Untitled Post

Phép Đoán Mộng và Tướng Mạng Mộng Bốc (Huyền Mặc Đạo Nhân)

PHÉP ĐOÁN MỘNG


Lời Nói Đầu

Những ý thức hệ tôn giáo, chù nghĩa độc tôn thường ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư tưởng của con người. Mọi khám phákhoa học, mọi tư tưởng trái ngược với ý thức hệ tôn giáo, chù nghĩa độc tôn đều bị lên án và phải diệt trừ. Ngày nay khoa học đã đạt được nhiều thành quả trong mọi ngành với nhiều phát minh, khám phá kỳ diệu; Nhưng thực ra, còn nhiều điều khoa học chưa giải thích nỗi như giấc mơ, có linh hồn hay không?

Những tiến bộ khoa học đã đẩy lui đi phần nào quan niệm thần thánh, mê tín dị đoan của con người. Nhưng xã hội càng văn minh, cuộc sống của con người càng ngày càng có mối quan hệ phức tạp và biến động. Do đó con người cũng muốn biết số mệnh kể cả những người có học thức cao. Từ quan niệm số mệnh, hầu hết các dân tộc trên thế giới đều lưu truyền các hình thức bói toán (khoa tử vi, xem tướng, xem chỉ tay…). Có những nhà khoa học không tin giá trị của môn bói toán. Họ cho những người tin bói toán là mê tín.

Sự thật có nhiều điều, nhà khoa học chưa hiểu rõ, không giải đáp được thì không thể hoàn toàn phủ nhận các sự kiện của người khác nêu ra. Chúng ta biết con người là một tiểu vũ trụ, khả năng của con người rất lớn, nhưng chúng ta tìm hiểu về nó chẳng bao nhiêu. Thực tế, con người có những khả năng kỳ diệu như sau:

* Thiên nhĩ thông (Clairaudience): Người có khả năng nghe được những âm thanh và những tiếng nói từ một nơi khác, không cần dùng đến tai.
* Thiên nhãn thông(Clairvoyance): Người có khả năng nhìn thấy được những những vật thể nằm ngoài phạm vi tiếp nhận của những giác quan con người.
* Trực giác(Intuition): Người có khả năng nhận biết được một kiến thức, một sự việc một cách tức thời, không cần thông qua sự lý giải, lý́ luận, phân tích của cái trí.
* Thấu cảm xúc(Clairsentience): Người có khả năng thấy được những biến cố quá khứ, hiện tại, tương lai qua “cảm giác”, khả năng nhìn thấu cảm xúc của người sống cũng như người chết. 

Những bộ môn Thiền của đạo Phật, Yoga…có thể đạt những thành quả trên, tùy theo mục đích, phương pháp tập, nhanh hay chậm, đạt được hay không phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Đặc biệt, với những người tập luyện giấc mơ có thể dùng ý nghĩ để vượt ra khỏi thân xác bị giới hạn vào một khoảng không gian và thời gian. Nghiên cứu những hiện tượng trên giúp cho ta hiểu biết về thế giới tâm linh. 

Tôi tin rằng không một nhà tiên tri nào có thể đoán đúng trong trò chơi sấp ngửa. Khi tôi tung đồng tiền lên, tôi có thể làm cho đồng tiền ngửa hoặc sấp theo ý mình. Nói như vậy các bạn hiểu đồng tiền có hai mặt giống nhau. Số phận phần lớn do mình quyết định. Các bạn phải tự tìm hiểu bí ẩn cuộc đời và thay đổi cái gốc số mệnh. Bạn có tin vào số mệnh hay không? Nếu bạn không tin vào số mệnh, bạn có thể thay đổi cuộc đời không? Nếu bạn tin vào số mệnh, bạn có thể thay đổi số mệnh không? Tôi tin vào số mệnh, tôi có thể thay đổi số mệnh. Người ta thường nói: “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Biết trước bao giờ cũng tốt hơn là không biết. Biết số mệnh sẽ tìm cách hóa giải để được bình an. Biết số để cải số. Phải biết làm điều thiện tránh việc ác. Hãy cố gắng làm hết sức mình rồi Trời sẽ giúp cho.

Tôi biết việc nghiên cứu tử vi, chỉ tay, và nhân tướng học mất rất nhiều thời gian; Kết quả chưa thật tối ưu. Tôi tìm phương cách khác, giấc mơ sẽ giải đoán tương lai của tôi bởi vì nó quá dễ học, ngay cả người mù chữ. Bạn không tin giấc mơ có thể tiên đoán tương lai; làm sao có giấc mơ tương lai. Bạn phải tập trung, thực hành và kiên nhẫn để có một giấc mơ tương lai. Tôi đã nghe nói: “gieo một suy nghĩ, gặt một hành động; gieo một hành động, gặt một thói quen; gieo một thói quen, gặt một tính cách; gieo một tính cách, gặt một số phận.”. Tôi luôn luôn suy nghĩ về giấc mơ. Giấc mơ đóng vai trò quan trọng đối với tôi vì nó dạy cho tôi hiểu biết về những gì là điều thiện, điều ác, báo động trước các bệnh tật xảy đến, tiên đoán một biến cố nào đó sắp xảy ra trong tương lai gần hoặc xa.

Sự vật luôn biến đổi, vật này mất đi rồi vật khác được sinh ra, hình thể này biến thành hình thể khác. Không có gì tồn tại mãi mãi với thời gian. Hết ngày rồi sang đêm. Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông quay vòng tròn theo chu kỳ. Qua kinh nghiệm sống, con người nhận thấy không phải gắng hết sức mình là đạt được điều mình muốn. Cuộc đời thăng trầm nhiều khi dồn con người vào cảnh không xoay xở, khiến con người phải tin rằng có một bàn tay vô hình nào đó ảnh hưởng đến con người đó là số mệnh. Có những người học hành không ra gì mà cuộc đời giàu có; lại có những người tài giỏi gặp hoàn cảnh xã hội mà phải chịu cảnh nghèo đói. Biết bao nhiêu kẻ chết lúc 20, 30 tuổi. Vậy bạn có tin vào số mệnh hay không?

Số mệnh phụ thuộc những yếu tố nào?
Số mệnh một người được quyết định bởi 3 yếu tố: 
1- Do mình tạo ra ( cá tính, ý đồ …)
2- Ảnh hưởng môi trường ( chính trị, kinh tế, tôn giáo, chủng tộc… )
3- Định mệnh (Số phận không thay đổi được.)

Đối với tôi, yếu tố 3 là quan trọng nhất. Nếu bạn sinh ra mù lòa, bạn sẽ chết lúc 30 tuổi… bạn nghĩ sao? Chính vì vậy mà tôi phân vân về điều này, tôi đã tìm một phương cách khám phá số mệnh, đó là giấc mơ. Biết số mệnh sẽ tìm cách hóa giải để được bình an. Không ai có thể cứu giúp được ta ngoại trừ chính ta. Ta có thể thay đổi yếu tố 1 và tránh né yếu tố 2 được, do lòng nhân ái, hiểu biết, nhẫn nhục, khoan dung, thành thật, rộng lượng và những đức tính tốt khác. Thượng đế thay đổi yếu tố thứ 3.
Như thế ta có thể kết luận rằng con người có khả năng sửa đổi số mệnh do chính ta và sự giúp đỡ Thượng đế. Tiên đoán chính xác 100% không phải là điều tốt bởi vì khi anh nằm mơ thấy anh chết 30 tuổi anh nghĩ sao? Ngày mai, anh bị xe đụng anh nghĩ sao? Đối với tôi tiên đoán chính xác không phải là điều chính yếu, điều quan trọng nhất chúng ta chuyển họa thành phúc.

Làm thế nào để tiên đoán chính xác.
Bạn có bao giờ tự hỏi:
• Giấc mơ có ý nghĩa gì trong đời sống (học một nghề mới, sáng tạo, giải quyết các vấn đề…)
• Bạn có bao giờ tin giấc mơ tiên đoán tương lai không.
• Giấc mơ có thể làm thay đổi được tương lai không.
• bạn thường nhớ giấc mơ không.
• Bạn có nhớ những giấc mơ trong qua khứ không.
• Bạn có bao giờ kể giấc mơ cho ngươi khác nghe không.

Có nhiều cách khác nhau để tiên đoán tương lai. Hầu hết chúng ta đã có ít nhất một giấc mơ đúng sự thật. Đối với tôi, cách dễ nhất để tiên đoán tương lai là giấc mơ. Ngay cả những người mù chữ có khả năng tiên đoán tương lai một cách chính xác hàng trăm sự kiện. Coi phim trên TV là trắc nghiệm giấc mơ của mình. Trước khi đi ngủ, bạn suy nghĩ bộ phim ngày mai. Bạn mơ gì về bộ phim đó, hãy nhớ cảnh, con người. Xem cảnh, người trong giấc mơ có đúng trong bộ phim đó không, nếu đúng bạn đã thành công. Bạn phải tập trung, thực hành và kiên nhẫn cho đến khi bạn thành công lần đầu tiên. Bạn có thể học, áp dụng giấc mơ trong cuộc sống của bạn. Vấn đề đó chỉ thế thôi. 

Hầu hết chúng ta dành một phần ba cuộc sống cho giấc ngủ. Trong giấc ngủ, chúng ta mơ thấy những cảnh tượng diễn ra muôn hình vạn trạng, có những giấc mơ khiến con người ta hy vọng, có những giấc mơ làm cho không ít người thất vọng. Chúng ta cần biết giấc mơ để hiểu được quá khứ, tương lai.

Giấc mơ là gì?
Giấc mơ là một loạt các hình ảnh, ý tưởng, cảm xúc, và cảm giác xảy ra vô thức trong trí óc khi ngủ.
Phân loại giấc mơ
Cổ Nhân dựa vào nội dung của giấc mơ để chia chúng ra làm 15 loại :
1. Trực mộng: Mộng thấy cái gì sẽ___ thấy ngay trực tiếp vào hôm sau. Mộng thấy ai thì ngày mai sẽ gặp người ấy.
2. Tượng mộng: Nội dung giấc mộng biểu hiện thông qua hình thức tượng trưng. Mộng thấy rồng vào cửa nhưng thực tế không có như vậy cho nên mang tính cách tượng trưng. Thí dụ như: “Mộng thấy rồng vào cửa” tra trong “Tập sách đoán mộng của người xưa” cho rằng: “Mộng thấy rồng vào cửa, được tiền nhiều.”. Những gì chúng ta thấy trong giấc mộng mang tính cách tượng trưng.
3. Nhân mộng: Mộng do liên quan đến cảm giác của cơ thể người trong khi ngủ. Ngũ quan bi kích thích trong lúc ngũ. Trong lúc ngủ, vô tình tay của bạn đè lên một vật nhọn. Sự tác động vật nhọn đó không đủ làm bạn tỉnh giấc, nhưng có thể bạn sẽ gặp giấc mơ bị chó, mèo, một con vật nào đó cắn vào tay bạn.
4. Tưởng mộng: Được tạo ra từ ý tưởng con người. Mộng do tâm lý bức thiết , đòi hỏi cao độ thỏa mãn một nguyện vọng nào đó tạo thành. Ngày ngày bạn nhớ tới một người nào đó nên ban đêm bạn mộng thấy người ấy đang ở bên cạnh bạn vậy.
5. Tinh mộng: Mộng hình thành do trạng thái tinh thần của con người. Hàng ngày nghĩ đến luật nhân quả đạo Phật cho nên mộng thấy Đức Phật.
6. Tính mộng: Là loại mộng hình thành do tính cách con người. Người gặp may mắn mộng thấy những hiện tượng tốt đẹp như thực hiện được những công việc khó khăn, chiến thắng đối thủ bằng những hành động khéo léo khôn ngoan. Ngược lại người gặp thất bại mộng thấy mình chạy trốn bán sống bán chết trước kẻ thù hay không vượt qua những trở ngại khó khăn.
7. Nhân mộng: Mộng được dẫn giải tùy theo nhân cách, địa vị, phẩm hạnh của con người. Cùng một giấc mơ nhưng ý nghĩa sẽ khác nhau từng người. Mông. Như thương nhân, học sinh, cán bộ… Chiêm bao cỡi ngựa.
8. Cảm mộng: Mộng được hình thành do khí hậu. Trời mưa, nắng, lạnh, gió kích thích con người trong lúc ngủ, khiến con người có cảm giác trong mộng buồn chán, nổi loạn…
9. Thời mộng: Mộng hình thành do thời tiết trong năm. Mùa Xuân mộng thấy phát sinh, phát triển, mùa Hạ mộng thấy cao ráo sáng sủa, mùa Thu mộng thấy thu hoạch, mùa Đông mộng thấy nước chảy. 
10. Phản mộng: Mộng hình thành trái ngược với sự thật. Như mơ thấy hung là may mắn, thấy chết là sống.
11. Tịch mộng: Người xưa cho rằng Thượng Đế, Thần Thánh, Tổ Tiên, có khi là những người nào đã khuất mượn giấc mộng khuyên nhủ, dặn bảo.
12. Ký mộng: Mộng hình thành do sự cảm ứng giữa con người. Mình mộng thấy người khác, người khác mộng thấy mình.
13. Chuyển mộng: Mộng không có thứ tự, các chi tiết trong mộng chuyển đổi đột ngột, đang khóc hóa cười, đang leo núi lại lội sông.
14. Bệnh mộng: Nó tương tự như nhân mộng nhưng có phạm vi hẹp hơn chủ yếu là báo bệnh tật. Nếu mộng thấy lửa, gan của bạn bị suy yếu.
15. Quỷ mộng: Đặc tính làm cho người ta kinh hoàng. Người gặp quỷ mộng thấy quỷ uy hiếp, chọc ghẹo khiến người ta sợ hãi. Lúc đó tứ chi không động đậy được, đợi một lúc lâu mới hoàn toàn tỉnh lại được. Trên thực tế khó phân biệt được bởi vì chúng dễ trùng hợp.
ó nơi phân mộng làm hai loại: Cát mộng, hung mộng.
– Cát mộng: Mộng báo niềm vui như cây đầy trái chín thì tốt, Cửa nhà sửa mới gặp điều lành.
– Hung mộng: Mộng mang lại những điều không hay như Cây to bị gảy gặp điều hung, người xa đến khóc gặp điềm hung.
[FONT=&quot]Giải đoán giấc mơ thì rất phức tạp. Do đó phán đoán cát, hung cần phải thận trọng khi giải đoán
âu chuyện dưới đây sẽ được phân thành ba loại giấc mơ. 
Một con bướm bay trong gió nhẹ, trên không trung bay lượn tung tăng, khi thì bay thấp bịn rịn giữa những đóa hoa; khi thì bay cao nhìn núi nhìn cây, tự tại nhàn nhã vô cùng. Đột nhiên, một trận trời rung đất động, thân mình con bướm trở nên nặng nề, biến thành ông Trang Châu. Chính ngay lúc này, Trang Châu từ trong mộng tỉnh dậy, ông ta nằm mơ thấy mình biến thành con bướm.
Nhưng, không biết là Trang Châu nằm mơ thấy mình biến thành bướm, hay con bướm nằm mơ thấy mình biến thành Trang Châu?
Tôi giải thích ý nghĩa giấc mơ Trang Châu.
1. Giấc mơ tương lai: Ông sẽ thấy bướm.
2. Giấc mơ quá khứ: Ông đã thấy bướm.
3. Những giấc mơ khác: Thuyết luân hồi, hoặc Trang Châu không biến thành bướm (giấc mơ thường trái ngược), hay bướm là một biểu tượng của tính dễ thay đổi, lãng mạn, tình yêu…
Chúng ta thấy mọi thứ trong giấc mơ, nhưng nghệ thuật cần thiết để phân loại và hiểu giấc mơ. Ý nghĩa những giấc mơ chỉ được biết đến bởi người đó mơ.
[FONT=&quot]Sơ đồ dưới phân loại một giấc mơ[/FONT] 1. Giấc mơ tương lai: Những sự kiện sẽ___ xảy ra.
2. Giấc mơ quá khứ: Những sự kiện đã xảy ra.
3. Những giấc mơ khác: Những bí mật của vũ___ trụ (thuyết luân hồi, thiên
đường, địa ngục…), Giải mã giấc mơ.
Quá trình phân loại được chia thành ba giai đoạn:
1. Bạn sẽ được học những gì với giấc mơ tương lai.
Giấc mơ tương lai phải dựa trên luật khoa học, kinh nghiệm quan sát. Bạn không nên mê tín. Những gì tôi nhìn thấy trong giấc mơ là những gì tôi nhìn thấy trong cuộc sống thực bởi vì kinh nghiệm quan sát.
Những điều bạn có thể làm để có giấc mơ trong tương lai.
• Tự nói: “Tôi tin rằng giấc mơ có thể tiên đoán tương lai”.
• Trước khi đi ngủ, bạn tập trung vào hình ảnh, các câu giải đáp trong mẫu giấc mơ đặc biệt.
• Đừng viết chúng xuống khi bạn tỉnh dậy. Bạn cố gắng tập trung những gì tốt nhất để nhớ lại nó.
• Bạn không thể nhớ hầu hết các giấc mơ của mình trong buổi sáng, bạn có thể chọn những gì đặc sắc nhất cần để nhớ.
• Bạn so sánh những giấc mơ với những điều thực tế. Vì vậy, bạn có thể rút ra bài học kinh nghiệm từ các giấc mơ của bạn.
• Bạn không nói cho mọi người về giấc mơ của bạn. Hãy thực tập để trở thành một người nằm mơ thành công.
Đây là một giấc mơ học một nghề
Trước khi đi ngủ, tôi cố gắng suy nghĩ học một nghề vào năm 1995. Tôi mơ thấy một ông thầy nói World Wide Web rất quan trọng cho thế giới . Tỉnh dậy, tôi không biết World Wide Web là gì? Tôi tra cứu biết nó là một phần của Internet. Tôi quyết định học World Wide Web. 
Tôi ghi danh học lớp Internet đầu tiên vào năm 1998. Khám phá thấy hình ảnh ông thầy dạy Internet chính là hình ảnh trong giấc mơ. Tôi tìm các lớp liên quan tới Internet để ghi danh theo học (ngôn ngữ lập trình Web, thiết kế trang web, an ninh về web, sự tìm kiếm trên web).
Giấc mơ sống ở nước ngoài
Trước khi ngủ, tôi tập trung nghĩ đến việc đi ra nước ngoài. Tôi tìm mối liên kết nào đó cho thấy tôi sống ở nước ngoài. Một ngày, tôi mơ thấy những người đang ngồi xung quanh tôi là người da trắng, da đen, da đỏ. Tôi tin rằng tôi sẽ di cư đến Hoa Kỳ. Mười năm sau, tôi phát hiện ra hình ảnh người da trắng, da đen, da đỏ ngồi xung quanh tôi ở Hoa Kỳ chính là hình ảnh trong giấc mơ. Tôi biết những giấc mơ có thể dự đoán tương lai vì những gì tôi nhìn thấy trong giấc mơ là những gì tôi nhìn thấy trong cuộc sống thực.
Thomas Edison đã thất bại hơn 10.000 lần trước khi phát minh ra được bóng đèn điện. Khi ông được hỏi làm thế nào mà ông tiếp tục được. Edison đã trả lời rằng : “Sao, tôi không thất bại. Tôi đã tìm ra 10.000 cách không thể phát minh ra được bóng đèn điện.” Ông không bao giờ xem những thử nghiệm của mình là thất bại. Vạn sự khởi đầu nan. Do đó bạn phải tập trung, thực hành và kiên nhẫn cho đến khi bạn thành công lần đầu tiên. Những gì bạn nhìn thấy trong giấc mơ là những gì bạn nhìn thấy trong cuộc sống thực. Bất cứ người nào cũng có thể đạt được mức độ nói trên bằng cách luyện tập. Khi bạn tập trung tinh thần cao độ sẽ cho phép bạn biết và nhìn thấy được tất cả những gì bạn mong muốn.
2. Làm sao để hiểu giấc mơ quá khứ.
Giấc mơ quá khứ như một cuộn phim ghi một câu chuyện hay những sự kiện. Nó thể hiện dưới dạng những hình ảnh rõ rệt. Tất cả những gì chúng ta thấy trong mơ đều có vẻ như thật và diễn ra như đang xem phim. Thông qua những giấc mơ, bạn đã tìm cách phát hiện ra sự kiện thực tế từ quá khứ của bạn. Bạn phải học để biết giấc mơ riêng của bạn. Bạn phải chú ý một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong trí óc cho tới khi ngủ. Bạn sẽ vạch mặt nạ một người nào đó như kẻ nói dối, người lừa đảo…
Đây là một giấc mơ quá khứ về đơn thuốc quá liều
Mẹ tôi chảy máu mũi mỗi ngày. Tôi tự hỏi tại sao mẹ tôi chảy máu mũi? Trước khi đi ngủ, tôi suy nghĩ đến điều đó. Tôi mơ thấy bác sĩ cho đơn thuốc quá liều tối đa hàng ngày. Do đó mẹ tôi được đưa tới bệnh viện. Tại đây, bác sĩ cho biết mẹ tôi uống thuốc quá liều do đơn thuốc mà bác sĩ đã hướng dẫn. Bà ta phải nằm bệnh viện trong ba tháng để điều trị.
3. Làm sao để hiểu những giấc mơ khác.
Tôi sẽkhông đề cập đến thuyết luân hồi. Sau khi chết, linh hồn của loài người sẽ chuyển sinh từ cơ thể này qua cơ thể khác, từ dạng này qua dạng khác tùy theo những gì đã gây ra lúc còn sống. Thuyết luân hồi có hay không tùy theo quan điểm mỗi người. Nếu bạn có hàng trăm giấc mơ tiên tri bạn có thể biết những giấc mơ tái sinh. Nếu bạn làm việc khó nhọc vào ban ngày, buổi tối bạn ngủ thiếp đi và chẳng bận tâm đến bất cứ điều gì. Đó là lúc tâm trí bạn để đâu đấy không làm chủ được giấc mơ. Những người ngủ mơ dạng này, giấc mơ chỉ phản ánh những suy nghĩ và những gì xảy ra trong cuộc sống thực diễn ra với bạn. 
Nếu bạn có thể nhớ giấc mơ vào buổi sáng, bạn phải giải được ngôn ngữ giấc mơ mới hiểu ý nghĩa ẩn của nó bằng cách dùng “tập sách cổ đoán mộng” hoặc một quyển từ điển về giấc mơ. Từ điển giấc mơ được dựa vào kinh nghiệm riêng bạn, tức là biểu tượng trong mơ chỉ có ý nghĩa với bạn, vì chỉ có bạn mới hiểu được giấc mơ của mình. Bạn so sánh biểu tượng giấc mơ với cuộc sống thực và nhận biết nó. Bạn phải nghiên cứu các biểu tượng giấc mơ của người khác nữa. Từ điển giấc mơ dựa trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm bạn và thành quả của người khác. 
Khi sử dụng cuốn từ điển giấc mơ (tập sách cổ đoán mộng hoặc quyển từ điển về giấc mơ nào đó) để tra nghĩa các từ ngữ hay hình ảnh xuất hiện trong mơ. Chúng ta biết những giấc mơ giữa người này với người khác không thể giống nhau hoàn toàn. Giải đoán giấc mơ của một người để luận đoán thì khó. Đoán giấc mơ tùy theo tính cách, địa vị, giới tính…của người nằm mơ không nên câu nệ về sách đoán giấc mơ. Trước khi giải đoán một giấc mơ, các bạn phài theo những bước hữu ích sau đây:
* Lúc tỉnh dậy định thần người ta có thể nhớ lại được những chi tiết trong giấc mơ, chớ để đến chiều là quên mất. nhớ cảnh vật màu sắc, dáng điệu, hình dạng… để đoán khỏi sai lạc. Nếu bạn có nhiều hơn một giấc mơ, nhớ từng giấc mơ. Điều này sẽ giúp bạn nhớ thêm chi tiết. 
Nhớ học vài lần sự kiện cho nhập tâm
* Xem giấc mơ có phải do bên ngoài phát sinh trong lúc ngủ như trời lạnh không đắp chăn.
* Bạn có bệnh tật nếu trong lúc ngủ nếu thấy những cảnh nghẹt thở qua các giấc mơ báo trước về bệnh phổi, mắc bệnh viêm dạ dày sẽ nằm mơ thấy các thực phẩm thối.
* Ký ức đã làm cho bạn mơ như tuổi học trò thường mơ thấy trường lớp.
* Bản năng gây ra như thanh niên chưa lấy vợ mơ thấy những người đàn bà đẹp, quyến rũ… tới để ân ái với mình. Thèm ăn một món ngon nào đó, có thể mơ thấy chính món ăn đó. Sau đó các bạn hãy dùng cuốn từ điển giấc mơ mà tìm cách giải
mã giấc mơ của chính mình. 
[FONT=&quot]Ví dụ khi bạn mơ thấy mèo đen thì xấu vì mèo đen tương trưng kẻ xấu hoặc không may, bạn mơ thấy thầy dạy học sắp có chuyện vui. Tôi dành khoảng một phần ba cuộc sống cho giấc ngủ. Tôi hạnh phúc, tự do, và an bình trong giấc mơ. Giấc mơ đóng vai trò quan trọng đối với tôi vì nó dạy cho tôi hiểu biết về những gì là điều hay, lẽ phải.

 Phần 1 –
Mộng về: Trời, mặt trời, trăng, sao, mây, mưa, gió, sương, tuyết, sấm, sét.
– Cửa trời mở, có quí nhơn tấn dẫn
– Bóng trời sáng chiếu vô mình, trừ hết tật bịnh
– Trời đổ mưa mùa, tan hết trăm sự lo
 Trời sáng, đàn bà sinh quí tử
– Cửa trời đỏ, sẽ có sự phát đạt lớn
– Ngửa mặt chầu trời, giàu sang lớn
– Cỡi rồng lên trời, chủ về làm nên đại quí
– Lên trời kiếm vợ, có trai, gái sang
– Lên trời lấy đồ vật, tước vị tới vương hầu
– Bay lên trời, chủ về giàu, sang, mọi sự đại cát
– Trèo nóc nhà lên trời, đặng ngôi quan cao
– Trời rách, có sự lo chia nước
– Sao trên trời sáng, chủ về làm quan tới công khanh
– Trời tang tảng muốn sáng, mạng tốt tăng thọ
– Qua đò sông ngân hà, chủ về có sự tốt
– Trời hạp với đất, cầu chi đều đặng
– Sứ trời tới nhà, có điềm lành lớn
– Mặt trời, mặt trăng mới mọc, đạo nhà thạnh xương
– Mặt trời, mặt trăng chiếu vô mình, chủ về đặng ngôi trọng nhiệm
– Mặt trời lặn, điềm cha thác 
– Mặt trăng lặn, điềm mẹ thác
– Mặt trời, mặt trăng mờ tối, điềm tốt của đàn bà có thai
– Mặt trời, mặt trăng muốn mọc, sẽ làm nên quan chức
– Mặt trời, mặt trăng hội hiệp, vợ sẽ có con
– Mặt trời, mặt trăng ngậm núi, đứa ở gạt chủ, đầy tớ lường thầy
– Ôm, cõng mặt trời, mặt trăng, ngôi sang vương hầu
– Nut mặt trời, mặt trăng, sanh đặng con sang
– Lễ bái mặt trời, mặt trăng, điềm đại cát xương
– Bóng sáng mặt trời chiếu vô nóc nhà, ngôi quan sẽ tới
– Mặt trời mới mọc không có mây, điềm đại cát
– Mặt trời mọc có bóng sáng, có sự tốt lành
– Mây mở, mặt trời mọc, tan đặng sự dữ
– Mặt trời vô lòng, sanh con trai sang 
– Đốt nhang lạy trăng, sao, có sự đại cát
– Mây xảy che mặt trời, có sự âm thầm tư túi
– Ngôi sao vô lòng, chủ về sanh con sang
– Sao sa, có bịnh và việc quan
– Sao bày hàng, chủ về thêm con hầu, đầy tớ
– Cầm bắt ngôi sao, điềm giàu sang lớn
– Sao bay chẳng sa, chủ về dời chổ ở
– Đi tuần trên trời xoa ngôi sao, ngôi tới công khanh
– Mây khởi bốn phương, về việc mua bán thì tốt
– Mây ngũ sắc, điềm đại cát xương
– Mây đỏ hay là trắng, điềm lành
– Mây xanh hay là đen, điềm dữ
– Thấy mây nổi, làm việc chi cũng chẳng thành
– Thấy lúc mây mù giong giả, điềm đại cát lợi
– Mây đen tới đất, chủ về bệnh thời khí
– Sương tuyết xuống, chủ về sự chẳng thành
– Tuyết xuống đúng mùa, điềm đại cát lợi
– Tuyết sa trên mình, muôn sự đều nên
– Tuyết sa sân nhà, chủ về việc tang
– Tuyết chẳng ướt mình, chủ về hiếu phục (tang cha, me)
 a dầm tối mù, chủ về sự dữ
– Đi đàng gặp mưa, có tiệc ăn uống
– Sấm sét nổi tiếng, ngôi quan sẽ tới
– Nghe tiếng sấm sợ hãi, việc tư gia tốt
– Sấm do đất động, chủ về đặng toại chí
– Mình bị sét đánh, chủ đặng giàu sang
– Bóng điện chiếu vô mình, chủ có phước lành
– Cầu vồng đỏ hiện, có điềm tốt lành
– Cầu vồng đen hiện, có điềm hung dữ
– Bóng dáng đầy trời, trăm sự hoan hỷ
– Gió cuồng, mưa lớn, điềm người chết mất
– Gió thổi áo người, chủ về có tật bịnh
– Gió như gầm hét, chủ về có tin xa tới.

Phần 2 – 
Mộng về: Đất, đá, núi non, cây cối
– Đất động, điềm tốt dời ngôi quan.
– Đất rách, chủ về tật bịnh đại hung.
– Sửa trị san phẳng ruộng đất, điềm đại cát xương.
– Đất chỗ cao, chỗ thấp, chủ về có bịnh.
– Nằm tại trên hòn đá, chủ về điềm đại cát.
– Trong đất khí đen đùn lên, chủ về điềm hung.
– Vần hòn đá lớn, chủ về trong nhà có người giàu sang.
– Ngồi trên hòn đá, chủ về có lợi lộc đại cát.
– Thấy hòn đá lớn, yên ổn không có sự ưu nghi.
– Lên đèo ôm đá, quan chức thăng thiên.
– Tay giỡn hòn đá nhỏ, chủ về sanh đặng con sang.
– Mình vô trong núi, chủ về trăm sự tốt lành.
– Tự mình lấy đất, chủ về bị khinh dễ hổ nhục.
– Mình từ trên núi rớt xuống đất, chủ về mất ngôi cao.
– Lên núi sợ sệt, có lộc vị tới.
 n núi phá hoại, chủ về sự hung ác.
– Chơi xem núi cao: về mùa xuân, mùa hạ có điềm tốt.
– Đi chạy bờ đất, trừ đặng bịnh hoạn.
– Ở đậu núi cao, chủ về có sự mừng.
– Đi đàng núi đặng của, chủ về có phước lộc.
– Ôm đồ vật lên núi, sanh đặng con sang.
– Cày cấy trong núi, ăn vận phong túc.
– Cây khô lại nảy, con cháu thạnh hưng.
– Trên thềm đất lóm, chủ về mẹ có sự lo.
– Vườn tược tốt thạnh, điềm đại cát lợi.
– Cây cối khô chết, trong nhà chẳng yên.
– Nằm, ngồi trong rừng, tật bịnh muốn lành.
– Cây cối điêu tàn, chủ về người bị chết.
– Cây mọc trong rừng, điềm thêm quí tử.
– Thấy trồng cây cối, điềm đại cát xương.
– Mình lên cây lớn, danh lợi hiển dương.
– Lên cây xảy gãy, điềm có chết hại.
– Chia hoa với người, chủ về phân tán.
– Cây khô trỗ hoa, con cháu hưng thạnh.
– Cây lớn rớt lá, trong nhà tốt lành.
– Đứng tại dưới cây, nương bóng người sang.
– Cây mọc trên tay, có lo cha mẹ.
– Cây lớn xảy gãy, chủ về hung ác.
– Gánh cây tới nhà, có mừng được của.
– Muốn đốn cây lớn, điềm được của nhiều.
– Cây cỏ tốt thạnh, đạo nhà hưng long.
 Trong cửa mọc cây có trái, điềm sẽ sanh con.
– Cây tùng mọc trên nóc nhà, ngôi tới Tam Công.
– Trong nhà mọc cây tùng, việc nhà lần thạnh.
– Trong nhà mọc cây trắc, điềm đại cát lợi.
– Trước sân thấy tre gỗ, việc hỷ trùng trùng.
– Cây phong (cây bàng) mọc trên nóc nhà, trăm sự toại ý.
– Bông lan mọc trước sân, chủ về thêm cháu.
– Đi trong rừng cây có trái, chủ về được của.
– Vô trong vườn trái, điềm đại phát tài.
– Cây dâu mọc trên nóc nhà, sẽ có sự lo.
 Cây nhiều trái chín, con cháu bình an.
– Bẻ măng tới nhà, điềm có cháu ngoại.
– Ngó thấy cây măng, điềm thêm con cháu.
 Quét đất trừ phân, nghiệp nhà muốn phá.
– Phân đất chất đống, được tiền tài nhiều.

Phần 3 – 
Mộng về: Thân thể, mặt, mắt, răng, tóc

– Tự mình vận áo trắng, bị người ta mưu. 
– Chải đầu, rửa mặt, trừ bỏ trăm lo.
– Mình lạy tôn trưởng, điềm đại cát xương.
– Nơi mình đổ mồ hôi, chủ về hung ác.
 Muốn  bịnh, sâu bò ra, điềm được chức trọng.
– Nơi mình sâu bò, bịnh hoạn đặng an.
– Dây nhợ trói mình, điềm tốt trường thọ.
– Gông khóa tới mình, sẽ bị tật bịnh.
– Mình mập (béo) hay là ốm (gầy), đều là điềm xấu.
– Mặt đối với quan, chủ về đại cát.
– Trần mình không áo, điềm đại cát lợi.
– Đờn bà rẽ tóc, sẽ có tư tình.
– Đầu bạc, chủ về trường thọ, đại cát.
– Đầu mọc đôi sừng, có sự cạnh tranh.
– Đầu trọc, tóc rụng, đều là sự hung.
– Mặt mọc mụn nhọt hay là nốt ruồi, chủ về điềm xấu của con.
– Tóc đầu tự nhiên rụng, lo về con cháu.
– Tóc đầu lại mọc, chủ về thọ trường.
– Gội đầu, tắm mình, điềm đặng thăng quan hay là trừ tật bịnh.
– Rửa tay, rửa chân, lo cũ trừ hết.
– Mặt soi gương: sáng là tốt, tối là xấu.
– Gương bể (vỡ) soi người, chủ về phân tán.
– Tay chân nung thũng, huyết chảy ra, điềm đại cát lợi.
– Hớt đầu rẽ tóc, bị người âm hiểm mưu sâu.
– Rẽ tóc che mặt, việc quan tụng sẽ đến.
– Cắt gọt tóc đầu, trong nhà có sự hung.
– Lông mày cao tày người, lộc vị sẽ tới.
 Răng tự nhiên rụng đi, điềm xấu cha mẹ.
– Răng rụng lại mọc, con cháu hưng vượng.

Phần 4 – 
Mộng về: mão (mũ), đai, quần áo, giày vớ, (bít tất).

– Đội mão, thắt đai lên xe, làm quan muốn về.
– Tự mình đội mão, bịt khăn lên đầu, sẽ có điềm tốt.
– Gài trâm đội mão lên đài, chức vị thăng thiên.
– Quí nhơn cho mình khăn áo, sẽ có điềm lành.
– Đổi áo mão mới, lộc vị sẽ tới.
 Đốt hủy mão cân, muốn đổi chức quan.
– Mất mão cân đi, chủ về thối chức.
– Người cho mình đồ phẩm phục, gia thăng quan chức.
– Lượm đặng mão đai, lộc vị sẽ tới.
– Đàn bà đội mão thắt đai, chủ về sanh con trai.
– Rửa hốt, nhuộm áo, sẽ đặng chức quan mới.
– Cầm hốt, điềm quí nhân đại cát.
 Hốt bể (vỡ), điềm ưu nguy bất tường.
– Mình cho người đồ phẩm phục, chủ về được quan chức.
– Mình cho người đai hốt, chủ về hưu quan.
– Lưng đeo đai, chủ về việc quan rất tốt.
– Văn thơ dụng ấn, chủ về có thinh danh.
– Đeo ấn, chủ về sanh quí tử.
– Vận áo bào mới, chủ về thêm thê thiếp.
 Vận áo gấm vóc, con cháu vinh huê.
– Giặt giệm y phục, đều là điềm đại cát.
– Vận áo tơi, chủ về có ơn lớn tới.
– Bị dầu dính áo, chủ về đội ơn vua.
– Y phục muốn rách, vợ có ngoại tâm.
– Áo mới lợt màu, trăm sự đều xấu.
– Cho người y phục, chủ về có ơn tới.
– May áo hay là vận áo tang, đều là điềm tốt.
– Áo đai tự nhiên cởi ra, trăm sự đều lành.
– Vận áo vàng, áo bào, đều là điềm tốt.
– Vận áo trắng, chủ về có người mời.
– Vận áo xanh, thần nhơn trợ lực.
 Vận áo thêu màu lam, vợ có đại lợi.
– Mọi người vận áo tía, chủ về sanh ra tình tệ.
– Mọi người vận áo xanh, người nhà lìa tan.
– Mọi người vận áo trắng,chủ về có việc quan.
 Mọi người vận áo hường, điềm cát lợi lớn.
– Vợ vận áo chồng, đim sanh quí tử.
– Đàn bà vận áo lam, trị bình gia sự.
– Cho người vận chung áo, vợ có tư tình.
– Mất y phục đi, điềm vợ khó đẻ.
– Chăn, (mền) tốt tự đắp mình, điềm được giàu sang.
– Người đi giày của mình, vợ có trai ngoại.
 Bắt đặng giày hia, chủ về có đầy tớ con đòi tốt.
 Mình mất giày đi, chủ về tôi mọi trốn chạy.
– Tháo giày, thắt đai, chủ về có sự xấu.
– Giày rách, con cháu hay là thê thiếp bị đau.
– Đi giày gai, trăm sự hòa hiệp.
– Mới trao quan phục, chủ về sanh quí tử.
– Xin đặng giày hia, có người giúp sức.
[FONT=&quot]- Guốc gỗ trút ra, mình thoát khỏi tai ách.[/FONT]

 Phần 5 – 
Mộng về: Dao, gươm, cờ, phan, chuông, trống
– Thấy nghi vệ vua, có điềm tốt lạ.
– Thọ ban cờ xí, điềm cát lợi lớn.
– Ôm cờ tinh cờ tiết, có quí nhân phù trợ.
– Cờ dẫn vô núi, chủ về điềm hung.
– Dàn gặp cờ lọng, điềm đại cát lợi.
– Cờ lọng che mình, chủ về phú quí.
– Cờ phan nghinh tiếp, điềm phú quí lớn.
– Cờ phan ra hết, chủ về tật bịnh.
– Tay cầm tinh tiết, chủ về có ân thưởng.
– Lọng trắng che mình, điềm đại cát lợi.
 Chia dù cho người, chủ về phân tán.
– Thấy người làm cờ mới, điềm đại cát lợi.
– Tôi dao ra đi, chủ về điềm đại cát.
– Dùng dao của người, người đi sẽ về.
– Người cho ba dao, làm quan chủ tỉnh.
– Chém nhau với người, có phước lành lớn.
– Bị dao chảy máu, điềm được ăn uống.
– Cầm dao đâm người, chủ về thất lợi.
– Dao chém tự mình bị thương, điềm cát lợi lớn.
– Được dao búa của người, lộc vị sẽ tới.
– Dao rớt xuống nước, thê thiếp chết mất.
– Thất lạc dao gươm, chủ về phá của.
– Đeo dao gươm đi, điềm có tài lợi.
– Mài dao gươm bén, điềm có đại lợi.
– Mình mở dao gươm, thuộc về điềm xấu.
– Gươm ở đầu giường, điềm đại cát lợi.
– Đàn bà đeo gươm, có phước lành lớn.
– Đàn bà lót dao, chủ về có con.
– Cầm kéo, cắt đồ, chủ về sự được của.
– Coi thấy cái kéo, chủ về chia của.
– Kéo cắt gảy vế, thê thiếp bị hung.
– Giáp trụ che mình, chủ về cát lợi.
– Thấy ngọn giáo đâm, ngôi quan cát lợi.
– Thấy quân binh thua, chắc có sự hung.
– Chuông khánh có tiếng, người xa sắp về.
 Chuông trống kêu vang, phước lộc đem lại.
– Đánh trống có tiếng, người đi sẽ về.
– Thấy trống tiếng hay, có sự vui vẻ.
 Phần 6 – 
Mộng về: Vua, Quan, Tiên, Phật, đòi gọi.
– Vua chúa đòi gọi, chẳng có sự sợ thì có sự mừng. 
 Hậu phi đòi gọi, có yến ẩm hay là có tật bịnh.
– Thái tử đòi gọi, điềm cát lợi mừng lớn.
– Vua đòi cho ngồi, điềm tốt về phát tài.
– Thấy lão quân (tiên) nói, có phước phận thành tiên.
– Lạy Phật muốn động, điềm phát tài lớn.
 Yết Thái Thượng (tiên) tâu bày công chuyện, điềm đại cát lợi.
– Thần, Phật giận quở, đều điềm chẳng lành.
 Đồng ngồi với vương hầu, điềm đại cát lợi.
– Cầu yết quí nhơn chẳng đặng, thuộc về điềm xấu.
– Nói chuyện với thánh hiền, thuộc về điềm tốt.
– Sứ mạng vô cửa, điềm đại cát lợi.
– Người áo trắng triệu làm sứ, chủ về tử vong.
– Lạy người tôn trưởng, có phước đại cát.
– Thấy tổ khảo nói đòi ăn, thuộc về điềm tốt.
– Người biểu mình tốt lắm, tức là điềm xấu.
– Người biểu mình chết đi, tức là sống lâu.
– Người ở ngoài kêu mình ra, thuộc về điềm xấu.
– Người biểu chẳng dùng mình, tức là điềm tốt.
– Nói với người ác, có sự khẩu thiệt.
– Bị người giết hại, điềm tốt.
– Náu núp, đim xấu.
– Mình mọc lông cánh bay, điềm đại cát lợi.
– Mình trốn đi được thoát, tật bịnh hết trừ.
– Mua bán đổi lộn với người, chủ về có tật.
– Bần cùng ở lính, chủ về đại cát.
– Hiệp bạn cùng đi, sự hung sẽ tới.
– Phần 7 – 
Mng về: Cung điện, thành quách, cửa nhà, kho đụn.
– Đi vô cung vua chúa, chủ về đại cát.
– Bái yết trong trào đình, chủ về giàu sang.
– Vô phủ vương hầu, điềm đại cát lợi.
– Đi tới đạo cung thấy tiên, vận đại hanh thông.
– Ngồi trong cung phủ, chủ về đại cát.
– Thấy miễu thần rộng lớn, mọi việc đều lành.
– Lên lầu gác đền đài, đều là điềm đại cát.
– Trèo lên thềm cao, điềm đại phú quí.
– Lầu cao uống rượu, phú quí tới nơi.
– Nhà cất lầu cao, gia sự yên ổn.
– Lên thành bị người lôi kéo, thuộc về điềm lành.
 Lên thành bị người bắt, quan chức hiển vinh.
– Thành quách rộng lớn, mừng có của nhiều.
– Đi trong thành, điềm xấu.
– Ra cửa thành, điềm tốt.
– Khắp thành sắc xanh, chủ về có tin mừng.
– Lên thành quách đỏ, chủ về sự đại cát.
– Lợp nóc nhà trên thành, điềm đại cát lợi.
 n nóc nhà, chủ về điềm giàu.
– Ra ngoài vườn, chủ về điềm tốt.
– Lên nóc nhà phá hoại, gia đạo suy đồi.
– Trên thềm có quan tài, thân đặng an lạc.
– Nơi chánh đường đổ lún, chủ nhà bị hung.
– Phủ lợp nóc nhà, điềm tốt về trường thọ.
– Cửa nhà đổi mới, điềm tốt về vận nhà trùng hưng.
– Gió thổi nóc nhà động, chủ về dời đổi chổ ở.
– Dời vô nhà mới của người khác, thuộc về điềm tốt.
– Chổ ở đuổi nhà ra, vợ có sự mừng.
– Dọn dời nhà nát, chủ về có vợ đẹp.
– Có người cầm phòng cho mình, chủ về đặng ngôi quan.
– Dạo nhà bần cùng, đim đại cát lợi.
– Tưới quét cửa nhà, người xa sẽ về.
– Cầm bán ruộng nhà, chủ về mất ngôi.
– Nhà vắng không người, chủ về chết mất.
– Mình chui luồn dưới nóc nhà, có sự ám muội.
– Qua nhà, vượt tường, sự nguy hiểm bỏ đi.
– Tranh nhà với người, chủ điềm rất xấu.
– Tranh nhà với đàn bà, chủ về điềm tốt.
– Rường phòng xảy gãy, chủ về điềm rất xấu.
– Sân nhà lóm xuống thành hố, chủ về tử vong.
– Vợ với trai ở dưới tường, ngôi quan trong cung sẽ tới.
– Đào đất trên tường, chủ về sự thay đổi.
– Người lính vô nhà, chủ về điềm rất tốt.
– Bị chết vì ngói rớt, đờn bà có sự tranh đấu.
– Trong nhà đẻ ngựa, tin con trai tới.
– Trong nhà mọc cỏ, nhà muốn không hư.
– Trên nóc nhà mọc cây tùng (cây thông), cây bách (cây trắc), điềm thêm tuổi thọ.
– Sửa sang ruộng nhà, có sự rất tốt.
– Vô trong chùa chiền, điềm sanh quí tử.
– Trong chùa có kinh, người đau hết bịnh.
– Dời đổi chùa chiền, tật bịnh sẽ tới.
 Khởi lập kho đụn, phước lộc tới nơi.
Vô trong kho đụn, điềm đại cát xương.
[FONT=&quot]- Kho đụn đổ nát, trăm sự đều hung.[
 Phần 8 – 
Mộng về: Cửa, cổng, giếng, bếp, cầu tiêu (chuồng xí)
– Cửa cổng cao lớn, chủ về phú quí.
– Mới mở cửa cổng, đim đại phú quí.
– Cửa cổng xảy mở, chủ về đại cát.
 Cửa cổng mở lớn, điềm đại cát lợi.
– Cửa nhà đổi mới, điềm sanh con sang.
– Cửa tự nhiên mở, vợ có tư tình.
– Cửa cổng  mở, chủ về đại cát.
– Cửa cổng bể nát, có sự hung tai.
– Cửa thành mở lớn, có điều khẩu thiệt.
– Cung thành lấp lại, điều khẩu thiệt tới.
– Cửa cổng đóng lấp, mọi sự chẳng thông.
– Cửa cổng phá hoại, chủ về đại hung.
 Cánh cửa tự nhiên gãy, tôi mọi chạy mất.
– Trong cửa cổng không người, thuộc điềm đại hung.
– Sửa dời cửa cổng, điềm đại cát lợi.
– Đá làm cửa cổng, thọ mạng lâu dài.
– Trước cửa mọc cỏ, làm quan chủ tỉnh.
– Trước cửa thành ngòi, thành hố, làm việc chẳng nên.
– Thiên hỏa đốt cửa, chủ về sự hung.
– Mái cổng có cửa nhỏ, chủ về tư tình.
 Đào giếng thấy nước, tin xa sẽ về.
– Giếng tự nhiên hủy hoại, trong nhà có sự đại hung.
– Trong giếng sôi trào, chủ về được của.
– Trong giếng khô cạn, tán hết gia tài.
 Trong giếng chiếu mình, lộc vị đem tới.
– Mình sa trong giếng, tật bịnh đại hung.
– Nhà ở trong giếng, chủ về tật bịnh.
– Lấy nước trong giếng, điềm cát lộn hung.
– Nước giếng đội bùn, chủ về xuất của.
– Trong giếng muốn khô, nhà sắp đồi bại.
– Trong giếng có cá, chủ về thân sang.
– Dòm giếng có tiếng, điều khẩu thiệt tới.
– Núp giấu trong giếng, có sự hình ngục.
– Say rớt trong giếng, sẽ có việc quan.
– Nhà đậu trong giếng, con trưởng bị hung.
– Người đi ra giếng, tin mừng sẽ đến.
– Khơi giếng, xây giếng, chủ về đại quí.
 Đồ đạc rớt xuống giếng, chắc có sự gấp.
– Dưới bếp nước chảy, sẽ có của ngang.
– Dưới bếp cháy lửa, chủ về có thinh danh.
– Trong bếp nồi bể (vỡ), có điềm tử vong.
– Dưới bếp thổi lửa, cửa nhà phá tan.
– Dưới bếp đồ kêu, chủ về khẩu thiệt.
– Nhà có hai bếp, làm việc chẳng thành.
 Tu tạo nhà bếp, điềm đại cát lợi.
– Ở trong bếp quan, điềm được tài lộc.
– Tự mình thổi nấu bằng cối, điềm thê thiếp thác.
– Khơi cầu tiêu, chủ về được của ngang.
– Lên cầu tiêu ở trong phẩn tiện, điềm tốt.
– Trong cầu tiêu phân dật lên, điềm đại cát lợi.
– Ngồi trong đống phân, chủ về đại hung.
[FONT=&quot]- Phân đất chất đống, chủ về được của
Phần 9 – 
Mng về: Vàng bạc, châu ngọc, vóc lụa.
– Của báu vàng bạc, chủ về phú quí.
– Vàng bạc, châu ngọc, điềm đại cát lợi.
– Chén mâm vàng bạc, có thai quí tử.
– Xanh chảo bằng đồng, có khẩu thiệt tới.
– Châu ngọc đầy bọc, chủ về đại hung.
– Được chén ngọc, đồ vật, đều là điềm tốt.
– Thấy đồ vật bằng sắt, chủ về được của.
 Thấy chì và thiếc, cũng chủ về được của.
– Được đồ đồng, chủ về đại phú quí.
– Mở ruột khuôn đúc đồ vật, tật bịnh tiêu trừ.
– Trả tiền cho người, cũng điềm tật bịnh tiêu trừ.
– ợm đặng tiền, chủ về đại cát.
– Thấy tiền: về mùa xuân, mùa hạ thì tốt; về mùa thu, mùa đông thì xấu.
– Trong nhà chia của, chủ về ly tán.
– Tặng người tiền lụa, chủ về có quyền.
– Quí nhơn cho lụa gấm, quan chức sẽ tới.
 Người cho vóc lụa, điềm đại cát xương.
– Cho người tơ lụa, điềm đại hung ác.
– Được áo gai, áo vải của người khác, thuộc về điềm xấu.
– Được đồ vóc lụa, họ xa lại chơi.
– Cho người y phục, việc quan sẽ tới.
– Đi tìm tơ lụa, chủ về thêm người.
– Bện tơ, dệt cửi, chủ về thọ mạng lâu dài.
– Tơ ngang, tơ dọc, bị người sỉ nhục.
– Phần 10 – 
Mộng về: Gương, Lược, Vòng, Thoa, Xuyến, Nhẫn, Phấn, Sáp, Kim, Chỉ.
– Thấy gương, sáng là tốt, tối là xấu.
– Lượm đặng gương, cưới đặng vợ đẹp.
– Đem gương soi mình, tin xa sẽ tới.
– Gương soi người khác, thê thiếp bị hung.
– Được gương người khác, điềm sanh con sang.
– Người khác giỡn mình bằng gương, vợ sẽ bị hung.
– Gương bể, chủ về vợ chồng ly biệt.
– Thoa vàng động, có sự đi xa.
 Vòng vàng thành đôi, điềm thêm ái thiếp.
– Thoa, xuyến chạm nhau, điềm xấu về vợ ly biệt.
– Thoa vàng sáng, chủ về sanh quí tử.
– Thoa trỗ bông (hoa), thê thiếp có gian nịnh.
– Xuyến vàng, chủ về vợ chồng đánh lộn.
– Xuyến vàng bông đè, thê thiếp sanh ngoại tâm.
– Người cho lược chải, điềm đặng thê thiếp.
– Lược chải giường ngà, việc cũ đi hết.
– Thấy cái lược, quí nhân dắt díu.
– Được cái lược, điềm gái đẹp tới.
– Chải lược ngà, bịnh hoạn chẳng sanh.
– Được phấn, sáp hoặc dầu, điềm sanh con gái.
– Thấy phấn sáp, chủ về đại lợi ích.
– Được phấn nhồi, vợ sanh gái gian giảo.
– Thấy khăn tay (mouchoir), chủ về sự khẩu thiệt.
– Được kim chỉ, trăm sự đều nên.
 phần 11- 
mộng về: giường, mùng (màn), chăn (mền), chiếu, đệm, muỗng, đũa, xanh, chậu và các đồ vật.
– Đổi giường mùng, chủ về dời quan.
– Mỡ chăn, giường mùng, điềm đại phú quí.
– Giường mùng mới, người xa sẽ về.
– Giường mùng ra cửa, điềm vợ bị thác.
– Thay đổi giường mùng, dời chổ ở tốt.
– Trên giường có kiến, thuộc điềm chẳng lành.
– Giường mùng bể rách, điềm vợ sắp thác.
– Vén mở màn tráng, có tiệc ăn uống.
– Màn tráng mục nát, vợ con bị bịnh.
– Chân giường mới đổi, tôi tớ bị hung.
– Lên giường mà nằm, điềm đại hung ác.
– Máu dính ở giường, thê thiếp có tình gian.
– Giặt rửa giường mùng, thuộc điềm đại cát.
– Tấn chiếu, vô thì tốt, ra thì xấu.
– Phá chiếu, chủ về mất ngôi quan.
– Đổi chiếu, vô thì tốt, ra thì xấu.
– Thấy đệm rộng, điềm mất ngôi quan.
– Đệm thảm trải ràn, muôn sự yên ổn.
– Phá rèm, xé mùng, vợ có mưu gian.
 Rèm mới, chủ về được vợ tốt.
– Trải chiếu ngồi chung, điềm được ngôi quan.
– Mền tốt đắp mình, thuộc điềm đại cát.
– Thấy gối tốt, có quí nhân phù trì.
– Thấy khăn tay, có điều miệng tiếng.
– Khăn tay bằng vải, bịnh hoạn sẽ đến.
– Xảy cầm quạt lông, điềm tốt việc quan.
– Thấy vạc chảo, chủ về được của lớn.
– Nồi chảo sôi trào, điềm đại phát tài.
– Thấy đồ ngọc đá, chủ về thêm người giúp.
– Thấy xanh đồng, chủ về có điều khẩu thiệt.
– Thấy nồi sắt bể, có sự sợ tới.
– Xanh, chén bể, chủ về có sự hung tới.
 Thấy đồ tô (bát) sứ, chủ về ăn uống.
– Thấy đồ sứ, đồ đá, có điều khẩu thiệt.
– Thấy thìa (muỗng), chủ về thê thiếp, tử tôn.
– Thấy đũa, chủ thêm ruộng nhà, tôi tớ.
– Thấy chậu, chủ về thêm kho đụn của cải.
– Nhắc chậu từ đất, chủ về tán tài.
– Chậu lớn, đồ nung, điềm đại phú quí.
 Thấy chậu rửa mặt, có vợ lẽ đẹp.
– Chậu lớn, chậu nhỏ, chủ về đoàn viên.
– Được cái hộp, cầu chi ắt được.
– Thấy thùng đựng nước, chủ về đại cát.
– Thấy thùng không nước, chủ về đại hung.
– Người đưa thùng lớn, chủ về được lợi.
– Thấy bàn ăn, chạn bát, việc nhà chẳng thành.
– Thấy cưa, chủ về có sự quyết đoán.
– Thấy dao thớt, dùi xiên, có sự xâm hại.
– Dùi muốn cử động, có người phù trì.
– Thấy cối xay, bị người khú xử, tốt.
 Thấy bàn ủi (bàn là) lửa thạnh, điềm sự tốt nên.
– Thấy lồng hun, điềm thêm sản nghiệp.
 Người cho cái cân, điềm được quyền vị.
– Thấy dây nhợ, thọ mạng lâu dài.
– Thấy dây nhợ đứt, thọ mạng sẽ hết.
– Người cho cối xay, điềm lượm được vàng.
– Người cho cái chổi, điềm được chức vị
 phần 12 – 
mộng về: thuyền, xe, vật kiện, du hành.
– Thấy thuyền bay đi, điềm đại phú quí.
– Thuyền cạn tại bờ, bị ách thị phi.
– Cỡi thuyền qua sông, điềm được quan chức.
– Trong thuyền có nước, điềm đặng phát tài.
– Cỡi thuyền xem mặt trời, mặt trăng, điềm được quan chức.
 Cỡi thuyền qua mặt trời, mặt trăng, chủ về điềm giàu.
 Ci thuyền uống rượu, khách xa tới chơi.
– Đồng thuyền với người, điềm dời chỗ ở.
– Cỡi thuyền buồn gió, điềm đại cát lợi.
– Cỡi thuyền thấy lái, thân gia yên ổn.
– Cỡi thuyền qua dưới cầu, điềm đại cát lợi.
– Người bịnh cỡi thuyền, chủ về ắt chết.
– Giúp cha cỡi thuyền, ngôi quan tới nơi.
– Mình nằm trong thuyền, sẽ có sự hung.
– Cầm lửa vô thuyền, chắc có sự cát.
– Cỡi thuyền trong nhà, chủ về mất của.
– Cỡi thuyền xem hoa, có tiệc ăn uống.
– Thuyền xe phá bể (vỡ), là điềm chẳng lành.
– Bánh xe bể, vợ chồng biệt nhau.
– Bánh xe gãy, chủ về phá của.
– Xe chở chẳng dậy, sự ách trừ đi.
– Gác xe đi chơi, lộc vị sẽ tới.
– Xe đi, trăm sự thuận lợi.
– Xe chẳng đi, sở cầu chẳng xong.
– Xe vô cửa, chủ về có sự hung.
– Người bịnh cỡi xe, tánh mạng chẳng tốt.
– Xe tang đi qua, tai ương tan hết.
 Xe đóng ngựa sẵn, có sự đi xa.
[FONT=&quot]- Xe đi ra vô, mạng đồ thông đạ
 phần 13 –
mộng về: đàng sá, cầu cống, chợ búa
– Thấy bốn đàng thông, danh lợi toại ý.
– Giữa đàng được của, vận mạng hanh thông.
– Đàng lội gai góc, làm việc chẳng thành.
– Đàng cái lỡ lún, chủ về mất của.
 Sửa sang cầu cống, muôn việc thới hòa.
– Thấy người qua cầu, sẽ có việc quan.
– Mình ngồi trên cầu, lộc vị sẽ tới.
– Thấy cầu hủy hoại, sẽ có việc quan.
– Dắt tay lên cầu, vợ có thai nghén.
– Trên cầu kêu gọi, kiện đặng thắng lẽ.
– Thấy cầu mới tạo, tình rất hạp nhau.
– Thấy nhịp cầu đứt, sẽ có miệng tiếng.
– Thấy cột cầu gãy, con cháu bị hung.
– Xe đậu trên cầu, trên đàng, đều là điềm xấu.
– Vợ chồng vô chợ, điềm đặng sản nghiệp.
– Thấy trong chợ không người, chủ về điềm xấu.
phần 14 –
mộng về: vợ chồng, sanh đẻ, giao hoan, và anh em, trai gái
– Vợ chồng yến hội, chủ về biệt nhau.
– Vợ chồng cãi lộn, chủ về tật bịnh.
– Vợ chồng chia thoa, chủ về biệt ly.
– Vợ chồng đánh lộn, tình muốn hòa hiệp.
– Đi cùng đàn bà, chủ về mất của.
– Mình ôm đàn bà, sẽ có sự mừng
– Giao với đàn bà, điềm có ma quái.
– Ngồi cùng đàn bà, thuộc điềm đại cát.
– Đàn bà ôm chồng, mừng phát tài lớn.
– Vợ chồng cùng chải đầu, thuộc về điềm tốt
– Vợ chồng lạy nhau, chủ về phân tán.
– Giao tiếp với con trai, chủ về mất của.
– Vợ vận áo gấm, điềm sanh con sang.
– Thấy vợ có thai, chủ về tình ngoại.
– Thấy âm hộ của vợ, chủ về khẩu thiệt.
– Đàn bà trần truồng, chủ về đại cát.
– Con trai trần mình, vận mạng thông đạt.
– Anh em phân ly, khẩu thiệt sẽ tới.
– Ôm đứa con nít hay là đứa con nít chết, đều chủ về khẩu thiệt.
– Mới sanh trai gái, chủ về đại cát.
– Thấy việc cưới hỏi và việc hiếu, đều là điềm hung.
 Con trai hóa làm ni cô (sư nữ), thuộc về điềm xấu.

 phần 15 –
mộng về: ăn uống, rượu thịt, bông trái
– Người mời uống rượu, chủ về thọ trường.
– Uống rượu với người, có điều khẩu thiệt.
– Cùng người hội ăn tiệc, phú quí tới nơi.
– Tiệc hội khách khứa, cửa nhà muốn phá.
– Tự mình uống rượu, có sự khóc la.
– Tới hội uống rượu, chủ về tật bịnh.
– Quí nhơn cho yến, tật bịnh tới nơi.
– Uống rượu với quí nhơn, chủ về đại cát.
– Người mời ăn cơm quán (cao lâu), chủ về sự mừng.
– Cùng người uống sữa, có tôn thân tới.
– Cùng người ăn mật, điềm đại cát lợi.
– Ẩu thổ, chủ về bị đau.
– Ăn đồ nước, chủ về được lợi lớn.
– Thấy người thác ăn, chủ về tật bịnh.
– Ăn thịt dê ở trên thềm, thuộc về điềm tốt.
– Ăn thịt chó, có sự tranh tụng.
– Ăn thịt heo, sẽ có tật bịnh.
– Dao cắt thịt heo, chủ về sanh tật.
– Ăn thịt, sống là xấu, chín là tốt.
– Ăn thịt tự tử, chủ về biệt ly.
– Ăn thịt ngỗng, thê thiếp bị bịnh.
– Ăn thịt gà, vịt, đều là điềm tốt.
– Ăn bánh bột, chủ về khẩu thiệt ly tán.
– Thấy bánh bột chưa ăn, chủ về tức khí.
 Ăn dưa nướng, sẽ sanh tật bịnh.
– Ăn bánh, ăn cơm, sự lòng chẳng thỏa.
– Ăn trái dưa, điềm sanh quí tử.
– Ăn hồng, ăn cam, điềm sanh tật bịnh.
– Ăn trái đào, điềm ly lại hạp.
– Ăn trái táo, trái dâu, đều là điềm sanh con sang.
– Ăn trái lật, có sự phân ly.
– Ăn trái lê, điềm thất tài bạch.
– Ăn hết thảy các trái, sự hung sẽ đến.
– Ăn trái cà, điềm vợ có con.
– Ăn hành, ăn răm, có sự tranh đấu.
– Ăn hẹ, có vận trùng tang.
– Ăn tỏi, có sự tai hại.
– Ăn rau, thấy rau vàng, chủ về điềm hung.
– Ăn dầu, muối, tương, mắm, giấm đều tốt.

– phần 16 –
mộng về: phần mộ, quan quách.
– Phần mộ cao, điềm đại cát lợi.
– Mồ mới, quan quách, chủ về trừ sự lo.
– Trên phần mộ có khí mây, chủ về hội hiệp.
– Cửa phần mộ mở, trăm sự tốt lành.
 Trên phần mộ sáng thì tốt; tối thì xấu.
– Trên mồ mọc cây là điềm tốt, nếu cây gãy là xấu.
– Trên mồ trỗ hoa, có sự đại cát.
– Trong mồ quan tài tự nhiên ra, cũng điềm đại cát.
 Đem quan tài vô nhà, lộc vị sẽ tới.
– Người chết ra ngoài quan tài, có khách xa tới.
– Tẩn liệm nhập quan người chết, chủ về được của.
– Mở quan tài nói với người chết, thuộc về điềm xấu.
– Thấy quan tài trên nước, điềm đại phát tài.
– Đồng trống không có người, sẽ phải đi xa.
phần 17 –
mộng về: văn thơ, nghiên bút, đồ binh, ấn tín
– Thấy các sắc kinh sách, điềm đại phú quí.
– Thấy giấy ngũ sắc, điềm đại phát tài.
– Nuốt giấy ngũ sắc, văn chương tấn bộ.
– Trên ghế có sách, lộc vị tới nơi.
 Làm văn, viết chữ, điềm đại cát lợi.
– Có người dạy học sách, điềm đại phú quí.
– Thấy người đọc sách, điềm đại thông minh.
– Xem người đọc sách, điềm sanh quí tử.
– Được cuốn nhật lịch, điềm đậu Hoàng giáp.
– Niêm phong thơ tín, vận mạng hanh thông.
– Tay giỡn bút nghiên, tin xa sẽ tới.
– Người cho thoi mực, đại tấn văn chương.
– Người lấy bút của mình, văn chương thối bộ.
– Người khác đưa bút, đại tấn tài hoa.
– Thấy nghi vệ vua, có thanh danh lạ.
 Được ơn đại xá, nhà có sự hung.
– Tới người xem bói, chủ về tật bịnh.
– Nhận giấy tiền của người, chủ về đại cát.
– Công tòa dời động, chủ về dời quan.
– Thọ chức thăng quan, tài vật sẽ tới.
– Đeo ấn công hầu, chủ về đại cát.
– Đeo ấn cầm hốt, điềm dời chổ ở.
– Mình đeo ấn tín, danh dự phát dương.
– Trao ấn đổi dời, điềm sanh quí tử.
– Mộng thấy con cờ, điềm thêm đinh khẩu.
– Đánh cầu, đá bóng, điềm được hư danh.
– Binh mã vô thành, phước lộc đem tới.
– Đem quân phá giặc, sở cầu ắt được.
– Ở trong trận binh, thuộc điềm đại cát.
– Đem quân theo đi, chủ về sự mừng.
– Quân lính mới ra, làm việc chẳng thành.
– Quân lính trở về, chủ về tật bịnh.
– Thấy quân binh thua, chủ về sự hung.
– Tự mình bắn người, ắt phải đi xa.
– Tự người bắn mình, có người đi về.
– Mình cầm cung tên, chủ về đại cát.
– Cầm cung dây đứt, có sự hung ác.
– Người đưa cung nỏ, được sức người phù.
– Dây cung khó lên, anh em ly tán.
– Nghe tiếng cung nỏ, có điều tranh luận.
– Đòng việt bóng sáng, lộc vị tới nơi.
[FONT=&quot]- Mang giáp, chống gươm, quan cao chức trọn

 phần 18 –
mộng về: thương, vui, bịnh, chết, xướng ca, âm nhạc.
– Cùng người khóc la, có sự khánh hạ.
– Buông tiếng khóc lớn, có điềm vui mừng.
– Người xa tới khóc thương, chủ về điềm xấu.
– Trên giường khóc lóc, đại lợi phát tài.
 Thấy người hát múa, điều khẩu thiệt tới.
– Trong nhà vui vẻ, trăm sự tốt lành.
– Mình vận đồ tang, quan lộc sẽ tới.
– Người khác thổi sáo, mình có thinh danh.
– Trong lòng ôm đờn, được sức người giúp.
– Cùng người gở phách, khẩu thiệt thêm điều.
– Trên thềm hát vui, chủ về tang sự.
– Miệng mình thổi sanh, có sự thay đổi.
 Thổi sáo, đánh trống, có phước tốt lành.
– Người khác nhạc ca, việc kiện có lý.
– Người khóc hở răng, có sự tranh tụng.
– Đau nằm có người vực, thăng chức gia quan.
– Thấy người bịnh trọng, chủ về có việc tang.
– Tự mình yếu đau, chủ về sự hỷ.
– Người đau ca xướng, chủ về đại hung.
– Người bịnh khóc cười, trừ hết tật bịnh.
– Người bịnh đứng dậy, chắc hẳn tử vong.
– Người bịnh sửa xe, thọ mạng ắt hết.
 Người chết khóc lóc, khẩu thiệt thêm điều.
– Thấy người chết đứng, chủ về đại hung.
– Người chết rồi nát đi, chủ về được của.
– Người chết sống lại, sẽ có tin lạ.
– Thấy người chết, hay là tự mình chết, đều là điềm lành.
– Thấy con nh chết, ắt thêm sự mừng.
– Thấy người tôn trưởng mất trước, thuộc về đại cát.
– Viếng người khác chết, sẽ sanh con sang.

phần 19 –
mộng về: tiên, phật, tăng, ni, quỉ, thần.
– Chư Phật, Bồ Tát, điềm đại cát lợi.
– Pháp sư lên tòa, sẽ có tật bịnh.
– Lão quân, chơn nhơn, đều là điềm đại cát.
– Thấy hình vẽ Thần, Phật, được người kính trọng.
 Coi tượng Thần Phật, điềm vợ có con.
– Phật nói với người, điềm có phước giúp.
– Vô miễu Thần, Thần động, là điềm đại cát.
– Thấy tạo phướn lộng, điềm đại cát lợi.
– Thầy tăng dạy người niệm kinh, thuộc về điềm tốt.
– Thấy đạo sĩ hay là nữ quan nói chuyện, đều là điềm tốt.
– Thấy hòa thượng hay là ni cô coi kinh, thuộc về điềm buồn.
– Bị quỉ thần đánh, điềm đại bất tường.
– Thấy Thần Phật trên thềm, điềm đại cát lợi.
– Thấy Thần Phật chẳng thành hàng, thuộc về đại hung.
– Đốt nhang lễ bái, đều điềm đại cát.
– Rước Thần hội cộ (hội hè), sẽ có ngoại tài.
– Tiên thánh tới nhà, phước lộc sẽ đến.
– Nghe tiếng ma quỉ, điềm thêm tuổi thọ.
– Tế tự thần đạo, điềm đại cát lợi.
– Mình thọ giới hạnh, điềm có con hiếu.
– Giao thông với thần nữ, điềm được con sang.
– Giao thông với ni cô, chủ về mất của.

 phần 20 – 
mộng về: sát hại, đấu thương, đả mạ
– Bị người sát hại, thuộc về đại cát.
– Giết chết người khác, điềm rất giàu sang.
– Cầm đao tự sát, thuộc về đại cát.
– Giết người máu dính áo mình, chủ về được của.
 Mình bị dao đâm, ra vô khoái lợi.
– Cầm dao giết nhau thấy máu, thuộc về điềm tốt.
– Dao đâm chảy máu, chủ về có tiệc ăn uống.
– Bị đâm thấy máu, chủ về đại cát.
 Trích mình thấy máu chảy nhiều, thuộc về điềm tốt.
 Dao búa tự thương mình, chủ về đại cát.
– Cầm dao chém người, tự mình mất của.
– Người chém mình trúng đầu óc, thuộc về điềm tốt.
– Chặt đầu mà đi, có sự mừng lớn.
 Bị người đổ gót, chủ về cầu tài.
– Đánh thê thiếp mình, chủ về uổng sức.
– Bị thê thiếp đánh, chủ về điềm hung.
 Bị người ta đánh, chủ về đắc lực.
– Đàn bà đánh lộn, tật bịnh sẽ tới.
– Anh em đánh lộn, điềm đại cát lợi.
– Người trong nhà đấu ẩu, chủ về phân tán.
– Xem thấy sự giết người, chủ về đại cát.
– Bị người đâm bằng nan lồng, điềm đại cát xương.
– Tay đặt bị gãy, chủ về hết bệnh.
– Ngảnh vô người dập đầu, trăm sự tốt lành.
– Mắng lộn với người, chủ về điềm tốt.
– Bị mắng giả đò điên, điềm được đại quí.
– Bị người lăng nhục, chủ về được của.
– Giết heo làm thịt, điềm đại cát lợi.
– Giết dê, đánh dê, điềm xấu tật bịnh.
– Giết cọp, giết beo, điềm được trọng nhiệm.
– Giết trâu, giết hươu, điềm đại phú quí.
– Giết trâu ăn thịt, chủ về sanh tài.
– Giết la (lừa), giết ngựa, có tiệc ăn uống.
– Giết rùa, chủ có việc sự tang.
– Giết chim, giết sẻ, thê thiếp bị tai nạn.
 Giết gà, ngỗng, vịt, chủ về đại cát.

phần 21- 
mộng về: bắt bớ, hình phạt, giam cầm.
– Lao ngục đổ nát, điềm tốt xá tội.
– Ngồi trong lao ngục, ắt có ân xá.
– Vô ngục thọ tai, chủ về vinh quí.
– Chết tại trong ngục, việc quan tiêu tan.
– Khiến người vô ngục, điềm tốt phát tài.
– Vô trong lao ngục, chủ về đại quí.
– Trộm cướp tự nhiên vô ngục, chủ về đại hung.
– Lao ngục dơ dáy, hôi thối, trăm sự đều tốt.
– Tù tội tẩu thoát, tật bịnh tiêu trừ.
– Thấy đuổi giặc đi, thuộc về đại cát.
– Gông khóa tới mình, tật bịnh sẽ tới.
– Gông khóa hư gãy, khẩu thiệt tiêu tan.
– Gông khóa vô nhà, thuộc điềm rất xấu.
– Dây trói cột mình, điềm đại cát lợi.
– Mình bị lưới vó, chủ về việc quan.
– Bị lưới vó giăng, chủ về tửu thực.
– Bị người trách phạt, lộc vị tới nơi.
– Bị người dễ khi, thuộc điềm đại cát.
– Bị người săn bắt, tật bịnh tới nơi.
– Bị quan đánh mình, chủ về hiếu phục.
– Tự mình phạt trượng, sỉ nhục sanh ra.
– Cùm khóa sợ sệt, chủ về phân ly.
– Vô quan kiện cáo, thuộc về đại cát.
– Vời người vô quan, chủ về tửu thực.
– Dẫn mình vô quan, chủ về đại cát.
– Bị lại chép tội, sẽ có việc gấp.
– Quí nhơn chạy ngựa, việc quan biện minh.
[FONT=&quot]- Khảo tấn trượng phạt, chủ về đại quý.[/
phần 22 –
mộng về: ruộng vườn, lúa má, trồng, cấy.
– Trong ruộng mọc cỏ, chủ về phát tài.
– Trồng ruộng rộng lớn, điềm có lộc vị.
– Mình cấy lúa ruộng, chủ về xuất hành.
– Thấy người cấy ruộng, lộc vị tới nơi.
– Dạy người cày cấy, người xa sắp về.
– Sai người trồng ruộng đất, chủ về đại cát.
– Mua ruộng vườn của người, chủ về dời chức.
– Gặt thâu lúa ruộng, nhà đã yên bình.
– Trên nóc nhà mọc lúa, ngôi quan cát hanh.
– Lúa má phong đăng, giàu sang trường cửu.
– Mình ở trong lúa, điềm đại cát lợi.
– Phá hoại ruộng đất, chủ về đại cát.
– Coi thấy lúa má, điềm đại phát tài.
– Lúa gạo trắng tinh, điềm tốt được của.
– m giống lúa tốt thạnh, chủ về phát tài.
– Lúa má đều tốt, điềm đại cát lợi.
– Thóc gạo chất đống thì tốt, tan tác thì xấu.
– Lúa hột lớn, hột nhỏ, chủ về vợ có tư tình.
– Thấy đậu lớn hay là lá mạ, con cháu bị hung.
– Lúa gạo bày ra, điềm đại cát lợi.
– Ngồi nằm trên lúa gạo, chủ về đại lợi.
– Trong tay cầm thóc, chủ về phước lộc.
 Bắt được thóc gạo, chủ về đại cát.
– Được lúa xảy mất, chủ về được phẩm trật.
– Cầu gạo, ắt có đồ dưng tới.
 Trồng rau, chủ về điềm tốt thọ trường.
– Thấy cây lúa cao hay là bánh bột, việc quan sẽ tới.
– Tấm cám lộn nhau, nhà muốn cơ kiệm.
– Thấy rượu và men, ắt chủ về việc uổng khuất.
 Thấy mầm thấy mống, chủ về sự ác luôn luôn.
– Hột mè (vừng) rắc vô mình, ắt bị tật bịnh.
[FONT=&quot]- Cây mè mọc như rừng, điềm đại cát lợi.
 phần 23 – 
mộng về: nước, lửa, trộm, cướp, đèn đuốc.
– Đi trên mặt nước, chủ về sự cát.
– Đứng trên mặt nước, chủ về sự hung.
– Nước trôi lồng lộng, điềm có tân hôn (vợ chồng mới).
– Trên nước lửa bốc, chủ về đại cát.
 Tự mình ở trong nước, điềm đại cát lợi.
– Tự mình rớt xuống nước không ra đặng, thuộc về điềm hung.
– Uống nước chẳng thôi, chủ về đại phát tài.
– Nước chảy quanh mình, có sự giam cầm kiện cáo.
– Nước lớn lắng trong, điềm lành đại cát.
– Nhà người có nước, con mình bị vong.
– Sông biển đầy tràn, điềm đại xương thạnh.
– Nước sông chai cát đá, tấn ích văn chương.
– Lửa đốt mặt trời, mặt trăng, có đại nhơn phù trợ.
– Lửa đốt nước sông, điềm tốt thọ mạng.
– Lửa đốt núi đồng, điềm đại hiển đạt.
– Lửa đốt nhà mình, chủ về hưng vượng.
– Lửa cháy rờ rỡ, chủ về phát tài.
– Lửa do đất khởi, tật bịnh tới nơi.
– Cầm lửa chạy đi, ngôi quan đem tới.
– Lửa lớn đốt trời, điềm nước bình an.
– Mình ở trong lửa, quí nhơn phù trì.
– Khói lửa sắc đen, điềm có tật bịnh.
– Cầm lửa đi đàng, vận đại thông đạt.
– Cầm lửa đốt giếng, tật bịnh sẽ tới.
– Trong nhà lửa sáng, điềm đại cát xương.
– Trong bếp lửa lan ra, sẽ có sự gấp.
– Nghe sự kén lửa sáng, điềm làm quan minh.
– Đốt vật ô uế của người, chủ về đại cát.
– Coi thấy cây đuốc, điềm đại phát tài.
– Đèn đuốc sáng trưng, chủ về đại cát.
– Thấy buông khói lửa, trăm lo tiêu tan.
– Mọi người vây lò, điềm tốt hòa hiệp.
– Kẻ ác dẫn nhau, tật bịnh đem đến.
– Đuổi giặc vô chợ, vướng phải sự hung.
– Giặc dữ vô nhà, gia đạo phá hoại.
– Đồng đi với giặc, điềm đại cát lợi.
– Tự mình làm giặc, cầu chi được nấy.
 phần 24 –
mộng về: dơ dáy, tắm gội, lăng nhục
– Phẩn tiểu dơ mình, chủ về được của.
– Đại tiện đầy đất, chủ về giàu sang.
– Bị đau trong cầu tiêu, điềm được quan lộc.
– Té trong cầu tiêu, ra được là tốt; chẳng ra được là xấu.
– Nóc cầu tiêu chồng nóc, chủ về được của.
– Trong cầu tiêu khô ráo, chủ về phá gia.
 Gác nóc cầu tiêu, mừng về được của.
– Hốt phân về nhà, điềm đại cát lợi.
– Mình ở trong bùn, sở cầu chẳng thành
– Mất đại tiểu tiện, chủ về mất của.
– Bùn dơ áo xiêm, sanh sản chẳng lành, hoặc thân bị nhục.
– Trai gái tắm gội lên giường, thuộc về điềm xấu.
– Tắm gội bụi đất, tật bịnh đặng an.
– Gội đầu, điềm dời chỗ ở và tật bịnh trừ.
[FONT=&quot]- Bị nhục mạ, gầy sự kiện cáo
 phần 25 –
mộng về: rồng, rắn, chim muông.
– Cỡi rồng vô nước, điềm có ngôi sang.
– Rồng ngự trong nước, sở cầu toại ý.
– Rồng ngang giữa cửa, điềm đại cát xương.
– Thấy rồng chết mất, điềm mất ngôi sang.
– Rồng tới lên núi, đặng toại sở cầu.
– Rồng vô trong giếng, làm quan bị nhục.
– Coi thấy rồng bay, ngôi quan đại quí.
– Cỡi rồng vô chợ, điềm có ngôi sang.
– Rồng rắn vô cửa, chủ về được của.
– Rồng rắn vô bếp, có việc quan tới.
– Rắn hóa rồng đi,quí nhân trợ lực.
– Đàn bà thấy rồng, điềm sanh quí tử.
– Rồng rắn giết người, chủ về đại hung.
– Rắn dữ cắn người, chủ phát tài lớn.
– Rắn vô trong bọc, điềm sanh con sang.
– Rắn đi trong nước, chủ về thăng quan.
– Rắn theo người đi, vợ có tình ngoại.
– Rắn vô đường hang, có điều khẩu thiệt.
– Rắn quấn quanh mình, điềm sanh quí tử.
– Rắn hiện ra nhiều, thuộc sự âm ty.
– Rắn đỏ, rắn đen, thêm điều miệng tiếng.
– Nếu là rắn xanh, thuộc về điềm tốt.
– Rắn vàng, rắn trắng, chủ có việc quan.
– Thấy chim phụng hoàng, quí nhân phù trợ.
– Phụng đậu cánh tay, bịnh mẹ sẽ tới.
– Thấy chim khổng tước (chim công), điềm đại cát lợi.
– Hạc bay lên trời, có chút vạ miệng.
– Nghe chim hạc kêu, lộc vị đại hiển.
– Hạc vô trong bọc, điềm sanh con sang.
– Thấy hạc gác xe, có việc chiến trận.
– Mình thả chim hạc, điềm tốt được của.
– Chim công bay múa, có triệu văn chương.
– Thấy chim anh võ, đàn bà có điều khẩu thiệt.
– Chim oan ương bay đi, vợ có điềm xấu.
– Vịt nước vô nhà, thuộc điềm rất xấu.
– Mình gác xe hạc, lộc vị tới nơi.
– Nghe chim cưu kêu, đàn bà có tin mừng.
– Chim yến bay vô bọc, điềm vợ sanh con.
– Chim kêu trên không, chủ về vợ thác.
– Chim bay vô bọc, đều là điềm lành.
– Bắt lại chim bay, tin xa sẽ đến.
– Chim én bay đến, khách xa tới chơi.
– Chim tước đấu lộn, sẽ có việc quan.
– Quạ, sẻ, đồng reo, chủ về tửu thực.
– Ngỗng, vịt đồng lượn, điềm được thiếp xinh.
– Chim tới, rắn về, có người dẫn tấn.
– Mình tắm cho gà, đặng quan biện minh khẩu thiệt.
– Thấy gà ấp trứng, có sự mừng to.
– Gà ở trên cây, chủ về được của.
– Mộng thấy kỳ lân, tiếng dậy thiên hạ.
– Cọp dữ gầm lớn, điềm được ngôi quan.
– Voi trắng lội sông, ngôi quan sẽ tới.
– Sư tử gầm hét, dậy động thinh danh.
– Mình cỡi cọp đi, toàn không sự dữ.
– Cọp vô trong nhà, quan cao chức trọng.
– Hùm sói chẳng động, điềm lành kiến quan.
– Sài,lang, chó dữ, điềm có trộm cướp.
– Chó sói cắn gót, điềm chẳng nên đi.
– Lạc đà, beo, sại, điềm đặng chức trọng.
– Thấy rồng, thấy gấu, mình sanh con sang.
– Bầy thỏ lên cây, được ngôi quan quí.
– Tỳ (thú dữ), lộc (hươu) ở nhà, điềm thêm quan lộc.
– Quỉ sống ở vườn, trăm lo bỏ đi.
– Thấy mèo bắt chuột, chủ về phát tài.
– Chuột bạch dẫn đàng, có người dắt díu.
– Chuột cắn áo người, cầu chi ắt đặng.
– Con chuột chạy đại, sẽ có sự lành.
– Thấy con khỉ núi, gầy mối tranh tụng.
– Thấy con vượn bạch, sẽ đặng ngôi quan.
 phần 26 – 
mộng về: các giống súc vật.
– Con bò ở nhà, chủ về phú quí.
– Trâu lên triền núi, điềm đại cát xương.
– Dắt trâu lên non, sẽ đặng phú quí.
– Sừng trâu có huyết, ngôi tới Tam Công.
– Thấy trâu húc người, mọi sự chẳng toại.
– Trâu ra ngoài cửa, sự tốt tới liền.
– Trâu nước (trâu đen) tới nhà, sẽ có tang sự.
 Trâu sanh ra nghé, mưu sự đều xong.
– Cỡi trâu vô thành, có tin mừng tới.
– Dắt trâu dê lại, nhà có sự vui.
 Ngựa múa trước sân, sự dữ tan hết.
– Ngựa đi mười dặm, mừng lớn tới nơi.
– Cỡi ngựa vui mừng, chủ về điềm xấu.
– Chạy ngựa qua lại, có việc văn chương.
– Thấy ngựa vô nhà, có sự tình tốt.
– Ngựa, đà, tiền của, điềm mất lộc vị.
– Đóng ngựa, tắm ngựa hay là thả ngựa, đều là sự mừng.
– Bầy ngựa bôn đào, trăm dữ giải thoát.
– Kẻ tội chạy ngựa, sự ách bỏ đi.
– Cỡi ngựa bạch đi, tật bịnh sẽ tới.
– Mình bị ngựa cắn, lộc vị tới nơi.
– Mình cỡi ngựa, lừa (la), chủ về được của.
– Người giết heo là điềm tốt, heo tự nó chết là đim xấu.
– Heo biến thành người, việc quan sẽ tới.
 Heo dê đau yếu, khẩu thiệt thêm điều.
– Dê hóa heo đi, người đi sẽ tới.
– Cỡi dê lên đàng, chủ về được của.
 Thấy trâu mẹ con, điềm tốt tăng thọ.
– Người bị chó cắn, quỉ lại kiếm ăn.
– Chó cắn chủ nhân, điềm xấu mất của.
– Trong nhà đẻ ngựa, điềm rất tốt lành.
phần 27 – 
mộng về: rùa, rắn, tôm, cá, ba ba và sâu bọ
– Rùa vô trong giếng, phú quí tới nơi.
– Rùa, rắn chầu nhau, chủ về sanh của.
– Mộng thấy con rùa, sanh con gái quí.
– Mình bắt con rùa, chủ về việc tang.
– Mộng thấy ba ba, chủ về được của.
– Én bay trên nước, trăm sự đều tan.
– Trong giếng có cá, chủ về thăng quan.
– Giăng lưới bắt cá, điềm đại cát lợi.
– Thấy người bắt cá, ăn uống đều lành.
– Đơm cá, ăn cá, chủ về tật nhỏ.
– Trong nước câu cá, điềm đại cát lợi.
– Trong rừng đi săn đánh lưới, làm việc không thành.
– Bầy cá lượn nước, chủ về có tài
– Mộng thấy cá chép, vợ có thai rất tốt.
– Cá lớn quậy động, chủ về thinh danh.
– Cá nhỏ đẻ con, điềm đại cát lợi.
– Cá không xuống nước, vận mạng lại thông.
– Tôm biến thành cá, điềm mất tài vật.
– Mình ngồi lên cá, sâu, bịnh hoạn trừ hết.
– Thấy cua, thấy cáy, chủ về trăm bệnh tiêu tan.
– Chãu chuộc hay là ễnh ương kêu và chạy, khẩu thiệt thêm điều.
 Thấy con quăng (giống vi trùng dưới nước), chủ về đàn bà mất của.
– Thấy ốc, thấy hến, chủ về ở ngoài chẳng đau.
– Thấy con cáp ly (trai biển), điềm già sanh con.
 Bướm bay vô đèn, người khác ly tán.
– Tằm bay chẳng có kén, điềm tốt của chủ nhân.
– Ong, rắn giỡn nhau, làm việc chẳng thành.
– Khương lang (tục kêu là con bọ hung) làm đống, chủ về mất của.
– Chuồn chuồn bay đôi, có mỹ nhân tới.
– Ong đốt gót người, mừng về có của.
– Súc chức (tục kêu là con dọt sành) tiếng rên, có sự phiền não.
– Biển bức (con dơi) bay đờn, việc âm thì tốt.
– Ngô công (con rít) cắn người, điềm tốt thọ mạng.
– Mộng thấy kỳ rận (con trùn), điềm tốt ruộng nhà.
– Thấy con diên du (tục kêu là con giời leo, hình như con rít mà nhỏ), cầu tài thì tốt.
– Con muỗi đốt người, điềm có sự mất.
– Ruồi xanh bận áo người, ắt có gièm pha.
[FONT=&quot]- Thấy con lâu quấc (tục kêu là con nhái, da xanh mà dài cẳng), có sự bất minh.[/

LỜI DẶN
Phàm chư mộng triệu là những cảnh tượng, tình hình, hay là thinh âm mà hằng ngày trong tâm chí không thường tư tưởng tới, mắt không thường ngó thấy, tai không thường nghe tiếng, thình lình hiện ra trong giấc ngủ, mới kêu là mộng, mộng thì mới có trưng triệu.Còn như cái tình hằng ngày vẫn tư tưởng, cái cảnh hằng ngày vẫn thấy, cái tiếng hằng ngày vẫn nghe, mà ban đêm trong giấc ngủ mê nghĩ tới, ngó thấy hay là nghe tiếng, đó là mơ tưởng, chớ không phải mộng.Đã không phải mộng thì không có trưng triệu, nghĩa là không có ứng nghiệm về điềm tốt, xấu, sự nên, hư chi hết.
Đoán mộng thì phải tùy theo địa vị, phận lượng, sự thế, tư cách của người nằm mộng và tình cảnh trong giấc mộng, suy lẽ trong sách và tham đính lấy ý mình mà đoán ra, chớ không có thế nệ sách mà y theo lệ nhứt định đặng.Vì rằng mộng mị biến ảo dị thường, xưa nay mỗi mộng mỗi khác, không mộng nào giống mộng nào, nên sách chỉ kể đại khái những mộng này thì ứng về những điềm này mà thôi, không có thể lập thành cho xiết đặng.

KHẢO VỀ NGHĨA MỘNG

1_ÂM, DƯƠNG THÀNH MỘNG._Sách Nội Kinh của vua Huỳnh Đế nói rằng: “Âm thạnh thì mộng lội nước lớn sợ sệt, dương thạnh thì mộng lửa lớn cháy bùng. Âm, dướng đều thạnh thì mộng giết nhau, trên thạnh thì mộng bay, dưới thạnh thì té (ngã).No lắm thì mộng cho người của, đói lắm thì mộng lấy của người, khí can (gan) thạnh thì mộng giận, khí phế (phổi) thạnh thì mộng khóc” .

2_HƯ, THẬT THÀNH MỘNG._Sách Loại Thuyết của ông Lữ Đông Lai rằng: “Hình thể tiếp nhau mà thành việc, tinh thần gặp nhau mà thành mộng. Hư phù thì mộng cử dương, trầm thật thì mộng chìm đuối; nằm đai thì mộng thấy rắn, nằm khăn thì mộng thấy chim. Ngậm tóc thì mộng bay, sắp mưa dầm thì mộng thấy nước, sắp tạnh trời thì mộng thấy lửa, sắp bị bịnh thì mộng thấy ăn, sắp bị lo thì mộng thấy múa hát.”

3_HƯ TỊNH (tĩnh) THÀNH MỘNG._Bài Điều Thần Luận của Tôn Chơn Nhơn rằng:” Phàm mộng đều nhơn hồn vía chẹn lấp ở khu thể, chẳng đặng lưu thông, đêm thì hồn vía hư tịnh, thần sẽ biểu cho điềm cát, hung sắp tới, mà mộng sanh ra. Nửa đêm về trước, mộng thấy cái việc, ứng tại xa; nửa đêm về sau, mộng thấy cái hình, ứng tại gần.”

4_HỒN AN KHÔNG CÓ MỘNG._Sách Tây Sơn Ký của Tôn Chơn Nhơn nói rằng: “Muốn không có mộng xấu thì đừng ăn những vật thuộc về bổn mạng và những thịt trâu, chó, cá, ba ba; chớ nghĩ những sự tà dâm, quái ngụy, bội nghịch; chớ giết giống súc vật; ngủ ắt ngoảnh đầu hướng Đông, đặng thọ sanh khí, ngoảnh mặt ra ngoài thì hồn an, tự nhiên không có mộng.”

5_SỬA ĐỨC TRỪ MỘNG._Sách Tân Tự nói rằng:” Ông vua mộng điềm xấu thì sửa đức; quan lớn mộng điềm xấu thì sửa chức quan; quan nhỏ và kẻ dân mộng điềm xấu thì sửa mình, như vậy thì tai vạ tự nhiên tan đi hết”.

6_PHUN NƯỚC GIẢI MỘNG._ Sách Mao Đình Khách Thoại rằng: “Người ta chứa khí âm nhiều thì mộng luôn; khí dương nhiều thì mộng thưa, có cũng chẳng nhớ. Người mù không có mộng, người ngu ít mộng”.
Sách Dưỡng Tánh Luận rằng:” Có mộng chẳng nên nhớ, chỉ lấy nước sạch phun ra hướng Đông mà nói rằng:” Mộng dữ theo cỏ cây, mộng lành thành châu ngọc.”, sẽ không có can cữu chi” .

KHẢO VỀ ĐIỀM MỘNG

Ông Trang Tử nói rằng:” Bực chí nhơn (người đức hạnh đúng đắn) không có mộng.” Vì bực chí nhơn không có lòng ham muốn, cho nên không có mộng vậy. Còn như người đời lòng ham muốn riêng vô cùng, cho nên cảm mà thành mộng, trăm hình nghìn trạng, những cái ở đời chưa hề có, bèn mộng thấy liền, bút giấy chép sao cho xiết đặng thay. Đây chép sơ mấy điềm mộng xưa, để đợi người biết. Còn một câu biểu là: “sửa đức trừ mộng”, thì ở về từng người mà thôi.

1_Giấc mộng “Hoa Tư” . _Vua Huỳnh Đế ngủ ngày, nằm mộng qua chơi nước Hoa Tư, thấy nước ấy của giàu binh mạnh, vật thạnh dân yên.Từ khi tỉnh dậy về sau, thiên hạ thái bình, cũng như nước Hoa Tư vậy.

2_Giấc mộng “Châu Công”. _Đức Khổng Tử khi còn trẻ tuổi, chí muốn làm đạo ông Châu Công (*) cho nên hằng khi mộng thấy. Tới hồi tuổi già, than rằng:” Chao ôi, ta suy lắm rồi. Đã hèn lâu chẳng mộng thấy ông Châu Công nữa!”
(*) Ông Châu Công là ông Thánh, làm quan tướng nhà Châu, chế lễ, soạn nhạc, sửa sang chánh sự, trị thiên hạ đặng thái bình.( Coi truyện Phong Thần và Đông Châu liệt quốc)

3_Giấc mộng “Hồ Điệp”. _Ông Trang Châu hằng khi mộng thấy thân mình hóa ra con Hồ Điệp (con bướm) bay phơi phới ra ý tự đắc, bèn ở ẩn chẳng làm quan, làm kinh Nam Hoa để ví dụ trò đời.

4_Giấc mộng “Quảng Nhạc”. _Vua Mục Công nước Tần nằm mộng tới nơi trời, coi khúc “Quân Thiên Quảng Nhạc”, trời cho cái thẻ, sau đó nước Tần bèn hưng thịnh.

5_Giấc mộng “Cao Đường”. _Vua Tương Vương nước Sở cùng với Tống Ngọc đi chơi đài Vân Mộng, ngó qua quán Cao Đường, thấy trên có khí mây. Vua hỏi rằng: “đó là khí chi vậy ?” Tống Ngọc thưa rằng :” Xưa kia đức Tiên vương từng đi chơi quán Cao Đường, trong khi ngủ ngày, mộng thấy một người đàn bà tới chầu mà tâu rằng : Thiếp tôi đây là con gái núi Vu Sơn, nay làm thần quán Cao Đường, nghe đại vương ngự giá tới đây, xin tới chầu chăn gối.” Tiên Vương dủ lòng thương mà nạp cho. Khi từ biệt ra thì người đàn bà ấy lại tâu rằng: Thiếp ở phía Nam núi Vu Sơn, phía Bắc quán Cao Đường, khi sớm làm mây, khi chiều làm mưa, sớm sớm chiều chiều, dưới động Dương Đài.”

6_Giấc mộng “Huỳnh Lương”. _Li trào Khai Nguyên nhà Đường, Lư Sanh nhân đi thi khóa Tấn sĩ, lạc đệ (thi rớt) về nhà, tới huyện Hàm Đan vô trọ quán khách, chủ quán nấu cháo kê vàng (huỳnh lương) để ăn. Lư sanh nhân khi mỏi mệt muốn nằm, trong quán xảy có người đạo sĩ trao cho cái gối sứ, Lư Sanh đặt mình nằm xuống, thiu thiu ngủ đi, bỗng đâu ngó thấy một tòa nhà kia toàn những gác tía lầu son, nguy nga tráng lệ, bèn vui chân thuận bước, thẳng tới phía trong, có một ả giai nhân xin kết duyên cầm sắt. 
Sau khi thành hôn, lại lên kinh đô ứng cử, đặng trung Trạng Nguyên, thọ chức Hàn Lâm; nhân nghịch nhau với tể tướng Lý Lâm Phủ, bị trích ra trị Thiểm Châu, phụng mạng khai sông, có công thăng chức Ngự Sử, kiêm chức Chinh Tây Đại Tướng Quân, lãnh binh đánh giặc, thắng trận tấu tiệp, phong tước Định Tây Hầu, tấn chức Lại Bộ Thượng Thư. Lại bị Lý Lâm Phủ bài xích, biếm trích ở Lãnh Nam. Tới khi Lý Lâm Phủ bị giết, lại phụng chiếu về trào, tấn chức Thượng Tướng, gia phong tước Triệu Quốc Công, hưởng thọ tám mươi mốt tuổi, vô bịnh mà thác. Đang giấc mơ màng, xảy nghe tiếng người nấu cháo kê gõ chiếc đũa cái, bèn giật mình tỉnh dậy, thì nồi kê chưa chín, mới biết rằng mình chiêm bao. Bây giờ đây mới thở ra mà than rằng: “Vô văn ra võ, dư năm chục năm, phú quí vinh hoa, chẳng qua trong một giấc mộng!” Từ đó Lư Sanh vô núi tầm đạo, không còn có chí công danh.

7_Giấc mộng “Nam Kha”. _Lối đời Trinh Nguyên nhà Đường, Thuần Vu Phân nhân khi say rượu xúc phạm Tổ sư, bèn bỏ quan chức, lưu đãng Dương Châu, ở đậu tại ngoài cửa Đông. Bên nhà có một gốc cây hòe cao lớn, anh ta thường cùng thân hữu ngồi dưới bóng cây uống rượu. Một ngày kia say rượu nằm ngủ tại đó, mộng thấy hai viên sứ giả xưng là phụng mạng Đại Hoài an Quốc Vương tới rước, đem công chúa gả cho người làm Phò mã. Đã thành thân rồi, bổ ra làm chức Thái Thú quận Nam Kha. Tại chức dư hai chục năm, sanh hai gái, năm trai, đều kết thân với những nhà quí phái, cực kì vinh thạnh. Nhân Hữu Tướng ganh ghét, gièm với Quốc Vương rằng oai quyền quá trọng, nên bị bãi chức về nhà. Tới khi tỉnh ra, mới biết là giấc mộng. Đại Hoài an Quốc tức là một cái hang lớn dưới gốc cây hòe, trong hang có một ổ kiến, Quốc Vương đó tức là một con chúa kiến, mà quận Nam Kha thì là một ngành nhỏ phía Nam cây hòe vậy.
Đoán Mộng


1_Mộng bẻ sừng và đuôi dê. _Ông Bái Công đời Tần khi mới làm Đình trưởng, nằm mộng thấy mình đuổi một con dê, bẻ sừng và đuôi nó đi, theo tay liền đứt. Sau khi tỉnh dậy, chẳng hiểu điềm chi. Có người đoán rằng: “Chử Dương là Dê bỏ hai Sừng và Đuôi đi, thành chữ Vương là vua. Ông sau này có hy vọng làm vua đó.” Bái Công tin lời ấy, bèn khởi binh lên, quả nhiên đánh Tần , diệt Sở; lập nên cơ nghiệp Đế vương, đó là vua Cao Tổ nhà Hán vậy. (*) Coi TRuyện Tây Hán.

2_Mộng trời cho tướng hiền. _Vua Cao Tông nhà Ân khi cư tang cha, ba năm không nói, đêm nằm mộng thấy đấng Thượng đế ban cho một người đặng dùng làm tướng. Sau khi tỉnh dậy, bèn họa hình người trong giấc mộng, sai người đi kiếm khắp thiên hạ, đặng ông Phó Duyệt tại trong đám dân đắp đê, đem về dùng làm quan Tướng, thiên hạ đại trị, nghiệp nhà Ân hưng thịnh.

3_Mộng con hùng (con gấu) bay. _Ông Khương Tử Nha đời nhà Ân câu ngòi sông Vị. Châu Hầu Cơ Xương nằm mộng thấy con hùng biết bay. Quan Thái Sử đoán rằng: “triệu này ứng về đặng trang thánh hiền làm thầy Vương giả.” Sau Châu Hầu đi săn, gặp đặng Tử Nha biệt hiệu là Phi Hùng (nghĩa đen là con gấu biết bay). Bèn lấy ngự xa chở về, phong làm quan Tướng, tôn hiệu là Sư Thượng Phủ (hiệu thầy vua). Sau giúp con ông Cơ Xương là Cơ Phát đánh Trụ Vương nhà Ân, lấy đặng thiên hạ, lập nên cơ nghiệp vương giả đó là nhà Châu (truyện Phong Thần).

4_Mộng sao Vũ Khúc. _Hàn Tín đời Tần khi còn hàn vi, câu tại bên sông Hoài Âm, nằm ngủ dưới cây Tùng, xảy mộng thấy vì sao Vũ Khúc rớt xuống nơi mình. Sau giúp Bái Công làm Đại Tướng quân, diệt Sở và lục quốc, lấy đặng thiên hạ, làm khia quốc công thần nhà Hán, được phong tước Tam Tề Vương.

5_Mộng chim oanh bay. _Vợ Nhạc Hòa đời Tống là nàng Mễ Thị có thai, đêm hôm sắp sanh mộng thấy chim oanh bay trong phòng, đậu tại trên chót đầu mình, tỉnh dậy mà sanh ra Nhạc Phi. Sau NHạc Phi làm Đại Tướng, được phong tước Võ Mục Vương (truyện Nhạc Phi).

[FONT=&quot]6_Mộng mặt trời vô bụng.[FONT=&quot] _Hoàng Hậu của vua Cảnh đế nhà Hán, nằm mộng thấy mặt trời vô bụng mình, bèn có thai mà sanh ra vua Võ Đế là một vua anh võ
MỘNG LẠ


1_Mộng nước sông khô. _Vua nhà Tống có bịnh, nằm mộng thấy nước sông khô. Tỉnh dậy bèn hiện ra vẻ lo, vì nghĩ rằng: “Vua là tượng rồng, nay nước sông cạn khô, thì không có chỗ ở, chắc là điềm dữ.” Sau hỏi bá quan, có người tâu rằng: “Chữ HÀ là sông bỏ chữ Thủy là nước đi, thành chữ KHẢ là KHÁ, có lẽ bịnh của bệ hạ khá hết.” Vua nghe lời vui mừng, liền khỏi hết bệnh.

2_Mộng đầu mọc sừng. _Trịnh Giải đời Tống mộng mình tắm tại ao, ngó cánh tay thấy sanh vảy trắng, trong bóng nước thấy đầu mình mọc sừng. Sau bèn đậu Trạng Nguyên.

3_Mộng mọc thêm râu. _Nhà Lữ Mông Chánh về đời thượng tổ giàu lớn, vì nạp lương thuế thế cho dân trong quận, bị lụy thành nghèo. Tới đời Mông Chánh trông chỗ ở cũ, xảy nứt ra một cái hố. Một ngày kia qua miễu cầu thần, lượm đặng một trăm lượng vàng ròng bỏ rớt. Mông Chánh để trả lại cho chủ mất của, chẳng động tới một ly nào. Đêm hôm ấy mộng thấy thần trồng thêm cho ba sợi râu. Sau đậu trạng nguyên, làm Tể Tướng, được phong tước Văn Mục Công. Đó là khoa, chức và tước đều cao ứng về ba sợi râu.

4_Mộng hai núi chạy. _Dương Văn Quảng đi đánh giặc, quân bị vây hãm tại Liễu Châu tới ba tháng ròng, một đêm kia mộng thấy hai hòn núi chạy. Tướng sĩ đoán rằng: “hai chữ SƠN là núi là chữ XUẤT là ra.” Quả nhiên bữa sau giải đặng vây mà ra.

5_Mộng nước chảy trên núi. _Đặng Ngại đời Tam Quốc làm tướng nước Ngụy, đem binh đi đánh nước Thục, đêm mộng thấy mình ngồi trên núi mà có dòng nước chảy. Đem hỏi viên Hộ quân là Viên Thiệu. Thiệu đoán rằng: “Trên núi có nước là tượng quẻ KIỂN trong kinh dịch, lời thoán từ rằng: “Kiển lợi Tây Nam, chẳng lợi Đông Bắc.” Lời thoán truyện của đức Khổng Tử thích rằng: “Kiển lợi Tây Nam, là đi có công đó; chẳng lợi Đông Bắc, là cái đạo cùng đó.”Trận này đi có lẽ ắt đánh thắng nước Thục, song có lẽ không đặng về.” (Nước Thục ở về phương Tây Nam, nước Ngụy ở về phương Đông Bắc). Đặng Ngại rầu rĩ chẳng vui. Saui quả nhiên đánh đặng nước Thục, mà Đặng Ngại thì mất tại trong quân, không được về tới nước Ngụy (Tam Quốc).

6_ Mộng hai trẻ đánh lộn. _Vua Thủy Hoàng nhà Tần yến ẩm tại ngự viên, xảy đâu mỏi mệt, nằm ngủ ngày tại nơi đó, mộng thấy đứa trẻ nhỏ mình vận áo xanh, mặt đen như sắt, từ phía Đông tới nơi trước, bắt mặt trời ôm lại. Lại có một đứa trẻ nhỏ nữa, mình vận áo hường, mặt trắng như phấn, do phía Tây tới, la lớn lên rằng: “Hãy ngưng lại, không cướp đặng mặt trời của ta, ta vâng mạng thiên đế tới chưởng quản đây.” Thằng nhỏ áo xanh không chịu, bèn vật thằng nhỏ áo hường thua luôn 72 keo; sau cùng thằng nhỏ áo hường nhổm lại được, chỉ đấm 1 đấm, mà thằng nhỏ áo xanh té nhào xuống đất chết liền. Thằng nhỏ áo hường nói rằng: “Mi dầu anh hùng, nhưng đâu có phước phận như ta ?” Và nói và ôm mặt trời liền chạy đi. Vua Thủy Hoàng kêu lại hỏi rằng: “Mi tên họ là chi ?” 
Thằng nhỏ đáp rằng: “Ta đây là con vua Xích Đế” Ứng với điềm chiêm bao đó là Hớn, Sở giành nhau thiên hạ của nhà Tần.Thằng nhỏ áo xanh đó là Sở vương Hạng Võ khởi binh tại Giang Đông, tài lực rất anh hùng, tay xách nổi cái vạt lớn, đánh lộn với Hớn vương trận nào cũng thắng, chỉ bại 1 trận ở Cai Hạ thì mất liền. Thằng nhỏ áo hường đó là Hớn Vương Lưu Quý, khởi binh ở đất Bái về phía Tây. Hường và Xích đều là tượng Hỏa, cho nên sau khi được thiên hạ chính trị chuộng đức Hỏa, tức là vua Cao Tổ nhà Viêm Hớn (coi truyện Tây Hớn).

7. _MỘNG CHIM ÉN BAY VÔ BỤNG _Mẹ Trương Thuyết đời Dường mộng thấy một con chim ngọc yến bay vô bụng mình, nhân có thai sinh ra Trương Thuyết. Sau Trương Thuyết làm tới tể tướng, cho nên có câu “Phi yến nhập hoài”

8. _MỘNG TRAO CON CỜ _Mẹ Lý Thái Bá mộng thấy hai người đạo sĩ đánh cờ tại ngoài cửa, liền tới nơi xem, đạo sĩ lấy một con cờ trong cuộc trao cho, bèn có thai mà sanh ra Thái Bá.

9. _MỘNG NGƯỜI CHO CÂN LỚN _Mẹ của Thượng Quan Chiêu Dung là nàng Trịnh Thị đang có thai, mộng thấy một người lớn cho cây cân lớn mà nói rằng: “Cầm cân này mà cân thiên hạ.” Sau sanh ra Chiêu Dung, quả nhiên làm quan tể tướng, cầm quyền chánh trị.

10. _MỘNG MÂY HÓA PHỤNG _Mẹ Từ Lăng mộng thấy đám mây ngũ sắc hóa làm chim phụng đậu trên vai tả mình. Sau sanh ra Từ Lăng, có thầy sãi (sư) là Bửu Chí xoa đầu mà nói rằng: “Đó là Thạch Kỳ Lân trên trời vậy.”

11. _MỘNG BÚT NGŨ SẮC _Giang Yêm mộng thấy có người trao cho cây bút ngũ sắc, từ đó văn chướng đại tấn. Sau mộng thấy Quách Phát biểu rằng: “Trả cây bút của ta đây.” Giang Yêm móc túi lấy bút ngũ sắc ra trả. Từ đó sắp sau văn chương không có câu hay nữa.

12. _MỘNG BÚT TRỖ HOA _Ông Lý Thái Bạch mộng thấy cây bút của mình trỗ hoa, từ đó tài tứ càng tấn.
MỘNG KỲ

1._Mộng bơi thuyền sắt._Lối đời Chánh Hòa đời Tống, người huyện Cát thủy là Dương Mỗ tới miễu Nam Từ cầu mộng. Thần phán rằng: “Ngươi hỏi công danh thì phải chờ khi Trương Quả Lão bơi thuyền sắt mới đặng tấn đạt.” Khi tỉnh dậy tự nghĩ rằng: “Đời mình chắc không làm chi đặng, há có sự Trương Quả Lão bơi thuyền sắt bao giờ ?” Tới sau vô trường ứng thí, trường thi bị hỏa tai, quyền tạm lập trường tại một ngôi chùa kia đặng khảo thí. Dương Mỗ ngồi tại dưới hành lang, ngó lên vách thấy có bức vẽ tích cũ “Trương Quả Lão bơi thuyền sắt” trong lòng tự lấy làm mừng, quả nhiên khoa ấy trúng tuyển.

2._Mộng dao treo trên rường._Vương Tuấn mộng thấy hai con daotreo tại trên rường nhà, giây lát lại thêm một con dao nữa. Lý Nghị đoán rằng: “Ba chữ ĐAO là dao là chữ CHÂU; LẠI THÊM là tấn ngôi minh phủ vậy.” Sau quả nhiên bổ chức Châu Thứ Sử.

3._ Mộng đổi mũi thần. _Từ Lang Trung mộng thấy một vị thần nhân xách một cái giỏ tre, trong đựng toàn những mũi người, tới gần mà biểu Từ Lang Trung rằng: “Hình tướng của quan Lang Trung chẳng phải là bạc, nhưng chỉ hiềm mũi vạy mà hơi nhỏ” Bèn cắt bỏ đi và lấy một cái mũi trong giỏ đặt thế lên mà nói rằng: “Đặt cho một cái mũi Chánh Lang đó!” Từ Lang Trung giật mình tỉnh dậy, lấy kiếng mà soi; thấy mũi mình tự nhiên ngay ngắn mà lớn hơn trước. Sau quả nhiên thăng chức Chánh Lang.

4._Mộng lục lạc rớt vô bụng. _Mẹ Lương Nhiệm Phỏng ngủ ngày, mộng thấy tinh kì năm sắc, bốn góc treo lục lạc (nhac), từ trên trời mà xuống, sa một chiếc lục lạc rớt vô trong bụng, nhơn đó có thai, sanh ra Nhiệm Phỏng là một trang tài tử.

5._ Mộng người cho thịt chó. _Ông Lương Hiệu năm 82 tuổi, trước khi vô trường thi 10 ngày, mộng thấy một người cho miếng thịt chó, bữa sau ông buồn rầu chẳng vui. Có người đoán rằng: “Thịt chó là chữ KHUYỂN, MIẾNG là chữ PHIẾN, chữ KHUYỂN gia thêm chữ PHIẾN là chữ TRẠNG.” Khoa ấy quả nhiên đậu Trạng Nguyên.

6._ Mộng cây tùng mọc trên bụng. _Đinh Cố mộng thấy cây tùng (cây thông) mọc tại trên bụng, nhân chiết chữ TÙNG làm ba chữ THẬP BÁT CÔNG. Sau đó mười tám năm quả nhiên làm quan tới ngôi Tam Công, (thập bát là mười tám, Công là quan Công).

7._ Mộng đầu trâu chảy máu. _Tưởng Uyển đêm mộng thấy một cái đầu trâu ở trước cửa, máu chảy dầm dề, trong lòng rất lấy làm ghét. Triệu Trực đoán rằng: “Sừng và mũi trâu là hình chữ CÔNG, đó là điềm tới ngôi Công.” Tưởng Uyển trước còn không tin, sau quả được phong Công Tước, như lời Triệu Trực đoán.

8._ Mộng chia trái lê;_Dương Tấn Hiền đem gia quyến đi thuyền tới nhậm chức Thứ Sử Nam Dương, đêm bị gió giạt thuyền, lạc mất một con. Xảy mộng thấy mình chia trái lê với anh em. Một người đoán rằng: “Chia lê chủ về không thấy”. Vợ chồng thương nhớ, lại hỏi một người nữa, thì người ấy đoán: “Lê khai kiến tử”. Nghĩa là bông lê trỗ thấy trái, TỬ nghĩa là TRÁI, cũng nghĩa là con.” Vài bữa sau quả nhiên thấy.

9._ Mộng cột đồng chuyển._Dương Hưu Chi mộng tới một ngôi nhà lớn, thấy cây cột đồng té ra, hóa làm hình gương sen. Hưu Chi lấy tay ôm lấy cây cột đồng mà khấn rằng: “Cột chuyển ba vòng, ngôi ta tới Tam Công”. Cây cột liền chuyển ba vòng. Sau Hưu Chi quả nhiên làm quan tới chức Tam Công.

10._ Mộng rau mọc tốt. _Vua Chân Tông nhà Tống khai khoa thi học trò, mộng thấy dưới đền có khóm rau mọc tốt, cao tày với đền. Khoa ấy thủ trúng người đậu đầu tên là Thái Tề (Thái là Rau, Tề là Tày).

11._Mộng tay bưng trời._Hàn Kỳ mộng lấy tay bưng trời. Sau làm Tể Tướng, giúp hai trào Anh Tông và Thần Tông, công nghiệp vĩ đại, phong tước Ngụy Quốc Công.

12._Mộng được lúa, mất lúa. _Thái Mậu đời Hậu Hán mộng lấy đặng ré lúa trong ruộng, rồi lại mất đi. Quách Kiều Hương đoán rằng: “Chữ HÒA là lúa với chữ THẤT là mất là chữ TRẬT là Phẩm Trật, trước được lúa là được chữ HÒA; sau mất đi, là tiếp chữ THẤT vô, đó là triệu ắt được Phẩm Trật vậy.” Sau lối 1 tuần, Mậu quả nhiên được Hớn Chúa triệu vô trào phong chức Từ Đồng.

13._ Mộng bút chấm đầu. _Bắc Tề Chúa Văn Tuyên khi còn làm Vương tước trào Bắc Ngụy, mộng thấy người cầm bút chấm vô trên đầu mình. Vương Đàm Triết đoán rằng: “Trên chữ VƯƠNG thêm nét chấm là chữ CHÚA. Đại vương ắt được tấn vị vậy.” Sau đó ít lâu Văn Tuyên được Ngụy chúa nhượng ngôi chúa cho.

14._ Mộng giòi rút thây. _Đường Công Lý Uyên nhà Tùy khi khởi binh lên, mộng thấy mình té xuống dưới giòng, bị đàn giòi nó rút vô thây mình mà ăn thịt. Tái Cách tổ sư đoán rằng: “Chúa công khởi binh ắt đặng thiên hạ, đàn giòi rút vô ăn thịt, là điềm chúng dân y phụ vậy.”

15._ Mộng chim Anh Võ gãy cánh. _Mẹ vua Trung Tông nhà Đường là Võ Hậu đuổi vua Trung Tông ra Phòng Châu, mà tự lập làm vua, xưng là Tắc Thiên Hoàng Đế, đêm kia mộng thấy chim anh võ gãy hai cánh, bèn đem điềm mộng hỏi bá quan. Tể Tướng Địch Nhân Kiệt tâu rằng: “Chữ VÕ là họ bệ hạ, hai cánh là con bệ hạ, hai cánh gãy là không có người phục dực vậy.” Võ Hậu bèn triệu Trung Tông về phục vị.

16._ Mộng hóa đầu hổ. _Lý Thắng Mỹ đời Đường làm Thái Thú kinh Châu, đêm kia xảy mộng thấy đầu mình là đầu hổ. Bửa sau ngồi làm thinh buồn bã, vợ hỏi rằng: “Tướng công mộng thấy đầu hổ phải không?” Thắng Mỹ ngạc nhiên hỏi rằng: “Phu nhân bởi sao mà biết?” Vợ đáp rằng: “hồi hôm thiếp cũng mộng chải đầu, soi kiếng thấy đầu thiếp là đầu hổ. Đầu hổ là điềm hay đó, vì cổ nhân nói rằng: “Vua là rồng, tôi là hổ.” Vậy thì nhà ta chắc có phong tặng.” Chẳng bao lâu triều đình triệu về làm Hữu Tướng, vợ đặng ban cáo mạng.

17._ Mộng rắn được ngọc. _Tùy Hầu Chúc Nguyên Xướng tới nước Tề, đi ngang đàng thấy một con rắn nơi đầu có máu. Tùy Hầu lấy gậy khều thả xuống nước mà đi.Sau khi trở về tới chỗ con rắn, thấy nó ngậm ngọc châu, Tùy Hầu chẳng dám lấy. Về tới nhà, đêm mộng thấy gót chân mình đạp nhằm một con rắn, giật mình tỉnh dậy, được hai hột ngọc châu.

[FONT=&quot]18._ Mộng trên núi treo tơ[FONT=&quot]. _Tiết Thục mộng thấy Trương Lượng treo sợi tơ tại trên núi, sau khi tỉnh dậy đem điềm ấy thuật lại với Trương Lượng và đoán rằng: “Trên chữ SƠN là núi, treo chữ TY là tơ, là chữ U. Có lẽ ngài đặng làm chức Thứ Sử châu U.” Chẳng bao lâu quả nhiên trào đình bổ Trương Lượng làm U Châu Thứ Sử.
MNG DỮ

1. Mộng trên đầu mọc sừng. _Ngụy Diên (*)sắp làm loạn, đêm kia xảy mộng thấy trên đầu mình mọc cái sừng, bèn hỏi Triệu Trực. Triệu Trực hay rằng chẳng phải điềm lành, nhưng nói trái đi để gạt và rằng: “Đó là triệu đại cát vậy !” Ngụy Diên hỏi rõ cái cớ. Triệu Trực đáp rằng: “Kì lân có sừng mà chẳng dùng, đó là tượng chẳng phải đánh mà địch quốc tự nhiên phá.” Ngụy Diên nghe nói cả mừng, bèn khởi binh làm phản. Triệu Trực lui ra nói người rằng: “Chữ GIÁC là sừng trên chữ ĐAO là dao, dưới chữ DỤNG là dùng, trên đầu dùng dao là triệu xấu lắm !” Sau quả nhiên Ngụy Diên bị binh Thục giết chết.
(*) Ngụy Diên là một tướng mạnh theo Gia Cát Khổng Minh đã từng lập nhiều công lớn, sau Khổng Minh chết rồi, Ngụy Diên mới làm phản.(Coi truyện Tam Quốc)

2.Mộng cây lớn chọc trời. _Vương Đôn mưu phản, trước khi chưa cử binh, từng mộng thấy một cây chọc thủng trời. Tỉnh dậy chẳng hiểu lẽ chi, bèn đem hỏi khắp mọi người, phần nhiều chẳng ai giải đặng. Hứa Chơn Nhơn đoán rằng: “Lấy cây chọc thủng trời là chữ VỊ là Chửa (chữ Thiên là Trời và nét sổ dọc là cái Cây ) là nghĩa chửa nên cử động vậy.” Vương Đôn không tin, bèn cử binh làm phản. Sau lại mộng thấy con mắt nhắm, chỉ có một sợi lông mày. Lại đem
đi hỏi người, người bạn đoán rằng: “Con mắt nhắm là chữ HẠT, chữ HẠT một bên chữ MỤC là mắt, một bên chữ HẠI là Hại; trên mắt một sợi lông mày tức là chữ TỰ là Tự Mình (trên chữ MỤC có nét phẩy là một lông mày), nghĩa là anh cử binh là sự tự hại mình đó. May mà chữ HẠT bỏ chữ MỤC và chữ MIÊN là lợp hang đi, tức là chữ CÁT là tốt, nếu anh đem ổ hang của mìn bỏ đi, ăn năn lỗi cũ, sửa lại đức mới, sẽ có thể gặp hung hóa cát.” Vương Đôn chẳng nghe, sau quả nhiên chết tại trong quân.

3. Mộng đi đàng gặp gà. _Tạ An là vị đại thần có danh tiếng đời Đông Tấn,(*) một ngày kia bị bịnh không dậy đặng. Trong giấc mộng thấy MÌNH ĐI ĐÀNG GẶP CON GÀ MÀ NGỪNG LẠI. Tỉnh dậy mà hiểu rằng: “Gà là tuổi DẬU, chữ DẬU bỏ đi một nét tức là chữ TÂY; phương Đông chủ sanh, phương Tây chủ tử, chắc hẳn là chết chẳng sai.” Chúng đều chẳng tin, chẳng bao lâu quả nhiên Tạ An qua đời.
(*) Đông Tấn về đời Hậu Tam Quốc

4. Mộng vợ đã thác lấy chồng khác. _Vợ Tống Dĩnh đời Hậu Ngụy là nàng Đặng Thị thác đã 15 năm rồi, một đêm kia Dĩnh mộng thấy nàng về lạy mình mà rằng: “Nay thiếp bị thiên đình xử phân làm vợ Cao Sùng cho nên lại từ biệt.” Nói rồi rơi lụy mà đi. Vài bửa sau thì thấy Cao Sùng bị đau mà thác.

5. Mộng người vận đồ tang. _Hoàng Minh Kì khi ở quận Dự Chương, quan Thái Thú là Mai Nguyên Long đã bị bịnh trước rồi, Minh Kì tới thăm, nói với Nguyên Long rằng: “Mấy hôm trước thấy anh vận đồ tang lại rước tôi; trải qua mấy bữa sau lại mộng như vậy.” Chẳng bao lâu Mai và Hoàng tiếp nhau qua đời.
KỸ THUẬT MỘNG CŨ
1._Người quận Võ Lâm là Trương Diệu tự Lăng làm chức Quân Môn nhà Tề, do quân công khởi gia, nhậm chức Đạo Viên, sau lại cải bổ võ chức, đánh dư trăm trận, sức địch muôn người, vĩ liệt phong công, một thời rỡ rệt, rồi lại theo quan Tả Tước Tướng ra ải. 
Quân tới đâu như trúc chẻ ngói tan, đánh đâu được đó và chỉnh đốn quân sự, biên sự rành rẽ, có thứ lớp, hết thảy quân và dân ai nấy đều nức miệng khen ngợi, mà có kẻ thuật lại oai danh trong quân, thì trong ngoài vài ngàn dặm nghe tiếng đều phải run sợ, nhất là người Nga và đảng Hồi lại càng hoảng lắm, thiệt là trang trí dũng kiêm toàn. Vả chăng tính khí ôn hòa, đối với người trò chuyện vui vẻ, nhớ lại vài mươi năm trước Trương Quân Môn từng về châu Hàng, đóng tại xóm Hạ nơi dưới thành, thường ngày cùng với các ông già bà cả trong làng nói chuyện nhàn thoại, tỏ vẻ tin thật có khí tượng nho giả, người châu Hàng rất kính mến, đồn nhau rằng: “Trương Quân Môn là kiếp sau của Trương Hoàn Hầu”. 
Câu đó chưa ai đã lấy làm tin cho lắm, duy sau này nhân dịp trong thành châu Hàng tu tạo lại miễu Nhạc Võ Mục Vương (Nhạc Phi) tại dưới An Kiều, có người vô miễu chiêm bái, nhân thấy trước tòa thần có đôi câu liễn treo cột và bài tựa đề bảng của quan Nguyên Nhiệm Triết Giang Niết Hiến, hiện chức Liêm Phóng là Khoái Sĩ Tỗn, đọc lên chẳng dè ngạc nhiên vì nghĩ rằng: “Khoái Liêm Phóng là một vị phương diện Đại thần, nhậm ngôi phong hiến, tuổi cao đức hậu, có lẽ đâu lại bày đặt ra câu chuyện huyền hoặc nói quấy; huống chi hình hiện bút mực mà giải bày ra trước mặt thần minh nữa hay sao? Câu liễn và bài tựa đó đại ý tự thuật oai đức, công liệt cùng tiết nghĩa của Võ Mục Vương và cảm tạ ơn thần ủng hộ, chuyện lược thuật như vầy:
…_Nhớ lại lối năm Hàn Phong, Tỗn này phụng mạng Phó nhậm Quang Châu, khi đó giặc giã còn tung hoành, nhân đề binh bát tiễu, qua huyện Thang Âm, tới trấn Châu Tiên, chiêm yết miễu Đại Vương. Đêm mộng thấy Vương vời vô hậu
đin, ngước lên thấy vị ngồi cao đó là Trương Hoàn Hầu, Vương chỉ Tỗn mà phán rằng: “Nội điệt (cháu kêu vợ là cô) của người là Trương Diệu tức là hậu thân của Trương Hoàn Hầu, nay cho đặng giúp ngươi !”. Hồi đó quân bị giặc vây chặt mấy vòng, dư bảy chục ngày, hết sức đánh giải vây, Diệu dự có công đó. Trước sau ở châu Dự hai chục năm, chuyển lần đánh dẹp trong vòng hai ngàn dặm, đều do Diệu đương sức Tiên phuông, giặc dữ miền Tín Dương thảy đều trông chiều gió hàn phục, sanh toàn đặng dư hai mươi muôn chúng. 
Phàm những nơi đô ấp mà Diệu lãnh binh kinh quá, đều là đất lực chiến của Vương ngày xưa. Ôi, như tráng chí thệ dẹp Trung Nguyên của Vương,vẫn không đâu là chẳng hiển oai linh sảng, huống chi Nam Dương là cõi thọ mạng nữa sao? Tỗn này về lối năm Tân vị lãnh chức Niết Hiến hạt này, dinh thự tức là nền cũ Thỏ viên của Vương, vậy kỉnh lập miễu Trunh hiển đặng phụng tự linh tích. Ngày khánh thành ghi chép duyên kỳ tao tế, chí tại sanh dân, khiến cho kẻ
kiến công lập nghiệp sau này, đều đặng đội ơn thần tứ. Khoái sĩ Tỗn cẩn chí.
Xem như chuyện ấy thì Trương Quân Môn đích là thân sau của Hoàn Hầu, điềm mộng của Khoái Liêm Phóng chính là thần linh muốn hiển thị cho người trần hay nơi mành mối vậy.

2._Tân Sanh là người huyện Tiên Du, sẵn có tiếng văn chương và thạo nghề lý luật việc quan, phàm những sự kiện cáo trong làng đều mướn va bày mưu vẽ mẹo, vì vậy nên gom của thành nhà giàu có, mà gặp những năm đói kém hay là
loạn lạc, chẳng chịu mẻ mày một hột thóc nào cho người, chúng chẳng ai ưa, thảy đều hờn giận. 
Tuổi ngoại bốn chục, vẫn chưa có con, bèn cầu đảo tại miễu thần, nguyện đem phước mạng một đời thế lấy một con thừa tự. Đêm mộng thấy thần quở rằng: “Mi làm thầy cò, thầy kiện, xui nguyên giục bị, đổi trắng thay đen, phá sản nghiệp người ta, gạt lấy tài vật người ta kể đã nhiều lắm, tội đã chẳng trốn đâu cho thoát, còn trông đặng có con nữa sao ?” Tân Sanh thú phục cầu khẩn rằng: “Trót vì làm nghề này đã lâu năm, ăn năn thôi đã trễ rồi, biết tính làm sao cho đặng?” Thần liền cầm bút viết tám chữ: “Phóng hạ trù đao, lập địa thành phật” (*) cho coi. 
Tân Sanh tỉnh dậy mà mướt mồ hôi ra, phát thệ đổi nghề, dầu ai thử cho bao nhiêu vàng bạc, cũng đều ngoảnh đi chẳng ngó lại, vì người giải phân lẽ phải quấy, khuyên lơn cho khỏi kiện nhau. Sự hành vi của anh ta hồi này đối với
ngày xưa, trước sau dường như hai người vậy. Như vậy dư một năm, lại cầu đảo miễu thần, mộng thấy thần phán rằng: “Mi mới đây sự làm rất tốt, nhưng thuở nay còn có ác nghiệp, tự mình chẳng biết hay sao ?” Nhân cầm bút viết mười bốn chữ: “Năng dữ bần nhơn cọng niên cốc, tất hữu minh nguyệt xuất bạng thai.” (**) cho coi. 
Tân Sanh hiểu lãnh ý thần, giật mình tỉnh dậy, mà chẳng hay hai câu đó xuất xứ tại đâu. Khi đó Quang tổ Tư chánh công chưởng giáo Kim Thạch thơ viện, Tân nguyên là trang cao tài trong viện ấy, nhân đem câu trong giấc mộng hỏi ông, thì ông đáp rằng: “Đó là câu thi của Huỳnh Sơn Cốc, ý Thần biểu: Nếu biết đem thóc lúa cứu tế cho kẻ nghèo, thì tự nhiên có con chứ chẳng khó.” Tân Sanh bèn đem hết của cải trong nhà ra bố thí và đem thóc lúa bán giá phải cho người. Như vậy dư một năm nữa, lại mộng thấy thần biểu rằng: “Ngươi mấy năm nay tích thiện, đã đạt tới Thiên Tào, Quan Âm Đại Sĩ sắp đem con cho ngươi rồi đó.” Qua vài bữa sau, quả nhiên mộng thấy một người đàn bà vận áo trắng bồng một đứa con nít từ mé đàng bên kia mà lại. Đang nghĩ muốn chạy qua rước lấy, thì xảy thấy một con trâu lớn đứng chắn ngang trước mặt, người đàn bà áo trắng vội vã quay mình trở đi. 
Tân Sanh áo não hờn giận mà tỉnh dậy, mới hiểu ra là vì cớ ngày thường mình hay ăn thịt trâu. Từ đó cả nhà đều răn ăn thịt trâu. Sau quả nhiên sanh đặng một con trai sau thi đậu Tú tài.
(*) Ý nói: Liệng bỏ cái con dao trong phòng giấy làm lại đi, lập lấy đất tu hành cho thành Phật.
(**) Ý nói: Nếu biết đem thóc lúa chẩn cấp cho người nghèo, ắt có ngọc châu minh nguyệt hóa trong thai lão bạng (nghĩa là ráng đem của làm phước thì sẽ có con).


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *