Thuật ngữ cơ bản của Phong Thủy

Thuật ngữ cơ bản của Phong Thủy
Thuật phong thủy có một số thuật ngữ thường dùng, lý giải mất nhiều thời gian. Nay liệt kê một số và giải thích sơ lược:
Bát sơn (8 núi): 

Càn sơn, Khôn sơn, Ly sơn, Tốn sơn, Chấn sơn, Đoài sơn, Khảm sơn, Cấn sơn; Dùng bát quái phối hợp với Sơn để đoán cát hung (lành dữ).

Bát phong (8 gió): 

Gió của các phương hướng trước, sau, trái, phải, hai vai, hai chân (cộng là 8 hướng); Bát phong chủ lành dữ của người.

Tam nguyên (3 nguyên): 

Chu kỳ một ngày của phong thủy là 180 năm, Giáp Tý thứ nhất 60 năm là thượng nguyên, Giáp Tý thứ hai 60 năm là trung nguyên, Giáp Tý thứ ba 60 năm gọi là hạ nguyên, Gọi gộp là tam nguyên.

Hạ thủ sa: 

Còn gọi là Hạ quan, Hạ tý, Bất kể là Đông Tây Nam Bắc, hễ xuất thủy về một phương thì đều gọi là hạ thủ. Hễ hạ thủ mà có Sa, thì kết phát. Chỉ cần ở hạ thủ một núi đón được núi thượng thủ (thượng thủ sơn) đi qua, là đất kết (cát địa). Dòng chảy trước huyệt rẽ trái là hạ thủ. Dòng chảy trước huyệt rẽ phải, thì bên phải là hạ thủ. Dòng chảy trước huyệt qui bên phải, thì bên phải là hạ thủ. Nếu tả tý nhất sơn nghịch thủy dài hơn hữu sơn, ôm lấy sơn thủy bên phải; nếu hữu tý nhất sơn, nghịch thủy dài hơn tả thủ, ôm lấy sơn thủy bên trái, thì gọi đó là nghịch quan, chủ tài lộc. Nếu như hạ thủ núi ngắn, ôm không kín thượng thủ sơn, thì trở thành huyệt giả. Hạ thủ trùng điệp, chen chúc, thì kết càng to. Hạ thủ mà không thoáng, thì không tìm huyệt làm gì nữa.

Thổ tinh sơn: 

Lời quyết: “Thổ tinh cao, to, dầy và đoan trang, nhìn dáng sống trâu tựa bình phong”.

Thiên bàn: 

Tức la bàn, hoặc la kinh. Hồ Trọng Cung (Tống) trong “Vi hàng mạn du cảo – Đàm tinh lâm hán lưu thuật thi”, viết: “Quân bần mãi thuật ngã mãi văn (bác nghèo phải hành nghề phong thủy, tôi bán văn chương), Quân bần tự ngã bần nhất phân (bác cũng như tôi, nghèo rớt mùng tơi). Quân hiệp thiên bàn tẩu hồ hải (bác cặp nách chiếc la bàn đi khắp nơi), ngã huề phá nghiên đăng thanh vân” (tôi xách nghiên vỡ bay lên trời xanh). Đối lại thiên bàn là địa bàn. Thiên bàn dùng để đo ánh nắng mặt trời.

Khai sinh phần (sinh phần): 

Người chưa chết đã tìm đất để xây phần mộ.

Mộc tinh sơn: 

Câu quyết: “Mộc tinh lừng lững thấy mà kinh, đổ xuống đất người ta thấy như một cây gỗ nằm ngang”.

Nguyệt kị: 

Nông lịch (âm lịch), ngày mồng 5, 14, 23, là những ngày nguyệt kỵ. Chiếu theo hào tượng và cửu cung, thì mồng 1 đến mồng 9, tuần tự vào cung 1 đến cung chín, mồng 5 là trung cung, vị trí của sao cao nhất, chí tôn, làm việc gì cũng không nên. Từ mồng 10 đến 19, tuần tự nhập cung 1 đến cung 9, ngày 14 là trung cung. Từ đó suy ra, ngày 23 cũng là trung cung, đều phải hồi tự (tránh).

Phụ Mẫu sơn: 

Núi nguy nga sau huyệt.

Thiếu Tổ sơn: 

Núi gần huyệt. Hỏa địa chổ đất nhà dễ bị cháy.

Hỏa tinh sơn: 

Lời quyết: “Hỏa tinh tác tổ tự liên hoa (hỏa tinh là tổ thì như hoa sen), tham cự tương thừa tể tướng gia (tham lớn nên đảm nhiệm công việc của tể tướng)”.

Thủy khẩu sa: 

Núi hai bên thủy khẩu. Thủy khẩu không có sa, thì dòng nước chảy tuột đi, không tốt (cát). Chỗ thủy khẩu, núi ken nhau dày đặc như hàm răng chó, như đàn hạc đứng thành bầy, quẩn quanh, trùng điệp, dài hàng mấy chục dặm, thì đại cát. Nếu có Hoa biểu, Hãn môn, La tinh, Bắc thần thì càng tốt. Loại địa hình này biểu thị dòng chảy tình ý hướng nội, đi một bước ngoảnh lại nhìn, không nỡ rời xa.


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *