Giáo Chính Hội”: Nam nhất thập khởi Dần thuận liên
tiến, Nữ nhất Thập khởi Thân, nghịch liên tiến, Niên hạ sinh nguyệt, Nguyệt hạ
sinh Nhật, Nhật hạ sinh Thời. Ngộ Tý – Ngọ – Mão – Dậu Thiên di. Dần – Thân –
Tỵ – Hợi Trùng tang. Thìn – Tuất – Sửu – Mùi Nhập mộ cát dã. Cụ thể như sau:
Cách tính: Phải tính cả năm, tháng, ngày, giờ (niên, nguyệt, nhật, thời). Người
quá cố phải được ít nhất 1 nhập mộ mới có thể xem là giờ ổn. Nếu được càng
nhiều nhập mộ càng tốt (nhiều nhất là 4 nhập mộ).
Posted Image
Niên (năm): Người quá cố là nam, khởi từ cung Dần, đi theo chiều thuận kim đồng
hồ. Gọi cung Dần là 10 tuổi, cung Mão là 20 tuổi, cung Thìn là 30 tuổi… cứ
thế mỗi cung là 10 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ người quá cố, rồi cứ
tiếp mỗi cung là 1 tuổi cho đến hết số tuổi người quá cố. Người quá cố là nữ,
khởi từ cung THÂN, đi theo chiều ngược kim đồng hồ. Gọi cung Thân là 10 tuổi,
cung Mùi là 20 tuổi… cứ thế mỗi cung 10 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi
thọ của người quá cố, rồi tiếp mỗi cung là 1 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi
thọ của người quá cố. Nếu số đó trùng vào các cung THÌN – TUẤT – SỬU – MÙI thì
được niên nhập mộ, nếu các cung DẦN – THÂN – TỴ – HỢI thì bị trùng tang, vào
các cung TÝ – NGỌ – MÃO – DẬU thì bị thiên di.

Trường hợp người quá cố dưới 10 tuổi là nam thì cung Dần là 1 tuổi, cung Mão là
2 tuổi, cung Thìn là 3 tuổi… cho đến tuổi mất của người quá cố. Trường hợp
người quá cố dưới 10 tuổi là nữ thì cung Thân là 1 tuổi, cung Mùi là 2 tuổi,
cung Ngọ là 3 tuổi.. cho đến tuổi mất của người quá cố.
Nguyệt (tháng): Tháng giêng tiếp ngay vào sau cung tuổi. Thí dụ: Tuổi dừng ở
cung Ngọ thì tháng giêng ở cung Mùi (đối với nam) và tháng giêng ở cung Tỵ (đối
với nữ) cứ thế mỗi tháng tiếp 1 cung cho đến tháng mất của người quá cố. Nếu
vào THÌN – TUẤT – SỬU – MÙI thì được nhập mộ; Nếu vào DẦN – THÂN – TỴ – HỢI thì
bị trùng tang. Nếu gặp TÝ – NGỌ – MÃO – DẬU thì bị thiên di.
Nhật (ngày): Ngày mùng 1 tiếp vào ngay sau cung tháng, cứ thế tiếp mỗi ngày 1
cung cho tới ngày người quá cố qua đời và xem rơi vào nhập mộ, trùng tang hay
thiên di như trên.
Thời (giờ): Giờ Tý tiếp ngay sau cung ngày và mỗi cung là 1 giờ cho đến giờ
người quá cố qua đời và xem rơi vào nhập mộ, trùng tang hay thiên di như trên.
Nói chung được 1 nhập mộ trở lên là yên tâm, vì “nhất mộ sát tam
trùng” (một nhập mộ xoá được 3 trùng tang). Hoặc được 2 thiên di thì cũng
không lo vì “nhị thiên di sát nhất trùng” (2 thiên di xoá được 1
trùng tang). Nếu không có nhập mộ nào thì phải xem ngày mất của người quá cố có
phạm vào tam sa sát hay không? Theo người xưa và sách vở ghi chép lại thì:
Trùng tang Ngày là nặng nhất. Trùng tang Tháng là nặng nhì. Trùng tang Giờ là
nặng thứ ba. Trùng tang Năm là nhẹ nhất.

Quan niệm cổ về trùng tang
Nếu căn cứ vào phép tính trùng tang như trên thì cả nam và nữ những người chết
vào các tuổi (âm lịch): 10, 13, 16, 19, 22, 25, 28, 31, 34, 37, 40, 43, 46, 49,
52, 55, 58, 61, 64, 67, 70, 73, 76, 79, 82, 85, 88, 91… sẽ rơi vào trùng
tang. Từ đó quy nạp ngược lại theo hệ can – chi thì những người có tuổi: Tý,
Ngọ, Mão, Dậu nếu chết vào một trong các năm TÝ – NGỌ – MÃO – DẬU thì rơi vào
trùng tang; Hoặc: Dần, Thân, Tỵ, Hợi nếu chết vào một trong các năm DẦN – THÂN
– TỴ – HỢI thì rơi vào trùng tang; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu chết vào một trong
các năm THÌN – TUẤT – SỬU – MÙI có nghĩa là chết vào các năm “xung (tứ
hình xung) sẽ bị TRÙNG TANG (xem bảng).
Posted Image

Dưới góc độ của Dịch lý, trên cơ sở học thuyết Âm – Dương và Ngũ hành: Đồng khí
(đồng cực) thì đẩy nhau, khác khí (khác cực) thì hút nhau. Tương sinh thì tốt,
tương khắc thì xấu, đồng hành thì tị hoà. Vậy thì người chết vào những năm xung
(tứ hình xung) thì rất xấu nên bị TRÙNG TANG. Ví dụ: Người tuổi Mão (thuộc Mộc,
ở phương Đông) chết năm Dậu (thuộc Kim ở phương Tây) sẽ bị trùng tang vì Kim
khắc Mộc, Tây đối lập với Đông; Hoặc người tuổi Ngọ (ở phương Nam thuộc Hoả)
chết năm Tý (ở phương Bắc, thuộc Thuỷ) sẽ bị TRÙNG TANG vì Thuỷ khắc Hoả, Bắc
với Nam đối lập… Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy. Như vậy, việc xác
định trùng tang là dựa trên nguyên lý của dịch với học thuyết Âm dương – Ngũ
hành chứ không phải sự mê tín, tuỳ tiện.
Còn trong thực tế điều này có đúng hay không?

Tìm hiểu về “Cách tính Nhập mộ và Trùng tang”
Theo cổ nhân, sinh gặp giờ, ngày tốt xấu
ảnh hưởng tới vận mệnh bản thân còn giờ chết xấu, tốt ảnh hưởng tới con cháu.
Đồng thời dân gian cho rằng người chết vẫn luôn quanh quẩn phù hộ độ trì cho
cháu con nhưng gặp phải ngày giờ chết xấu hay gặp thần trùng thì ngược lại, hồn
lại về “bắt” con cháu song điều đó có thể “hóa giải” đwowcj
nhờ việc xem ngày chọn giờ làm các việc liên quan đến tang lễ. Do vậy, ngoài
việc xem thân nhân chết có “phạm giờ” không dân ta luôn chú ý nhờ thầy hay tự
tính giờ “Nhập mộ”, phòng “Trùng tang” nhằm trấn trùng, hóa giải.
1. Cơ sở tâm linh của việc xem ngày, giờ
chết:
Theo quan niệm của dân gian, sự chết
được tin là do linh hồn rời khỏi thể xác còn khoa học ngày nay xác định cái
chết bằng việc xác định sự ngừng hoạt động của 3 cơ quan là: Phổi, Tim và Não.
Nhưng cổ nhân cho rằng, Con người sống gồm hai phần là Hồn
và Thể Phách .
Hồn phách (H:
魂魄, A: The soul and astral body, P: L’âme
et corps astra, tức linh hồn và chơn thần) dùng thể xác làm nơi trú ngụ. Những
người già cả, chết tốt lành đúng số (
考終命,
khảo chung mệnh) thì hồn rời khỏi xác và không hiện về. Ngược lại một người rơi
vào tình trạng hồn rời khỏi xác mà phạm phải năm (tuổi), tháng, ngày hoặc giờ
xấu thì linh hồn không siêu thoát được về nơi cực lạc. Khi đó Xác thì trong Mộ
mà Hồn của Vong lại lang bang ở ngoài, không nơi không chốn nương nhờ cứ quanh
quẩn nơi người thân và bị “ma xui, quỷ khiến” bắt người thân đi.
Phật gíao coi sự chết là Tử (zh. sĭ , ja. shi, sa., pi. maraa), là sự sinh diệt, thăng trầm của tất cả các hiện tượng, các
Pháp. Sự sống và sự chết của con người hay của chúng sinh đều theo luật: Thành
(
, hình thành), Trụ (, tồn tại duy trì), Hoại (, hư hỏng), Không (,
tiêu mất). Đó chính là quy luật tiến hóa của vũ trụ trong cái vòng
Trường Sinh.
Trong Tử Vi có ba vòng quan trọng cần để
ý là vòng Thái Tuế (an theo Chi năm sinh, Ðịa Chi), vòng Lộc Tồn (an
theo Can năm sinh, Thiên Can
) và vòng Trường Sinh (an theo Cục, nghĩa là
nạp âm của cung an Mệnh
). Ở một khía cạnh nào đó, vòng Trường Sinh tiêu
biểu cho Mệnh, vòng Lộc Tồn cho Thân và Vòng Thái Tuế cho Hạn.
Theo các sách cũ, vòng Tràng Sinh gồm có
12 sao: Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ,
Tuyệt, Thai, Dưỡng. Khi an vào Địa Bàn, vòng Trường sinh đi liên tục thành một
vòng luân hồi phản ánh một đời người bao gồm 12 Kỳ của quá trình sống từ sinh
ra đến chết cũng như từ lúc hấp hối đến lúc đầu thai sang kiếp khác:
BẢNG 12 GIAI ĐOẠN VÒNG TRƯỜNG SINH:
GIAI ĐOẠN
CUỘC SỐNG
SỰ CHẾT
Trường Sinh
Con người được sinh ra
Người sống thành thi xác
Mộc Dục
Còn bé cần được chăm bẵm
Mới chết cần được tắm rửa
Quan Đới
Đi học, được dạy dỗ
Được khâm liệm
Lâm Quan
Đi làm, lập danh vọng
Được nhập vào áo quan
Đế Vượng
Cực thịnh về công danh, tiền
Được kèn trống nổi lên
Suy
Chuẩn bị nghỉ việc
Được người nhà khóc thuơng
Bệnh
Nghỉ hưu, ốm đau
Hồn cỏng vảng vất
Tử
Tắt thở
Hồn lìa xác
Mộ
Chôn cất, mồ mả
Hồn, Xác nhập vào lòng đất
Tuyệt
Dứt cuộc sống trần tục
Phần mền thi xác rữa nát
Thai
Đầu thai kiếp khác
Hồn đầu thai nơi khác
Dưỡng
Trong bụng Mẹ
Dưỡng dục thai nhi
Trong 12 thời nói trên, khi ứng dụng cho
tang ma, quan trọng nhất các kỳ:
– Mộc dục với việc Tắm rửa cho người
chết trước khi khâm liệm;
– Quan Đới, Lâm Quan: Khâm liệm, đặt vào
quan tài mà phát tang;
– Mộ với việc đưa người chết về nơi “cư
ngụ” mới của họ.
Dựa vào việc xác định ngày, giờ nào hợp
với Kỳ nào của vòng trường sinh, có thể định giờ khâm liệm, phát tang, chôn cất
cho phù hợp. Việc tính Nhập mộ, Trùng tang cũng vậy.
2. Khái niệm về Trùng tang:
Tồng kết kinh nghiệm, cổ nhân cho rằng
trong thực tế, với mỗi người chết sẽ xẩy ra các trường hợp như sau:
Thiên di: nếu ở Cung :
Tý – Ngọ – Mão – Dậu : là dấu hiệu có sự di dời hình thức tồn tại do trời định,
là lúc “trời” đưa đi. Dự báo con cháu sẽ phải chia ly, tài sản phân
tán, tranh chấp kiện tụng.
Nhập mộ: khi gặo Cung :
Thìn – Tuất – Sửu – Mùi. Là dấu hiệu phải “ra đi”, “nằm
xuống” vĩnh viễn, không còn liên quan gì đến trần ai. Dự báo vong chết
không phạm trùng tang. mãn kiếp sa bà, con cháu làm ăn thịnh vượng, phát tài ,
sai lộc.
Trùng tang: nếu gặp các
Cung: Dần – Thân -Tỵ – Hợi, Là dấu hiệu “ra đi” không hợp số phận,
không dứt khoát, hãy còn “ảnh hưởng” tới trần ai.Dự báo sẽ có người
thân chết theo.
Như vậy, “Trùng tang
là tình trạng trong thời gian chưa mãn Đại Tang, hoặc chưa mãn tang bà con gần,
lại tiếp theo 1 cái đại tang hoặc 1 cái đại tang gần khác”. Hoặc có thể
gọi trùng tang là tang chủ phải mang ít nhất 2 vòng khăn tang trong cùng một
thời điểm. Trong nhà, người thân vừa nằm xuống lại có nguy cơ liên táng là đáng
lo ngại. Dân gian cho rằng trùng tang là người qua đời gặp ngày giờ xấu, cần
hoá giải để tránh nguy cơ. Trong đó:
– Trùng tang ngày là nặng nhất (Tam
xa-7 người chết theo
),
– Trùng tang Tháng là nặng nhì (Nhị
xa-5 người chết theo
),
– Trùng tang Giờ là nặng thứ ba (Nhất
xa-3 người chết theo
),
– Trùng tang Năm là nhẹ nhất.
3. Chú ý khi tính Nhập mộ, Trùng tang:
Sách Tam giáo Chính Hội viết: “Nam
nhất Thập khởi Dần, thuận liên tiến, Nữ nhất Thập khởi Thân, nghịch liên tiến,
Niên hạ sinh Nguyệt, Nguyệt hạ sinh Nhật, Nhật hạ sinh Thời. Ngộ Tý – Ngọ – Mão
– Dậu Thiên di. Dần – Thân – Tỵ – Hợi Trùng tang. Thìn – Tuất – Sửu – Mùi Nhập
mộ cát dã
”. Nếu được Tứ nhập mộ thì tránh được trùng tang.
Điểm khởi đầu và thứ tự bấm Cung của Nam
và Nữ khác nhau:
* Nam giới: Từ cung Dần
khởi thuận chiều kim đồng hồ tính theo thứ tự Dần – Mão – Thìn – Tỵ – Ngọ – Mùi
– Thân – Dậu – Tuất – Hợi – Tý – Sửu. Nghĩa là: 10 tuổi tại cung Dần, tiếp 20
tuổi tại Mão, 30 tại Thìn, 40 tại Tỵ, Ngọ: 50 tuổi, Mùi: 60 tuổi, Thân: 70
tuổi, Dậu: 80 tuổi, Tuất: 90 tuổi…
* Nữ giới: Từ cung Thân
khởi đi theo chiều ngược kim đồng hồ, theo thứ tự sau: Thân – Mùi – Ngọ – Tỵ –
Thìn – Mão – Dần -Sửu – Tý – Hợi – Tuất – Dậu. Nghĩa là : 10 tuổi vào cung
Thân, tiếp cung Mùi: 20 tuổi, cung Ngọ: 30 tuổi, cung Tỵ: 40 tuổi, cung Thìn:
50 tuổi, Mão: 60 tuổi, Dần: 70 tuổi, Sửu: 80 tuổi, Tý: 90 tuổi…
* Đồng thời cứ được 1 Nhập mộ trở lên là
yên tâm, vì “nhất mộ sát tam trùng” (một Nhập mộ xoá được 3 Trùng tang).
Hoặc được 2 Thiên di thì cũng không lo vì “nhị thiên di sát nhất trùng” (2
Thiên di xoá được 1 Trùng tang
).
4. Cách tính Nhập mộ:
Có 4 bước tính theo thứ tự:
Năm-Tháng-Ngày-Giờ:
Niên nhập mộ: khởi đầu 10 tuổi từ Dần với đàn ông
theo chiều Thuận chiều kim đồng hồ; đàn bà khởi đầu từ Thân và Ngược chiều kim
đồng hồ. Khi hết tuổi tròn chục các năm lẻ tính vào cung tiếp theo đến tuổi năm
người đó mất. Nếu vào cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được năm nhập mộ.
Nguyệt nhập mộ: tháng Giêng năm mất được bấm liền vào
sau cung tuổi cho đến tháng chết. Nếu gặp cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được
tháng nhập mộ.
Nhật nhập mộ: mồng Một tháng mất được bấm liền vào
sau cung tháng cho đến ngày chết. Nếu gặp cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được
ngày nhập mộ.
Thời nhập mộ: giờ Tý ngày mất được bấm liền vào sau
cung ngày cho đến giờ chết. Nếu gặp cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được giờ nhập
mộ.
Nếu cả năm, tháng, ngày, giờ đều vào một
trong các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là được “Tứ nhập mộ”, tốt, tránh được lúc
chết vướng phải giờ xấu.
5. Cách tính Trùng tang:
Có 2 cách tính Trùng tang:
– Thứ Nhất, Trùng tang có thể là thời
gian lúc mất, trùng năm (như người tuổi Dần mất năm Dần), trùng ngày (như
người tuổi Sửu mất ngày Sửu
), trùng giờ (như người tuổi Ngọ mất giờ Ngọ).
– Thứ Hai, là cách tính Trùng tang theo
Địa Chi giống như tính Nhập mộ kể trên.
Lập Bảng sau dễ nhớ và theo 4 bước:
* Đầu tiên tính tuổi chết theo chẵn chục
(10, 20…) khi hết tuổi chẵn tính tiếp các tuổi lẻ theo thứ tự 1,2,3…đến
tuổi mất, tính đến đâu thì ghi lại cung đó;
* Sau đó tính tiếp đến tháng chết vào
cung ngay sau cung tính năm, khởi từ tháng Giêng, ghi lại cung đó;
* Rồi tính tiếp đến ngày chết vào cung
ngay sau cung tính tháng khởi từ ngày mùng 1, ghi lại cung đó;
* Sau cùng đến giờ chết vào cung ngay
sau cung tính ngày khởi từ Tý, ghi lại cung đó. Chú ý giờ âm lịch chỉ chia một
ngày ra 12 giờ: Tý (23-01 giờ), Sửu (01-03 giờ)…Hợi (21-23
giờ
).
Sau khi tính xong thì kết luận.
6. Tổng hợp lại:
Nếu căn cứ vào phép tính Trùng tang như
trên thì cả nam và nữ những người chết mà có tuổi âm lịch (=năm Dương lịch
hiện tại – năm sinh theo Dương lịch + 1
) bằng: 10, 13, 16, 19, 22, 25, 28,
31, 34, 37, 40, 43, 46, 49, 52, 55, 58, 61, 64, 67, 70, 73, 76, 79, 82, 85, 88,
91… sẽ rơi vào trùng tang. Từ đó quy nạp ngược lại theo hệ Can Chi thì những
người có tuổi:
– Tý, Ngọ, Mão, Dậu nếu chết vào một
trong các năm TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU thì rơi vào trùng tang;
– Hoặc: Dần, Thân, Tỵ, Hợi nếu chết vào
một trong các năm DẦN, THÂN , TỴ, HỢI thì rơi vào trùng tang;
– Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu chết vào một
trong các năm THÌN – TUẤT – SỬU – MÙI có nghĩa là chết vào các năm “xung” (tứ
hình xung
) sẽ bị trùng tang.
7. Cách hoá giải Trùng tang:
Dân gian cho rằng trùng tang là người
qua đời gặp ngày giờ xấu, cần hoá giải, làm cho người “ra đi” không
còn “khả năng” gây “ảnh hưởng” xấu đến người thân thiết
đang sống.
Tìm 1 bộ bài Tổ tôm cũ (tức là đã
chơi cũ rồi
) bỏ mấy con Bát sách đi, số còn lại lấy rải đều ở 4 góc quan
tài trong lúc đang liệm.
* Dùng bộ bài Chắn gồm 120 quân bỏ 20
quân Yêu đi, tức là bỏ bộ Nhất và bộ Nhị, chứ không bỏ Bát sách. Kèm theo là 1
cuốn lịch Tàu hoặc bộ sách Trương Thiên Sư, và bộ Bùa trùng tang.
* Sau khi tính ra người mất bị phạm
trùng tang thì những người thuộc tam hợp chi cùng với chi trùng tang phải tránh
mặt lúc liệm xác. VD: trùng tang tại Tị, vậy tam hợp của Tị là Dậu và Sửu bị
phạm. Những người thuộc tam hợp tuổi với người mất bị trùng tang phải tránh .
VD: người mất tuổi Hợi thì tam hợp Mão Mùi bị phạm. Ngoài tránh mặt lúc
“liệm” thì còn cần phải tránh cả lúc “nhập quan”,
“đóng cá” và đặc biệt là cả tránh lúc “hạ huyệt, lấp đất”.
* Trước khi liệm: Dùng 6 lá Linh phù Lục
tự Đại minh (OM MANY PADME HUM) có kích thước 31 x 10.5 cm viết theo chiều dọc
từ trên xuống dán vào thành trong của quan tài tại đầu, chân, hai bên vai, hai
bên hông. Những Linh phù này có tác dụng trấn tà khí của Linh hồn. Khi chôn:
Vong Nam 7, Vong Nữ 9 quả trứng vịt đã luộc chín, để trên nắp quan tài trên
vùng bụng, dùng một cái niêu đất úp lên trứng, sau đó lấp đất. Cách này dùng để
thu nốt những Tà khì còn sót lại. Lưu ý Linh phù được viết trên giấy vàng chữ
đỏ.
* Sau khi chôn người ta lại dùng 108 cọc
tre đực dóng trên mộ, 36 cọc tre hoá đóng ở nhà. Trên mộ cột thêm 1 con quạ
hoặc gà mái đen.
* Một số người còn cho rằng có thể áp
dụng phương pháp làm huyệt giả, đổ tỏi vào huyệt khi lấp đất hay dùng thần chú,
Bát quái trận đồ trấn âm trạch để hoá giải…
* Trùng nặng thì người ta dùng con cóc
màu vàng đang chửa để luyện thành thần tướng hộ vong.
* Trường hợp nặng hơn thì người ta dùng
bộ gạo nếp nặn thành 12 ông thần trùng, sau khi làm phép thì dùng dao chặt đầu
rồi nặn thành 1 hình nhân, dùng quan tài bằng lúc lác tẩm liệm rồi dùng 1 quả
trứng vịt cắm 13 cây kim, đoạn dùng bè chuối; chọn giờ thiên giải thì thả xuôi
ra sông.
Nhưng thực ra, “sống” và “chết” chỉ là
hai hiện tượng trong tiến trình luân hồi bất tận. Vì thế, về “trùng tang” có lẽ
là do tâm tưởng. Nên chuyện hoá giải trùng tang cũng là gỡ đi sự lo lắng trong
tâm tưởng của con người. Nhưng tập tục này ăn sâu vào tâm thức mọi người nên
không một ai dám coi nhẹ. Do vậy nếu việc xem, trấn yểm, hóa giải không qua
phiền phức, tốn kém, vi phạm pháp luật thì cũng không nên gạt bỏ. Âu cũng là
một việc tích đức, tu thiện

Âm Dương lưỡng lợi
càng hay!.
(Biên soạn từ nhiều nguồn để dùng trong
gia tộc)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *