Bí ẩn ngôi mộ thủy tổ nước Việt bên sông Đuống


ẩn ngôi mộ thủy tổ nước Việt bên sông Đuống
Rất
nhiều người không biết rằng ngay trên đất nước ta có ngôi mộ Kinh Dương Vương,
thủy tổ nước ta. Ngôi mộ đó hiện nay nằm bên bờ sông Đuống, thuộc địa phận thôn
Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh.
Mộ
giản dị, đắp trên một gò đất nhìn ra bờ sông, xung quanh là những cây cổ thụ
quanh năm xanh tốt. Nhân dân không xây thành lăng, mà chỉ xây cao lên bằng gạch
cổ, có mái nhỏ che mưa nắng. Rêu xanh màu thời gian. Các nhà nghiên cứu cho rằng
đây là ngôi mộ cổ do nhân dân chọn địa thế đẹp, có tụ khí phong thủy, dựng lên
như một biểu tượng.
Điều
quan trọng là ngôi mộ nằm ở đúng một trung tâm thời dựng nước đã từng là một
thánh địa do chính Kinh Dương Vương chọn, trên đường đi kinh lý, qua trang Phúc
Khang, bộ Vũ Ninh (nay là thôn Á Lữ), nhận ra thế đất quý, có tứ linh long, ly,
quy, phượng, có sông núi bao quanh, rồng chầu, hổ phục. Ngài đã đem những cư dân
Việt cổ quy tụ về lập nên những xóm làng đầu tiên.
Vùng
đất Phúc Khang bắt đầu trỗi dậy sức sống Việt, và trở thành vùng đất mang tinh
hoa Việt, sau là vùng Luy Lâu nổi tiếng cho đến ngày nay. Ngài còn cho xây nhiều
hành cung ở chốn này để quy tụ những hiền tài khắp vùng luận bàn việc non sông
xã tắc (theo tác giả Nguyễn Thế Bình).
Theo
truyền thuyết, Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam
đến núi Ngũ Lĩnh (Hồ Nam, Trung Quốc), đóng tại đó rồi lấy con gái bà Vụ Tiên
sau đó sinh được một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Sau
Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc, và phong cho
Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương.

 
                                                       
Đền
thờ Kinh Dương Vương
Theo
sử sách nước Việt thì Kinh Dương Vương làm vua và cai trị từ khoảng năm 2879 TCN
cách đây 4892 năm. Địa bàn quốc gia dưới thời Kinh Dương Vương rộng lớn, phía
Bắc là miền đồng bằng thuộc lưu vực sông Dương Tử giáp hồ Động Đình, phía Nam
giáp Lâm Ấp (Chiêm Thành cũ), Tây giáp Ba Thục, Đông giáp biển Đông. Ngay cái
tên Kinh Dương Vương đã phản ánh vùng miền nói trên: Kinh là châu Kinh, Dương là
châu Dương (nay thuộc Trung Quốc).
Kinh
Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sau này
Sùng Lãm kế vị, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con
của Đế Nghi), tên là Âu Cơ.
Huyền
thoại Âu Cơ sinh trăm con trai, bắt nguồn từ một sự thật là vùng đất sinh ra
người con gái xinh đẹp hiền hòa làm vợ Lạc Long Quân thuộc địa phận quận Ích
Dương thời xưa có nhánh sông Âu Giang, nơi sinh sản giống chim Âu, có hàng đàn
chim Âu bay lượn trên trời. Nhân dân lấy tên chim Âu đặt tên cho
nàng.
Chim
Âu đẻ trứng. Người đời sau lấy việc đẻ trứng của chim Âu làm hình ảnh triết học
để tả vị quốc mẫu Âu Cơ đã sinh ra các thế hệ “trăm họ” về sau mang tên “Bách
Việt”. Cứ theo truyền thuyết trên thì vua Hùng đầu tiên là cháu nội của Kinh
Dương Vương. (theo các tác giả Lê Quang Châu, Hoàng Tuấn, Nguyễn Thế
Bình).
Giáo
sư Lê Quang Châu biệt hiệu Hồng Nguyên Tử ngồi chơi bên bờ sông Đuống, dưới chân
mộ tổ, kể rằng: Trẻ con nước ta có trò chơi, bắt đầu từ bài đồng dao “Chi chi
chành chành. Cái đanh thổi lửa. Con ngựa chết trương. Ba vương ngũ đế. Chấp chế
đi tìm. Ú tim bắt được. Ù à ù ập!”.
Xin
giải mã bài đồng dao như sau: Chi chi là chi nọ (trong một tộc họ) nối chi kia.
Chành chành là nếu không có chi kế tiếp thì “chành” sang họ trực hệ hoặc đồng
tông. “Cái đanh thổi lửa” là biểu hiện thời cổ xưa có ông Toại Nhân dùng dùi đá
lấy lửa.
“Con
ngựa chết trương” là hình ảnh chuyện nhân vật Hiên Viên phản vua Thần Nông, giết
vua và mười bốn người, cướp ngôi, tự xưng chính mình là hậu duệ, phạm vào lời
nguyền “Bắc Nam không xâm phạm nhau”, gây nên cảnh “người và ngựa chết trương
đầy đồng nội”.
“Ba
vương Ngũ đế”, nói trước về ngũ đế là năm vị tổ của Kinh Dương Vương gồm Đế
Thiên (Phục Hy), Đế Thích (Thần Nông), Đế Khôi (Viêm Đế, viêm là lửa), Đế Tiết
(Hoàng Đế, vị vua đã phạm lời nguyền), Đế Thức (Thần Đế). Ba vương là ba vua anh
em ruột dòng dõi Đế Thức: Vua Minh, vua Lai và vua Long Cảnh. Vua cả tên Minh đã
đặt tên nước ta thời ấy là Xích Quỷ, xích là đỏ, màu lửa để chỉ rằng đây là dòng
dõi của Viêm Đế, quỷ là một trong 28 ngôi sao, tượng trưng phương nam (không
phải quỷ là ma quái).
“Chấp
chế đi tìm” kể từ Ba vương ngũ đế đã chấp nhận đi tìm một thể chế để có thể xây
dựng cơ đồ bền vững. “Ú tim bắt được”, bắt được chế độ liên hiệp trăm họ lại,
tạo dựng nên nhà nước Văn Lang. “Ù à ù ập” là tán thán từ tỏ dấu hiệu vui
mừng.

Đây
là trò trẻ con chơi đã mấy nghìn năm, nó là cách người Việt ta ghi nhớ chuyện cổ
sử. “Uống nước nhớ nguồn” là như thế.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *