CĂN ĐỒNG VÀ CÁC BIỂU HIỆN CỦA NGƯỜI CÓ CĂN ĐỒNG

Căn đồng và biểu hiện người có căn đồng

CĂN ĐỒNG VÀ CÁC BIỂU HIỆN CỦA NGƯỜI CÓ CĂN ĐỒNG

 

Căn đồng là một trong những hiện tượng được nhiều người chú ý tới, nhưng không phải ai cũng có hiểu biết về bản thân thuật ngữ này một cách căn bản và thấu đáo. Ngay cả những Tín đồ theo Tín ngưỡng Mẫu lâu năm, có thâm niên, vẫn thường được người trong cùng Tín ngưỡng gọi là Đồng cựu cũng chưa hiểu một cách rành rẽ.
Và cũng chính vì không hiểu một cách rõ ràng như vậy nên mới phát sinh những hiện tượng mê tín dị đoan, nhiều người vẫn là đối tượng cho những kẻ buôn Thánh bán Thần lừa đảo, làm cho các Tín đồ mê muội về tâm linh, dẫn tới các việc hao tiền tốn của, tốn thời gian cũng như công sức, gia đình bất hòa vì lí do tôn giáo và đặc biệt là lầm đường lạc lối trong Thánh đạo.
Chính vì thế, những Tín đồ theo đạo Mẫu Việt Nam nói chung và HTTTG nói riêng cần hiểu biết về vấn đề một cách chính xác, để làm bước tiền đề cho con đường Thánh đạo, chúng ta có cái nhìn đúng đắn và phương thức hành xử hợp lí trong đời sống đạo hạnh và tâm linh, chúng ta tuyên dương Thánh đức một cách đúng đắn và cần thiết, giữ được những bản sắc văn hóa của đạo Mẫu cũng như gia phong nếp nhà, ứng dụng văn hóa của đức Mẹ vào nếp sống gia đình nhằm tạo cuộc sống an hòa, hạnh phúc, ai ai cũng được thấm nhuần ơn phúc của đức Mẹ và Tiên Thánh trong Công đồng Đình thần Tam Tứ phủ, và để con đường đến với Mẹ – Chân Thiện Mĩ mà mình đang đi là công chính và tốt đẹp.
 Căn đồng, căn quả, căn số đều là những danh từ cùng chung ý nghĩa, ý nghĩa đó là gì? Nội dung sau đây sẽ chỉ ra điều đó.
Căn là gốc cây, là rễ cây, còn có nghĩa là nguyên nhân, căn do của sự vật, sự việc, hiện tượng.
Số là những biểu hiện, những tác động của các sự vật, sự việc, hiện tượng bên ngoài vào một chủ thể sự sống bao gồm cả con người và các sinh vật có sự sống khác, chủ thể này có thể là một cá thể, hay một nhóm cá thể, hoặc là cả một cả cộng đồng, đôi khi là cả trái đất và vũ trụ.
Quả là kết quả của tất cả những sự tác động bên ngoài đó lên một chủ thể sự sống kia. Quả là cái sẽ đến tất yếu nếu có “căn” kia.
Đồng có nghĩ là đứa trẻ, trong trắng ngây thơ không vết nhơ bẩn.
Tựu chung lại, căn đồng để chỉ con người có những nghiệp duyên, nghiệp chướng, hay nói khác đi là những tội lỗi, đã gây ra từ trước có thể kiếp trước, hoặc kiếp này, tới khi vận đến phải chịu hậu quả, phải đón nhận cái kết quả xấu mà mình đã tạo ra, phải chịu kiếp khổ sở. Những con người đó may mắn được các Thánh đức đoái thương, nên đã chấm chọn để các Thánh cứu vớt, cũng như thay mặt các Thánh làm việc cứu độ thế gian, làm phúc làm thiện bằng nhiều cách, để hòng chuộc lỗi lại cho bản thân, để đạt được an nhiên thanh thản trong đời sống hiện tại và viên mãn sau khi thoát sinh. Họ sẽ là những con người trong trắng giống như trẻ con, để cho các Thánh dẫn dẵn đi theo lí trí, lẽ phải, tình thương yêu cùng sự hiểu biết của các Ngài, bởi chỉ có sự xót thương, tình yêu thương của các Ngài cho bản thân người có căn đồng đó mới có thể thanh tẩy tâm hồn, thể xác, biến đổi cuộc sống của người đó, mới có thể cho họ có được phúc thiện một cách hoàn hảo để nhằm chuộc lại lỗi lầm của chính họ đã gây ra trong quá khứ.

Định nghĩa trên dập tắt hết những kẻ tự mãn rằng, Căn đồng là một thứ gì đó hơn người, đáng đem ra để so sánh đẳng cấp, căn đồng đơn giản là chính những quả báo của chúng ta mà thôi, không có gì đáng đem khoe mẽ, đáng lên mặt với người khác cả, không có gì đáng khoe khoang cả. Người có căn đồng là người mang nặng nghiệp duyên, mang nặng số kiếp con người, họ còn phải gánh nặng, tròn việc gia đình xã hội, đủ việc Thánh thần nữa. Do đó ta chớ có cho việc có đồng là cái gì hơn người, những cũng chẳng lấy gì làm hổ thẹn vì ta đang được phụng vụ Thánh đức, đang được Thánh thần thương xót, có khi ưu ái dẫn dắt chúng ta vượt qua những chông gai của cuộc sống đầy nhiễm ô này. Hiểu được cái này, chúng ta chớ có biện lễ to lớn lên Thánh đức làm chi, điều đó ko cần thiết, điều đó chứng tỏ chúng ta càng ngày càng mở rộng cái tâm tham lam của chúng ta, để đua tranh nhau giữa các Tín đồ với nhau, mà càng mở rộng tâm tham chúng ta càng nhiều tội hơn, có nghĩa chúng ta đi ngược lại với sở nguyện mà Đức Thánh đến với chúng ta là làm cho ta vơi bớt tội lỗi.  

Người có căn đồng là người được hưởng ơn phúc rất nhiều, vì họ được chư vị Thánh giá ưu ái xót thương cứu độ, cũng vì bản thân họ có một trường năng lực đặc biệt có khả năng hấp thu Thánh lực sốt sắng và khá đầy đủ (hơn những người bình thường khác) một cách dễ dàng, các Thánh đức đó sẽ dẫn dắt họ đi trên con đường công chính, trong sáng tốt đẹp, vượt qua được những tội lỗi trước kia để được tiếp bước đi trên con đường huy hoàng trở về với đấng Tối cao Liễu Hạnh Công chúa.
Cũng chính bởi họ có một trường năng lực về tâm linh dù ít hoặc nhiều, đó gọi là sự thụ cảm tâm linh mà họ nhận được “sự chấm” của Tiên Thánh, Tiên Thánh thấy rằng bản thân người đó có năng lực và nhờ sự trợ lực của Thánh đức, người đó có thể vượt qua được các chướng ngại trong cuộc đời, để họ vươn lên cứu độ bản thân cùng những người xung quanh mở rộng ra nữa là nhân loài. Người có căn đồng giống như một học trò và Thánh đức giống như thầy dạy và Đấng Tối cao giống như tri thức. Tất cả mọi phương pháp của ông thầy đó đều phải dẫn mình đến với tri thức, tất cả Thánh đức đều phải hướng người mình chọn về với Đức Quốc Mẫu Tối cao.
Theo ý trên, ta có thể suy ngẫm rằng, người có căn đồng khác với người bình thường ở điểm đó là họ có một năng lực tâm linh, có khả năng thụ cảm tâm linh. Khả năng thụ cảm tâm linh có nghĩa là khả năng hấp thu những luồng năng lực tâm linh từ bên ngoài bản thân, biểu hiện là bản thân người đó bị biến đổi về thể chất và tâm thần.
Người có căn đồng thi thoảng hay thường xuyên rơi vào cảm giác mờ ảo, chiêm bao thấy đức Mẹ hoặc Tiên Thánh thần, luôn có cảm giác có Thánh thần bên cạnh mình, ủng hộ và che chở cho bản thân.
Khi nhắc tới Thánh đức bản thân họ cảm thấy phấn chấn, hào hứng và nhiệt thành khi được đề cập tới những câu nói, những mẩu chuyện, những bài giảng về Tiên Thánh thần, họ cảm thấy như có một động lực thôi thúc họ chú ý lắng nghe, chiêm nghiệm, có khi là biểu đạt cảm niệm của bản thân về Thánh đức một cách rất hào hứng.
Khi tới tham gia các Thánh lễ trong Thánh đạo, các cuộc hầu đồng, họ thấy tâm hồn mình lâng lâng, phiêu phiêu, bay bổng, lúc đó họ phấn chấn, tinh thần giống như có một động lực thúc đẩy, tâm họ cảm thấy an lành, dịu mát, cũng có khi là xúc động, họ cảm nhận sự đồng cảm với cuộc đời Thánh đức trước kia qua các lời văn, lời tấu, lời thỉnh.
Khả năng hấp thu cảm thụ tâm linh nơi Thánh đức cò nhiều mức độ, nếu ở mức độ nhẹ thì như trên có những mức độ nặng hơn thì họ có những hành động, cử chỉ, lời nói một cách vô thức trong lúc họ hoàn toàn thấu biết mọi sự xảy ra xung quanh, thấy biết được mình đang hành động như thế nào nhưng không tự chủ được. Cái này gọi là sát căn, có nghĩa là khả năng hấp thu tâm linh của họ rất lớn.
Người có căn đồng có cuộc sống đời thường đa dạng, xuất thân từ nhiều thành phần xã hội, nhưng tất cả đều trải qua một thời gian để rồi mới biết đến Thánh đức của mình, đó là thời gian bị hành.

Có người bị hành thì gia đình bất an, tán gia bại sản, kinh tế sụt giảm một cách chóng vánh, xảy ra nhiều chuyện bất hòa, lao đao làm lụng mà chẳng đạt được kết quả gì, cái đáng được hưởng mà không sao có được. Bản thân họ tâm hồn bất an, cứ ngày đêm canh cánh lo lắng, nhiều khi không biết mình lo lắng gì, cảm giác bất ổn luôn thường trực, cảm giác như cái không hay đang sẵn sàng chờ trực mình. Hơn nữa, nếu người nghiệp duyên nặng nề, có thể dẫn đến tâm hồn hoảng loạn, có thể bị điên đảo, nói năng lảm nhảm, hay nói chuyện Thánh thần, chúng ta có thể gọi là “bị điên”, nhưng “điên” này khác với bệnh thần kinh thông thường, khi đến bệnh viện thì lại an nhiên như không, nhưng khi về nhà thì lại hoàn cũ. Cũng cần chú ý là có những trường hợp bị “điên” do hành hoặc bị điên do bị ma quỷ nhập hồn. Nó có những biểu hiện khác nhau mà phải là người có năng lực tâm linh mới thấy biết được. Người do Thánh hành thì thường phát ngôn quan cách, coi người khác là dưới mình, còn ngược lại, người do ma hành thì có hành vi hạ đẳng (tùy mức độ may quỷ đó như thế nào nhưng so với bị hành kém hơn hẳn), không sạch sẽ, bẩn thỉu…, nhưng cũng cần lưu ý là có những thứ ma quỷ khôn khéo tới mức chúng ta để ý không thể thấy. Lúc đó ta cần đến Quan thầy hoặc các thầy về tâm linh mới có thể biết được.  

Cũng có người bị hành thì phát bệnh, những chứng bệnh đó giống như “giả vở”, bác sĩ không giải thích nổi, nhiều khi ở nhà thì ốm đau, ra bệnh viện thì nhẹ như không, lúc thăng lúc giáng, khi mơ khi tỉnh.
Có những người không bị hành bệnh, bên ngoài không có biểu hiện gì bất thường, nhưng trong thân tâm họ cảm thấy có gì đó không ổn, ngày đêm nôn nao, bồn chồn không rõ nguyên nhân, cứ tưởng tượng như có một lực thúc đẩy họ phải đến cầu Mẫu hay Thánh thần.
Chúng ta cần phải phân biệt một cách rõ ràng với những hiện tượng khách quan tự nhiên khác với người có căn số đang trong gian đoạn hành, có xác định được như vậy chúng ta mới có cách giải quyết một cách xác đáng được, và đa số việc này cần phải có sự trợ giúp của một người thầy tâm linh, mà Tín ngưỡng Mẫu gọi là Đồng thầy, ở Giáo hội ta gọi là Quan thầy.
Vậy cho nên, Tìm cho mình một vị Đồng thầy cũng không hề dễ, chính vì lẽ đó, cũng có người nhầm đường lạc lỗi hoặc phúc chưa đến, nên đã gặp phải, hoặc bị người khác xúi dục để tìm đến với những vị “Thầy” sai trái, mê tín tà kiến, buôn Thánh bán Thần, và hậu quả như thế nào? Tự chúng ta mường tượng được. Đồng thầy đúng đắn là người có khả năng tâm linh thấu đáo, thâu suốt được bản mệnh, căn số, liệu tính được các hành vi tâm linh của Đệ tử mình, là người có khả năng gia trì, hỗ trợ Đệ tử mình trong các phương pháp cầu nguyện, lễ bái. Đồng thầy phải là người hướng dẫn các Đệ tử không đi vào con đường mê tín tà kiến, luôn biết hướng dẫn Đệ tử mình tu tập trong Tín ngưỡng một chính tín, sống trong đời sống một cách đạo đức. Thế cho nên, tìm được thầy tốt là vấn đề rất quan trọng, và có thể nói cũng rất khó khăn, nhất là trong thời kì, con người chỉ để ý đến lợi ích cá nhân, chỉ để ý tới vật chất, tiền bạc thì những đạo hạnh bị coi rẻ, những tinh hoa tâm linh, văn hóa đạo đức bị gác ngoài.
Với quyền năng gia hộ của đức Quốc Mẫu cùng sự đào tạo của Hội đồng Công lính, các Quan thầy của Hoàng Thiên Tiên Thánh Giáo ta hội đủ được phần nào những Thánh ý tốt đẹp trên, chúng ta có thể trao phó số phận tâm linh của mình để cho các Quan thầy hướng dẫn, từ đó làm bàn đạp để cho Thánh đức chuyển hóa và tất nhiên khi chúng ta chuyển hóa một cách rốt ráo rồi, chúng ta sẽ trở về bên đức Mẹ một cách nhanh chóng ngay trong cuộc sống này.
Trích sách “Bản mệnh và căn đồng” 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *