PHÚ TỬ VI THÔNG THƠ (683 câu)

1. MỆNH VIÊN

Một là bàn đến Mệnh viên.
Cứ sao thủ Mệnh đoán nên tính tình.
Tử Vi trọng hậu dung hình.
Thiên Phủ tiết hạnh, thông minh ôn hòa.
Hai sao đều gặp một nhà.
Thiên tư ôn nhuận thiệt là tốt ghê.
Lòng lành tính gặp Thiên Cơ.
Vũ Tinh nhập miếu, anh kỳ tài năng.
Thái Âm viên mãn ai bằng.
Thiên Đồng phì mãn, tính hằng ôn lương.
Phá, Liêm to nhỏ khác thường.
Tính tình cương trực, kết đường tà gian.
Thiên Lương từ hậu dung nhan.
Sát – Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng.
Tham Lang tính bẩm thung dung.
Say miền gái đẹp, rượu nồng mùi ngon.
Thái Dương tính khí thực khôn.
Thanh kỳ bậc nhất, tư lương khác thường.
Kìa như Văn Khúc, Văn Xương.
Tư nhiên khả ái, thông đường văn chương.
Cự Môn tính khí bất thường.
Hể khi xử sự, tìm đường đảo điên.
Thiên Tướng, lòng thẳng mặt hiền.
Thiên tư mỹ lệ: Khoa – Quyền hẳn hoi.
Thanh bần ấy thật Việt, Khôi.
Lại gia Thai – Phụ là nòi khoan dung.
Phụ – Bật tuấn tú vốn dòng.
Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không.
Phụ – Bật đơn thủ Mệnh cung.
Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà.
Phượng – Long đều hợp Mệnh ta.
Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay.
Tuế – Riêu họa xướng ư lời.
Nhận – Hư, lòng gió là người sai ngoa.
Mây mưa ấy thật Đào Hoa.
Lông kia đỏ kệch, Kỵ – Đà xấu trông.
Trán đen, tính nóng, Kiếp – Không.
Hỏa, Linh mặt mũi hình dung bi sầu.
2. PHỤ MẪU CUNG

Số hai Phụ Mẫu kể tường.
Âm, Dương, ngộ hãm là đường khắc xung.
Hãm Dương, khắc phụ đã xong.
Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai.
Hổ, Tang, Thái Tuế cùng bầy.
Lưu Dương lại gặp đoán rày khắc cha.
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa.
Thiên Hình – Tuần Triệt mẹ cha mất rồi.
Cáo, Phong có chức, có ngôi.
Khúc – Xương, Thái Tuế thì người cũng sang.
Khôi – Khoa phát đạt hoa tràng.
Khôi – Quyền chính chướng đường đường tốt thông.
Thanh bần ấy phải Hóa – Không.
Nhược bằng Lộc – Mã phú ông ai tày.
Phụ Mẫu cung đã đoán bầy
Đoán từng phần một, cốt hay tại người.
3. PHÚC ĐỨC CUNG

Số ba Phúc Đức kể liền.
Lộc – Quyền đóng đó trong miền bản cung.
Ở đời vinh hiển đã xong.
Kiếp – Không ở đấy bần cùng khốn thay.
Nay đây mai đó càng hay.
Lại xem cung ấy sống rày được bao?
Đồng – Lương – Tử – Phủ bốn sao.
Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn.
Âm – Dương – Xương – Khúc – Lộc Tồn.
Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh trần.
Thọ thì được ngoại thất tuần.
Miếu thì thong thả, hãm thì tân toan.
Liêm – Cự ta lại phải bàn.
Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm la.
Việt – Khôi – Tả – Hữu – Quyền – Khoa.
Lộc – Tham – Đế Vượng thật là Tràng Sinh.
Đà La – Dương Nhận – Hỏa Linh.
Vào thì ba bốn rành rành, chẳng sai.
Kiếp – Không – Hư – khốc cùng bầy.
Thiên Hình – Hóa Kỵ mới loài bạch tang.
Nhị Phù tổn thọ một phương.
Thật là lạc mộ , nên dường chẳng sai.
Sát – Liêm – Tứ Sát cùng bầy.
Đoán làm bần yểu xưa nay rõ ràng.
Cao thanh, Thọ – Quý – Ân – Quang.
Những là sao ấy thọ tràng kỳ di.

Tuế – Phá lạc hãm một âu.
Tiếng tăm như sấm ra màu vẽ vang.
Kìa như nói chẳng hé răng.
Thiên Hình đơn thủ chốn đằng Mệnh cung.
Lộc – Mã khéo kiêm nàn nồng.
Phúc – Tấu bá đạo, mong trông một lòng.
Hoa Cái má phấn lưng ong.
Hỉ Thần dài giọng, tâm hung, tràng đầu.
Triệt Không tính những chẳng âu.
Hung trung vô định ra màu gian nan.
Tuế – Tham trong dạ đa đoan.
Kỵ – Riêu tửu sắc, một đoàn ngao du.
Hổ – Tang chẳng việc mà lo.
Quan Phù – Điếu Khách hay phô rộng lời.
Lưỡng – Hao nhỏ nhặt hình người.
Phi Liêm tóc tốt, có tươi mà dầu.
Quý – Ân phong độ trượng phu.
Chẳng hay quân Tử hình thù cũng xinh.
Tướng Quân chỉ thích dụng binh.
Bệnh Phù đới tật trong mình chẳng không.
Cô – Quả thiết kỵ riêng lòng.
Tràng Sinh, Đế Vượng vốn dòng thiện lương.
Đào Hoa – Mộc Dục điểm trang.
Lâm Quan tính khí dịu dàng, tinh anh.
Mộ thì chẳng được thông minh.
Thai hay mê hoặc lại hay tha tùng.
Triệt mà gặp được Kim cung.
Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần.
Tuyệt phùng hỏa địa một khi.
Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung.
Kìa Suy – Bệnh – Tử ba dong.
Gặp vào nước ấy, ai dùng ? ai màng?
Hóa – Lộc tính khí dịu dàng.
Bác Sĩ tính nết tìm đường tư hoa.
Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa.
Lộc Tồn đôn hậu, thiệt là quy mô.
Phá Quân tâm tính hồ đồ.
Kiếp – Sát xử sự ba đào mênh mông.
Xem trong nhân tính đã xong.
Lại tính cho thấu các cung Ngũ Hành.
Tường chân tính, nhận chân hình.
Chẳng nên chấp nhất, lựa mình mà suy.
Ví như thuộc Thổ Tử Vi.
Tính trì mà gặp Hỏa thì lại nhanh.
Thiên Phủ vốn tính hòa lành.
Song gặp Không – Kiếp thời rằng khắc thâm.

Lại lấy Thân, Mệnh mà suy.
Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương.
Đã xem hưởng thọ đoán tường.
Lại xem Phúc Đức đoán phương âm phần.
Tràng Sinh chính phát thập phần.
Gặp sao Quan – Phúc – Quý thần chầu trong.
Phúc – Liêm nội ngoại thung dung.
Khoa – Quyền – Xương – Khúc vốn dòng văn gia.
Vũ – Tham mà gặp Hóa Khoa.
Ấy là đất phát để ra anh hùng.
Cự Môn – Lộc – Lộc tương phùng.
Đoán rằng phú quý gia phong đời đời.
Này là đoán trước mấy lời.
Được đất nằm nghiệm chẳng sai đâu là.
Lại xem hướng mạch kể ra.
Trước lấy khởi tố ấy là Tràng Sinh.
Thanh Long lấy làm long hành,
Đến đâu nhập thủ xem hình chiếu lâm.
Phải lấy chi tự (Địa chi) phân kim.
Xem cho chuẩn đích đoán tìm mới ngoan.
Trước có Dương Nhận – Hồng Loan,
Nga mi tác án yên bàn chẳng sai.
Thanh (Long) Hồng (Loan) là thủy nhập hoài.
Tùy cung mà đoán cho người mới thông.
Lại như Vũ – Khúc – Triệt – Không.
Lấy làm hành lộ khuỳnh khuỳnh trước sau.
Kìa Long với Hổ lai chầu
Xem bên Tả, Hữu mới hầu luận xong.
Bên tả có sao Thanh Long.
Lấy làm Long thủy chầu vòng tả biên.
Bên hữu Bạch Hổ đã yên.
Lấy làm Hổ thủy chầu bên hữu này.
Lại xem tinh tú yên bầy.
Thái Dương – Vũ – Tướng cùng rầy Phá Quân.
Khoa – Quyền – Khôi – Việt tinh trần,
Lấy làm dương mộ mười phần chẳng sai.
Còn như đoán mả đàn bà,
Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời.
Tử – Phủ, Tổ mộ chẳng sai.
Lạc nhàn thì đoán xa đời mà thôi.
Thiên Cơ dương tổ sáu đời
Vũ năm Đồng tứ chẳng sai chút nào.
Liêm Trinh bảy tám đời cao.
Thái Dương là bố lẽ nào chẳng tin.
Cha còn thì đoán ông liền,
Ấy là dương mộ đoán miền dương tinh.

Thiên Phủ viễn tổ đã đành.
Tham sáu, Cự bảy Lương rành tám thôi.
Phá Quân – Thất Sát xa đời.
Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà.
Nếu còn thì kể đến bà.
Ấy là âm mộ thuộc tòa âm cung.
Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng.
Mộ phần thiên táng ắt cùng chẳng sai.
Suy xem tình tính hẳn hòi.
Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường.
Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường.
Đoán rằng đạo táng gần phương mả này.
Lại tùy Chính diệu suy bày.
Lại nhân Không – Kiếp đoán rày lạc phân.
Hoa Cái – Phượng Các tân phần.
Tấu Thư – Xương – Khúc là thần đồng ra.
Hoặc là Khôi – Việt gia Hóa Khoa.
Đại khoa sự nghiệp vinh hoa vô cùng.
Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng.
Ấy là phú quý vốn dòng chẳng không.
Tử Vi nhập Miếu Vượng cung.
Phát nên có kẻ chầu trong vương kỳ.
Lương – Tham thọ khảo kỳ di.
Lại xem đất phát cung phi vẻ nào.
Bởi chưng Hoa Cái – Hồng Đào.
Gặp sao Tử , Nhật gái chầu quân vương.
Đế Vượng đóng chính cung tường.
Ắt là trong họ vượng đường nhân đinh.
Tuế – Phù tụng sự tương tranh.
Lộc Tồn, Cô quả độc đinh thường thường.
Tang Môn – Quả Tú bất thường.
Ắt là trong họ gái thường quả phu.
Phục Binh ngộ Tử phải lo.

Có người bị trận, chết con ngoài đường.
Mộ cư Phúc Đức đường đường.
Lại gia Thai – Tọa ấy Trường Sinh ta.
Hỷ Thần – Thiên Hỷ hoặc gia.
Ấy là Đắc địa chẳng hòa được đâu.
Lại bàn hình thể mọi màu. (Ngũ hành các sao).
Tổ sơn là Tử – Phủ chầu kể ra.
Mộc Tinh là Thiên Cơ gia.
Kim tinh Vũ Khúc, Mộc là Tham Lang.
Văn Khúc là Thủy đáo đường.
Liêm Trinh là Hỏa, Thiên Lương Thổ này.
Thái Dương Dương long đã hay
Âm long, Âm hướng sao này Thái Âm.
Thất Sát cũng Hỏa Tinh lâm.
Phá Quân là Thủy, Cự tầm Thổ tinh.
Thiên Đồng – Thiên Tướng đất binh.
Sao Dương là núi, sao Linh bút bầy.
Mộc Trì là giếng gần đây,
Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần.
Kiếp – Không lộ tán dương phần.
Kỵ – Riêu là Thủy, sát nhân hoàng tuyền.
Thanh Long có suối lưu truyền.
Bạch Hổ đá trắng ở bên mộ đường.
Khoa – Quyền là bảng văn chương.
Lộc, Kỵ, Việt kiếm rõ ràng đóng đây.
Ấy là phần mộ đoán bày.
Cốt xem Phúc Đức mới hay mọi đường.
4. ĐIỀN TRẠCH CUNG

Bốn là bàn đến cung Điền.
Phủ – Vi đóng đấy, Tài, Điền Vượng thay.
Vũ – Cơ tài sản cũng hay.
Song hiềm hoán dịch ngày này nhiều phen.
Âm Dương, Miếu ấy đa điền.
Nhược bằng ngộ hãm vào miền bằng chân.
Thiên Đồng hậu dị, tiên nan.
Tham Lang tổ nghiệp phá tan lại thành.
Cự Môn tổ nghiệp tan tành.
Sinh ra đời chắc sau rành được yên.
Sát tinh bỗng chốc mà lên.
Nhược phùng hãm địa, bình yên thường thường.
Phá Quân của khéo dở dang.
Nhược bằng ngộ hãm là tuồng khó khăn.
Tướng – Lương – Tả – Hữu – Khoa văn.
Việt – Khôi – Quyền – Lộc – Mã gần Trường Sinh.
Điền viên đều vượng tậu thành.
Hỏa – Linh – Không – Kiếp – Đà – Kình lục tinh.
Nhị Hao – Kiếp Sát – Phục Binh.
Không Vong – Tang – Tú – Phù Tinh vô điền.
5. QUAN LỘC CUNG

Năm là Quan Lộc đoán ngay.
Thái Dương – Xương – Khúc ở đây cung này.
Điện rồng chầu chực đêm ngày.
Đoán rằng số ấy tốt thay lạ thường.
Việt – Khôi – Tả – Hữu – Cơ – Lương.
Khoa – Quyền – Tử – Phủ hợp cùng Trường Sinh.
Tướng – Đồng – Lộc – Mã – Vũ tinh.
Đều là cát tú cho mình hiển vinh.
Âm – Dương – Quyền – Lộc được rành.
Như bằng Hãm địa ắt hành lại hao.
Liêm Trinh vũ chức, quyền cao.
Như bằng ngộ hãm , khỏi nào hình danh.
Tham Lang mà gặp Hỏa – Linh.
Miếu thì phú quý, Hãm: bình mà thôi
Sát – Cự Tý/ Ngọ ở ngôi
Vượng thì vũ chức, Hãm thì hình thương.
Phá Quân lao khổ trăm đường.
Nhược ngôi Tý / Ngọ tài thường vượng thay.
Tham Lang – Xương – Khúc ngày rày.
Ngộ cung Tỵ / Hợi quan này làm ru.
Liêm – Tham – Đà – Nhận phải lo.
Phải mang dang díu quanh co bận mình
Phù – Tang – Không – Kiếp – Hỏa, Linh.
Khốc- Hư – Đà – Nhận – Kiếp – Kình – Nhị Hao.
Phục Binh – Phá – Tú – xúm vào.
Đoán rằng quyền lộc làm sao cũng hèn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *