phần 19 –
mộng về: tiên, phật, tăng, ni, quỉ, thần.
– Chư Phật, Bồ Tát, điềm đại cát lợi.
– Pháp sư lên tòa, sẽ có tật bịnh.
– Lão quân, chơn nhơn, đều là điềm đại cát.
– Thấy hình vẽ Thần, Phật, được người kính trọng.
– Coi tượng Thần Phật, điềm vợ có con.
– Phật nói với người, điềm có phước giúp.
– Vô miễu Thần, Thần động, là điềm đại cát.
– Thấy tạo phướn lộng, điềm đại cát lợi.
– Thầy tăng dạy người niệm kinh, thuộc về điềm tốt.
– Thấy đạo sĩ hay là nữ quan nói chuyện, đều là điềm tốt.
– Thấy hòa thượng hay là ni cô coi kinh, thuộc về điềm buồn.
– Bị quỉ thần đánh, điềm đại bất tường.
– Thấy Thần Phật trên thềm, điềm đại cát lợi.
– Thấy Thần Phật chẳng thành hàng, thuộc về đại hung.
– Đốt nhang lễ bái, đều điềm đại cát.
– Rước Thần hội cộ (hội hè), sẽ có ngoại tài.
– Tiên thánh tới nhà, phước lộc sẽ đến.
– Nghe tiếng ma quỉ, điềm thêm tuổi thọ.
– Tế tự thần đạo, điềm đại cát lợi.
– Mình thọ giới hạnh, điềm có con hiếu.
– Giao thông với thần nữ, điềm được con sang.
– Giao thông với ni cô, chủ về mất của.
phần 21-
mộng về: bắt bớ, hình phạt, giam cầm.
– Lao ngục đổ nát, điềm tốt xá tội.
– Ngồi trong lao ngục, ắt có ân xá.
– Vô ngục thọ tai, chủ về vinh quí.
– Chết tại trong ngục, việc quan tiêu tan.
– Khiến người vô ngục, điềm tốt phát tài.
– Vô trong lao ngục, chủ về đại quí.
– Trộm cướp tự nhiên vô ngục, chủ về đại hung.
– Lao ngục dơ dáy, hôi thối, trăm sự đều tốt.
– Tù tội tẩu thoát, tật bịnh tiêu trừ.
– Thấy đuổi giặc đi, thuộc về đại cát.
– Gông khóa tới mình, tật bịnh sẽ tới.
– Gông khóa hư gãy, khẩu thiệt tiêu tan.
– Gông khóa vô nhà, thuộc điềm rất xấu.
– Dây trói cột mình, điềm đại cát lợi.
– Mình bị lưới vó, chủ về việc quan.
– Bị lưới vó giăng, chủ về tửu thực.
– Bị người trách phạt, lộc vị tới nơi.
– Bị người dễ khi, thuộc điềm đại cát.
– Bị người săn bắt, tật bịnh tới nơi.
– Bị quan đánh mình, chủ về hiếu phục.
– Tự mình phạt trượng, sỉ nhục sanh ra.
– Cùm khóa sợ sệt, chủ về phân ly.
– Vô quan kiện cáo, thuộc về đại cát.
– Vời người vô quan, chủ về tửu thực.
– Dẫn mình vô quan, chủ về đại cát.
– Bị lại chép tội, sẽ có việc gấp.
– Quí nhơn chạy ngựa, việc quan biện minh.
[FONT="]- Khảo tấn trượng phạt, chủ về đại quý.[/
phần 22 –
mộng về: ruộng vườn, lúa má, trồng, cấy.
– Trong ruộng mọc cỏ, chủ về phát tài.
– Trồng ruộng rộng lớn, điềm có lộc vị.
– Mình cấy lúa ruộng, chủ về xuất hành.
– Thấy người cấy ruộng, lộc vị tới nơi.
– Dạy người cày cấy, người xa sắp về.
– Sai người trồng ruộng đất, chủ về đại cát.
– Mua ruộng vườn của người, chủ về dời chức.
– Gặt thâu lúa ruộng, nhà đã yên bình.
– Trên nóc nhà mọc lúa, ngôi quan cát hanh.
– Lúa má phong đăng, giàu sang trường cửu.
– Mình ở trong lúa, điềm đại cát lợi.
– Phá hoại ruộng đất, chủ về đại cát.
– Coi thấy lúa má, điềm đại phát tài.
– Lúa gạo trắng tinh, điềm tốt được của.
– Năm giống lúa tốt thạnh, chủ về phát tài.
– Lúa má đều tốt, điềm đại cát lợi.
– Thóc gạo chất đống thì tốt, tan tác thì xấu.
– Lúa hột lớn, hột nhỏ, chủ về vợ có tư tình.
– Thấy đậu lớn hay là lá mạ, con cháu bị hung.
– Lúa gạo bày ra, điềm đại cát lợi.
– Ngồi nằm trên lúa gạo, chủ về đại lợi.
– Trong tay cầm thóc, chủ về phước lộc.
– Bắt được thóc gạo, chủ về đại cát.
– Được lúa xảy mất, chủ về được phẩm trật.
– Cầu gạo, ắt có đồ dưng tới.
– Trồng rau, chủ về điềm tốt thọ trường.
– Thấy cây lúa cao hay là bánh bột, việc quan sẽ tới.
– Tấm cám lộn nhau, nhà muốn cơ kiệm.
– Thấy rượu và men, ắt chủ về việc uổng khuất.
– Thấy mầm thấy mống, chủ về sự ác luôn luôn.
– Hột mè (vừng) rắc vô mình, ắt bị tật bịnh.
[FONT="]- Cây mè mọc như rừng, điềm đại cát lợi.
phần 23 –
mộng về: nước, lửa, trộm, cướp, đèn đuốc.
– Đi trên mặt nước, chủ về sự cát.
– Đứng trên mặt nước, chủ về sự hung.
– Nước trôi lồng lộng, điềm có tân hôn (vợ chồng mới).
– Trên nước lửa bốc, chủ về đại cát.
– Tự mình ở trong nước, điềm đại cát lợi.
– Tự mình rớt xuống nước không ra đặng, thuộc về điềm hung.
– Uống nước chẳng thôi, chủ về đại phát tài.
– Nước chảy quanh mình, có sự giam cầm kiện cáo.
– Nước lớn lắng trong, điềm lành đại cát.
– Nhà người có nước, con mình bị vong.
– Sông biển đầy tràn, điềm đại xương thạnh.
– Nước sông chai cát đá, tấn ích văn chương.
– Lửa đốt mặt trời, mặt trăng, có đại nhơn phù trợ.
– Lửa đốt nước sông, điềm tốt thọ mạng.
– Lửa đốt núi đồng, điềm đại hiển đạt.
– Lửa đốt nhà mình, chủ về hưng vượng.
– Lửa cháy rờ rỡ, chủ về phát tài.
– Lửa do đất khởi, tật bịnh tới nơi.
– Cầm lửa chạy đi, ngôi quan đem tới.
– Lửa lớn đốt trời, điềm nước bình an.
– Mình ở trong lửa, quí nhơn phù trì.
– Khói lửa sắc đen, điềm có tật bịnh.
– Cầm lửa đi đàng, vận đại thông đạt.
– Cầm lửa đốt giếng, tật bịnh sẽ tới.
– Trong nhà lửa sáng, điềm đại cát xương.
– Trong bếp lửa lan ra, sẽ có sự gấp.
– Nghe sự kén lửa sáng, điềm làm quan minh.
– Đốt vật ô uế của người, chủ về đại cát.
– Coi thấy cây đuốc, điềm đại phát tài.
– Đèn đuốc sáng trưng, chủ về đại cát.
– Thấy buông khói lửa, trăm lo tiêu tan.
– Mọi người vây lò, điềm tốt hòa hiệp.
– Kẻ ác dẫn nhau, tật bịnh đem đến.
– Đuổi giặc vô chợ, vướng phải sự hung.
– Giặc dữ vô nhà, gia đạo phá hoại.
– Đồng đi với giặc, điềm đại cát lợi.
– Tự mình làm giặc, cầu chi được nấy.
phần 24 –
mộng về: dơ dáy, tắm gội, lăng nhục
– Phẩn tiểu dơ mình, chủ về được của.
– Đại tiện đầy đất, chủ về giàu sang.
– Bị đau trong cầu tiêu, điềm được quan lộc.
– Té trong cầu tiêu, ra được là tốt; chẳng ra được là xấu.
– Nóc cầu tiêu chồng nóc, chủ về được của.
– Trong cầu tiêu khô ráo, chủ về phá gia.
– Gác nóc cầu tiêu, mừng về được của.
– Hốt phân về nhà, điềm đại cát lợi.
– Mình ở trong bùn, sở cầu chẳng thành
– Mất đại tiểu tiện, chủ về mất của.
– Bùn dơ áo xiêm, sanh sản chẳng lành, hoặc thân bị nhục.
– Trai gái tắm gội lên giường, thuộc về điềm xấu.
– Tắm gội bụi đất, tật bịnh đặng an.
– Gội đầu, điềm dời chỗ ở và tật bịnh trừ.
[FONT="]- Bị nhục mạ, gầy sự kiện cáo
phần 25 –
mộng về: rồng, rắn, chim muông.
– Cỡi rồng vô nước, điềm có ngôi sang.
– Rồng ngự trong nước, sở cầu toại ý.
– Rồng ngang giữa cửa, điềm đại cát xương.
– Thấy rồng chết mất, điềm mất ngôi sang.
– Rồng tới lên núi, đặng toại sở cầu.
– Rồng vô trong giếng, làm quan bị nhục.
– Coi thấy rồng bay, ngôi quan đại quí.
– Cỡi rồng vô chợ, điềm có ngôi sang.
– Rồng rắn vô cửa, chủ về được của.
– Rồng rắn vô bếp, có việc quan tới.
– Rắn hóa rồng đi,quí nhân trợ lực.
– Đàn bà thấy rồng, điềm sanh quí tử.
– Rồng rắn giết người, chủ về đại hung.
– Rắn dữ cắn người, chủ phát tài lớn.
– Rắn vô trong bọc, điềm sanh con sang.
– Rắn đi trong nước, chủ về thăng quan.
– Rắn theo người đi, vợ có tình ngoại.
– Rắn vô đường hang, có điều khẩu thiệt.
– Rắn quấn quanh mình, điềm sanh quí tử.
– Rắn hiện ra nhiều, thuộc sự âm ty.
– Rắn đỏ, rắn đen, thêm điều miệng tiếng.
– Nếu là rắn xanh, thuộc về điềm tốt.
– Rắn vàng, rắn trắng, chủ có việc quan.
– Thấy chim phụng hoàng, quí nhân phù trợ.
– Phụng đậu cánh tay, bịnh mẹ sẽ tới.
– Thấy chim khổng tước (chim công), điềm đại cát lợi.
– Hạc bay lên trời, có chút vạ miệng.
– Nghe chim hạc kêu, lộc vị đại hiển.
– Hạc vô trong bọc, điềm sanh con sang.
– Thấy hạc gác xe, có việc chiến trận.
– Mình thả chim hạc, điềm tốt được của.
– Chim công bay múa, có triệu văn chương.
– Thấy chim anh võ, đàn bà có điều khẩu thiệt.
– Chim oan ương bay đi, vợ có điềm xấu.
– Vịt nước vô nhà, thuộc điềm rất xấu.
– Mình gác xe hạc, lộc vị tới nơi.
– Nghe chim cưu kêu, đàn bà có tin mừng.
– Chim yến bay vô bọc, điềm vợ sanh con.
– Chim kêu trên không, chủ về vợ thác.
– Chim bay vô bọc, đều là điềm lành.
– Bắt lại chim bay, tin xa sẽ đến.
– Chim én bay đến, khách xa tới chơi.
– Chim tước đấu lộn, sẽ có việc quan.
– Quạ, sẻ, đồng reo, chủ về tửu thực.
– Ngỗng, vịt đồng lượn, điềm được thiếp xinh.
– Chim tới, rắn về, có người dẫn tấn.
– Mình tắm cho gà, đặng quan biện minh khẩu thiệt.
– Thấy gà ấp trứng, có sự mừng to.
– Gà ở trên cây, chủ về được của.
– Mộng thấy kỳ lân, tiếng dậy thiên hạ.
– Cọp dữ gầm lớn, điềm được ngôi quan.
– Voi trắng lội sông, ngôi quan sẽ tới.
– Sư tử gầm hét, dậy động thinh danh.
– Mình cỡi cọp đi, toàn không sự dữ.
– Cọp vô trong nhà, quan cao chức trọng.
– Hùm sói chẳng động, điềm lành kiến quan.
– Sài,lang, chó dữ, điềm có trộm cướp.
– Chó sói cắn gót, điềm chẳng nên đi.
– Lạc đà, beo, sại, điềm đặng chức trọng.
– Thấy rồng, thấy gấu, mình sanh con sang.
– Bầy thỏ lên cây, được ngôi quan quí.
– Tỳ (thú dữ), lộc (hươu) ở nhà, điềm thêm quan lộc.
– Quỉ sống ở vườn, trăm lo bỏ đi.
– Thấy mèo bắt chuột, chủ về phát tài.
– Chuột bạch dẫn đàng, có người dắt díu.
– Chuột cắn áo người, cầu chi ắt đặng.
– Con chuột chạy đại, sẽ có sự lành.
– Thấy con khỉ núi, gầy mối tranh tụng.
– Thấy con vượn bạch, sẽ đặng ngôi quan.
phần 26 –
mộng về: các giống súc vật.
– Con bò ở nhà, chủ về phú quí.
– Trâu lên triền núi, điềm đại cát xương.
– Dắt trâu lên non, sẽ đặng phú quí.
– Sừng trâu có huyết, ngôi tới Tam Công.
– Thấy trâu húc người, mọi sự chẳng toại.
– Trâu ra ngoài cửa, sự tốt tới liền.
– Trâu nước (trâu đen) tới nhà, sẽ có tang sự.
– Trâu sanh ra nghé, mưu sự đều xong.
– Cỡi trâu vô thành, có tin mừng tới.
– Dắt trâu dê lại, nhà có sự vui.
– Ngựa múa trước sân, sự dữ tan hết.
– Ngựa đi mười dặm, mừng lớn tới nơi.
– Cỡi ngựa vui mừng, chủ về điềm xấu.
– Chạy ngựa qua lại, có việc văn chương.
– Thấy ngựa vô nhà, có sự tình tốt.
– Ngựa, đà, tiền của, điềm mất lộc vị.
– Đóng ngựa, tắm ngựa hay là thả ngựa, đều là sự mừng.
– Bầy ngựa bôn đào, trăm dữ giải thoát.
– Kẻ tội chạy ngựa, sự ách bỏ đi.
– Cỡi ngựa bạch đi, tật bịnh sẽ tới.
– Mình bị ngựa cắn, lộc vị tới nơi.
– Mình cỡi ngựa, lừa (la), chủ về được của.
– Người giết heo là điềm tốt, heo tự nó chết là điềm xấu.
– Heo biến thành người, việc quan sẽ tới.
– Heo dê đau yếu, khẩu thiệt thêm điều.
– Dê hóa heo đi, người đi sẽ tới.
– Cỡi dê lên đàng, chủ về được của.
– Thấy trâu mẹ con, điềm tốt tăng thọ.
– Người bị chó cắn, quỉ lại kiếm ăn.
– Chó cắn chủ nhân, điềm xấu mất của.
– Trong nhà đẻ ngựa, điềm rất tốt lành.
phần 27 –
mộng về: rùa, rắn, tôm, cá, ba ba và sâu bọ
– Rùa vô trong giếng, phú quí tới nơi.
– Rùa, rắn chầu nhau, chủ về sanh của.
– Mộng thấy con rùa, sanh con gái quí.
– Mình bắt con rùa, chủ về việc tang.
– Mộng thấy ba ba, chủ về được của.
– Én bay trên nước, trăm sự đều tan.
– Trong giếng có cá, chủ về thăng quan.
– Giăng lưới bắt cá, điềm đại cát lợi.
– Thấy người bắt cá, ăn uống đều lành.
– Đơm cá, ăn cá, chủ về tật nhỏ.
– Trong nước câu cá, điềm đại cát lợi.
– Trong rừng đi săn đánh lưới, làm việc không thành.
– Bầy cá lượn nước, chủ về có tài
– Mộng thấy cá chép, vợ có thai rất tốt.
– Cá lớn quậy động, chủ về thinh danh.
– Cá nhỏ đẻ con, điềm đại cát lợi.
– Cá không xuống nước, vận mạng lại thông.
– Tôm biến thành cá, điềm mất tài vật.
– Mình ngồi lên cá, sâu, bịnh hoạn trừ hết.
– Thấy cua, thấy cáy, chủ về trăm bệnh tiêu tan.
– Chãu chuộc hay là ễnh ương kêu và chạy, khẩu thiệt thêm điều.
– Thấy con quăng (giống vi trùng dưới nước), chủ về đàn bà mất của.
– Thấy ốc, thấy hến, chủ về ở ngoài chẳng đau.
– Thấy con cáp ly (trai biển), điềm già sanh con.
– Bướm bay vô đèn, người khác ly tán.
– Tằm bay chẳng có kén, điềm tốt của chủ nhân.
– Ong, rắn giỡn nhau, làm việc chẳng thành.
– Khương lang (tục kêu là con bọ hung) làm đống, chủ về mất của.
– Chuồn chuồn bay đôi, có mỹ nhân tới.
– Ong đốt gót người, mừng về có của.
– Súc chức (tục kêu là con dọt sành) tiếng rên, có sự phiền não.
– Biển bức (con dơi) bay đờn, việc âm thì tốt.
– Ngô công (con rít) cắn người, điềm tốt thọ mạng.
– Mộng thấy kỳ rận (con trùn), điềm tốt ruộng nhà.
– Thấy con diên du (tục kêu là con giời leo, hình như con rít mà nhỏ), cầu tài thì tốt.
– Con muỗi đốt người, điềm có sự mất.
– Ruồi xanh bận áo người, ắt có gièm pha.
[FONT="]- Thấy con lâu quấc (tục kêu là con nhái, da xanh mà dài cẳng), có sự bất minh.[/
LỜI DẶN
Phàm chư mộng triệu là những cảnh tượng, tình hình, hay là thinh âm mà hằng ngày trong tâm chí không thường tư tưởng tới, mắt không thường ngó thấy, tai không thường nghe tiếng, thình lình hiện ra trong giấc ngủ, mới kêu là mộng, mộng thì mới có trưng triệu.Còn như cái tình hằng ngày vẫn tư tưởng, cái cảnh hằng ngày vẫn thấy, cái tiếng hằng ngày vẫn nghe, mà ban đêm trong giấc ngủ mê nghĩ tới, ngó thấy hay là nghe tiếng, đó là mơ tưởng, chớ không phải mộng.Đã không phải mộng thì không có trưng triệu, nghĩa là không có ứng nghiệm về điềm tốt, xấu, sự nên, hư chi hết.
Đoán mộng thì phải tùy theo địa vị, phận lượng, sự thế, tư cách của người nằm mộng và tình cảnh trong giấc mộng, suy lẽ trong sách và tham đính lấy ý mình mà đoán ra, chớ không có thế nệ sách mà y theo lệ nhứt định đặng.Vì rằng mộng mị biến ảo dị thường, xưa nay mỗi mộng mỗi khác, không mộng nào giống mộng nào, nên sách chỉ kể đại khái những mộng này thì ứng về những điềm này mà thôi, không có thể lập thành cho xiết đặng.
KHẢO VỀ ĐIỀM MỘNG
Ông Trang Tử nói rằng:” Bực chí nhơn (người đức hạnh đúng đắn) không có mộng.” Vì bực chí nhơn không có lòng ham muốn, cho nên không có mộng vậy. Còn như người đời lòng ham muốn riêng vô cùng, cho nên cảm mà thành mộng, trăm hình nghìn trạng, những cái ở đời chưa hề có, bèn mộng thấy liền, bút giấy chép sao cho xiết đặng thay. Đây chép sơ mấy điềm mộng xưa, để đợi người biết. Còn một câu biểu là: “sửa đức trừ mộng”, thì ở về từng người mà thôi.
1_Giấc mộng “Hoa Tư” . _Vua Huỳnh Đế ngủ ngày, nằm mộng qua chơi nước Hoa Tư, thấy nước ấy của giàu binh mạnh, vật thạnh dân yên.Từ khi tỉnh dậy về sau, thiên hạ thái bình, cũng như nước Hoa Tư vậy.
2_Giấc mộng “Châu Công”. _Đức Khổng Tử khi còn trẻ tuổi, chí muốn làm đạo ông Châu Công (*) cho nên hằng khi mộng thấy. Tới hồi tuổi già, than rằng:” Chao ôi, ta suy lắm rồi. Đã hèn lâu chẳng mộng thấy ông Châu Công nữa!”
(*) Ông Châu Công là ông Thánh, làm quan tướng nhà Châu, chế lễ, soạn nhạc, sửa sang chánh sự, trị thiên hạ đặng thái bình.( Coi truyện Phong Thần và Đông Châu liệt quốc)
3_Giấc mộng “Hồ Điệp”. _Ông Trang Châu hằng khi mộng thấy thân mình hóa ra con Hồ Điệp (con bướm) bay phơi phới ra ý tự đắc, bèn ở ẩn chẳng làm quan, làm kinh Nam Hoa để ví dụ trò đời.
4_Giấc mộng “Quảng Nhạc”. _Vua Mục Công nước Tần nằm mộng tới nơi trời, coi khúc “Quân Thiên Quảng Nhạc”, trời cho cái thẻ, sau đó nước Tần bèn hưng thịnh.
5_Giấc mộng “Cao Đường”. _Vua Tương Vương nước Sở cùng với Tống Ngọc đi chơi đài Vân Mộng, ngó qua quán Cao Đường, thấy trên có khí mây. Vua hỏi rằng: “đó là khí chi vậy ?” Tống Ngọc thưa rằng :” Xưa kia đức Tiên vương từng đi chơi quán Cao Đường, trong khi ngủ ngày, mộng thấy một người đàn bà tới chầu mà tâu rằng : Thiếp tôi đây là con gái núi Vu Sơn, nay làm thần quán Cao Đường, nghe đại vương ngự giá tới đây, xin tới chầu chăn gối.” Tiên Vương dủ lòng thương mà nạp cho. Khi từ biệt ra thì người đàn bà ấy lại tâu rằng: Thiếp ở phía Nam núi Vu Sơn, phía Bắc quán Cao Đường, khi sớm làm mây, khi chiều làm mưa, sớm sớm chiều chiều, dưới động Dương Đài.”
6_Giấc mộng “Huỳnh Lương”. _Lối trào Khai Nguyên nhà Đường, Lư Sanh nhân đi thi khóa Tấn sĩ, lạc đệ (thi rớt) về nhà, tới huyện Hàm Đan vô trọ quán khách, chủ quán nấu cháo kê vàng (huỳnh lương) để ăn. Lư sanh nhân khi mỏi mệt muốn nằm, trong quán xảy có người đạo sĩ trao cho cái gối sứ, Lư Sanh đặt mình nằm xuống, thiu thiu ngủ đi, bỗng đâu ngó thấy một tòa nhà kia toàn những gác tía lầu son, nguy nga tráng lệ, bèn vui chân thuận bước, thẳng tới phía trong, có một ả giai nhân xin kết duyên cầm sắt.
Sau khi thành hôn, lại lên kinh đô ứng cử, đặng trung Trạng Nguyên, thọ chức Hàn Lâm; nhân nghịch nhau với tể tướng Lý Lâm Phủ, bị trích ra trị Thiểm Châu, phụng mạng khai sông, có công thăng chức Ngự Sử, kiêm chức Chinh Tây Đại Tướng Quân, lãnh binh đánh giặc, thắng trận tấu tiệp, phong tước Định Tây Hầu, tấn chức Lại Bộ Thượng Thư. Lại bị Lý Lâm Phủ bài xích, biếm trích ở Lãnh Nam. Tới khi Lý Lâm Phủ bị giết, lại phụng chiếu về trào, tấn chức Thượng Tướng, gia phong tước Triệu Quốc Công, hưởng thọ tám mươi mốt tuổi, vô bịnh mà thác. Đang giấc mơ màng, xảy nghe tiếng người nấu cháo kê gõ chiếc đũa cái, bèn giật mình tỉnh dậy, thì nồi kê chưa chín, mới biết rằng mình chiêm bao. Bây giờ đây mới thở ra mà than rằng: “Vô văn ra võ, dư năm chục năm, phú quí vinh hoa, chẳng qua trong một giấc mộng!” Từ đó Lư Sanh vô núi tầm đạo, không còn có chí công danh.
7_Giấc mộng “Nam Kha”. _Lối đời Trinh Nguyên nhà Đường, Thuần Vu Phân nhân khi say rượu xúc phạm Tổ sư, bèn bỏ quan chức, lưu đãng Dương Châu, ở đậu tại ngoài cửa Đông. Bên nhà có một gốc cây hòe cao lớn, anh ta thường cùng thân hữu ngồi dưới bóng cây uống rượu. Một ngày kia say rượu nằm ngủ tại đó, mộng thấy hai viên sứ giả xưng là phụng mạng Đại Hoài an Quốc Vương tới rước, đem công chúa gả cho người làm Phò mã. Đã thành thân rồi, bổ ra làm chức Thái Thú quận Nam Kha. Tại chức dư hai chục năm, sanh hai gái, năm trai, đều kết thân với những nhà quí phái, cực kì vinh thạnh. Nhân Hữu Tướng ganh ghét, gièm với Quốc Vương rằng oai quyền quá trọng, nên bị bãi chức về nhà. Tới khi tỉnh ra, mới biết là giấc mộng. Đại Hoài an Quốc tức là một cái hang lớn dưới gốc cây hòe, trong hang có một ổ kiến, Quốc Vương đó tức là một con chúa kiến, mà quận Nam Kha thì là một ngành nhỏ phía Nam cây hòe vậy.
Đoán Mộng
1_Mộng bẻ sừng và đuôi dê. _Ông Bái Công đời Tần khi mới làm Đình trưởng, nằm mộng thấy mình đuổi một con dê, bẻ sừng và đuôi nó đi, theo tay liền đứt. Sau khi tỉnh dậy, chẳng hiểu điềm chi. Có người đoán rằng: “Chử Dương là Dê bỏ hai Sừng và Đuôi đi, thành chữ Vương là vua. Ông sau này có hy vọng làm vua đó.” Bái Công tin lời ấy, bèn khởi binh lên, quả nhiên đánh Tần , diệt Sở; lập nên cơ nghiệp Đế vương, đó là vua Cao Tổ nhà Hán vậy. (*) Coi TRuyện Tây Hán.
2_Mộng trời cho tướng hiền. _Vua Cao Tông nhà Ân khi cư tang cha, ba năm không nói, đêm nằm mộng thấy đấng Thượng đế ban cho một người đặng dùng làm tướng. Sau khi tỉnh dậy, bèn họa hình người trong giấc mộng, sai người đi kiếm khắp thiên hạ, đặng ông Phó Duyệt tại trong đám dân đắp đê, đem về dùng làm quan Tướng, thiên hạ đại trị, nghiệp nhà Ân hưng thịnh.
3_Mộng con hùng (con gấu) bay. _Ông Khương Tử Nha đời nhà Ân câu ngòi sông Vị. Châu Hầu Cơ Xương nằm mộng thấy con hùng biết bay. Quan Thái Sử đoán rằng: “triệu này ứng về đặng trang thánh hiền làm thầy Vương giả.” Sau Châu Hầu đi săn, gặp đặng Tử Nha biệt hiệu là Phi Hùng (nghĩa đen là con gấu biết bay). Bèn lấy ngự xa chở về, phong làm quan Tướng, tôn hiệu là Sư Thượng Phủ (hiệu thầy vua). Sau giúp con ông Cơ Xương là Cơ Phát đánh Trụ Vương nhà Ân, lấy đặng thiên hạ, lập nên cơ nghiệp vương giả đó là nhà Châu (truyện Phong Thần).
4_Mộng sao Vũ Khúc. _Hàn Tín đời Tần khi còn hàn vi, câu tại bên sông Hoài Âm, nằm ngủ dưới cây Tùng, xảy mộng thấy vì sao Vũ Khúc rớt xuống nơi mình. Sau giúp Bái Công làm Đại Tướng quân, diệt Sở và lục quốc, lấy đặng thiên hạ, làm khia quốc công thần nhà Hán, được phong tước Tam Tề Vương.
5_Mộng chim oanh bay. _Vợ Nhạc Hòa đời Tống là nàng Mễ Thị có thai, đêm hôm sắp sanh mộng thấy chim oanh bay trong phòng, đậu tại trên chót đầu mình, tỉnh dậy mà sanh ra Nhạc Phi. Sau NHạc Phi làm Đại Tướng, được phong tước Võ Mục Vương (truyện Nhạc Phi).
[FONT="]6_Mộng mặt trời vô bụng.[FONT="] _Hoàng Hậu của vua Cảnh đế nhà Hán, nằm mộng thấy mặt trời vô bụng mình, bèn có thai mà sanh ra vua Võ Đế là một vua anh võ
MỘNG LẠ
1_Mộng nước sông khô. _Vua nhà Tống có bịnh, nằm mộng thấy nước sông khô. Tỉnh dậy bèn hiện ra vẻ lo, vì nghĩ rằng: “Vua là tượng rồng, nay nước sông cạn khô, thì không có chỗ ở, chắc là điềm dữ.” Sau hỏi bá quan, có người tâu rằng: “Chữ HÀ là sông bỏ chữ Thủy là nước đi, thành chữ KHẢ là KHÁ, có lẽ bịnh của bệ hạ khá hết.” Vua nghe lời vui mừng, liền khỏi hết bệnh.
2_Mộng đầu mọc sừng. _Trịnh Giải đời Tống mộng mình tắm tại ao, ngó cánh tay thấy sanh vảy trắng, trong bóng nước thấy đầu mình mọc sừng. Sau bèn đậu Trạng Nguyên.
3_Mộng mọc thêm râu. _Nhà Lữ Mông Chánh về đời thượng tổ giàu lớn, vì nạp lương thuế thế cho dân trong quận, bị lụy thành nghèo. Tới đời Mông Chánh trông chỗ ở cũ, xảy nứt ra một cái hố. Một ngày kia qua miễu cầu thần, lượm đặng một trăm lượng vàng ròng bỏ rớt. Mông Chánh để trả lại cho chủ mất của, chẳng động tới một ly nào. Đêm hôm ấy mộng thấy thần trồng thêm cho ba sợi râu. Sau đậu trạng nguyên, làm Tể Tướng, được phong tước Văn Mục Công. Đó là khoa, chức và tước đều cao ứng về ba sợi râu.
4_Mộng hai núi chạy. _Dương Văn Quảng đi đánh giặc, quân bị vây hãm tại Liễu Châu tới ba tháng ròng, một đêm kia mộng thấy hai hòn núi chạy. Tướng sĩ đoán rằng: “hai chữ SƠN là núi là chữ XUẤT là ra.” Quả nhiên bữa sau giải đặng vây mà ra.
5_Mộng nước chảy trên núi. _Đặng Ngại đời Tam Quốc làm tướng nước Ngụy, đem binh đi đánh nước Thục, đêm mộng thấy mình ngồi trên núi mà có dòng nước chảy. Đem hỏi viên Hộ quân là Viên Thiệu. Thiệu đoán rằng: “Trên núi có nước là tượng quẻ KIỂN trong kinh dịch, lời thoán từ rằng: “Kiển lợi Tây Nam, chẳng lợi Đông Bắc.” Lời thoán truyện của đức Khổng Tử thích rằng: “Kiển lợi Tây Nam, là đi có công đó; chẳng lợi Đông Bắc, là cái đạo cùng đó.”Trận này đi có lẽ ắt đánh thắng nước Thục, song có lẽ không đặng về.” (Nước Thục ở về phương Tây Nam, nước Ngụy ở về phương Đông Bắc). Đặng Ngại rầu rĩ chẳng vui. Saui quả nhiên đánh đặng nước Thục, mà Đặng Ngại thì mất tại trong quân, không được về tới nước Ngụy (Tam Quốc).
6_ Mộng hai trẻ đánh lộn. _Vua Thủy Hoàng nhà Tần yến ẩm tại ngự viên, xảy đâu mỏi mệt, nằm ngủ ngày tại nơi đó, mộng thấy đứa trẻ nhỏ mình vận áo xanh, mặt đen như sắt, từ phía Đông tới nơi trước, bắt mặt trời ôm lại. Lại có một đứa trẻ nhỏ nữa, mình vận áo hường, mặt trắng như phấn, do phía Tây tới, la lớn lên rằng: “Hãy ngưng lại, không cướp đặng mặt trời của ta, ta vâng mạng thiên đế tới chưởng quản đây.” Thằng nhỏ áo xanh không chịu, bèn vật thằng nhỏ áo hường thua luôn 72 keo; sau cùng thằng nhỏ áo hường nhổm lại được, chỉ đấm 1 đấm, mà thằng nhỏ áo xanh té nhào xuống đất chết liền. Thằng nhỏ áo hường nói rằng: “Mi dầu anh hùng, nhưng đâu có phước phận như ta ?” Và nói và ôm mặt trời liền chạy đi. Vua Thủy Hoàng kêu lại hỏi rằng: “Mi tên họ là chi ?”
Thằng nhỏ đáp rằng: “Ta đây là con vua Xích Đế” Ứng với điềm chiêm bao đó là Hớn, Sở giành nhau thiên hạ của nhà Tần.Thằng nhỏ áo xanh đó là Sở vương Hạng Võ khởi binh tại Giang Đông, tài lực rất anh hùng, tay xách nổi cái vạt lớn, đánh lộn với Hớn vương trận nào cũng thắng, chỉ bại 1 trận ở Cai Hạ thì mất liền. Thằng nhỏ áo hường đó là Hớn Vương Lưu Quý, khởi binh ở đất Bái về phía Tây. Hường và Xích đều là tượng Hỏa, cho nên sau khi được thiên hạ chính trị chuộng đức Hỏa, tức là vua Cao Tổ nhà Viêm Hớn (coi truyện Tây Hớn).
7. _MỘNG CHIM ÉN BAY VÔ BỤNG _Mẹ Trương Thuyết đời Dường mộng thấy một con chim ngọc yến bay vô bụng mình, nhân có thai sinh ra Trương Thuyết. Sau Trương Thuyết làm tới tể tướng, cho nên có câu “Phi yến nhập hoài”
8. _MỘNG TRAO CON CỜ _Mẹ Lý Thái Bá mộng thấy hai người đạo sĩ đánh cờ tại ngoài cửa, liền tới nơi xem, đạo sĩ lấy một con cờ trong cuộc trao cho, bèn có thai mà sanh ra Thái Bá.
9. _MỘNG NGƯỜI CHO CÂN LỚN _Mẹ của Thượng Quan Chiêu Dung là nàng Trịnh Thị đang có thai, mộng thấy một người lớn cho cây cân lớn mà nói rằng: “Cầm cân này mà cân thiên hạ.” Sau sanh ra Chiêu Dung, quả nhiên làm quan tể tướng, cầm quyền chánh trị.
10. _MỘNG MÂY HÓA PHỤNG _Mẹ Từ Lăng mộng thấy đám mây ngũ sắc hóa làm chim phụng đậu trên vai tả mình. Sau sanh ra Từ Lăng, có thầy sãi (sư) là Bửu Chí xoa đầu mà nói rằng: “Đó là Thạch Kỳ Lân trên trời vậy.”
11. _MỘNG BÚT NGŨ SẮC _Giang Yêm mộng thấy có người trao cho cây bút ngũ sắc, từ đó văn chướng đại tấn. Sau mộng thấy Quách Phát biểu rằng: “Trả cây bút của ta đây.” Giang Yêm móc túi lấy bút ngũ sắc ra trả. Từ đó sắp sau văn chương không có câu hay nữa.
12. _MỘNG BÚT TRỖ HOA _Ông Lý Thái Bạch mộng thấy cây bút của mình trỗ hoa, từ đó tài tứ càng tấn.
MỘNG KỲ
1._Mộng bơi thuyền sắt._Lối đời Chánh Hòa đời Tống, người huyện Cát thủy là Dương Mỗ tới miễu Nam Từ cầu mộng. Thần phán rằng: “Ngươi hỏi công danh thì phải chờ khi Trương Quả Lão bơi thuyền sắt mới đặng tấn đạt.” Khi tỉnh dậy tự nghĩ rằng: “Đời mình chắc không làm chi đặng, há có sự Trương Quả Lão bơi thuyền sắt bao giờ ?” Tới sau vô trường ứng thí, trường thi bị hỏa tai, quyền tạm lập trường tại một ngôi chùa kia đặng khảo thí. Dương Mỗ ngồi tại dưới hành lang, ngó lên vách thấy có bức vẽ tích cũ “Trương Quả Lão bơi thuyền sắt” trong lòng tự lấy làm mừng, quả nhiên khoa ấy trúng tuyển.
2._Mộng dao treo trên rường._Vương Tuấn mộng thấy hai con daotreo tại trên rường nhà, giây lát lại thêm một con dao nữa. Lý Nghị đoán rằng: “Ba chữ ĐAO là dao là chữ CHÂU; LẠI THÊM là tấn ngôi minh phủ vậy.” Sau quả nhiên bổ chức Châu Thứ Sử.
3._ Mộng đổi mũi thần. _Từ Lang Trung mộng thấy một vị thần nhân xách một cái giỏ tre, trong đựng toàn những mũi người, tới gần mà biểu Từ Lang Trung rằng: “Hình tướng của quan Lang Trung chẳng phải là bạc, nhưng chỉ hiềm mũi vạy mà hơi nhỏ” Bèn cắt bỏ đi và lấy một cái mũi trong giỏ đặt thế lên mà nói rằng: “Đặt cho một cái mũi Chánh Lang đó!” Từ Lang Trung giật mình tỉnh dậy, lấy kiếng mà soi; thấy mũi mình tự nhiên ngay ngắn mà lớn hơn trước. Sau quả nhiên thăng chức Chánh Lang.
4._Mộng lục lạc rớt vô bụng. _Mẹ Lương Nhiệm Phỏng ngủ ngày, mộng thấy tinh kì năm sắc, bốn góc treo lục lạc (nhac), từ trên trời mà xuống, sa một chiếc lục lạc rớt vô trong bụng, nhơn đó có thai, sanh ra Nhiệm Phỏng là một trang tài tử.
5._ Mộng người cho thịt chó. _Ông Lương Hiệu năm 82 tuổi, trước khi vô trường thi 10 ngày, mộng thấy một người cho miếng thịt chó, bữa sau ông buồn rầu chẳng vui. Có người đoán rằng: “Thịt chó là chữ KHUYỂN, MIẾNG là chữ PHIẾN, chữ KHUYỂN gia thêm chữ PHIẾN là chữ TRẠNG.” Khoa ấy quả nhiên đậu Trạng Nguyên.
6._ Mộng cây tùng mọc trên bụng. _Đinh Cố mộng thấy cây tùng (cây thông) mọc tại trên bụng, nhân chiết chữ TÙNG làm ba chữ THẬP BÁT CÔNG. Sau đó mười tám năm quả nhiên làm quan tới ngôi Tam Công, (thập bát là mười tám, Công là quan Công).
7._ Mộng đầu trâu chảy máu. _Tưởng Uyển đêm mộng thấy một cái đầu trâu ở trước cửa, máu chảy dầm dề, trong lòng rất lấy làm ghét. Triệu Trực đoán rằng: “Sừng và mũi trâu là hình chữ CÔNG, đó là điềm tới ngôi Công.” Tưởng Uyển trước còn không tin, sau quả được phong Công Tước, như lời Triệu Trực đoán.
8._ Mộng chia trái lê;_Dương Tấn Hiền đem gia quyến đi thuyền tới nhậm chức Thứ Sử Nam Dương, đêm bị gió giạt thuyền, lạc mất một con. Xảy mộng thấy mình chia trái lê với anh em. Một người đoán rằng: “Chia lê chủ về không thấy”. Vợ chồng thương nhớ, lại hỏi một người nữa, thì người ấy đoán: “Lê khai kiến tử”. Nghĩa là bông lê trỗ thấy trái, TỬ nghĩa là TRÁI, cũng nghĩa là con.” Vài bữa sau quả nhiên thấy.
9._ Mộng cột đồng chuyển._Dương Hưu Chi mộng tới một ngôi nhà lớn, thấy cây cột đồng té ra, hóa làm hình gương sen. Hưu Chi lấy tay ôm lấy cây cột đồng mà khấn rằng: “Cột chuyển ba vòng, ngôi ta tới Tam Công”. Cây cột liền chuyển ba vòng. Sau Hưu Chi quả nhiên làm quan tới chức Tam Công.
10._ Mộng rau mọc tốt. _Vua Chân Tông nhà Tống khai khoa thi học trò, mộng thấy dưới đền có khóm rau mọc tốt, cao tày với đền. Khoa ấy thủ trúng người đậu đầu tên là Thái Tề (Thái là Rau, Tề là Tày).
11._Mộng tay bưng trời._Hàn Kỳ mộng lấy tay bưng trời. Sau làm Tể Tướng, giúp hai trào Anh Tông và Thần Tông, công nghiệp vĩ đại, phong tước Ngụy Quốc Công.
12._Mộng được lúa, mất lúa. _Thái Mậu đời Hậu Hán mộng lấy đặng ré lúa trong ruộng, rồi lại mất đi. Quách Kiều Hương đoán rằng: “Chữ HÒA là lúa với chữ THẤT là mất là chữ TRẬT là Phẩm Trật, trước được lúa là được chữ HÒA; sau mất đi, là tiếp chữ THẤT vô, đó là triệu ắt được Phẩm Trật vậy.” Sau lối 1 tuần, Mậu quả nhiên được Hớn Chúa triệu vô trào phong chức Từ Đồng.
13._ Mộng bút chấm đầu. _Bắc Tề Chúa Văn Tuyên khi còn làm Vương tước trào Bắc Ngụy, mộng thấy người cầm bút chấm vô trên đầu mình. Vương Đàm Triết đoán rằng: “Trên chữ VƯƠNG thêm nét chấm là chữ CHÚA. Đại vương ắt được tấn vị vậy.” Sau đó ít lâu Văn Tuyên được Ngụy chúa nhượng ngôi chúa cho.
14._ Mộng giòi rút thây. _Đường Công Lý Uyên nhà Tùy khi khởi binh lên, mộng thấy mình té xuống dưới giòng, bị đàn giòi nó rút vô thây mình mà ăn thịt. Tái Cách tổ sư đoán rằng: “Chúa công khởi binh ắt đặng thiên hạ, đàn giòi rút vô ăn thịt, là điềm chúng dân y phụ vậy.”
15._ Mộng chim Anh Võ gãy cánh. _Mẹ vua Trung Tông nhà Đường là Võ Hậu đuổi vua Trung Tông ra Phòng Châu, mà tự lập làm vua, xưng là Tắc Thiên Hoàng Đế, đêm kia mộng thấy chim anh võ gãy hai cánh, bèn đem điềm mộng hỏi bá quan. Tể Tướng Địch Nhân Kiệt tâu rằng: “Chữ VÕ là họ bệ hạ, hai cánh là con bệ hạ, hai cánh gãy là không có người phục dực vậy.” Võ Hậu bèn triệu Trung Tông về phục vị.
16._ Mộng hóa đầu hổ. _Lý Thắng Mỹ đời Đường làm Thái Thú kinh Châu, đêm kia xảy mộng thấy đầu mình là đầu hổ. Bửa sau ngồi làm thinh buồn bã, vợ hỏi rằng: “Tướng công mộng thấy đầu hổ phải không?” Thắng Mỹ ngạc nhiên hỏi rằng: “Phu nhân bởi sao mà biết?” Vợ đáp rằng: “hồi hôm thiếp cũng mộng chải đầu, soi kiếng thấy đầu thiếp là đầu hổ. Đầu hổ là điềm hay đó, vì cổ nhân nói rằng: “Vua là rồng, tôi là hổ.” Vậy thì nhà ta chắc có phong tặng.” Chẳng bao lâu triều đình triệu về làm Hữu Tướng, vợ đặng ban cáo mạng.
17._ Mộng rắn được ngọc. _Tùy Hầu Chúc Nguyên Xướng tới nước Tề, đi ngang đàng thấy một con rắn nơi đầu có máu. Tùy Hầu lấy gậy khều thả xuống nước mà đi.Sau khi trở về tới chỗ con rắn, thấy nó ngậm ngọc châu, Tùy Hầu chẳng dám lấy. Về tới nhà, đêm mộng thấy gót chân mình đạp nhằm một con rắn, giật mình tỉnh dậy, được hai hột ngọc châu.
[FONT="]18._ Mộng trên núi treo tơ[FONT="]. _Tiết Thục mộng thấy Trương Lượng treo sợi tơ tại trên núi, sau khi tỉnh dậy đem điềm ấy thuật lại với Trương Lượng và đoán rằng: “Trên chữ SƠN là núi, treo chữ TY là tơ, là chữ U. Có lẽ ngài đặng làm chức Thứ Sử châu U.” Chẳng bao lâu quả nhiên trào đình bổ Trương Lượng làm U Châu Thứ Sử.
MỘNG DỮ
1. Mộng trên đầu mọc sừng. _Ngụy Diên (*)sắp làm loạn, đêm kia xảy mộng thấy trên đầu mình mọc cái sừng, bèn hỏi Triệu Trực. Triệu Trực hay rằng chẳng phải điềm lành, nhưng nói trái đi để gạt và rằng: “Đó là triệu đại cát vậy !” Ngụy Diên hỏi rõ cái cớ. Triệu Trực đáp rằng: “Kì lân có sừng mà chẳng dùng, đó là tượng chẳng phải đánh mà địch quốc tự nhiên phá.” Ngụy Diên nghe nói cả mừng, bèn khởi binh làm phản. Triệu Trực lui ra nói người rằng: “Chữ GIÁC là sừng trên chữ ĐAO là dao, dưới chữ DỤNG là dùng, trên đầu dùng dao là triệu xấu lắm !” Sau quả nhiên Ngụy Diên bị binh Thục giết chết.
(*) Ngụy Diên là một tướng mạnh theo Gia Cát Khổng Minh đã từng lập nhiều công lớn, sau Khổng Minh chết rồi, Ngụy Diên mới làm phản.(Coi truyện Tam Quốc)
2.Mộng cây lớn chọc trời. _Vương Đôn mưu phản, trước khi chưa cử binh, từng mộng thấy một cây chọc thủng trời. Tỉnh dậy chẳng hiểu lẽ chi, bèn đem hỏi khắp mọi người, phần nhiều chẳng ai giải đặng. Hứa Chơn Nhơn đoán rằng: “Lấy cây chọc thủng trời là chữ VỊ là Chửa (chữ Thiên là Trời và nét sổ dọc là cái Cây ) là nghĩa chửa nên cử động vậy.” Vương Đôn không tin, bèn cử binh làm phản. Sau lại mộng thấy con mắt nhắm, chỉ có một sợi lông mày. Lại đem
đi hỏi người, người bạn đoán rằng: “Con mắt nhắm là chữ HẠT, chữ HẠT một bên chữ MỤC là mắt, một bên chữ HẠI là Hại; trên mắt một sợi lông mày tức là chữ TỰ là Tự Mình (trên chữ MỤC có nét phẩy là một lông mày), nghĩa là anh cử binh là sự tự hại mình đó. May mà chữ HẠT bỏ chữ MỤC và chữ MIÊN là lợp hang đi, tức là chữ CÁT là tốt, nếu anh đem ổ hang của mìn bỏ đi, ăn năn lỗi cũ, sửa lại đức mới, sẽ có thể gặp hung hóa cát.” Vương Đôn chẳng nghe, sau quả nhiên chết tại trong quân.
3. Mộng đi đàng gặp gà. _Tạ An là vị đại thần có danh tiếng đời Đông Tấn,(*) một ngày kia bị bịnh không dậy đặng. Trong giấc mộng thấy MÌNH ĐI ĐÀNG GẶP CON GÀ MÀ NGỪNG LẠI. Tỉnh dậy mà hiểu rằng: “Gà là tuổi DẬU, chữ DẬU bỏ đi một nét tức là chữ TÂY; phương Đông chủ sanh, phương Tây chủ tử, chắc hẳn là chết chẳng sai.” Chúng đều chẳng tin, chẳng bao lâu quả nhiên Tạ An qua đời.
(*) Đông Tấn về đời Hậu Tam Quốc
4. Mộng vợ đã thác lấy chồng khác. _Vợ Tống Dĩnh đời Hậu Ngụy là nàng Đặng Thị thác đã 15 năm rồi, một đêm kia Dĩnh mộng thấy nàng về lạy mình mà rằng: “Nay thiếp bị thiên đình xử phân làm vợ Cao Sùng cho nên lại từ biệt.” Nói rồi rơi lụy mà đi. Vài bửa sau thì thấy Cao Sùng bị đau mà thác.
5. Mộng người vận đồ tang. _Hoàng Minh Kì khi ở quận Dự Chương, quan Thái Thú là Mai Nguyên Long đã bị bịnh trước rồi, Minh Kì tới thăm, nói với Nguyên Long rằng: “Mấy hôm trước thấy anh vận đồ tang lại rước tôi; trải qua mấy bữa sau lại mộng như vậy.” Chẳng bao lâu Mai và Hoàng tiếp nhau qua đời.
KỸ THUẬT MỘNG CŨ
1._Người quận Võ Lâm là Trương Diệu tự Lăng làm chức Quân Môn nhà Tề, do quân công khởi gia, nhậm chức Đạo Viên, sau lại cải bổ võ chức, đánh dư trăm trận, sức địch muôn người, vĩ liệt phong công, một thời rỡ rệt, rồi lại theo quan Tả Tước Tướng ra ải.
Quân tới đâu như trúc chẻ ngói tan, đánh đâu được đó và chỉnh đốn quân sự, biên sự rành rẽ, có thứ lớp, hết thảy quân và dân ai nấy đều nức miệng khen ngợi, mà có kẻ thuật lại oai danh trong quân, thì trong ngoài vài ngàn dặm nghe tiếng đều phải run sợ, nhất là người Nga và đảng Hồi lại càng hoảng lắm, thiệt là trang trí dũng kiêm toàn. Vả chăng tính khí ôn hòa, đối với người trò chuyện vui vẻ, nhớ lại vài mươi năm trước Trương Quân Môn từng về châu Hàng, đóng tại xóm Hạ nơi dưới thành, thường ngày cùng với các ông già bà cả trong làng nói chuyện nhàn thoại, tỏ vẻ tin thật có khí tượng nho giả, người châu Hàng rất kính mến, đồn nhau rằng: “Trương Quân Môn là kiếp sau của Trương Hoàn Hầu”.
Câu đó chưa ai đã lấy làm tin cho lắm, duy sau này nhân dịp trong thành châu Hàng tu tạo lại miễu Nhạc Võ Mục Vương (Nhạc Phi) tại dưới An Kiều, có người vô miễu chiêm bái, nhân thấy trước tòa thần có đôi câu liễn treo cột và bài tựa đề bảng của quan Nguyên Nhiệm Triết Giang Niết Hiến, hiện chức Liêm Phóng là Khoái Sĩ Tỗn, đọc lên chẳng dè ngạc nhiên vì nghĩ rằng: “Khoái Liêm Phóng là một vị phương diện Đại thần, nhậm ngôi phong hiến, tuổi cao đức hậu, có lẽ đâu lại bày đặt ra câu chuyện huyền hoặc nói quấy; huống chi hình hiện bút mực mà giải bày ra trước mặt thần minh nữa hay sao? Câu liễn và bài tựa đó đại ý tự thuật oai đức, công liệt cùng tiết nghĩa của Võ Mục Vương và cảm tạ ơn thần ủng hộ, chuyện lược thuật như vầy:
…_Nhớ lại lối năm Hàn Phong, Tỗn này phụng mạng Phó nhậm Quang Châu, khi đó giặc giã còn tung hoành, nhân đề binh bát tiễu, qua huyện Thang Âm, tới trấn Châu Tiên, chiêm yết miễu Đại Vương. Đêm mộng thấy Vương vời vô hậu
điện, ngước lên thấy vị ngồi cao đó là Trương Hoàn Hầu, Vương chỉ Tỗn mà phán rằng: “Nội điệt (cháu kêu vợ là cô) của người là Trương Diệu tức là hậu thân của Trương Hoàn Hầu, nay cho đặng giúp ngươi !”. Hồi đó quân bị giặc vây chặt mấy vòng, dư bảy chục ngày, hết sức đánh giải vây, Diệu dự có công đó. Trước sau ở châu Dự hai chục năm, chuyển lần đánh dẹp trong vòng hai ngàn dặm, đều do Diệu đương sức Tiên phuông, giặc dữ miền Tín Dương thảy đều trông chiều gió hàn phục, sanh toàn đặng dư hai mươi muôn chúng.
Phàm những nơi đô ấp mà Diệu lãnh binh kinh quá, đều là đất lực chiến của Vương ngày xưa. Ôi, như tráng chí thệ dẹp Trung Nguyên của Vương,vẫn không đâu là chẳng hiển oai linh sảng, huống chi Nam Dương là cõi thọ mạng nữa sao? Tỗn này về lối năm Tân vị lãnh chức Niết Hiến hạt này, dinh thự tức là nền cũ Thỏ viên của Vương, vậy kỉnh lập miễu Trunh hiển đặng phụng tự linh tích. Ngày khánh thành ghi chép duyên kỳ tao tế, chí tại sanh dân, khiến cho kẻ
kiến công lập nghiệp sau này, đều đặng đội ơn thần tứ. Khoái sĩ Tỗn cẩn chí.
Xem như chuyện ấy thì Trương Quân Môn đích là thân sau của Hoàn Hầu, điềm mộng của Khoái Liêm Phóng chính là thần linh muốn hiển thị cho người trần hay nơi mành mối vậy.