10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi

Sau loạt bài “10 điều tâm niệm khi đoán số Tử-Vi” cho khoa Đẩu Số Tử-Vi. Người viết vẫn chỉ mong làm một công việc bình thường nhất là truyền thông đến quý vị say mê nghiên cứu Tử-Vi, một vài suy nghiệm thâm thúy đã tìm thấy ở khoa lý học Đông Phương này. Trong khuôn khổ tổng quát vừa nói, kẻ viết xin trình bày thêm “10 trạng thái kỳ thú của Tử-vi” như sau :

1 – Vó câu nghị lực
2 – Đối kháng của định mệnh
3 – Liên minh kỳ diệu
4 – Hạnh phúc lâm nguy
5 – Đường đời cô đơn
6 – Bạn là ai
7 – Nên sống hay chết
8 – Sung sướng hay đau khổ
9 – Nhân diện ác quỷ
10-Anh hùng chiến trận.

1- Vó câu nghị lực

Biết xem Tử-vi ai cũng phải công nhận giá trị quan hệ của các sao Thiên Mã, nó tượng trưng cho nghị lực ở đường đời, cũng như chiếc xe đi của đương số. Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung thuộc Tứ sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Khi Mã đóng ở cung nào, thì Mã thuộc hành của cung đó.

Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân, tức là Mã Kim, Thiên Mã đóng ở cung Dần là Mã Mộc …. Tuy vậy, có điều lý thú nhất, là khi Mã đóng ở cung nào có sao Tuần thì phải nên hiểu rằng : Mã không còn ở cung đó nữa, mà Thiên Mã đã nhờ chiếc cầu Tuần nhảy tới (theo chiếu thuận) vị trí mới để trở thành Mã của hành ở cung mới nhảy tới. Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân mà cung Thân có sao Tuần thì phải hiểu rằng Thiên Mã đã nhảy tới cung Hợi, để trở thành Mã Thủy (chứ không phải là Mã Kim nữa). Do đó, khi đối chiếu ngũ hành của Mã với ngũ hành của Mệnh, ta nên để ý tới sự kiện Mã ngộ Tuần (Sao Triệt không kể tới) mà luận giải về tính cách phấn đấu của đương số trong đời sống cũng như về những tai họa do xe cộ gây ra …

2- Đối kháng của Định Mệnh

Lá số Tử-Vi gồm 12 cung, mỗi cung mang một chủ đề trong 12 chủ đề của đương số là :Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào. Ta hãy để ý có 6 đôi cung xung phá nhau, lần lượt là :

– Dần với Tị
– Sửu với Ngọ
– Tý với Mùi
– Hợi với Thân
– Mão với Thìn
– Dậu với Tuất.

Cho nên khi nhìn vào các cung trên, ta thấy ngay các vấn đề đã trở thành nên những đối tượng tranh chấp (một thắng một bại, một mất một còn, một chánh một tà, một thịnh một suy) nhau thật rõ ràng.

Thí dụ : Mệnh đóng tại cung Tý ta có :
Mệnh – Ách : xung phá.
Phụ – Di : xung phá
Phúc – Nô : xung phá
Điền – Quan : xung phá
Tử – Phối : Xung phá
Tài – Bào : xung phá

Rồi giữa những cặp cung tranh chấp ấy, ta để ý những sao của cung nào hợp và lợi cho ngũ hành của bản Mệnh, thì cung ấy cường và cung kia nhược. Thí dụ : Phúc – Nô xung phá, nếu Nô cung cường thỉ Phúc cung nhược, Tử phối xung phá, nếu Phối thịnh thỉ Tử suy …..

3- Liên minh kỳ diệu

Nếu đã có 6 đôi cung phá nhau, thì cũng có 6 đôi cùng hạp nhau (nhưng chỉ là hạp một chiều) được gọi là 6 đôi nhị hợp :

– Tý với Sửu (Sửu lo cho Tý)
– Dần với Hợi (Hợi lo cho Dần)
– Mão với Tuất (Mão lo cho Tuất)
– Thìn với Dậu (Dậu lo cho Thìn)
– Tỵ với Thân (Tỵ lo cho Thân)
– Mùi với Ngọ (Mùi lo cho Ngọ)

Từ căn bản này, 12 chủ đề của bản số Tử-Vi đã thu lại làm 6 hành động làm lợi cho 6 chủ đề mà thôi. Thí dụ : Mệnh đóng tại Tý, thì bản số có giải đáp tổng quát ngay : cha mẹ lo cho đương số, bạn bè đem tài lộc tới cho đương số ….

Một lý thú căn bản suy gẫm : cung an Mệnh (tượng trưng cho đời sống tiêu cực của con người) luôn luôn được cung phụ mẫu che chở, nhưng cung an Thân (tượng trưng cho hành động của con người) lại luôn luôn sinh phò cho cung Phụ Mẫu (có ý nghĩa như sự báo hiếu vậy). Vấn đề này đã được cụ Thiên Lương cho là một bố cục tế vi của cổ nhân khi soạn ra cách an sao lập số Tử-vi vậy.

4- Hạnh phúc lâm nguy

Bộ Sát Phá Tham là nhóm tinh đẩu quá khích, chủ về các hành động sát phạt, cho nên khi người ở cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà sang Đại hạn Sát Phá Tham thì hãy coi chừng sự xông xáo thái quá của nhóm sao vừa nói gây ra phản ứng phũ phàng không sao lường được (điều này thì ai cũng biết cả). Tuy nhiên ở đây, ta hãy để tâm kiểm nghiệm hai trường hợp :

– Bộ Sát Phá Tham ở cung Phụ Mẫu.
– Và Bộ Sát Phá Tham ở cung Phu Thê.

Luôn luôn là khuynh hướng báo trước sự hình khắc chia ly (nhẹ cũng là cảnh ông nói gà, bà nói vịt, cha ở nhà trước mẹ ở sân sau… ) Trong trường hợp bộ Sát Phá Tham (dù đặc địa hay hãm địa) ở trong vòng Thái Tuế thì còn đỡ (giảm 50 % hiệu lực ), chứ nếu chúng ở ngoài vòng Thái Tuế của bản số (Vòng Thái Tuế là vòng tam hợp cung tuổi của bản số) thì thật là tai hại vô cùng.

5- Đường đời cô đơn

Xem số Tử-Vi, nhiều người có thói quen nhìn ngắm các chính diệu đắc địa hay hãm địa mà luận giải sự tốt xấu. Tôi thấy điều này có vẻ phiến diện, hời hợt, khi đúng khi không. Thật ra vấn đề ngũ hành của chính tinh mới là hệ trọng. Đối với hai cung Phối và Nô là hai nơi quần tụ của mỗi cá nhân trong xã hội, cần phải đẹp đẽ để đời sống thêm ý nghĩa (từ đời tư đến đời công). Cái đẹp ở hai cung Phối và Nô có nghĩa là có bạn đời và bạn đường chung thủy khả tín. Chúng ta hãy chú ý đến các ngũ hành của chính diệu đóng tại cung Phối và Nô như sau :

a)- Đối với cung Phối

Nếu ngũ hành của chính tinh cung Phối sinh nhập với ngũ hành của bản mệnh thì đời sống vợ chồng lâu dài đầm thắm, nếu cung Phối có chính tinh xung khắc với ngũ hành bản Mệnh thì : anh đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi … Đặc biệt, cung Phối có hai chính diệu (một hạp, một khắc) nghĩa là trong đời tình cảm thế nào cũng hai lần hát khúc tào khang là ít.

b)- Đối với cung Nô

Ngũ hành chính diệu sinh nhập ngũ hành bản Mệnh thì có bản bè, thuộc hạ tốt, trông cậy được. Bằng như ngũ hành chính diệu xung khắc ngũ hành bản Mệnh là kể như đường đời cô độc, không ai là Chung Tử Kỳ của Bá Nha cả. Khi ngũ hành của bản Mệnh sinh xuất ngũ hành của chính diệu tại Nô cung, phải coi như một đời tôi mọi cho bằng hữu.

Thí dụ :Người Mạng Thổ, Nô cung có Vũ Tướng, là kể như không có bạn tri kỷ !. (vì Vũ Khúc là Kim,Thiên Tướng là Thủy, ngũ hành bản Mệnh là Thổ không hợp và lợi gì với Kim và Thủy cả). Còn các bàng tinh và phụ tinh chỉ là chuyện thứ yếu, thêm bớt chút đỉnh ý nghĩa thôi .

6- Bạn là ai ?

Cuốn Tử-Vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương có nói : ” Môn Tử-Vi khoa tính tình học tiềm ẩn “, tôi thấy điều này rất chí lý. Muốn tìm hiểu tính tình của một bản số, ta nên vẽ ra 3 vòng Tam hợp là :

– Vòng Thái Tuế : tượng trựng tư tưởng của mình.
– Vòng Thân : Tượng trưng hành động của mình.

Vòng Thái Tuế là Tam hợp của ba cung có tên giống địa chỉ năm sinh. Vòng Mệnh là Tam hợp của ba cung an Mệnh, cung Quan Lộc và cung Tài Bạch. Vòng Thân là tam hạp của ba cung liên quan với cung an Thân. Sau đó, ta ghi nhận ngũ hành của mỗi vòng :

– Hợi Mão Mùi là Mộc;
– Dần Ngọ Tuất là Hỏa;
– Thân Tí Thìn là Thủy;
– Tỵ Dậu Sửu là Kim.

Rồi lý luận theo tám trường hợp kể sau :

– Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Thân ở thế ngũ hành tương khắc, là người ngụy quân tử nói hay mà làm điều ác hiểm (giống như vai trò Nhạc Bất Quần trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Văn sĩ Kim Dung)

– Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Mệnh ở thế ngũ hành tương khắc, là người nói dữ dằn nhưng hành động lại quang minh chính trực (như mẫu người Từ Hải trong truyện Kiều)

– Vòng Mệnh, Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế : tốt nhất, quân tử chính danh.

– Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng xung khắc ngũ hành với vòng Thái Tuế, là người chung thân bất mãn, lãnh tụ của đối lập, thích nghi và làm điều ngang trái.

– Vòng Thái Tuế sinh xuất vòng Mệnh nhưng Vòng an Thân lại sinh nhập Vòng Thái Tuế, là mẫu người cực kỳ khôn ngoan, chủ trương nhượng bộ trong lý thuyết rồi lấn lướt trong hành động.

– Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng sinh nhập vòng Thái Tuế là người luôn chủ trương lấn lướt tha nhân, chuyên nghĩ và xếp đặt chuyện ăn người, mẫu người tham vọng.

– Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thân nhưng được Vòng Thái Tuế sinh xuất là người hiền lành đến nhu nhược, luôn cam phận thiệt thòi (một sự nhịn, chín sự lành).

– Vòng Mệnh sinh nhập Vòng Thái Tuế, rồi Vòng Thái Tuế sinh xuất Vòng Thân là người nói hay làm dở, nói nhiều làm ít đa lý thuyết, thiếu thực hành, dốt hay nói chữ.

7- Nên sống hay chết

Đời có vinh kẻ nhục, số Tử-Vi cũng có những nét bàng bạc đồng sao mà dị nghĩa, cả hai người nhe răng nhưng người này cười mà kẻ kia lại khóc. Đó là trường hợp bộ ba Mã-Khốc-Khách. Nhiều sách đều khẳng định hạn gặp Mã-Khốc-Khách là vận tốt, tôi đã kiểm nghiệm thấy không đúng mà phải luận giải thế tương quan giữa ngũ hành của Mã với hành của Mệnh trước tiên đã, nếu thấy Mã phò người là thì mới là nhạc ngựa khánh vàng reo vui, còn thấy Mã hại người thì chỉ là tiếng kèn trống đám ma thôi (hoặc đến hạn đó gặp nhiều cái rủi ro đưa tới như bệnh, tật, mất xe, hao tài tốn của, nhiều chuyện bực mình …~_laughing )

Thí dụ : Người tuổi Ngọ, mạng Mộc Mã ở cung Thân (Mã Kim) vậy là Mã hại người. Ôi ! còn ghê rợn nào bằng hạn Mã-Khốc-Khách, khóc dở, mếu dở … Người tuổi Dần, mạng Thủy, Mã đóng ở cung Thân (Mã Kim), đây là Mã phò người, nên gặp hạn Mã-Khốc-Khách là đến hồi thái lai vậy. Từ đó mà suy luận rộng thêm ra các trường hợp khác

8- Sung sướng hay đau khổ

Khi nào chính diệu xung chiếu được coi như chính diệu tọa thủ ở cung vô chính diệu ?

– Khi nào Vòng tam hợp của cung vô chính diệu có hành khắc chế được hành của Vòng tam hợp cung xung chiếu có chứa chính diệu .

Thí dụ : Mệnh vô chính diệu tọa thủ ở cung Dậu (vòng tam hợp là Tỵ Dậu Sửu : Kim). Cung xung chiếu là Mão (vòng tam hợp Hợi Mão Mùi : Mộc) chứa hai chính diệu Thái Dương và Thiên Lương. Vậy vòng Kim khắc chế vòng Mộc, nên chiếm đoạt được hai chính tinh Thái Dương và Thiên Lương đem về cung Dậu xử dụng. Ngược lại nếu hành của cung vô chính diệu bị hành của cung xung chiếu áp đảo thì kể như “Hư không chi địa” hoàn toàn, lúc này cung vô chính diệu lại càng lâm nguy và dễ dàng để cho các “Hung tinh chiếu lược” hoành hành.

9- Nhận diện ác quỉ

Cụ Hà-Lạc Dã Phu Việt-Viêm-Tử trong ” Tử-Vi Áo Bí ” đã đề cao vai trò của bộ Tả Phù và Hữu Bật. Thật tình mà nói, thì hai sao này là những ” gián điệp hai mang ” nghĩa là nó vừa hữu ích mà vừa nguy hiểm khi tìm biết tánh nết của một người qua bản số Tử-Vi. Khi Tả-Hữu đóng vào vòng Thái Tuế có hai trường hợp xảy ra :

– Nếu trong vòng Thái Tuế không có Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Đà La, là người chính nhân quân tử.

– Nếu trong vòng Thái Tuế có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà thì hẩm hiu cho người có tài mà không có thời (sinh bất phùng thời )

Riêng trường hợp hai sao Tả Hữu đứng ở thế đối lập với vòng Thái Tuế hay đứng ở thế sinh nhập vòng Thái Tuế [Ví dụ : tuổi Ngọ, vòng Thái Tuế là Hỏa và hai sao Tả-Hữu đóng cung Mùi (thuộc hành Mộc)] thì dù có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà hay không vẫn là hạng hữu tài vô hạnh, làm điều quấy đảo thiên hạ.

10- Anh Hùng chiến trận

Sao Phá Toái chỉ chịu đứng ở ba cung Tỵ-Dậu-Sửu. Nó tượng trưng cho sự ương ngạnh, thích làm điều phá tán, vỡ đổ (giống như nhân vật Na-Tra trong chuyện Phong Thần). Sao này coi như con đẻ của Phá Quân, nên khi Phá Toái đồng cung với Phá Quân thì kết hợp thành sức mạnh vô song (tương tự như Vũ Khúc gặp Văn Khúc) chủ về võ nghiệp thời danh. Nếu vòng Thái Tuế lại chứa ” Toái Quân lưỡng Phá ” này thì không cần phải nói nhiều : rõ ràng là bậc anh hùng trong thiên hạ, ấn chức nguyên nhung trao vào tay này không hổ thẹn chọn lầm người.

Tóm lại, để kết luận cho bài Tham luận này, ta có thể tạm bắt chước người Tây Phương để nói rằng :” Đưa Lá số Tử vi của bạn đây, tôi sẽ nói bạn là ai ! “
10 Điều soi sáng cho khoa Nghiệm-Lý Tử Vi

1-Đức trọng quỷ thần kinh : Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Long Đức, Thiên Quan và Thiên Phúc.

Trong hàng ngũ các sao hiền của bản số Tử vi mỗi người, ai cũng biết, mà cũng ít ai lưu tâm đến, đó là bộ Tứ đức và bộ Quý nhân. Tánh chất của bản thiện thường là hành động trong âm thầm, không lớn lối, không vung vít như bộ hung tinh chiến lược (Lục sát). Quý vị cứ kiểm nghiệm mà xem bộ Tứ đức và lưỡng Quý nhân luôn hóa giải dễ dàng những tai ương do hai quỷ tinh Tuần và Triệt gây ra (huống hồ là Thiên Không, xá gì ). Hay nói một cách khác bộ Tứ đức và lưỡng Quý nhân không sợ sự kềm kẹp cương tỏa của Tuần trung và Triệt lộ. Ngược lại nhiều khi chính nhờ bộ Tứ đức và lưỡng quý nhân này đã chiêu hồi Tuần trung và Triệt lộ để giải tỏa các hung tinh khác. Cho nên vào đại hạn hay tiểu vận có bộ Tứ đức hay bộ Quý nhân này trấn áp, thì cứ yên tâm về sự xuất hiện của hai quỷ tinh Tuần trung và Triệt lộ, chính sao Tuần còn mở đầu cho một hạnh thông nữa là đàng khác.

2- Huyền thoại của chính diệu : Tứ Hóa

Nhiều người say mê môn Tử-vi thường có thói quen đam mê luôn bộ Tứ hóa đắc cách và cho rằng Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Kỵ (đóng ở Tứ mộ) là bốn sao thần thánh đem bóng dáng hạnh phúc lại cho mình, rồi nhiều khi quên đi cả các chính diệu hiện diện tại cung có Tứ Hóa ấy. Đây là một sự
nhầm lẫn cần phải phản tỉnh ngay : Khoa Tử-vi gắn liền với sinh hoạt nghiệm lý mà cố tử vi gia Thiên Lương đã dày công chủ trương khi còn sinh tiền, nên lúc nào cũng cần phải có sự suy luận và kiểm nghiệm tánh chất của mỗi dữ kiện. Do lẽ ấy, bốn sao Từ Hóa chỉ là bộ mặt mới mà thôi. Thí dụ tuổi Kỷ thì chính diệu Tham Lang có bộ mặt mới là Hóa Quyền, mà tuổi Ất thì Hóa Quyền lại là hậu thân của Thiên Lương. Nói cách khác, tùy theo thập can mà chính diệu thủ lãnh những vai trò mới như sau :

– Chủ về thi cử, phước lành : Hóa Khoa.
– Chủ về địa vị : Hóa Quyền.
– Chủ về tiền của : Hóa Lộc.
– Chủ về sự thầm lặng : Hóa Kỵ.

Thành ra khi thấy Tứ Hóa xuất hiện ở cung nào, ta nên hiểu rằng chính diệu đã biến ảo ra, nhận lãnh sứ mạng nói trên mà thôi. Nói cho cùng, thì không có sao Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Kỵ (hiểu theo nghĩa là những tinh đẩu riêng biệt) mà Tứ Hóa chỉ là sự biến thái của chính diệu tùy theo Thập can vậy.

3- Tha nhân là địa ngục

Trong vị trí tuần tự 12 cung trên bản số Từ-vi, cung Mệnh và cung Thiên Di luôn luôn đối mặt nhìn nhau. Đây là ý nghĩa thâm sâu của người sáng chế ra khoa nghiệm lý này : Mệnh là ta, Thiên Di là tha nhân (chứ không phải sự đi xa như nhiều sách đoán luận giải ). Đời sống là trường tranh đấu, ta muốn tồn tại thì phải ganh đua với chúng nhân trong xã hội, thế nên tha nhân vừa nhìn ta để học hỏi, vừa để đối phó. Ngược lại, ta nhìn tha nhân cũng với cung cách này. Điều kiện hòa đồng là cần, nhưng phải có sự khắc chế mới đủ nghĩa sống ở đời (lẽ mâu thuẫn lấy biến dịch làm căn bản nhân sinh), trong ý nghĩa Dịch động ấy, lấy luật Ngũ hành làm luận cứ cho sự tương giao của hai cung Mệnh & Di .

Vậy khi nào hành của cung Mệnh chế ngự được hành của cung Di thì người ấy mới mong ra đời được đắc thắng và kính nể, bằng trái lại, hành của cung Di áp đảo được hành của cung Mệnh thì rõ ràng là người ấy thường chịu nhiều thua thiệt trước thế nhân.

4- Cơn bỉ cực, hồi thái lai

Vòng Thái Tuế, khi còn sanh tiền cố Tử-vi gia Thiên lương đã dày công phu triển khai tầm quan trọng, để giúp cho người xem Tử vi nhận biết rõ đại vận hên xui. Đại cương cung nào chứa vòng Tam hạp của Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thì Đại hạn mười năm tại cung đó là thời vận tốt.

Thí dụ Mệnh tại cung Dậu, tuổi Mẹo Âm Nam, Kim Cục, thì theo chiều nghịch ; cung Dậu 4-13, cung Thân 14-23, cung Mùi 24-33 … Vòng Thái Tuế gác đầu 3 cung Hợi-Mão-Mùi, do đó Đại vận 10 năm từ 24-33 tuổi là lúc thịnh thời gặp nhiều may mắn của đương số. Tuy nhiên tùy theo 3 đầu cung tam hạp của Vòng Thái Tuế, nếu gặp đầu cung :

– Có sao Thái Tuế là đắc thời một cách chánh đáng.
– Có sao Quan Phù là đắc thời trong sự tính toán.
– Có sao Bạch Hổ là đắc thời trong sự làm việc thái quá vất vả.

Cho nên người xem số Tử-vi, thấy đến Đại vận nằm trong tam hợp Vòng Thái Tuế, được kể như đã tới hồi thái lai, thoải mãi. Nhưng có điểm khá cẩn trọng, nếu tiểu vận (một năm) phải đề phòng sự thiệt thòi xui rủi đưa tới :

– Tiểu vận đến cung chứa sao Thái Tuế : đáo tụng đình.
– Tiểu vận đến cung chứa sao Quan Phù : thị phi tai tiếng.
– Tiểu vận đến cung chứa sao Bạch Hổ : đau ốm tai nạn.

Tóm lại : Đại vận nằm trong tam hạp Vòng Thái Tuế là hên, may mắn (tới mức độ nào còn phụ thuộc vào nhiều các sao khác nữa !?..), nhưng 10 năm đó thì đề phòng 3 năm tiểu hạn lại lâm vào trở lại 3 cung tam hạp của Vòng Thái Tuế thì lại gặp chuyện xui rủi vậy. Đó là ý nghĩa thứ hai của hạn tam tai mà cố Tử-vi gia Thiên Lương đã dày công khám phá.

Cho nên quý vị thấy hạn Tam tai ghi trong sách :

– Tuổi Dần Ngọ Tuất : 3 năm Thân Dậu Tuất là Tam tai.
– Tuổi Thân Tý Thìn : 3 năm Dần Mão Thìn là Tam tai.
– Tuổi Tỵ Dậu Sửu : 3 năm Hợi Tý Sửu là Tam tai.
– Tuổi Hợi Mão Mùi : 3 năm Tỵ Ngọ Mùi là Tam tai.

sao lại có khi đúng có khi sai, ấy là vì lẽ trên.

5- Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong : Thế ngũ hành sinh nhập tại Tứ Sinh và Tứ Tuyệt.

Mười hai cung của bản số Tử-vi, tuy mang 12 chủ đề khác nhau nhưng chúng lại có những gắn bó kỳ lạ, nếu chịu khó luận giải luật ngũ hành của từng cung trên căn bản :

– 4 Cung Tứ Sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
– 4 Cung Tứ Tuyệt : Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Ta thấy 4 cung Tứ Sinh và Tứ Tuyệt khác nhau từng đôi một :

– Cung Tỵ (Hỏa) đối lập với cung Hợi (Thủy)
– Cung Thân (Kim) đối lập với cung Dần (Mộc)
– Cung Ngọ (Hỏa) đối lập với cung Tý (Thủy)
– Cung Mão (Mộc) đối lập với cung Dậu (Kim)

Vậy khi các cung nói trên mang chủ đề gì (trong 12 chủ đề : Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào) thì chúng xung khắc nhau như bản chất cung của nó.

Ví dụ : Tuổi Âm Nam, Mệnh an tại Dậu, ta có :

– Tiền bạc (cung Tỵ) khắc chế với cung Phúc Đức (cung Hợi)
– Huynh Đệ (cung Thân) không hạp với bạn bè (cung Dần)
– Nhà đất (cung Tý) không hạp với hàng con cái (cung Ngọ)
– Bản Mệnh cung (cung Dậu) bất hòa đồng với tha nhân (cung Mão)

Các sự xung khắc trên là một điều loan báo đối với đương số. Để tùy nghi chọn lựa một trong hai điều : Hoặc chọn Tiền Bạc hay chọn Phúc Đức; hoặc muốn Con Cái an toàn hay muốn Nhà đất khang trang …

6- Tham thì thâm : Luật thừa trừ tính theo vòng Thái Tuế

Vòng Thái Tuế ngòai ý nghĩa cho biết thời may vận tốt của mười năm, nó còn cung cấp một đặc tính qúy báu khác, là tìm biết căn tính của mỗi người, cũng như thử thách của đương số trong sinh hoạt thường nhật. Ta nên để ý :

– Tuổi Âm Nam và Dương Nữ : trước khi tới thời kỳ 10 năm của Vòng Thái Tuế, đã gặp 10 năm của Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức.

– Tuổi Âm Nữ và Dương Nam : lại gặp Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức sau khi đã an hưởng 10 năm của Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ .

Cả hai cách trên đều cho ta thấy : Xét luật Ngũ hành thì Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức ở thế lấn so với Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

Thí dụ :Tuổi Tuất – Dương Nam, thì Vòng Thái Tuế là Hỏa, còn Vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức là Mộc, mà Mộc sinh Hỏa (có nghĩa là mình đang gặp tối đa thuận lợi, lấn tới lấy thời gian Mộc để dưỡng cái TA -Hỏa). Lợi thì có lợi thật, nhưng Luật thừa trừ đã xuất hiện, để ổn định cái bất công, cho nên khi ai bước vào thời kỳ này (Vòng Thiếu Dương) sẽ phải gặp sao Thiên Không ở cung với Thiếu-Dương, đó là nét thâm thúy và đầy nhân -văn, tính nhất của khoa Tử-vi : Ở đời không nên tham vọng, vì quá đáng sẽ gặp “Thiên-Không ở cuối đường hầm” (Hạn Thiên Không thì ai biết xem Tử-vi, đều rõ cái tai hại của nó).

7- Đời là bể khổ

Sao Thiên Mã là nghị lực của đời người nhưng còn biểu tượng cả chiếc xe đi của đương số. Nếu xét Ngũ hành của cung mà Thiên Mã đóng, với Ngũ hành của bản Mệnh, chúng ta sẽ thấy ngay những mối tương quan có tính cách cảnh cáo hay nhẹ cũng là báo trước về chiếc xe mà đương số sử dụng trong mưu sinh ở đường đời :

– Hành Mã khắc hành của bản Mệnh : Chết vì tai nạn xe cộ, bị thương nặng về tay chân …

– Hành Mã sinh hành của bản Mệnh : Xe cộ luôn an toàn, giúp đỡ người thật đắc dụng .

– Hành Mệnh khắc hành của Mã : Xe cộ luôn ở trạng thái hư hao, gây tốn kém cho chủ .

– Hành Mệnh sinh hành của Mã : Coi chừng mất xe.

– Hành Mã đồng hành với bản Mệnh : Bình thường trong mọi chuyện xe cộ, cũng như lúc di chuyển.

Kết hợp với những sao tại Lưu Tiểu hạn và lưu Đại hạn, từ đó mà suy luận cụ thể chi tiết ra trong từng trường hợp cụ thể của bản số Tử-vi .

Thí dụ : Người tuổi Tân Tỵ (Hành Kim). Thiên Mã đóng ở cung Hợi (Thủy). Vậy tức là Mệnh Kim sinh xuất Mã Thủy, ít nhất trong đời phải mất xe một lần (dù là xe gì … đi nữa, kể cả trường hợp mình đi mượn xe của người khác nữa !? … Các bạn thử chiêm nghiệm xem … ). Người Nhâm Ngọ (Mộc) có Thiên Mã đóng cung Thân thì nên cẩn thận lắm vì Mã Kim khắc Mệnh Mộc. Vai trò của sao Thiên Mã xét theo khía cảnh này, đã được nhiều người kiểm chứng, thấy hiệu nghiệm rõ ràng.

8- Chung thân đối kháng

Sao Thiên Tài trong Tử -vi quả là có vai trò độc đáo, nó luôn luôn làm điều trái ngược lại tinh thần của cung mà nó đóng. Sao Thiên Tài ví như vị Thiên Sứ có nhiệm vụ đảo ngược tình hình ở cung mà Thiên Tài phải hiện diện : nhiều sao đẹp mà gặp Thiên Tài (đồng cung) thì kể như vô dụng, mà nhiều sao xấu gặp Thiên Tài hóa ra đắc dụng. Đắc biệt những cung tiềm ẩn tính cách lượng số (như cung Huynh Đệ, Tử-Tức, Tài Bạch) thì sự hiệu nghiệm nói trên của Thiên Tài quả không sai lệch. Thành ra, điều kết luận về sao này, ta phải nhìn nhận quả là “Thiên Tài ” hiếm có vậy.

9- Bản tính nhân chi sơ

Khoa Tử-vi Đẩu số, ngoài việc tiên tri các điều công danh, thọ yểu, giàu nghèo … của mỗi con người, nó còn là khoa tâm lý thực nghiệm khá chính xác. Quý vị thích nghiên cứu trong tinh thần triết học, hãy để ý sự kiện (Đã được nghiệm lý) sau đây : Áp dụng luật tính âm-dương cho bản mệnh với cung Mệnh, là :

– Người Âm đóng cung Âm : thế lưỡng Âm nên thái quá nhu nhược, rất thâm trầm, khôn ngoan …

– Người Dương đóng cung Dương :thế lưỡng Dương nên quá cương, rất nóng nảy đến độ hồ đồ võ phu …

– Ngừơi Dương đóng cung Âm : có thực nhưng kín đáo nhún nhừơng, biết mình, biết người …

– Ngừoi Âm đóng cung Dương : người sống giả tạo, nhiệt tình vay mượn …

Ví dụ : Người Quý Mùi (Mệnh Âm) Cung Mệnh đóng tại Dần (Cung Dương), nên chưa xét đoán chi tiết, ta có ngay một ý niệm là người không có bản lãnh, biết ít mà phô trương thì nhiều, sống tạm bợ với nhiệt tình vay mượn …

10- Thời thế tạo Anh-hùng

Tiểu hạn mỗi năm được xác định tại một cung. Người xem Tử-vi hay có thói quen lấy cung tam Hợp và cung Nhị hợp với cung lưu niên, để giải đoán vận hạn hên xui của một năm (giống như cách xem đại hạn 10 năm). Thật ra muốn tìm hiểu thời kỳ đại hạn là hay hoặc dở ta chỉ nên luận giải về vòng Thái tuế, còn tiểu hạn một năm phải bám sát các Sao ngụ trong cung lưu niên. Một năm cũng có thời kỳ riêng của mỗi hành trong Ngũ hành :

* 2 tháng rưỡi đầu mùa Xuân : hành Mộc
* 2 tháng rưỡi đầu mùa Hè : hành Hỏa
* 2 tháng rưỡi đầu mùa Thu : hành Kim
* 2 tháng rưỡi đầu mùa Đông : hành Thủy
* 15 ngày cuối mỗi mùa : hành Thổ.

Rồi từ căn bản này, ta đối chiếu với các hành của sao trong cung lưu niên muốn xem, và phải để ý đến tính chất : sao thuộc hành nào sẽ hoạt động (giống như phiên trực của quân đội) vào thời gian của hành ấy (chứ không thể có sự hoạt động nhất loại của các sao trong suốt năm mà người đời thường chọn ngày cúng sao hạn là vì vậy).

Thí dụ : Người Mệnh Thổ, lưu niên tại cung Tý có các sao :

* Hành Mộc : Đào Hoa, Ân Quang, Hóa Quyền.
* Hành Hỏa : Thiên Khôi, Thiên Đức, Địa Kiếp, Phi Liêm.
* Hành Thổ : Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù.
* Hành Kim :Thiên Khôi (đới Kim), Tả Phù (đới Kim), Hồng Loan (đới Kim)
* Hành Thủy: Tham Lang, Hồng Loan.

Ta giải đáp dễ dàng niên hạn của đương số như sau :

*
Mùa Xuân : Có quý nhân giúp đỡ, thăng tiến công danh rất mau.
*
Mùa Hè :May rủi liền nhau, càng cao danh vọng càng dày gian nan.
*
Mùa Thu :Trở lại sự bình yên, có bằng hữu thuận thảo.
*
Mùa Đông : Tình cảm thoải mái, yên vui …
*
Riêng 15 ngày cuối mỗi mùa (Thổ) gặp các sao Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù nên hay có chuyện lo nghĩ , nhờ Thiên Tài hóa giải nhóm hung tinh : Tuyệt và Tả Phù … thành ra cũng qua khỏi vào phút chót.

Khi áp dụng luật Ngũ Hành cho sao theo mùa, ta không nên quên so sánh Ngũ Hành của sao với Ngũ Hành của Cung, để thấy rõ hơn cường độ hoạt động của các Sao bị ảnh hưởng như thế nào trong mùa của nó.

Qua ví dụ nêu trên : Cung Tý là Thủy, đương nhiên các sao Mộc tăng cường lực, các sao Kim bị suy nhược, các sao Thổ bị trở ngại và các sao Thủy khởi sắc nhất (giống như : Giang san nào anh hùng nấy – Rừng nào Cọp ấy )

Tóm lại, bài viết này không ngoài mục đích muốn cống hiến người hâm mộ Tử-vi một vài quan điểm mới, để cùng nhau soi sáng một khoa học cổ điển (vốn bị hiểu lầm là lạc hậu, thoái hóa) có giá trị cao độ của ngành nghiệm lý xã hội
10 Kinh nghiệm Sát-Thủ của Tử-Vi
Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Người viết xin trình làng những kinh nghiệm được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :

1- Sinh bất phùng thời : Hạn Thái Tuế Vô Chính diệu

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :

* Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
* Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
* Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
* Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
* Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :

Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết … ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

– Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

– Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này )

– Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương – Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của ” Đồng Mệnh tương lân ” : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

– Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : “Thiện căn ở tại lòng ta”

– Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

– Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

– Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

– Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn …

4- Công ơn Tổ-Phụ : Cung Phúc Đức vô chính diệu

Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó ! : Cung Quan vô chính diệu

Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?

Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

 
6- Làm thân trâu ngựa

Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô. Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :

Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi

Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.

Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp

Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ
8- Sớm đầu tối đánh

Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược :

Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ… Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..) hoặc gia đạo gặp cảnh này cảnh nọ, chồng nói gà, bà nói vịt thật phũ phàng … (ví dụ Lá số độc giả : LA SO )

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *