Untitled Post

Luận dụng thần thành bại cứu ứng

Nguyên văn: dụng thần chuyên tìm nguyệt lệnh, lấy tứ trụ phối hợp, tất có thành bại. Thế nào là thành? Như quan gặp tài ấn, thêm không có hình xung phá hại, quan cách thành vậy. Tài sinh quan vượng, hoặc tài gặp thực sinh mà thân cường mang tỉ, hoặc tài cách thấu ấn mà vị trí thỏa đáng, cả hai không tương khắc, tài cách thành vậy. Ấn nhẹ gặp sát, hoặc quan ấn song toàn, hoặc thân ấn lưỡng vượng mà dụng thực thương tiết khí, hoặc ấn nhiều gặp tài mà tài thấu căn nhẹ, ấn cách cũng thành. Thực thần sinh tài, hoặc thực đới sát mà không có tài, khí thực tựu sát mà thấu ấn, cũng thành thực cách. Thân cường thất sát gặp chế, sát cách thành vậy. Thương quan sinh tài, hoặc thương quan bội ấn mà thương quan vượng, ấn hữu căn, hoặc thương quan vượng, thân chủ nhược mà thấu sát ấn, hoặc thương quan đái sát mà không có tài, thương quan cách thành vậy. Dương nhận thấu quan sát mà lộ tài ấn, không gặp thương quan, dương nhận cách thành. Kiến lộc nguyệt kiếp, thấu quan mà gặp tài ấn, thấu tài mà gặp thực thương, thấu sát mà ngộ chế phục, cách thành kiến lộc nguyệt kiếp.

Giải đọc: dụng thần chuyên từ nguyệt lệnh tìm lấy, sau đó phối hợp tứ trụ can chi tạo thành cách cục, như vậy tất nhiên sẽ có thành có bại. Như thế nào mới xem như thành cách? Trầm thị đem tám cách chính giới thiệu như sau:

1) Chính quan cách. Cách này phải có tài tinh cùng ấn tinh tương hổ phối họp, hơn nữa tài cùng ấn còn phải không ngăn trở lẫn nhau, quan tinh cũng không gặp hình xung phá hại.

2) Tài cách. Này cách chia làm ba tiểu cách, một là tài vượng sinh quan cách; hai là tài phùng thực sinh cách; tam là tài cách phối ấn. Nguyệt lệnh tài vượng, không có thực thương tương sinh, dù không có quan tinh cũng quý, vì tài vượng tự có thể sinh quan mà. Nếu có tỉ kiếp khắc tài, gặp quan tinh chế kiếp hộ tài, đây đều là tài vượng sinh quan cách; nguyệt lệnh tài vượng, có thực thương tương sinh, thì hỉ nhật nguyên hữu căn hoặc mang tỉ, thì thành tài phùng thực sinh cách; nguyệt lệnh tài vượng, có thực thương tương sinh, và có ấn tinh phù thân, hơn nữa tài ấn không ngăn trở lẫn nhau, thì thành tài cách phối ấn.

3) Ấn cách. Cũng chia thành ba tiểu cách, một là sát ấn tương sinh cách; hai là thực thần tiết tú cách; ba là khí ấn tựu tài cách. Nguyệt lệnh là ấn, có quan sát đến sinh ấn, cách thành quan ấn tương sinh hoặc sát ấn tương sinh; nguyệt lệnh ấn vượng, thân cường hữu căn, không có quan sát tài tinh mà có thực thương, cách thành thực thương tiết tú; ấn tinh nhiều đạt hai trở lên, tức cái gọi là “Dụng thần nhiều lắm”, nếu tài tinh hữu căn, thì bỏ dụng ấn mà đổi dụng tài, thành khí ấn tựu tài cách.

4) Thực thần cách. Dưới đây chia thành ba tiểu cách, một là thực thần sinh tài cách; hai là thực thần chế sát cách; ba là khí thực tựu sát cách. Thực thần đương lệnh, tỉ kiếp trùng trùng, mệnh cục cho dù không có tài tinh, cũng chủ phú quý, cái này gọi là “Thực thần hữu khí thắng tài quan “, nếu có tài tinh tiết thực cũng tốt, đều thành thực thần sinh tài cách; nếu thực thần đương lệnh, không gặp tài tinh cùng ấn tinh, chỉ có chống đỡ cùng quan sát, cách thành thực thần chế sát; thực thần chế sát cách này nếu thấu ấn hóa sát chế thực, thì cách thành khí thực tựu sát.

5) Thất sát cách. Trầm thị ở đây chi nói một câu : “Thân cường thất sát gặp chế, sát cách thành dã”. Nhưng một chữ “chế” này lại bao hàm ba ý tứ, một là sát gặp ấn hóa; hai là sát gặp thực chế; ba là sát gặp kiếp hợp. Sát tinh đương lệnh, có ấn tinh hóa sát sinh thân, tức là sát gặp ấn hóa, cùng sát ấn tương sinh cách đồng luận; thất sát đương lệnh, không có ấn mà có thực thương chế sát, tức là sát phùng thực chế, cách thành sát yêu thực chế; thất sát đương lệnh, không có ấn hóa hoặc thực chế, chỉ có kiếp nhận hợp sát, cách thành sát phùng kiếp hợp, cũng gọi dương nhận hợp sát cách.

6) Thương quan cách. Dưới đây chia thành bốn tiểu cách, một là thương quan sinh tài cách; hai là thương quan phối ấn cách; ba là thương quan giá sát cách; bốn là thương quan khí quan cách. Thương quan đương lệnh, có tài tinh tiết thương, không có quan sát tiết tài, cách thành thương quan sinh tài; thương quan đương lệnh, không có tài tinh tiết thương, có ấn tinh chế thương, cách thành thương quan phối ấn; thương quan đương lệnh, không có tài không có ấn, chỉ có chống đỡ cùng quan sát, cách thành thương quan giá sát, cũng gọi thương quan hỉ quan cách; thương quan đương lệnh, không có tài không có ấn, chỉ có chống đỡ với một điểm quan tinh yếu ớt, cách thành thương quan khí quan cách, thương tận quan tinh, cách thành đại quý.

7) Dương nhận cách. Nguyệt lệnh dương nhận, hỷ nhất có quan sát chế nhận, và có tài ấn tương phối, không có thương quan nhiễu cục, thì cách thành dương nhận giá sát hoặc dương nhận dụng quan.

8) Kiến lộc cách. Nguyệt lệnh kiến lộc, có quan tinh, mà có tài ấn tương phối, thì cùng chính quan cách đồng luận; nguyệt lệnh kiến lộc, vô quan hữu sát, mà có thực thần chế sát, thì cách tương đồng sát yêu thực chế; nguyệt lệnh kiến lộc, vô quan sát hữu tài tinh, mà có thực thương sinh tài, thì cùng tài gặp thực sinh cách đồng luận.

Chú ý, nói cách cục chính là nói tổ hợp bát tự, nói kết cấu mệnh thức, chớ nên nhấn mạnh điều kiện thân cường thân nhược. Vì thân cường cũng tốt, thân nhược cũng tốt, chỉ cần bát tự tổ hợp tốt, cách chính cục thanh, như vậy mệnh chủ sẽ phát phúc. Trái lại, cho dù là thân cường tài quan vượng, chỉ cần tổ hợp bát tự khó coi, cách phá cục tổn, thường không có mệnh tốt.

Nguyên văn: thế nào là bại? Quan gặp thương khắc hình xung, quan cách bại; tài khinh tỉ trọng, tài thấu thất sát, tài cách bại; ấn khinh gặp tài, hoặc thân cường ấn trọng mà thấu sát, ấn cách bại; thực thần gặp kiêu, hoặc sinh tài lộ sát, thực thần cách bại; thất sát gặp tài không có chế, thất sát cách bại; thương quan không phải kim thủy mà kiến quan, hoặc sinh tài sinh đới sát, hoặc bội ấn mà thương khinh thân vượng, thương quan cách bại; dương nhận không có quan sát, nhận cách bại; kiến lộc nguyệt kiếp, không có tài quan, thấu sát ấn, kiến lộc nguyệt kiếp cách bại.

Giải đọc: tình huống nào xem như phá cách đây? Trầm thị chia cách luận đơn giản như sau:

Quan cách, gặp thương khắc hình xung mà không có cứu ứng thời thành phá cách, quan nhiều hoặc có sát hỗn tạp thời không có chữ thanh cách cũng thành phá cách;

Tài cách, gặp tỉ kiếp cường vượng hoặc là gặp tình huống thất sát tiết tài là phá cách;

Ấn cách, độc ấn gặp tài tinh khắc phá hư, hoặc là ấn tinh nhiều đạt hai trở lên hơn nữa nhật nguyên có cường căn là phá cách;

Thực cách, độc thực gặp kiêu thần khắc đoạt, hoặc thực thần sinh tài mà thấu sát tiết tài thành phá cách;

Sát cách, có tài sinh mà không có thực chế hoặc ấn hóa là phá cách;

Thương cách, không phải kim thủy thương quan mà thấy quan tinh, hoặc thương quan sinh tài mà đới sát, hoặc thương quan phối ấn mà thân cường ấn nhiều, đều thành phá cách;

Nhận cách, không có quan sát là phá cách;

Lộc cách, không có tài quan mà thấu sát thấu ấn, tức là phá cách.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *