Giai thoại phong thủy: đất lưỡng ngưu ẩm thủy

Giai thoại phong thủy: đất lưỡng ngưu ẩm thủy

Trong thời lệ thuộc, đồng bào Miền Bắc Việt Nam không mấy ai không biết đến cái tên Vi Văn Định : một quan đại thần được Triều đình Huế phong tới Hiệp Tá Đại Học Sỹ, thay họ Hoàng, làm Tổng Đốc tỉnh Hà Đông, một địa điểm kế cận cố đô Thăng Long, chỉ cách Hà Nội có 11 cây số. ( tim thay dia ly dat mo phong thuy )
 Đối với thực dân, họ Vi tuy không được kính trọng bằng họ Hoàng, nhưng thực sự lại được tín nhiệm hơn nhiều, vì một lẽ rất dễ hiểu : Vi Văn Định trung thành tuyệt trần với… Mẫu Quốc, bất cứ trường hợp nào hay hoàn cảnh nào cũng đều hết lòng xả thân thờ nhà nước Bảo Hộ, để sẳn sàng diệt trừ tất cả mọi mầm mống, mà y gọi là phản loạn, muốn khuynh đảo… nước Mẹ !
 Thiên hạ cho rằng : y sở dĩ bạo ngược, ác độc tới mức độ dã man, mọi rợ ăn xương, uống máu người Việt Nam không biết hôi tanh, không cần tiêu ớt, chỉ là vì y không có một chút máu huyết Lạc Hồng nào trong huyết quản, mà thực sự là con cháu người Thổ ở miền Lạng Sơn, Cao Bằng gì đó…
 Người ta đã trưng thêm bằng cớ : họ Vi hiện thời, còn có nhiều sản nghiệp dinh cơ ở đất Lạng Sơn gần sông Kỳ Cùng, để minh chứng cho lời kết tội trên là đúng !
 Nhưng sự thực ra sao ? Vi Văn Định là người Việt hay là người Thổ ?
 Đó là điều thắc mắc mà ai cũng muốn tìm cho ra lời giải.
 Hồi ấy, tôi còn nhớ rõ về mùa hè năm 1941, nhờ có một người bạn học làm Tri Châu ở Bắc Quang, tôi đã lên thăm phong cảnh tỉnh Hà Giang và ở chơi Bắc Quang tới hơn ba tháng trời.
 Một thầy Nho già, người giúp việc án từ rất đắc lực cho quan Châu huyện, tuy là dân miền suôi, nhưng vì lưu lạc lên mạn ngược từ thuở ấu thời, nên rất am hiểu phong tục, địa dư trong các thôn bản ở khắp tỉnh Hà Giang, đã thuật lại cho tôi nghe nhiều giai thoại cực kỳ huyền bí, quái dị, mà nếu ai không sống qua một thời gian nào đó với dân chúng miền sơn cước, hẳn cũng khó tin là chuyện thực.
 Một hôm, đáp bè xuống Ngòi Xảo, nhìn thấy phong cảnh đẹp như tranh vẽ, núi non trùng điệp, vươn mình sừng sững trên dòng sông cuồn cuộn nước chảy về suôi, tôi hỏi thì thầy Nho già chỉ về phía một trái đồi ở ngay đầu bến Vạn, nơi các lái buôn gỗ thường kết bè, thả cây về miền Việt Trì, Hà Nội mà nói rằng :
 -Đấy kìa là đồi Tướng, trên đó có ngôi mả tổ của Vi Văn Định, lúc đó đang làm Tổng Đốc Hà Đông.
 Nói rồi, thầy Nho bắt trạm phu phải ghé bè cho tôi lên bộ, đoạn hướng dẫn tôi lên đồi xem phong cảnh.
 Dây leo chằng chịt, những cổ thụ lớn tay ôm, đa số là loại cây bồng sắc (gổ quý) sần sùi, cao vút, cành lá rậm rạp đan kết thành một vòm trời xanh thẳm, khiến cho khu đồi núi mát rượi, mặc dầu lúc đó đang là giữa mùa hè nóng bức.
 Rẽ lau, vạch lá một cách khó khăn tới hơn nửa giờ, chúng tôi mới lên được tới đỉnh đồi.
Đến trước một ngôi mả lớn (phong thủy âm trạch), cỏ mọc xanh um, thầy Nho nói :
 – Mả tổ họ Vi này, theo lời bô lão thổ dân thuật lại thì đã được an táng từ đời nhà Lê Trung Hưng. Rồi bể dâu biến chuyển, họ Vi di cư qua đất Lạng Sơn, xưng hùng, xưng bá một cỏi giang sơn, không khác gì một vị tiểu vương quyền khuynh thiên hạ.
 Thầy Nho điểm nụ cười nhạt nhẻo nói tiếp :
 – Mà đúng thật ! Dù không được quyền khuynh thiên hạ thì họ Vi cũng là anh hùng một cõi, đúng với lời dân chúng sở tại vẫn còn truyền tụng cho đến bây giờ những lời đồng giao về kiểu đất quý báu, hiếm lạ này :
 ” Lưỡng Ngưu ẩm thủy,
Bột phát Công Khanh,
Huynh đệ hiển danh,
Anh hùng nhất Khoảnh…”
 Nói xong, thầy Nho sợ tôi không hiểu, vội đưa tay chỉ qua hai gò đất, đứng cao sừng sửng ở hai phía tả hửu Ngòi Xảo giải thích thêm :
 – Đấy ông coi, có phải hai cái gò ở bên bờ Ngòi bên kia giống hệt hai con trâu mộng, đang cúi đầu xuống dòng nước không ?
 Đó là “lưỡng ngưu ẩm thủy” đấy !
 Chỉ tay về đàng trước mặt, thầy nói tiếp lời :
 Nếu đây là chính huyệt, thì ngôi mả này trông thẳng ra trái Cao Sơn, một hòn núi cao ngất tới trời xanh mà thiên hạ đồn đải là có một làng Mèo sống biệt lập ở trên núi cao ấy từ đời nhà Trần, khi Chiêu văn Vương Trần Nhật Duật đem quân triều đình đến điều phạt mấy động chúa ở vùng Lĩnh Nam. Ngôi mả tổ của họ Vi trông thẳng ra ngọn núi Cao Sơn kia, tựa lưng vào dãy Trường Sơn, tay long, tay hổ là hai dãy đồi thoai thoải chạy dài theo dòng sông Cả, tạo thành một kiểu đất kỳ thú vô cùng quý báu, mà theo lời thuật lại của các bô lão sở tại thì hình như Bà chúa Rừng đã cố ý để dành riêng cho dòng họ Vi vậy.
 Rồi vừa dẫn tôi đi coi quanh khu đồi, thầy Nho vừa thuật lại giai thoại mà chính thầy đã được nghe thổ dân kể lại rất rõ ràng về những sự tình cờ kỳ dị xảy ra chung quanh ngôi mả dòng họ Vi, lúc đó đang là những nhân vật hét ra lửa ở đất Bắc Hà.

CON CHÁU HOÀI-ÂM HẦU HÀN TÍN
 Sau khi đem hết sức học bình sinh và tài kinh bang tế thế, định quốc, an bang ra giúp sức cho anh Đình Trưởng họ Lưu dựng nên cơ nghiệp nhà Hán, lưu truyền được tới trên 400 năm, thì Hoài Âm hầu Hàn Tín bị vua Hán tru di tam tộc (do Lã Hậu hạ lệnh thì đúng hơn).
Một gia tướng trung nghĩa của họ Hàn, đem dứa con nhỏ của Hàn Tín chạy trốn về phía Nam, mai danh, ẩn tích, đổi thành họ Vi (một nửa chữ Hàn) sống lẫn lút ở vùng biên giới Việt Hoa.
 Đến đời nhà Trần, họ Vi lúc đó làm Tù Trưởng ở động Lĩnh Nam, lại bị quân sĩ của Chiêu văn Vương Trần Nhật Duật kéo đến chinh phạt.
 Binh đơn, tướng thiểu Tù Trưởng Vi Đạt bị tấn công cả bốn mặt, một lần nữa, lại phải đội đứa con thơ là Vi Thành mới lên ba tuổi ở sau lưng, rồi nhảy lên mình ngựa, đánh phủ trùng vây, chạy về lánh nạn ở Ngòi Xảo, phó mặc gia quyến cho sự rủi may, của cơn binh lửa phũ phàng.
 Sống giản dị chung đụng với thổ dân trong một túp lều siêu vẹo ở Ngòi Xảo, Tù Trưởng Vi Đạt ban ngày phải đai con trên lưng vào rừng lấy măng tìm gỗ quý, cũng như trăm ngàn người khác ở địa phương này, tối về, hai cha con lại hú hý với nhau ở bên bếp lửa, cuộc sống của viên Tù Trưởng thất thế, như vậy, cũng gọi là tạm yên.
 Năm Vi Thành lên bảy tuổi, ông Vi Đạt ngoài việc dạy học chữ, còn bắt Thành phải tập luyện cả võ nghệ, hy vọng sau này, con trai sẽ trở nên hữu dụng, văn võ toàn tài.
 Đất sơn cước hiếm nhân tài, ông Vi Đạt phải tự đảm nhiệm lấy công việc dạy bảo con trai, và do đó một số dân cư sở tại cũng nô nức cho con em đến nhà ông Vi Đạt, để nhờ ông dạy chữ, dạy võ.
 Một buổi kia, chợt có một lão hành khất cùi đến xin ăn ở các nhà trong vùng Ngòi Xảo.
 Thấy ông lão mặt mũi sần sùi, ngón tay bị cụt, bàn chân lỡ loét, gớm ghiếc, ruồi nhặng bu chung quanh, mỗi khi xê dịch, tiếng vo ve nổi lên rào rào như đàn ong vỡ tổ.
 Trẻ con chạy theo ở tít xa xa, vỗ tay hò reo chế diễu, còn người lớn thì ghê tởm nếu không đưa tay bịt mũi, khạc nhổ thì cũng lãng đi chỗ khác, chớ không dám đến gần.
 Vì vậy, ông lão đi đến đâu, cũng bị xua đuổi, không một ai chịu bố thí cho một chút gì, khiến ông lão đói khát quá, lã đi nằm co quắp trên nền miếu Sơn Thần, cơ hồ không còn đủ sức gượng dậy, để lê bước đi nơi khác nữa khi bị tuần đinh đến hạch hỏi, đòi bắt giải lên quan Châu Bắc Quang để đưa về nhà thương Vòi ; một bệnh xá chuyên trị những người cùi, sống riêng biệt trong một khu vực rộng mông mênh, có hàng rào giây kẽm gai ngăn cách với thế giới bên ngoài.
 Thuở ấy, thiên hạ ghê tởm, kinh sợ bệnh hủi hơn tất cả mọi chứng bện nan trị khác ! Cứ thấy ai mắc phải bệnh ấy, là người ta đi báo quan đến bắt đem nhốt trong nhà thương Vòi ở Bắc Giang để điều trị.
 Lão hành khất nằm ở miếu Sơn Thần mỗi ngày một thêm yếu đuối, trước còn lăn lộn rên la thành tiếng, sau hình như đói khát quá cơ thể suy nhược quá độ, đến nổi lão chỉ nằm co quắp, thoi thóp thở chờ chết.
 Mấy bô lão thổ dân và viên Chánh Tổng sở tại bàn luận với nhau, rồi nhất định cho trai tráng trong bản khiêng lão bỏ ra ngoài thung lũng ở cách xa đấy chừng hai dặm đường, để tránh trách nhiệm, vừa sợ quan trên quở trách là có người mắc bệnh hủi đến quanh quẩn trong vùng, mà không chịu đi báo, vừa ngại bị tốn kém, lôi thôi, phải chôn cất cho kẻ xấu số, nếu lão hành khất không còn đủ sức chống chọi với tử thần.
 Đúng lúc ấy, ông Vi Đạt đi săn về, vai vác con nai tơ, lưng đeo cung tên, lầm lũi đi ngang miếu Sơn Thần, thấy viên Chánh Tổng đang đứng sai phái mấy thanh niên trong bản đem võng ra khiêng lão hành khất bỏ ngoài thung lũng, một nơi nổi tiếng là nhiều hổ báo, lợn rừng thường về phá phách ngô khoai của dân cư sở tại và bắt các gia súc đem vào núi sâu ăn thịt.
 Ông Vi Đạt nghĩ đến cảnh hoạn nạn của mình năm nào, giọt lệ anh hùng bất giác tuôn rơi tầm tả, động lòng thương kẻ tuổi cao, tác lớn, không may bị sa cơ lỡ bước, gần phơi gửi xương nơi đất khách, liền đặt con nai xuống, chạy vội vào trong miếu, trước vẻ mặt ngơ ngác của các bô lão đất Ngòi Xảo.
 Không quản ngại mùi hôi tanh nhức óc, máu mũ đầm đìa, ông già họ Vi dơ cao chiếc khăn bịt đầu phất ngang một cái mạnh, để xua đuổi những đàn ruồi nhặng bay vo vo như tiếng sáo diều ở chung quanh lão hành khất, rồi ngồi bệt xuống nền miếu, sờ ngực nạn nhân, mím môi, lắng tai nghe ngóng.
 Thấy toàn thân lão hành khất vẫn còn hơi nóng, mạch vẫn còn thoi thóp đập đều, mặc dầu rất yếu, ông Vi Đạt mừng rỡ, vội đứng phắt lên, đến gần viên Chánh Tổng, tha thiết yêu cầu cho mình được đem nạn nhân về nhà chạy chữa.
 Viện cớ câu cửa miệng : ” cứu nhất nhân, đắc vạn phúc ” để kích thích lòng bác ái, từ bi của hương chức sở tại, ông Vi Đạt tin tưởng rằng các bô lão sẽ vui lòng cho phép ông gánh giúp họ gánh nợ mười đời ấy, nhưng không ngờ ông bị thất vọng hoàn toàn, vì viên Chánh Tổng cương quyết đuổi lão hành khất ra khỏi vùng Ngòi Xảo, sợ để lão ở quanh quẩn trong bản, sẽ gây nguy hại cho cả dân cư sở tại.
 Lỡ ra quan Châu biết thì họ tránh sao khỏi sự quở trách ?
 Ông Vi Đạt tha thiết nói thế nào, họ cũng không chịu nghe, khiến cho ông già họ Vi tức bực quá không còn biết làm cách gì để cứu mạng lão hành khất.
 Nghĩ đi, nghĩ lại mãi, sau ông Vi Đạt phải đem con nai cho người bạn vẫn đi săn với mình, để nhờ làm thịt rồi muối mặn, để dành ăn dần dần, còn ông thì hăng hái đứng chờ, đi theo lão hành khất cho đến cùng, chớ ông không nở bỏ rơi người bạc số, mắc nạn giữa đường.
 Sở dĩ ông Vi Đạt dám có ý định táo bạo ấy, là vì ông sinh sống ở vùng này từ lâu, biết rõ địa dư đồi núi, chỗ nào có hang có động, nơi nào có quán, có miểu, nên ông đoán được rằng, nếu bọn trai tráng khiêng lão hành khất đem bỏ ra ngoài thung lũng thì gần đấy có cái nhà mồ bỏ hoang không biết từ bao giơ, tuy siêu vẹo, tiều tụy, song tạm thời cũng có thể che mưa tránh nắng được trong cơn gấp rút này.
 Nghĩ thế rồi, ông chạy vội về nhà, đem thằng con trai là Vi Thành đến gửi một người hàng xóm, rồi thu xếp quần áo với mấy món cần dùng, đi theo lão hành khất.
 Quả nhiên các việc đã xảy ra đúng như sự dự đoán của ông Vi Đạt.
 Ngay sau khi hai thanh niên trong bản cuốn võng, đem về Ngòi Xảo phục lệnh viên Chánh Tổng, ông Vi Đạt cố nâng lão hành khất vào nhà mồ, chỉ ở cách đấy chừng ba mẫu ruộng.
 Sinh trưởng miền rừng rậm núi cao, ông Vi Đạt rất thạo về tính dược các loại cây cỏ, vẫn được dân cư địa phương dùng chửa các chứng bệnh hiểm nghèo, nên vừa thu xếp yên ổn nơi ăn chốn ở cho hai người, họ Vi liền chạy vào rừng, tìm thuốc chửa bệnh cho lão già hủi.
 Thuốc gia truyền tuy rất giản dị nhưng lại cực kỳ hiệu nghiệm, nên chỉ ba ngày sau đó, lão hành khất đã tỉnh táo, nói năng, cử động được.
 Vả lại, lão hành khất vốn bị đói khát, khổ cực quá độ, sức khoẻ suy giảm nhanh chóng, khiến chứng bệnh hoành hành dữ dội đến ngất lịm đi, bề ngoài giống in người đang hấp hối.
 Nhưng sự thực, tình trạng lão không đến nổi nào !
 Phần nhờ các phương thuốc gia truyền, phần được sự săn sóc chu đáo, tận tâm của ông Vi Đạt, lão hành khất có cơm ăn, thuốc uống đầy đủ, nên chẳng bao lâu đã đi lại được một mình, không còn phải dìu giắt như mấy hôm trước nữa.
 Trong thời gian ấy, ông Vi Đạt vẫn thỉnh thoảng về Ngòi Xảo thăm con.
 Vi Thành tuy nhỏ song vốn là con nhà tướng, được rèn luyện quyền cước, tập tành võ nghệ từ khi mới chập chửng biết đi, nên mạnh dạn phi thường, một mình dám cầm thanh mả tấu, đi sâu vào rừng núi lấy măng để đem về đổi gạo giúp đở cho nhà một phần nào, giải quyết sinh kế gia đình.
 Từ hôm được thân phụ đem gửi ở nhà hàng xóm, Thành nhớ bố, thuờng cứ lần mò tìm đến nhà mồ thăm cha, sau giờ học, mặc dầu đã bị ông Vi Đạt cấm đoán nghiêm ngặt. Ông chỉ sợ con trai gặp thú dữ ở dọc đường, hay rủi ro bị lạc lối thì khốn.


VÀO HANG SÂU TÌM DI CHÚC

Sau thấy Thành mạnh tợn, có lần đánh nổi một con heo rừng, lại khôn ngoan, quyền biến, hiếu thảo, thông minh, ông mới yên tâm, ngày nào ông không về bản được, lại cho phép con đến thăm, để luôn tiện mang theo các thứ thực phẩm cần thiết cho hai người ở ngoài thung lũng.
 Một tháng trời trôi qua.
 Bệnh tình lão hành khất đã thuyên giảm rõ rệt, mặc dầu lão vẫn còn phải chống gậy mỗi khi muốn xê dịch.
 Thấy thế, Vi Đạt liền tính chuyện đưa lão hành khất về bản cho tiện việc săn sóc, và đỡ phiền phức trong sự làm ăn của mình, nhưng lại sợ các bô lão vẫn còn giữ thành kiến không hay với ông già bệnh hoạn.
 Vì vậy, ngay ngày hôm sau, họ Vi phải đi thăm các hương chức để dò xét ý kiến của mấy người nắm quyền hành trong bản.
 Các hương chức thấy bệnh tình lão hành khất đã gần bình phục, hơn thế, người hàng ngày sống gần bệnh nhân là họ Vi, vẫn khoẻ mạnh, cường tráng như thường nên họ cũng không quá khắc nghiệt khó khăn như trước, bằng lòng cho họ Vi rước lão hành khất về nhà.
 Vi Đạt mừng rỡ quá, vội chạy ra nhà mồ, thuật lại tin đó cho lão hành khất biết, rồi ung dung dẫn lão về nhà. Vị Thành cũng hớn hở theo chân hai người, trên vai vác một bọc đồ dùng cần thiết.
 Đến lúc ấy, lão hành khất mới cho biết : lão họ Lương tên Nhất Kiếm, vốn là người Trung Hoa, nguyên quán ở huyện Lịch Thanh, qua Việt Nam từ hơn hai chục năm nay, vẫn quanh quẩn ở vùng biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, sống bằng nghề xem tướng số.
 Vi Đạt thấy người bạn già đã tỉnh táo, vui vẻ vô cùng, ngoài ra họ Vi không hề nghĩ gi đến sự đền ân đáp nghĩa của Lương lão.
 Nhưng ba hôm sau, vào hồi quá nửa đêm, giữa lúc cha con họ Vi đang say sưa trong giấc ngũ ngon lành thì Lương lão chợt đến bên, lay gọi cha con Vi Đạt dậy, bảo Thành đi sửa soạn pha trà uống, để lão nói một câu chuyện cực kỳ quan trọng cùng ông Vi Đạt.
 Cha con họ Vi kinh ngạc, ngỡ ngàng nhìn lão già, tưởng Nhất Kiếm cuồng ngôn, loạn trí…
 Nhưng thoáng thấy, nét mặt nghiêm trang trịnh trọng của Lương lão, không chứa đựng một vẻ điên dại hay đùa giởn, diểu cợt gì, nên cũng lẳng lặng làm theo lời yêu cầu của Lương lão.
 Ấm trà tươi vừa pha xong, lão hành khất cầm chén nước trên tay, nhưng không uống, lại đăm đăm nhìn thẳng vào mắt chủ nhà, luồng nhỡn quang như muốn xoáy chặt lấy người đối diện.
 Họ Vi chợt rùng mình, khi nhận thấy ánh mắt của Lương lão lúc nãy sáng ngời một cách kỳ dị, không lờ đờ, đần độn, ngây dại, chất phác như bình nhật nữa.
 Vi Đạt bất giác rùng mình, lơ láo nhìn quanh như muốn tìm một cái gì để tự vệ.
 Không ! Nhất định tổ phụ lão không lầm lộn đâu ! Cứ xem cách thức các cụ dấu diếm cuốn gia phả nơi thâm sơn cùng cốc, khó khăn, gian hiểm, cũng đủ hiểu mức độ quan trọng của khu linh địa.
 Vậy như lời lão vừa trình bày, ngày mai đây, lão sẽ cùng đi với tiên sinh đến Hang Chúa, để tìm tập sách quý, mà theo chúc thư, có ghi chú rõ ràng phương pháp hộ thần, án hướng, tự mình phân kim an táng lấy, chứ không cần phải nhờ thầy địa lý.
 Đó là một lối đề phòng rất cẩn thận, chu đáo của các Cụ, ví các Cụ sợ kẻ tiểu nhân, sẽ lợi dụng cơ hội này, để chiếm đoạt khu đất quý.
 Sau khi đã tìm được cuốn gia phả, ghi dấu rành mạch phương hướng rồi, tiên sinh sẽ trở về quê quán kiếm hài cốt ông cha, còn lão thì nằm… chờ chết ơ Ngòi Xảo, vì lão biết mình, lão không sông được mấy ngày nữa đâu ?
 Lương lão thở dài, đoạn cười gượng :
 – Làm người ai không một lần phải chết ! Huống chi sinh, ký, tử, quy (sống gửi thác về), người có nhẹ nợ, mới sớm được về với cát bụi. Vì thế, lão tính rằng : muốn cho khỏi lỡ việc, chúng ta phải đi ngay vào Hang Chúa mới kịp !
 Vi Đạt vội dơ tay phác một cử chỉ phản đối, rối nghiêm nghị cắt ngang :
 – Không được ! Sao lão trượng lại nghĩ quẩn như vậy ! Đã biết có huyệt tốt, thì cứ đánh dấu đấy, ai dám tranh cướp mà sợ ! Người đang khoẻ mạnh sao lão trượng lại bàn đến chuyện chết chóc làm chi ?
 Lão trượng cùng tôi đi thăm đường đất, rồi lão trượng cứ về đã, chung sống với tôi, bao giờ Trời Phật rước đi, sẽ hay ! Tiên sinh đừng câu nệ, nghi ngại chi hết. Bốn bể đều là anh em cả mà !
 Lương lão nắm chặt cánh tay họ Vi, tỏ ý bùi ngùi, cảm động :
 – Lão rất đội ơn chiếu cố của Tiên sinh, nhưng lão nói vậy không phải là không tính toán, suy nghĩ, kỷ lưỡng đâu ? Lão biết vận mệnh của mình lắm !
 Vậy tiên sinh khá yên tâm, đừng thắc mắc chi cho số phận của lão, mà cứ lưu ý lo việc riêng của Tiên sinh, chỉ cốt sao cho khỏi lỡ làng đại sự, thì dù lão nhắm mắt, cũng được ngậm cười nơi chín suối.
 Trọn đêm đó, đôi bạn già nằm nói truyện cho tới sáng, mới sai Vi Thành đi đun nước, pha trà, khi cơm nước xong suôi, hai người dắt nhau đi lần vào núi sâu, trèo đèo, vượt suối, rẽ lau, vạch sậy cực kỳ vất vả, gian nan, nhiều chỗ hiểm trở quá họ Vi lại phải nâng đở, dìu dắt hay cõng Lương lão lên lưng mới vượt qua được những gềnh đá cheo leo, chung quanh toàn đá tai mèo nhọn hoắt, sắc bén chơm chởm như mớ giáo gươm dựng ngược, kẻ yếu bóng vía rùng mình, cơ hồ muốn xây xẩm mặt mày, ngã lộn nhào xuống những vượt sâu thăm thẳm.
 Đốt nến xem lại bản di chúc, Lương lão đi lần vào phía sau, tìm được một cái rương đã gắn liền với vách Hang.
 Vi Đạt dùng rìu bổ mạnh, nắp rương bật ra, để lộ ra một gói lớn, bọc vải sơn, chằng buộc rất kỷ lưỡng bằng gân nai. Lấy dao găm cắt đứt dây và mớ bọc vải ra, thì thấy bên trong có một cái địa bàn, một lá cờ ngũ sắc, trên vẽ chi chít những hình bát quái và ghi nhiều chữ triện rất dị kỳ, lạ mắt.
 Trong một cái hộp đồng vuông, còn có một con rùa đất, miệng ngậm đầy bùa chú và một lọ thủy tinh gắn kín, ngoài ghi rõ hai chữ : cấm mở !
 Cuốn gia phả được xếp gọn dưới đáy hôp.
 Trái vời sự dự đoán của hai người, cuốn gia phả của tổ phụ họ Lương không dày lắm, mà chỉ có vỏn vẹn có 5 tờ giấy bản khổ lớn chia ra : 3 tờ đầu dạy về phương pháp an táng, cách thức hô thần, trấn yểm, phân kim, án hướng, tờ thứ tư là bản đồ ghi chú địa điểm rõ ràng của hai khu đất ” Lưỡng ngưu ẩm Thủy ” phía dưới có mấy câu, viết bằng sơn đỏ chói :
” Mình nằm Ngòi Xảo,
” Đầu gối Núi Rồng,
” Chân đạp Cầu Vòng,
” Tay dang Nam, Bắc,
” Hạn kỳ bách nhật,
” Bột phát công khanh,
” Huynh đệ hiển danh,
” Quyền uy nhất khoảnh…”

So với lời truyền tụng trong dân chúng ở vùng Bắc Quang, thì mấy câu tổng kết này có hơi khác, nhưng tựu trung, ý nghĩa cũng vẫn là ca ngợi kiểu đất ” lưỡng ngưu ẩm thủy”.
 Tờ cuối cùng, dạy về cách lễ tạ ơn, sau khi mả đã được an táng xong xuôi, cũng như khi quán khí hoặc mỗi lúc không may bị động trệ.
 Mỗi thời kỳ phải sắm sửa lễ vật và phải theo phương pháp cúng vái khác hẳn nhau, không thứ nào giống thứ nào hết.
 Mới thoạt đọc những tên Núi Rồng, Cầu Vồng… hai người không ai hiểu nơi ấy ở đâu, nhất là Vi Đạt, đến ngụ cư vùng này đã khá lâu, mà vẫn tuyệt nhiên, chưa hề được nghe ai nói đến những cái tên lạ lùng, có vẻ huyền bí thiêng liêng đó lần nào !
 Nhưng nhìn kỷ vào bản đồ, một lúc lâu, vì chữ viết nhỏ như con kiến, ông Vi Đạt mới nhận được những vị trí trên. Thì ra Núi Rồng là ngọn núi chỉ cách dãi Cao Sơn chừng hai dặm. Còn Cầu Vồng là cái đồi uốn cong đối diện với dãy Cao Sơn ở phía sau Bản Tỵ, chỗ nọ cách chỗ kia hàng vài ba chục dặm.
 Vi Đạt còn đang ngẫn ngơ suy nghĩ về vị trí xa xôi, diệu vợi ngăn cách các nơi có ghi tên trong gia phả, thì Lương lão đã hiểu rõ sự băn khoăn của bạn, vội nói ngay :
 – Các Cụ dạy thế, chỉ là có ý bảo mình phải an táng hài coât theo những phương hướng ấy, chứ có bắt buộc mình phải đặt hài cốt gối hẳn đầu lên Núi Rồng, đạp hẳn chân lên đồi Cầu Vồng đâu ?
 Chỉ cốt đầu nằm về phía Núi Rồng, chân đạp về phía đồi Cầu Vồng, là đủ rồi, tiên sinh ạ !
 Khác hẳn sự an táng hài cốt ở những mộ phần của thiên hạ, trong khu linh địa “Lưỡng Ngưu ẩm thủy”, huyệt chôn hài cốt ở hai bên bờ Sông Cả là huyệt bằng, còn chính huyệt thì lại nằm giữa lòng sâu, trên một hòn núi cao, phải trấn yêmbằng con rùa và chiếc lọ đậy kín, không biết bên trong chứa đựng những gì, cùng lá cờ bát quái vẻ chi chít những hình thù quái đản.
 Đặc biệt hơn hết, là sau khi an táng cả hài cốt ở hai bên huyệt bằng, lúc ấy mới được khởi sự trấn yểm huyệt chánh bằng cách đọc bài chú, ghi ở trang cuối cùng cuốn gia phả, chờ cho nước sông đang lên mới được thả những lễ vật xuống vào đúng nửa đêm thanh vắng.
 Nếu đúng phương hướng và cách thức trấn yểm, thì nội bách nhật, hòn núi giữa lòng sông sẽ biến mất, sau một cơn bảo tố ngất trời.
 Thế là hài cốt bắt đầu quán khí, đúng như lời di chúc của tổ phụ họ Lương.
 Trở về Ngòi Xảo được ba ngày thì Lương lão trở bệnh, lên cơn sốt mê man chừng một trống canh, rồi bỗng mở choàng mắt ra, nhìn quanh, có vẻ rất tỉnh táo, nắm chặt lấy tay Vi Đạt mà rằng :
 – Tiên Sinh ! Duyên bèo mây xui khiến cho lão gặp Tiên Sinh, được Tiên Sinh lấy mắt xanh đoái tưởng, khiến cho lão lưu được chút sống thừa, vừa đủ thời gian cho lão hoàn thành nguyện ước của tổ phụ. Đồng thời, nhờ đó, lão cũng không đến nổi uổng phí công lao vất vả liên tiếp hơn hai chục năm trời ! Tất cả những sự may mắn ấy, đều do bàn tay bác ái, từ thiện của Tiên Sinh, đã tận tình thương mến lão, giúp đở lão vượt qua mọi cơn sóng gió ! Sống lão ghi tâm khảm, chết lão nguyện sẽ phù hộ cho Tiên Sinh.
 Ngừng lại một lát, Lương lão thở hổn hễn như có vẻ mệt mỏi, đau đớn lắm, đoạn đưa hai bàn tay khẳng khiu, run rẩy lần theo gấu áo, theo đường chỉ lấy ra một tờ giấy nhỏ cuốn dài, dấu kín ở bên trong mâng mê đưa cho họ Vi rồi nói tiếp :
 – Trước khi lìa giả cỏi đời, lão còn một việc nữa, phải nhờ Tiên Sinh thương tình nhận lời giúp đở cho, thì lão mới đành tâm nhắm mắt được.

GỀNH ĐÁ CÓ BỊ CHÌM SÂU DƯỚI NƯỚC THÌ MẢ MỚI BẮT ĐẦU KẾT PHÁT…
 Số là lão vâng theo di chúc của tổ phụ, sang đây tìm cuốn gia phả và nghiên cứu kỷ lưỡng ngôi đất, đã do tổ phụ lão dày công lựa chọn, từ hơn hai mươi năm nay, bao phen cứ tưởng phải bỏ xác xứ này, trước khi tìm được cuốn gia phả kia.
 May sao, khi lần mò tới vùng Ngòi Xảo, lại kiếm được Hang Chúa, và nhờ một sự tình cờ nữa, còn được kết giao với Tiên Sinh, để hợp tác với Tiên Sinh, cùng hưởng chung ân lộc của Trời Phật đã dành riêng cho hai họ Vi, Lương của chúng ta.
 Có lẽ cũng vì lòng trời, mới xui khiến cho chúng ta được gặp nhau, hiểu nhau và mến thương nhau không khác chi anh em ruột thịt.
 Dứt lời, có lẽ vì cố gắng quá, Lương lão nhắm mắt, ngất lịm đi, thiêm thiếp mê man .
 Một lúc sau, lão bừng mở mắt nhìn họ Vi tha thiết nói thêm :
 – Lão cần căn dặn Tiên Sinh một điều cực kỳ trọng hệ, có liên quan chặt chẽ đến vận mạng con cháu chúng ta về mai hậu : là kiểu đất Lưỡng ngưu ẩm thủy, cứ theo lời di chúc của tổ phụ lão, vốn là một kiểu đất đặc biệt, cổ kim không co một nơi nào có được một khu quý địa như thế đâu ?
 Bởi vậy, khi lão nhắm mắt rồi, nếu có người am tường môn phong thủy, được xem qua kiểu đất, mà có nói ra nói vào điều gì hay bàn luận, thêm bớt nào, cũng xin Tiên Sinh thận trọng tuyệt đối không được nghe theo lời họ, vì họ chỉ biết quan sát bề ngoài, đánh giá sự kết phát theo địa hình địa thế, chứ biết sao được những lẽ huyền bí, kỳ ảo, phát sanh từ nơi khác, ở cách xa đây hàng vạn dậm, có lẽ cao xa, hóc hiểm lắm, nên các Cụ chỉ di chú lại qua loa cho mình biết thôi không cần phải dài dòng giải thích.
  Tóm lại, thầy địa lý nào, xem kiểu đất của mình mà phân kim, án hướng, mai táng hài cốt theo lề lối thông thường của khoa phong thủy thì nhất định sẽ bị thần linh trừng phạt tức khắc, sự kết phát trong trường họp ấy đã hiển nhiên hỏng hết, mà thầy địa lý cũng khó lòng giữ gìn được cho vô sự.
 Vi Đạt hứa làm theo lời Lương lão căn dặn. Họ Lương cảm tạ, rồi nấc lên một tiếng, từ từ nhắm mắt lại, hơi thở nhẹ dần, rồi im bặt.
 Sau khi chôn cất Lương lão ở khu đất phía hữu sông Cả mồ yên mả đẹp, đúng như phương pháp tổ phụ họ Lương đã ghi chép từng chi tiết nhỏ nhặt nhất. Vi Đạt liền thu xếp hành trang đem con trai đến vùng Lĩnh Nam dò xét tông tích thân quyến, và đem hài cốt thân phụ về Ngòi Xảo an táng.
 Nhưng Vi Đạt chỉ cải táng được phần mộ chớ không dò hỏi được tí tin tức gì của người nhà hết, vì theo lời dân cư sở tại thuật lại, thì sau cơn khói lửa kinh khủng, khiến Vi Đạt phải bôn tẩu giang hồ, cả thân quyến họ Vi cũng tản mát, mỗi người một ngả, chẳng còn ai biết được họ sống chết còn mất thể nào ?
 Cuối cùng, dọ hỏi khắp nơi, thì Vi Đạt còn một người em, theo lời thuật lại của họ Phùng thì người em này đang bị giam ở trong tù. Vi Đạt đau đớn vô cùng. Anh em phải thất lạc bao nhiêu năm trời, khi tìm được tung tích, không ngờ em lại bị vạ gió tai bay, mà mình bất lực, không có phương gì giải cứu. Càng nghĩ, họ Vi càng tức bực, nhiều lúc muốn bạo động, song e quả bất địch chúng, họa hổ bất thành, chắc lại nguy hiểm thêm cho tính mạng Vi Hoành.
 Sau khi viên Tù Trưởng cùng bọn thủ hạ áp giải kẻ bị tình nghi đi rồi, họ Phùng mới cho Vi Đạt biết rằng : viên Tù Trưởng họ Hoàng, vốn là một kẻ tham tàng, bạo ngược, từ khi được nối chức cha, đã gieo bao tan tóc đau thương cho dân chúng trong vùng.
 Y lại còn liều lĩnh hơn nữa, thường tìm cách xâm lấn ruộng rẫy, đem gia nhân thân tín đến các khu rừng núi kế cận, thuộc quyền cai trị của các Lang Đạo khác, để lấy các thứ lâm sản và săn bắn, thường xuyên gây sự bất hòa với các động ở gần quanh Hoàng Su Phì, khiến cho dân cư bị ảnh hưởng lây, cũng luôn luôn bị các bộ lạc thù địch đến đánh phá cướp đoạt trâu bò, thóc lúa, làm cho người dân Hoàng Su Phì không mấy khi dám ra khỏi địa hạt.
 Theo lời vợ con của họ Phùng thuật lại thì vụ Vi Hoàng bị bắt cũng không có gì quan trọng, vì viên Tù Trưởng chỉ tình nghi qua giáng điệu lực lưỡng, khoẻ mạnh của Hoành, chớ không hề tìm được một bằng cớ rõ rệt nào khả dĩ chứng minh được là Hoành to rập với đám cướp để đưa đường đánh phá họ Hoàng.
 Họ Phùng bàn luận với Vi Đạt, rồi định sáng hôm sau, sẽ thân hành lên động Tù Trưởng, để biếu lão một ít lể vật, xin tha cho Vi Hoành.
 Không ngờ sáng hôm sau, giữa lúc hai người vừa định sửa soạn ra đi, thỉ bỗng được tin tráng đinh trong bản phi báo rằng : vào hồi nửa đêm hôm qua, viên Tù Trưởng ở gần đấy, kéo thủ hạ đến đánh cướp dinh họ Hoàng, giết được họ Hoàng, và toan kéo nhau vào phá kho thóc, cướp vàng bạc, trâu bò, thì đám tù nhân, ước chừng năm chục người, toàn là những thanh niên vũ dũng do Vi Hoành cầm đầu, tức giận, đã nổi cả lên, phá ngục thất, cưỡng hiếp đám lính canh phòng, đoạt chìa khóa kho vũ khí rồi cùng hợp lực, kéo nhau ra đánh đuổi bọn cướp.
 Bị phản công bất ngờ, viên Tù Trưởng địch phải bỏ hết trâu bò, thóc lúa, hô thủ hạ chạy trốn vào rừng.
 Nhưng chúng cũng bị hạ sát tới 5 tên, vứt lại nhiều giáo mác và ba con ngựa thồ.
 Dân chúng và binh linh ở động Hoàng Su Phì cảm mến ân đức ấy của Vi Hoành, hơn nữa lại quá căm thù oán ghét Tù Trưởng họ Hoàng đã hèn nhát lại tham nhũng, nên đồng lòng tôn Vi Hoành lên làm Tù Trưởng.
 Sau đó, một thời gian ổn định. Vi Hoành đã cho người về đón Vi Đạt lên động chơi, để anh em có dịp hàn huyên cho thỏa lòng nhớ thương trong bao ngày lạc lõng chia ly.
 Vi Đạt mừng rỡ quá, vội sửa soạn hành trang đem Vi Thành cùng đi với người dân ở Hoàng Su Phì, lên động thăm em, ở chơi gần nửa tháng mới cáo biệt, theo họ Hoàng đi Nước Hai, để tìm mua mấy thứ thổ sản, đem về bán buôn cho các Hoa thương ở Hà Giang.
 Không ngờ trong chuyến du hành này, họ Vi một lần nữa, lại gặp một điều vô cùng may mắn khác.

DUYÊN MAY NGÀN DẶM

Theo tục lệ thổ dân ở vùng Nước Hai, tỉnh Cao Bằng, hằng năm, cứ đến cuối mùa Xuân, lại có tục gieo cầu, trai tráng các nơi, không luận sang hèn, giàu nghèo, cứ miễn là thanh niên khoẻ mạnh biết cưởi ngựa, bắn nỏ, thông thạo võ nghệ, đều được dự thí, miễn được thiếu nữ nào ném trúng quả tú cầu thêu vóc hồng thì được cha mẹ cô gái ấy, mời về nhà khoản đải, gả con gái cho, rồi dựng nhà chia trâu, chia ruộng, gây dựng cơ nghiệp cho con rể, cho tới bao giờ vợ chồng con rể tạo được cơ nghiệp căn bản vững vàng mới thôi.
 Do đó, nhằm tiết cuối xuân, các thanh thiếu niên trai tráng, chẳng cứ ở Nước Hai, mà co khi còn ở những vùng xa xôi, cũng rũ nhau tìm đến dự hội gieo cầu, để hy vọng chiếm được người đẹp và có cơ hội gây dựng cơ nghiệp lâu dài.
 Năm ấy trên khu đồi gần đình quan Lang, nơi vẫn đươc chọn làm bải gieo cầu cho những nam thanh, nữ tú, đã được trang trí rực rỡ, khác hẳn thường lệ, vì năm nay có con gái quan Lang Nước Hai đến tuổi gieo cầu, cũng theo chân các bạn đồng trang lứa, dự hội du xuân, để thử xem số mạng.
 Tin đó như một ánh lửa loè sáng giữa đêm khuya tăm tối, đã có mảnh lực thu hút được hàng trăm thanh niên, đủ giai cấp ở miền sơn cước, nô nức kéo nhau đến Nước Hai để …” tìm duyên nợ ” !
 Sự nô nức đó cũng không có gì đáng ngạc nhiên cho lắm vì con gái quan Lang, vốn nổi danh tài mạo, tuyệt vời, nhan sắc chẳng những hoa nhường nguyệt thẹn, cá lặn, nhạn sa, mà khác hẳn với những sơn nữ khác, các môn cầm kỳ thi họa, nàng đều làu thông, không kể cái biệt tài võ nghệ.
 Thiên hạ thường đồn đải với nhau rằng vị thiên kim tiểu thư, con gái duy nhất của quan Lang Nước Hai, vẫn luôn luôn ăn vận nam trang, một mình cưỡi ngựa vào rừng sâu săn bắn, đã có lần hạ luôn một lúc được hai mảnh hổ, một con dùng tên bắn, một con nàng dùng bàn tay nhỏ bé mềm mại như nhung để giáng một cái thôi sơn, vào giữa đầu cọp, khiến chúa sơn lâm vỡ sọ, chết tươi, không kịp rống lên một tiếng giả biệt núi rừng.
 Nhưng dù võ nghệ vào loại bạt sơn, cử đỉnh, vị tiểu thư lá ngọc cành vàng ấy, vẫn không quên cái địa vị cao quý của một giai nhân sinh trưởng nơi trường gấm màn the, ra hài, vào hán, mổi lời sai bảo, trăm tiếng dạ vang, muốn gì được nấy, cha mẹ nưng niu, chiều chuộng như trứng mỏng trên tay, nên những lúc chiều tà đối bóng, Đinh tiểu thư thường gây một lò trầm hương ở căn lầu trông thẳng ra vườn hoa, mà nàng đã đặt cho cái tên rất thơ mộng là Nghênh hương các, để nhìn trăng, gảy khúc đàn tuyệt diệu, gửi tâm tình qua những âm hưởng thanh cao, du dương, thảnh thót, của chiếc nguyệt cầm, không kém gì tiếng giây tơ huyền ảo của những tay danh cầm, tuyệt kỹ thuở xưa, mà tên tuổi còn được lưu lại trong những áng diểm tình giai thoại, muôn ngàn thu, còn có tác dụng rung chuyển lòng người !
 Khác hẳn lối giáo huấn khắc nghiệt của thời phong kiến, mà giá trị người con gái không hơn gì một món đồ chơi, hay một cái máy để khi ở nhà tuỳ thuộc quyền cha mẹ, khi xuất giá, làm tôi mọi cho chồng, dở hay sướng khổ đều không do tự mình quyết định, vợ chồng quan Lang Nước Hai thấy con gái tài sắc vẹn toàn, công dung, ngôn hạnh gồm đủ, văn võ gồm tài, cầm kỳ thông thạo, nên để mặc cho nàng tự kén lấy bạn trăm năm, chứ không ép uổng con gái như những gia đình khác, vì cả hai ông bà cũng tin rằng : Nàng có đủ trí sáng suốt tìm được ý trung nhân để trao sương gửi thịt.
 Vã lại quan Lang cũng hiếm hoi, dưới gối chỉ có một mình nàng, nên hai ông bà cũng muốn cho nàng kén được người tuấn tài để mai sau nối nghiệp ông cha.

CHÚA TỂ ĐẤT LẠNG SƠN

Sau khi an táng hài cốt tổ phụ vào huyệt tả ngạn sông Cả, ở ngay cửa Ngòi Xảo, họ Vi đi buôn trên miệt Hoàng Su Phì, gặp được em ruột là Vi Hoành bị thất lạc từ khi có cuộc biến loạn ở Lĩnh Nam. Nhờ tài võ dũng quả cảm, Vi hoành đánh ta bọn giặc ở vùng Bắc Mục, nhân lúc bất ngờ kéo đến cướp đoạt trâu bò, vàng bạc của dân cư sở tại, nên được mọi người tri ân, tôn lên làm Tù Trưởng.
 Vi Đạt cùng con trai là Vi Thành, sau đấy lại qua phủ Nước Hai ở Cao Bằng để mua ngựa tốt, nhằm đúng hội gieo cầu, được quan Lang Nước Hai kén Vi Thành làm giai tế, húa cho nối nghiệp khi từ trần, ví quan Lang không có con trai kế tự.
 Họ Vi hiển đạt, làm chúa tể hai miền sơn cước hưng thịnh, trù phú, cha truyền con nối cho đến năm Minh Mạng thứ tám, mới di cư qua đất Lạng Sơn, cầm đầu các động thổ dân, rất được mọi người kính nể, tuyệt đối phục tùng.
  
MẢ PHÁT TO … nhưng nhiều người bị bất đắc kỳ tử…

Khi Vi Văn Định làm Tổng Đốc tỉnh Thái Bình, nhờ có quan Tri Châu Bắc Quang họ Cao giới thiệu, được quen biết một thầy địa lý phong thủy chính tông  họ Triệu từ tỉnh Triết Giang bên Tàu trốn qua Việt Nam tỵ nạn, sau cuộc âm mưu khởi nghĩa định lật đổ đế chế Mãn Thanh bị thất bại, khiến cho một số lớn đồng chí của họ Triệu phải rơi đầu trước lưỡi gươm đẫm máu tàn bạo của bọn vua quan nhà Thanh, không ngần ngại gì, thường thẳng tay chém giết những người Trung Hoa, không chịu theo chúng, để củng cố chiếc ngai vàng mục nát.
 Vi Văn Định tiếp đải họ Triệu rất trọng hậu, dùng lể thượng khách đối xử một cách cực kỳ cung kính.
 Họ Triệu thấy Định đang đắc thời, đắc thế, được người Pháp tin dùng, tuy chỉ cầm đầu có một tỉnh, mà quyền uy khét tiếng khắp nơi, hách dịch như một vị tiểu vương, nghênh ngang một mình một cỏi biên thuỳ, nên muốn được sống yên thân nơi xứ lạ cũng hết lòng cung kính, tận tâm, tận lực phụng thừa Vi Văn Định, coi Đinh như thần hộ mạng, có đủ thế lực che chở cho mình trong lúc sa cơ thất thế.
 Bởi vậy, khi được Định đưa lên Ngòi Xảo phúc lại ngôi mả tổ tiên tả ngạn dòng sông Cả, họ Triệu đã một mình lăn lội vào rừng thẩm, núi cao, tận dụng tài học sở trường về môn phong thủy, để nghiên cứu kỷ lưỡng, địa hình, địa thế khắp vùng “Lưỡng Ngưu ẩm thủy”, tới gần nửa tháng trời, mới nói cho Vi Văn Định biết rằng :
 – Quả đúng là đất đại quý, sự kết phát sẽ bền vửng lâu dài bất cứ triều đại nào, họ Vi cũng được coi là anh hùng một cỏi giang sơn riêng biệt.
 Nhưng so sánh hai ngôi mộ ở tả hữu ngọn sông Cả trong vùng Ngòi Xảo, thì mả của họ Lương đắc địa hơn nhiều.
 Cứ nhìn qua bề ngoài của hai ngôi mộ, người không biết gì về khoa địa lý cũng có thể phân biệt được sự hơn kém : mả tổ phụ họ Lương không cần trông coi, bồi đắp mà quanh năm, lúc nào cũng to lớn, nổi cao lên như một cái đồi nhỏ, cỏ mọc xanh rờn, dây leo chằng chịt, trông xa như một tấm thảm nhung biếc, đẹp mắt vô cùng.
 Còn mả tổ họ Vi, dù thường xuyên vẫn có gia nhân, canh gác, đắp đất, rẩy cỏ rất cẩn thận mà cỏ vẫn kém tươi, mộ phần cũng chỉ bằng tám phần mười ngôi mả của họ Lương, mặc dù phong cảnh cũng xinh đẹp lạ lùng. Sở dĩ có sự khác biệt ấy, theo sự nhận xét của nhà phong thủy họ Triệu, thì nguyên do chỉ là vì con hỏa nằm án ngữ cách minh đường ngôi mộ chừng nữa dậm.
 Đó là một gò đất nổi lên, nằm trơ vơ phía trái miếu sơn thần, chạy thoai thoải đến gần mộ phần, trong giống như một mủi dùi nhọn đâm thẳng vào ngôi mả.
 Vì thế, sự kết phát bị giảm sút mất một phần nhỏ.
 Không những thế, nó còn là điềm bất đắc kỳ tử cho nhiều người trong họ nữa.
 Vi Văn Định lo sợ, vội năn nỉ tha thiết yêu cầu thầy địa lý tìm cách trấn yểm giúp cho con Hỏa không nổi dậy, tác quái, nhiểu hại cho con cháu trong dòng họ, nhưng họ Triệu khăng khăng từ chối và cho biết : con Hoả ấy nằm sát long mạch, không có phương thế chi để diệt trừ, hay trấn áp được hết, vì chỉ hơi động đến là long mạch bị thương tổn ngay tức khắc , chẳng những không có lợi chi mà còn có thể gây thêm nguy hại cho sự kết phát sau này, uổng phí cả tâm cơ của tổ tiên ngày trước.
 Vả lại, cứ như sự suy luận của họ Triệu thì các kiểu đất quý, phần nhiều đều có một vài nét khuyết điểm, nhẹ nặng tuỳ theo phước trạch của ông cha, đó là luật thừa trừ rất nhiệm mầu kỳ bí của Hoá công, chứ chẳng mấy khi được toàn mỹ, chỉ có kết mà không có đọng trê bao giờ
 Chỉ cốt sao cho sự kết phát được nhiều hơn sự nguy hại, cũng đã là một điều đại hạnh cho gia chủ lắm rồi !
 Ta không nên đòi hỏi quá nhiều mà vô tình cưỡng lại mệnh trời, tạo thêm sự thất đức, làm giảm bớt cả tính cách linh ứng của kiểu đất hiếm có, mà dám chắc, trên cỏi đời này, chưa chắc đã tìm được một kiểu đất tương tự thứ hai !
 Cuối cùng muốn an ủi quan Tổng Đốc Thái Bình, họ Triệu đã đem nhiều chuyện thi ân, bố đức, cầu phước, khuyến thiện ra nói với dụng ý kín đáo, ngầm khuyên Vi Văn Định nên tu nhân, tích đức, làm điều lành, tránh điều dữ, để may ra có thể cứu vãn được phần nào sự nguy hại do con Hoả gây ra cho con cháu họ Vi.
 Những lời khuyên kín đáo của thầy địa lý Tàu như bị rơi vào sa mạc, vì như ai nấy đều biết : Vi Văn Định khi còn nắm quyền sinh sát ở tỉnh Thái Bình, cũng như sau đấy, ở tỉnh Hà Đông, vẫn luôn luôn thẳng tay sát hại đồng bảo lương thiện, nhất là những nhà cách mạng nuôi chí lắp bể vá trời, muốn đánh đuổi thực dân,để khôi phục nền độc lập cho giang sơn tổ quốc.
 Muốn được mẫu quốc ghi công để ban thưởng cho mề đay, kim khánh, tiến chức, thăng quan nhanh chóng hơn diều gặp gió. Vi Văn Định đã chẳng chút ngại ngần, trút hết cả mọi nổi khổ lên đầu các chiến sĩ cách mạng, sáng chế ra nhiều loại hình phạt, cực kỳ dã man hiểm độc, đến nổi chỉ nghe nói qua đến những thủ đoạn của họ Vi làm Tổng Đốc tỉnh này, người yếu bóng vía cũng đã thấy rùng mình sởn gai óc.
 Bà con ở Thái Bình di cư vào Nam, hẳn còn nhớ thời kỳ họ Vi làm Tổng Đốc, đã có ra một nghiêm lịnh quái ác : triệt để bắt các hương lý chức dịch các làng xóm phải diệt cho kỳ được loai bèo Tây, mà có nơi quen gọi là sen Nhật Bản, một giống bèo có sứ bành trướng mạnh mẽ phi thường, sinh sôi nẩy nở nhanh chóng, nhiều vô số kể trong một thời gian ngắn ngủi, có rễ dài, nổi lềnh bềnh trên mặt nước cả hoa màu tím và lá màu xanh mới trông cũng khá đẹp mắt.
 Nhưng vì nó sinh sản nhiều quá lẹ quá, nên vẻ đẹp thuở ban sơ, đột nhiên biến mất, để nhường chỗ cho sự chán ghét trong tâm khảm mọi người.

BÁC SĨ T. EM RUỘT VI-VĂN-ĐỊNH BỊ NGỰA DẨM CHẾT DƯỚI LÒNG SUỐI

Theo lời những ông già, bà cả kể lại, thì khi thứ bèo hoa tím, lá xanh, hình cánh quạt mới xuất hiện tại biển đông nhiếu nhà quan quyền ,phú hộ, cường hào đã không quản ngại tốn kém, mướn người đi lấy về để thả trong bể, cho bèo nổi trôi quanh hòn non bộ, giống hệt những chiếc thuyền bồng bềnh giữa bể khơi, coi đó như một môn giải trí thanh cao, thích thú cho những người giàu sang, nhàn rỗi.
 Nhưng người đời, xưa nay vẫn ham tân, chuộng lạ, chỉ say sưa mê thích những cái gì khan hiếm ít khi tìm thấy được dễ dàng ở trên thế gian, chớ nếu nơi nào cũng đầy rẩy, chất đống cao như cây rơm , cây rạ ở thôn quê, thì còn có nghĩa lý gì.
 Giá trị nó lúc ấy, quả thật không còn đáng được nửa đồng.
 Thứ bèo Nhật Bản kia cũng vậy !
 Những gia đình quyền quý, thừa tiền, thừa bạc, khi thuê người đem thứ bèo đó về thả vào bể nước, thấy nó sinh con đẻ cháu nhanh chóng, mạnh mẽ lạ lùng, lúc đầu còn vui thích, sung sướng, nâng niu, lấy giống đem thả xuống hồ, xuống ao.
 Chỉ mấy hôm sau, hồ, ao cũng đầy ứ loại hoa tím lá xanh, khiến chủ nhân không còn muốn “thưởng thức” cái loại hoa kỳ lạ đó nữa.
 Hơn thế, những loại rau muống hay sen trắng, sen đỏ trồng sẳn ở trong hồ ao từ trước, lại còn bị thứ bèo mới tới lấn át, đến phải héo hắt, chết dần, chết mòn, suốt lượt.
 Thứ bèo trồng chơi từ bể nước, vì vậy đã bị mất địa vị danh hoa, phải đem ra quăng cả ra hồ ao, cống rãnh.
 Và kỳ lạ hơn hết, là ở đâu, bất cứ rạch bần ao rộng hẹp thể nào, giống bèo đó cũng sinh sản nhanh hơn cỏ dại.
 Người ta vứt ra ngoài ruộng chiêm ngập nước thì chỉ vài ba hôm cả cánh đồng đã tím ngắt màu… sen Nhật Bản.
 Thuở bấy giờ nhằm kỳ nghỉ lể, em ruột quan Tổng Đốc Thái Bình là Bác sĩ Vi Văn T… được nghỉ mấy hôm, về thăm quê nhà ở Lạng Sơn, một hôm Bác sĩ T. cưỡi ngựa dạo chơi quanh vùng, khi vượt qua một con suối nông cạn mà mực nước không ngập quá gối, Bác sĩ T. lại bị ngã ngựa, rồi bị ngựa cuống quít dẫm chết luôn ở giữa lòng suối.
 Mọi người chung quanh đấy vội đổ xô đến cứu cấp, nhưng không kịp.
 Thì ra con ngựa của Bác sĩ T. lúc lội qua suối, bị vướng phải rễ bèo tây, cuống cẳng nên ngã quỵ ngay xuống suối, quăng luôn cả Bác sĩ T. xuống nước.
 Khi con ngựa vùng vẫy thoát khỏi đám rễ bèo, nó lại hoảng hốt lội mau lên bờ, chẳng ngờ rủi ro làm sao, lại dẩm bẹp ruột Bác sĩ T. khiến Bác sĩ T. chết liền không kịp kêu cứu.
 Tin dữ bay xuống tỉnh Thái Bình, làm cho Vi Văn Định tức giận như kẻ điên cuồng, phần thương tiếc đứa em mới thành tài, chưa kịp hưởng thụ đúng mức sự giàu sang cho bõ công học hành vất vả, đã phải bỏ mình vì một tai nạn không có nghĩa lý gì, nên ngay lúc ấy, liền hạ lệnh cho tất cả tổng lý, hương chức các làng xã trong toàn hạt Thái Bình phải trừ tiệt loại bèo tây, nơi nào trái lệnh, sẽ bị nghiêm trị theo pháp luật.
 Các hương lý, chức dịch thôn quê ở Thái Bình lúc bấy giơ thật đã vô cùng điêu đứng, khổ cực, trước cái lệnh quái gỡ của vị quan đầu tỉnh, vì giống bèo tây sống dai hơn đĩa đói, dù vớt lên bờ phơi khô, mà các bèo gặp trời mưa to, trôi xuống hồ ao cống rãnh, vẫn có thể hồi sinh, đã đẻ ra con, ra cháu, nhiều vô số kể và nhanh như chớp. Vì vậy, cứ vớt sạch được chỗ này, thì chỗ kia đã lại có bèo mọc. Nhiều nơi dân chúng không còn làm ăn được gì nữa mà chỉ lo đi vớt bèo cũng vẫn không xong.
 Nhiều đêm, quan Tổng Đốc đã bất thình lình, mặc thường phục vi hành đến thăm các làng tổng, thôn xóm xa xôi trong địa phương, nếu thấy nơi nào còn sót ít nhiều bèo tây trong hồ ao, là lý dịch sở tại bị gọi ngay ra đình, cho quan đầu tỉnh sĩ vã chẳng tiếc lời và nọc nằm thẳng cẳng trên nền gạch, bắt lính hầu phải dùng ba toong to bằng cườm tay, quật cho quắn đít, liền chỉ hồ điệp hàng hai ba chục chiếc đến nứt da, nứt thịt, máu me chảy đầm đìa, mới chịu buông tha cho các nạn nhân sau khi đã buông thêm lời cảnh cáo : nếu còn tái phạm, sẽ bị trừng trị nặng nề ghê gớm hơn nhiều.
 Tiếng tàn ác của Vi Văn Định lan rộng khắp nơi. Nhiều đoàn thể chánh trị, thấy y lợi hại quá, e trở ngại cho các hoạt động của các đảng phái yêu nước, đã tìm cách để ám hại y, nhưng lần nào Vi Văn Định cũng thoát chết.
 Hôm mới được tin em ruột chết trước một tai nạn hầu như quá vô lý, vì người nào đã từng ở Lạng Sơn, hay có qua đó một vài lần, cũng phải công nhận rằng : con suối mà Bác sĩ Vi Văn T. đã cưởi ngựa vượt qua mực nước thực sự chỉ sâu chừng hai gang , đứng trên bờ, bất cứ giờ nào cũng trông rõ cả lớp cuội trắng nằm lấp lánh dưới đáy .
 Vậy mà khi Bác sĩ T. cho ngựa lội xuống suối, lại bị rể bèo quấn cẳng, khiến con tuấn mả của họ Vi, vốn khét tiếng là giống ngựa tốt, phải ngã quị, quăng luôn cả chủ nhân xuống nước.
 Lạ lùng làm sao, là khi bị té nhào, xuống suối, Bác sĩ T. lại không thế nào đứng vùng lên được, mặc dầu ngày thường, Bác sĩ T. rất khoẻ mạnh, ham chuộng tập dượt chạy nhảy, lại thêm am hiểu cả võ Tây và võ Nhật. Bác sĩ cứ nằm chịu trận dưới lòng suối cho đến lúc bị con ngựa dẩm chết mà vẫn không có một ai biết hết.
 Cho mãi tới khi con ngựa theo đường cũ chạy về nhà, người nhà họ Vi thấy con ngựa hí vang rầm, khắp mình ướt sủng nước mà Bác sĩ T. lại không cùng về, nên lo sợ chia nhau đi tìm kiếm khắp nơi.
 Một bọn gia nhân vừa ra tới bờ suối, đã thấy Bác sĩ T. nằm thẳng cẳng dưới lòng nước.
 Chúng hè nhau lội xuống đem lên bờ, thì Bác sĩ đã tắt thở tự bao giờ, thân thể lạnh toát khắp mình, bị vó ngựa dẩm xây xát, tím bầm.
 Sau khi nhận được hung tinh, Vi Văn Định la hét vang dinh Tổng Đốc Thái Bình.
 Lúc đầu, Định chỉ tưởng là một tai nạn rủi ro : nhưng sau phút cáo giận, y chợt nhớ tới lời tiên đoán của thầy Địa lý năm nào, khi được mời đến Ngòi Xảo để phúc lại phần mộ Tổ phụ an táng trong kiểu đất ” Lưỡng Ngưu ẩm thủy “, y mới giật mình, hoảng sợ, vội đi tìm cuốn gia phả coi lại những lời ghi chú về nơi đất quý địa ấy.
 Thì rõ ràng, tổ phụ họ Vi cũng đã có dặn lại, là sự động trệ sẽ kèm theo với sự kết phát để trong dòng họ, luôn luôn có người bị bất đắc kỳ tử do con Hỏa ở trước mộ phần gây ra.
 Vi Văn Định tức bực, vỗ án rầm rầm, muốn lên ngay Ngòi Xảo để cải táng ngôi mả tổ đi, vì y được thấm nhuần ít nhiều Tây học, không tin mạch đất lại có thể giáng phúc, tạo được sự kết phát cho con cháu lâu dài.
 Y viết thư gửi cho các em, nói rõ ý định ấy, làm cho em ruột y là Vi Văn L., Tri Phủ Nước Hai hoảng sợ, phải dùng ngay xe hơi nhà, đi suốt đêm về Thái Bình để ngăn cản ý định điên rồ ấy của Định.
 Sau khi thấy anh đã nguôi giận, Vi Văn L. liền giới thiệu với Định một thầy địa lý nguyên quán ở miền Trung, lúc đó đang ngồi dạy học tại nhà quan Phủ Nước Hai, để ủy thác cho người này tìm phương trấn yểm con Hỏa.
 Vi Văn Định cho em biết là trước kia, y cũng đã cho người phúc lại ngôi mả và yêu cầu người ấy trấn yểm con Hỏa, song nhà phong thủy Trung Hoa này viện cớ con Hoả nằm liền sát long mạch, nếu động tới, e sẽ làm thương tổn cho sự vận chuyển của mạch đất.
 Vi Văn L. nhất định, tin tưởng vào tài ba của thầy Địa lý miền Trung nên hết lời phân trần với Định, để xin về đưa nhà phong thủy qua Ngòi Xảo làm bùa phép trấn yểm. Nễ em qua, Định đành phải nghe lời, cho phép Vi Văn L. được trọn quyền hành đông.

 NHƯ MỘT BÌNH ĐIỆN…
 Vừa trở về đến Nước Hai quan Phủ Vi Văn L., sai lính hầu đi mời ngay thầy đồ Nghệ đến tư thất, nói rõ cho nhà phong thủy biết sự hoài nghi của anh ruột mình về tính cách động trệ do ngôi tổ mộ được kết phát ở Ngòi Xảo gây ra, để yêu cầu thầy địa lý kiếm cách trấn áp con Hỏa, cho dòng họ Vi từ nay, tránh khỏi nạn bất đắc kỳ tử.
 Nhà phong thủy ( địa lý phong thủy ) xứ Nghệ An, ôn tồn đáp :
 – Nhiều người được thấm nhuần Tây Học thường nghi ngờ môn địa lý, cho đó là một sự mê tín dị đoan, chứ một khi đã chết rồi, người khôn ngoan đến đâu, cũng chỉ là một mớ xương khô, theo năm tháng thời gian, mục nát với cỏ cây, hỏi còn biết gì là giáng phúc hay gieo họa cho con cháu nữa. Không cứ quan Tổng Đốc Thái Bình mới không tin việc linh ứng của mồ mả, đất cát, mà bất cứ một người nào, từng có ít nhiều cơ hội tiếp xúc với nền văn minh Tây Phương, cũng đều có ý nghĩ như thế cả.
 Đó quả thực là một sự xét đoán sai lầm đáng tiếc, mà nếu chịu khó suy nghĩ ra sẽ thấy ngay sự nhận xét nông cạn, hầu như bất công của những người Tân Học đa nghi.
 Ngay từ khi mới bắt đầu nghiên cứu về môn phong thủy, tôi (lời thầy địa lý) đã được sư phụ tôi cho biết rằng : địa lý hay nói cho đúng hơn, là môn địa ý, chỉ là một khoa học, căn cứ vào sự thuận mát đúng như ý muốn của mọi người nghĩa là phải chú trọng vào sự cân đối sáng sủa phong quan, có núi non, gò đống có cây cối, sông ngòi.
 Ví vụ một người ngồi ung dung nơi thư phòng, thì trên ghế ngồi phải có tay dựa mà thiên hạ quen gọi là tay ngai, đàng trước mặt phải có án thư, phí sau phải có chỗ tựa lưng.
 Thi hài nằm dưới đất cũng thế, Chính huyệt là nơi an nghĩ ngàn thu, cũng phải trông ra một nơi quang đãng, sơn thủy hữu tình, đó là án minh đường, nói theo danh từ chuyên môn của khoa phong thủy, sau lưng phải gói vào gò đống kỳ khu, đó là hậu trẩm.
 Còn tay ngai đễ tựa hai tay là tay long với tay hổ.
 Cứ tìm được nơi nào, có đầy đủ những điều kiện cốt yếu như vậy thì ngôi mả nhất định sớm muộn gì cũng phải kết phát không thể nào sai chạy được.
 Người Âu Mỹ dù không tin sự linh ứng của mồ mả nhưng không phải như thế có nghĩa là họ chẳng chú trọng gì đến môn địa lý đâu ?
 Sự thực, khi họ làm nhà, họ cũng vẫn luôn luôn xây dựng dinh cơ trên những thửa đất vuông vắn, quang đảng, trông về những hướng mát mẻ, để hưởng thụ, gió sớm, trăng khuya.
 Mà nhà cửa nào có khác gì phần mộ đâu, vì nó cũng đem lại kết quả tốt đẹp hay ảnh hưởng nguy hại cho chủ nhân nếu gặp những khu đất làm nhà hợp ý hoặc miển cưỡng.
 Còn về sự kết phát hay động trệ tại đó cũng là việc rất thường, không thể gọi được là huyền bí, mờ ám chi hết !
 Như ai nấy đều biết giữa người sống và người chết, cùng chung một huyết khí, bao giờ cũng có sự thông cảm trực tiếp với nhau.
 Do đấy, nếu hài cốt được an táng vào một nơi đẹp mắt, tiền, hậu, tả, hửu đều có những phong cảnh kỳ khu tươi tốt, thì lẽ tất nhiên mớ xương khô nằm đó, cũng được thấm nhuần linh khí thiên địa, phát sanh được những “tia điện” thiêng liêng, để truyền thứ tú khí đó cho con cháu, hay những bà con thân thích, có liên hệ huyết thông với người nằm dưới đáy mộ.
 Nếu có thể ví dụ mà không sợ sai lầm, thì thi hài chôn trong lòng đất, được coi như một bình điện, tốt xấu, mạnh yếu tuỳ theo địa thế mộ phần, để có thể phát xuất những “luồng điện”, đem lại sự kết phát hoạt động hổ trợ cho người sống.
 Chinh bởi sự kết phát hay động trệ ấy, mà nảy sanh ra những chuyện ly kỳ có khi đến quái đản, gần như chuyện hoang đường thời Phong thần, khiến cho những “Ông Tân thời” mới căn cứ vào đấy để chỉ trích, dè biểu, chế giểu.
 Họ có biết đâu rằng : bộ xương khô, một khi được an táng vào một khu địa huyệt đẹp mắt, có sự an bài sắp đặt kỳ dị của hóa công, sẽ phát xuất một sức mạnh kỳ ảo mà tôi (vẫn lời thầy địa lý) dám chắc, không có một luồng điện nào ở trên cõi đời này lại có thể hùng mạnh bằng và có thể so sánh kịp !
 Cũng vì thế, mới xui khiến ra những sự kết phát lạ lùng : đang từ một kẻ ngu si dốt nát, trong một sớm một chiều, đã “phúc chí tâm linh” biến thành một người thông minh xuất chúng, có biệt tài thay đổi thời cơ, lật ngược hoàn cảnh, hay đang nghèo mạt rệp, đói khát, khổ sở, chợt gặp gỡ những điều may mắn dị thường để thay đổi hẳn địa vị nghèo khổ thành giàu sang, phú quý !
 Trái lại, nếu mả động, thì sự nguy hại cũng nhanh chóng không kém : người khỏe mạnh bỗng lăn ra chết bất ngờ , hoặc mắc phải những chứng bệnh hiểm nghèo không có một thứ thuốc men nào chửa khỏi, vậy mà chỉ cải táng được mộ phần là lập tức bình phục ngay trong nháy mắt.
 Hài cốt táng nơi tốt sẽ nở ra, bóng lộn, có khi kết thành tượng. Chôn phải đất xấu, sẽ bị hao mòn dần, có khi biến thành đất vụn.
 Chuyện mả chôn trong bụng một con ngựa đá dưới sông, của ông Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa, tuy thuộc vào loại hoang đường, song nghĩ cho kỹ, cũng không phải là hoàn toàn vô lý vậy !
 Có những chuyện dị kỳ xảy ra, mới co thể minh chứng được sức mạnh của các ngôi mả kết phát hay động trệ !
 Thầy địa lý nói tiếp : nếu không do ngôi mả gây ra, thì sao ” quan đốc” lại có thể bị chết đuối, khi vướt qua một con suối, chỉ nông chưa tới gối mà hàng ngày trâu, ngựa vẫn lội qua từng đám một cách rất dễ dàng ?
 Quan Tri Phủ Nước Hai Vi văn L. chăm chú ngồi nghe lời giải thích của nhà phong thủy vả ngỏ ý mời thầy địa lý ngay sáng hôm sau, đi Ngòi Xảo làm lể trấn yểm.
 Đích thân Vi Văn L. hướng dẫn nhà phong thủy đến Ngòi Xảo, đưa đi coi tường tận cả hai ngôi mả tổ của họ Lương và họ Vi.
 Thầy địa lý lặng lẻ theo chân quan phủ Nước Hai, chăm chú quan sát địa hình, địa thế các nơi, nhất là gò đất có con Hỏa nằm đâm thẳng vào tổ mộ họ Vi, đoạn chỉ tay về phía ấy, mới nói Vi Văn L. rằng :
 Vừa đi quan sát một lượt quanh khu tả ngạn Sông Cả, nhà phong thủy xứ Nghệ đã lắc đầu nói vơi Vi Văn L. sau khi đã lần đốt tay tính toán :
 – Kiểu đất quý thiệt !
 Nhưng sự tác hại của con Hỏa nằm trước mộ phần, quả cũng vô cùng ghê gớm.
 Nếu không trấn áp được gò đất ấy, thì cứ 15 năm trong dòng họ Vi, thế nào cũng lại có một người bị bất đắc kỳ tử mới thôi.
 Đấy kìa, quan lớn thử trông : con Hoả nằm án ngữ minh đường, chỉa thẳng mủi nhọn vào chánh huyệt, nào có khác gì một người cầm dao sắt, đâm vào cổ người nằm ở trong ngôi mộ này ! Nhu thế, hỏi con cháu mà làm sao sống yên ổn được.
 Vi Văn L. lo lắng nhìn nhà phong thủy hỏi vộ :
 – Nhưng thầy thử coi kỹ giúp ! xem chi nào trong dòng họ Vi bị nạn bất đắc kỳ tử ấy ?
 Thầy địa lý lắc đầu :
 – Chưa thể nói đích xác được. Còn việc trấn yểm cũng cần phải chờ xem xét kỹ lưỡng hơn nữa rồi mới có thể định liệu được.
 Công việc chưa biết sẽ còn phải kéo dài tới mấy hôm.
 Vậy nếu quan lớn bận công vụ, thì xin mời Ngài cứ về phủ trước đi. Tôi ở lại đây, sau khi hiểu rõ địa hìng địa thế sẽ tự ý lo liệu việc trấn yểm , quan lớn bất tất phải mãi công chờ đợi làm chi cho phí thời giờ vàng ngọc của Ngài.

CON HỎA
 Một gò đất dài, như một mũi giáo nhọn, đâm vào cổ người nằm trong mả, nếu không trừ được, cứ 15 năm, lại có một người trong họ bị bất đắc kỳ tử.
 Vi Văn L. gật đầu ưng thuận :
 – Ừ được ! thầy nói thế cũng phải ! Ta xin nghe theo. Nhưng muốn cho thầy có người sai bảo, ta xin lưu lại đây hai tên lính tâm phúc, toàn là người trong họ của ta đã theo hầu ta từ trên mười năm nay. Thầy có thể phóng tâm tín cẩn mà không cần phải đề phòng, ngần ngại chi hết.
 Dứt lời, L. từ giả lên ngựa cùng đoàn tùy tùng quay về Nước Hai.
 Ngay đêm ấy, nhà phong thủy lần ra mả, làm phép hô thần rồi chôn ngay dưới chân con Hỏa, một chai thuốc, mà lão đã bí mật đem theo từ phủ Nước Hai để hy vọng có thể làm tiêu thổ cái gò đất nguy hiểm đó.
 Khi lảo trở về đến nhà viên chánh tổng sở tại được dùng làm nơi tạm ở Ngòi Xảo, thì gà rừng đã gần gáy rạng đông..
 Lão mỏi mệt, vội lên giường ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
 Tối thứ hai, lão lại lần ra mả, tiếp tục làm lể trấn yểm, nhưng sớm hơn đêm trước, lúc lão trở về nhà viên chánh tổng, thì trống canh ngoài điểm mới điểm có bốn tiếng.
 Lão ngồi uống tàn một ấm trà tàu, rồi lên giường nằm nghỉ.
 Mơ màng lão thấy như có người gọi đích danh lão rồi một vị lảo trượng, đầu râu tóc bạc, bỗng xuất hiện, cầm chiếc roi mây, chỉ thẳng vào mặt lão, mà lớn tiếng mắng rằng :
 – Thằng kia ! Mi cậy mình pháp thuật cao cường, ý muốn giúp kẻ dữ, định cưỡng lại mệnh trời sao ?
 Mi phải biết rằng : tổ phụ họ Vi tu nhân tích đức, nên Thượng đế mới ban phước cho chúng ngôi đất quí, dưới quyền ta cai quản vùng này.
 Nhưng từ hai mươi năm trở lại đây, con cháu họ Vi bỗng thay lòng, đổi dạ, giết người, hại kẻ hiền lương, nên con Hoả mới có cơ hội, vùng lên : để vật chết những kẻ tham tàn, bạo ngược.
 Đó là lẽ trời chí công, chí chính mà mi là kẻ từng đọc sách thánh hiền, phải hiểu rõ luật phước họa, ân oán ấy, chứ có đâu lại nhắm mắt làm liều như hành động của mi từ hôm qua tới bây giờ ?
 Trước khi tới đây, ta cảnh cáo mi, ta đã hiển linh phá tan cả bùa phép của mi rồi đó !
 Dứt lời, một trận gió ào ào cuốn tới, trong chớp mắt, vị lão trượng biến đâu mất tích !
 Bàng hoàng tỉnh giấc, thầy đồ Nghệ toát mồ hôi cùng mình, vì lão biết đó không phải là mộng mị hảo huyền, mà có lẽ đã do một nguyên nhân thần bí nào xui khiến.
 Với niềm thắc mắc nặng chĩu trong tâm khảm, thầy địa lý trằn trọc mãi, không sao ngủ lại được, bất đắc dĩ đành phải trở dậy, chong đèn thức tới sáng.
 Mặt trời vừa lấp ló ở dãy núi sau miếu Chúa, thầy địa lý đã chỉnh tề khăn áo, đi ra ngoài tả ngạn sông Cả với sự hồi hộp lạ lùng trong trí óc.
 Vừa đến nơi, lão kinh ngạc, suýt kêu lên một tiếng thất thanh, khi thấy chỗ chôn chai thuốc với bùa chú, ở ngay dưới chân Con Hỏa, một địa hình dài và nhọn như một chiếc giáo khổng lồ, nằm im lìm trước tổ mộ họ Vi, chỉ còn là một hố sâu hoắm, bùn đất tung tóe, lẫn lộn với những mảnh bùa chú và mấy vị thuốc đặc biệt, không hiểu vì lý do gì, bị tan vỡ nát vụn từng mảnh nhỏ như cát bụi, hình như do một bàn tay kỳ ảo nào đào bới, phá hủy vậy.
 Cúi rạp nhìn xuống hố sâu, thầy đồ Nghệ chỉ thấy đen ngòm, không biết nông sâu thế nào, liền bẽ vội cành cây, đâm thẳng xuống hố.
 Chiếc hố cơ hồ như không có đáy, sâu ngập hết cả cành cây khô dài ngoằn, mà vẫn chưa tới đất, phía dưới cơ hồ vẫn còn bị trống rỗng !
 Lão còn đang nghi ngờ, định kiếm cho kỳ được một sợi dây dài, buộc một đầu bằng một hòn đá nặng, để thả xuống hố sâu, hầu đo lường mức sâu nông của nơi chôn bùa phép, thì chợt từ dưới hố sâu, hình như phát xuất giữa lòng đất, một tiếng nổ lách tách như pháo tép, rồi có tiếng rào rào như tiếng nước sông gầm thét khi con đê bao quanh bị phá vở, rồi từ dưới hố sâu, một luồng khói xanh cuồn cuộn bốc lên, khét lẹt như mùi thuốc súng, mơ hồ giống hệt hình thù một con hổ kết họp toàn bằng sương khói.
 Hoảng hốt, thầy địa lý vội lùi lại phía sau mấy bước, toàn thân run bắn như người bị sốt rét ngả nước lâu ngày.
 Sau một phút định thần, lão mới bàng hoàng chợt tỉnh, vùng đứng phát lại, hai mắt trừng trừng nhìn thẳng xuống lòng hố sâu, rồi nghiến răng cắn lưỡi, phun máu vào giữa luồng khói mờ ảo, tay bắt quyết ngũ lôi, miệng niệm thần chú lầm rầm.
 Trong một phút chốc, giữa lúc trời quang mây tạnh mặc dầu ở trên đỉnh núi vấn vương rất ít nhiều sương lam cũa miền rừng núi, bỗng từ trên không trung, nổi lên liên tiếp năm tràng sấm inh ỏi, xé trời.
 Và kỳ lạ hơn hết, tất cả sấm sét đều như hướng hết về phía hố sâu giáng xuống.
 Luồng khói xanh mờ ảo, chợt đứng yên một chỗ, mơ hồ cuồn cuộn trên miệng hố.
 Đồng thời, từ dưới lòng đất, những tiếng nổ rì rào, lẹt đẹt cũng im bặt.
 Thầy địa lý đang hí hỡn mừng thầm là pháp thuật của mình đã chế ngự được tác quái của Con Hỏa, thì bỗng lại có tiếng nổ to như muốn phá toang lòng đất, rồi luồng khói như được một sức mạnh kỳ diệu trợ lực lại tiếp tục bốc lên cuồn cuộn như trước, mà trái lại còn có phần hung hản, hùng mạnh hơn trước nhiều.
 Thầy địa lý rùng mình, toàn thân ớn lạnh, gai óc nổi cùng người, đang luống cuống chưa biết phải đối phó thế nào, thì cảm thấy mắt hoa, đầu váng, lảo đảo một lúc lâu, rồi ngả lăn quay bên miệng hố, ngất lịm.
 Đang lúc lão mơ màng thần hồn như phiêu diêu cảnh non bồng, nước nhược, chợt văng vẳng có người lay gọi bên cạnh, liền mở mắt nhìn quanh và ngạc nhiên xiết bao, khi thấy quan Tri Phủ Nước Hai Vi Văn L., cùng đoàn tuỳ tùng đang sớn xác, lo sợ săn sóc bên mình.

SAU HAI ĐÊM TRẤN YỂM CON HOẢ
NƠI CHÔN BÙA PHÉP BỊ ĐÀO PHÁ TUNG TOÉ.
 Từ giữa lòng đất, bốc lên một luồng khói mờ ảo vô cùng kỳ dị.
 Thì ra quan phủ Nước Hai, dù bận công vụ phải về phủ, nhưng sau hai ngày nóng ruột quá, lại cùng đám gia nhân, cưỡi ngựa qua Ngòi Xảo, để xem kết quả việc trấn yểm của Thầy đồ Nghệ ra sao ?
 Không ngờ lúc đến nơi, vào nhà viên Chánh Tổng không thấy có ai, quan Phủ đoán là nhà phong thủy đã ra thăm mộ phần, nên vội giắt lính hầu đi thẳng đến tả ngạn sông Cả, vừa đúng lúc thầy địa lý ngã gục bên miệng hố.
 Nhà phong thủy vừa tỉnh dậy thấy quan phủ Vi Văn L. liền thuật sơ qua các việc đã xảy ra rồi chỉ tay xuống hố sâu, lúc ấy vẫn còn cuồn cuộn bốc khói lên ngùn ngụt sặc sụa mùi diêm tiêu muốn nghẹt thở rồi nói rằng :
 – Đây, quan lớn trông ! Tôi đã dùng phương pháp đặc biệt chế tạo những thứ thuốc tiêu thổ rất hiệu nghiệm, mà chính sư phụ tôi đã bí truyền riêng cho một mình tôi, trong đám đông cả mấy chục đệ tử.
 Theo đúng phép chế biến đó, thì nhà phong thủy, có thể, tùy theo địa hình, địa thế, những nơi đất mình muốn dùng để an táng hài cốt hoặc tạo thêm gò đống hay tiêu trừ bớt những mô hình nào, xét ra đã gây trở ngại cho sự kết phát của mộ phần.
 Tôi yên trí rằng sẽ được thành công một cách dễ dàng sau đêm bắt đầu làm lể trấn yểm với các thứ bùa chú cực kỳ linh ứng.
 Nào ngờ chỉ được có một ngày yên ổn, thì mới rồi, vào hồi canh khuya đêm qua, tôi bỗng lại nằm mộng thấy thổ thần vùng Ngòi Xảo hiện về báo cho biết họ Vi vì kém phước trạch, nên Thượng Đế nhất định không cho phép được diệt trừ con Hỏa.
 Đồng thời, thổ thần còn hiển linh phá hủy tất cả bùa phép và chai thuốc tiêu thổ.
 Vừa nói, lão vừa chỉ tay về phía những mảnh vụn chai lọ, bùa chú nằm ngổn ngang gần đây.
Sáng nay, vừa trở dậy, tôi lật đật ra ngay đây xem xét, thấy sự kỳ dị này liền niệm chú ngủ lời, bắt ấn yểm trừ lại.
 Không ngờ tà khí xung kích quá mạnh, khiến cho tôi xây xẩm mặt mày, ngã lăn xuống đất. Nếu không được quan lớn đến kịp, cứu chửa cho, thì không biết, sẽ còn bị nằm mê man đến bao giờ nữa ?
 Dứt lời, lão thở dài thườn thượt.
 Quan Tri Phủ Vi Văn L. tức giận, nói to như gắt gỏng :
 – Sao lại có sự lạ lùng ấy !
 Đã vậy, xin Tiên sinh lại thử chế thuốc và làm bùa khác đi, rồi đích thân tôi, sẽ tự tay đem chôn xuống đây biết đâu, tôi là mệnh quan của Triều đình, lại không được thổ thần kiêng nể sao ! Tà thắng sao được chính mà Tiên Sinh e ngại ?
 Thầy địa lý tuy không cho lời nói đó là phải, nhưng vì kính nể quan Phủ, không dám làm phật ý con người hiếu thắng ấy, nên đành phải miển cưỡng gật đầu.
 Cả bọn kéo nhau về nhà viên chánh Tổng nghĩ ngơi.
 Trong lúc chủ nhà hốt hoảng, chạy ngược, chạy suôi lo giết gà, giết heo để thết đãi thầy trò quan Tri Phủ Nước Hai, thì thầy đồ Nghệ đáp bè lên chợ Bắc Quang mua sắm các thứ cần dùng để làm lể trấn yểm lần thứ hai.
Quá ngọ ngày hôm sau, thầy đồ Ngệ mới về đến Ngòi Xảo, chỉ nghỉ ngơi một lát cho đở mệt, là bắt tay vào việc, đóng chặt cửa buồng nhỏ về phía trái bên Đông của ngôi nhà ngang, mà viên chánh tổng đã dành riêng cho nhà phong thủy, theo lời yêu cầu của lão.
 Thầy trò quan Phủ Vi văn L. kiên nhẩn ngồi chờ ở bên ngoài, không ai dám nói to, đi mạnh, sợ làm kinh động, gây trở ngại cho sự luyện bùa phép của Thầy địa lý.
 Trong thời gian này nhà phong thủy giử gìn trai giới rất cẩn thận, suốt ngày chỉ dùng trái cây và nước mưa những khi đói khát, không uống nước, không uống rượu, không uống thuốc, lại tắm gội sạch sẽ bằng nước lá thơm, rồi đúng giờ Tí đêm sau, mới cùng thầy trò quan Phủ lặng lẻ ra ngoài thung lủng, người nào cũng nhón bước, cố bước nhẹ nhàng để không gây một tiếng động nào khả dỉ làm xáo trộn bầu không khí âm u, lạnh lẻo, hiu quạnh, hoang vu miền sơn cước.
 Nền trời xám ngắt, sương khuya, gió đêm thổi vi vu từng cơn như cắt xé ruột gan da thịt, khiến đoàn người phải nghiến chặt hàm răng, co ro đi sát vào nhau, như muốn truyền sức nóng cho nhau để hy vọng làm giảm bớt phần nào nạn rét buốt !
 Xa xa, từng tiếng gầm rống lanh lảnh của loài dã thú, hòa cùng tiếng vỗ cánh phành phạch của những con đà điểu, càng tạo cho cảnh rừng núi thêm mang dại đến rợn người.
 Ra tới tả ngọn sông Cả, đoàn dạ hành đi tuốt đến gò đất : nơi con Hoả nằm án ngữ ngôi tổ mộ của họ Vi.
 Lòng hố sâu vẫn phun khói cuồn cuộn khét lẹt, sặc sụa mùi diêm tiêu khiến cho Vi Văn L. hắt hơi liên hồi, phải đứng lên phía trên chiều gió và dùng khăn tay bịt kín mồm mũi, trong lúc thầy Địa lý, đặt khăn gói xuống đất, thận trọng mở vuông vải, tay dò lấy ra chiếc tróc long với một bọc bùa chú, lể vật gói kín trong một vuông lụa bạch, mà ngoài thầy Địa lý ra, không hề một ai được biết bên trong chứa đựng những gì.
 Với dáng điệu cực kỳ, nghiêm trang, trịnh trọng, nhà phong thủy dùng quẹt đốt nhang hướng về bốn phương trời, vái lạy, lâm râm khấn vái, hú từng hơi dài trước khi cất tiếng trầm trầm đọc chú, đoạn bắt quyết hô thần, sai âm binh giúp sức diệt trừ con Hỏa.
 Làn khói xanh trong lòng hố sâu, phút chốc tắt ngấm. Những tiếng rì rào như nước chảy xiết ở dưới địa huyệt cũng im bặt !
 Mùi thuốc pháo khó ngửi cũng không còn bốc ra u uất như trước nữa.
 Thầy địa lý cả mừng.
 Xuyên qua ánh than đỏ rực của bó nhang đang ngùn ngụt cháy, quơ qua quơ lại theo những hình vẻ kỳ dị trên không trung, mọi người nhìn thoáng thấy nét mặt hớn hở, đắc ý của nhà phong thủy, rồi nhanh như cắt lão ngửa mặt lên trời thét to một tràng dài những tiến líu lo quái dị, đoạn vung bó nhang vừa đi, vừa khoán bùa quanh một khu vực chùng ngót một sào ruộng, ở ngay phía Đông Nam gò đất, cách cái hố trước chỉ độ năm trượng !
 Khoán xong, lão lại đốt giấy tiền và bùa chú, tung ra từng nắm gạo, đã được manh sẳn theo trong khăn gói mà thầy trò quan Phủ không một ai được biết trước.
 Ba lần làm phép, ba lần hô âm binh, tung gạo, đậu muối và vẫy một thứ nước thoang thoảng mùi trầm quế, đựng trong một cái lọ con rất xinh xắn, nhà phong thủy mới cầm bó nhang đang cháy dở vào đúng giữa khu đất lão vừa khoán bùa, sai một tên lính hầu của Quan Phủ dùng thuổng đào sâu chừng bảy thước, tròn như một cái giếng nhỏ. Thầy địa lý đốt bùa, giấy vàng, giấy tiền, rồi trải một lượt giấy tráng kim xuống đáy hố sâu, bắt quyết đúng bảy lượt, mới đặt gói bùa phép và các thứ lể vật, gói kín trong vuông lụa bạch, phủ lên trên bằng ba lớp gạo, đậu, muối, rồi lại đốt giấy tiền, bùa chú, bắt quyết an thần và rẩy nước phép, rồi mới sai lắp đất kín, san bằng như cũ.
 Xong suôi đâu đó, thì gà rừng vừa gáy rộ trong bản xa xa, báo hiệu trời sắp sáng.
 Nhà phong thủy, xoa hai tay vào nhau thở phào như đã trút hết được một gánh nặng trên vai vui vẻ nói với quan phủ Nước Hai :
 – Thôi thế là tạm yên ! Nếu không có gì trỡ ngại,, thì với kỷ thuật tôi vừa sử dụng, nội trong vòng bách nhật, con Hỏa này thế nào cũng phải tan biến hết !
 Bây giờ thì xin mời quan lớn hãy về nghỉ, kẻo trọn đêm đứng ngoài sương lạnh, tôi e quan lớn sẽ không chịu nổi những chướng khí lam sơn của miền núi rừng lạnh lẽo.
 Từ trên cành cây trước mặt, tiếng chim rừng chợt nổi lên thảnh thót : ” Bắc Quang, Bắc Mục, Hà Giang nước độc ! “
 Sương khuya mỗi lúc một dày thêm, lạnh thêm, làm cho quan Phủ Vi Văn L. không đợi cho nhà phong thủy phải thúc dục đến lần thứ hai, vội bảo nhau thu xếp đồ đạc thuổn, cuốc, lẳng lặng theo con cũ trở về nhà viên Chánh Tổng.
 Thấy mọi người có vẻ mỏi mệt vì phải thức trọn đêm vì sương gió lạnh lùng, chủ nhà vội lấy nước nóng mời quý khách rửa mặt, pha trà quan Phủ điểm tâm, rồi thu xếp giường chiếu để cho mọi người ngả lưng chốc lát cho lại sức.
 Nhưng chỉ mới đến giờ Thìn, đang lúc thầy địa lý say sưa trong giấc ngũ nặng nề, thì chợt thấy có người lay gọi…
 Lão vội mở choàng mắt ra, gấp gáp nhìn quanh, thì thấy một chú linh đồng, bộ hạ thân tín của viên Chánh Tổng hấp tấp nói rằng :
 – Thưa… Thưa Cụ , lạ lắm ! Có chuyện lạ lạ lắm nên nhà cháu mới dám làm kinh động cụ, xin cụ thứ tội cho. Số là nhà Cháu vừa ra ngoài rẩy, tình cờ đi qua đồi Tương chợt thấy ” ngôi mả quan ” (thổ dân vẫn quen gọi ngôi mộ của họ Vi là ” ngôi mả quan “- có mùi tanh hôi ghê ghớm, và quái dị hơn nữa, lại có một chút nước gì đỏ ngầu như máu tươi chảy dài từ ngôi mả tới cái gò đất ở đằng sau miếu sơn thần !…
 Thầy địa lý bất giác kêu thoát lên một tiếng thất thanh, mặt tái nhợt, lạnh toát người, cơ hồ muốn ngất lịm đi trước cái tin bất ngờ, quá đột ngột ấy !
 Lão thở dài lẩm bẩm :
 – Thôi thế là hết ! Uổng phí công lao vất vả, khổ tử, lao tâm suốt mấy ngày trời quên ăn, bỏ ngủ !
 Vừa nói, lão vừa uể oải nặng nhọc đứng lên, đi lần về phía sập gụ, nơi quan Tri Phủ Nước Hai đang thiêm thiếp giấc nồng.
 Quan Phủ như được linh tính báo động, vùng ngồi dậy, hốt hoảng hỏi vội:
 – Cái gì ? cái gì mà tiên sinh thất sắc thế hử ?
 Nhà phong thủy không muốn gieo mối thất vọng nảo nề cho vị quan phụ mẩu nên chợt úp mở trả lời :
 – Cũng chưa biết đích xác ra sao ? Lời chú linh đồng mơ hồ lắm, không thể nào tin được ? Vậy xin mời quan lớn sửa soạn ra bờ sông xem thử…
 Vi Văn L. không nói gì lẳng lặng sửa soạn y phục, rồi lên ngựa, đi cùng nhà phong thủy, không cần đem theo lính hầu như thường lệ.
 Còn cách xa ngôi mộ tới nửa dậm đường, hai người đã thoáng ngửi thấy một mùi hôi thúi dị kỳ, không giống một thứ un khí nào trong thiên hạ hết !
 Phân người hay phân muôn thú ? Xác người hay xác thú vật bị chết chương chết sình ?
 Đều không phải ! Mùi khó ngửi bốc ra nồng nặc mỗi lúc một nặng nề kỳ quái hơn, theo đà tiến của vó ngựa hai người…
 Không ai bảo ai, họ cùng rút khăn tay đưa lên bịt mũi, rồi giật cương phi nhanh…
 Đến nơi, họ buông cương, nhảy vội xuống đất không buồn nghĩ đến chuyện cột ngựa vào gốc cây, mà hấp tấp bước mau qua một gò đất nhỏ, đến bên ngôi mả cao, to như một trái đồi con…
 – Vừa đúng lúc bấy giờ chợt có tiếng răng răc trên lùm cổ thụ phía Tây Bắc, rồi một cành cây lớn đột nhiên gảy rớt xuống đất, mặc dầu trời không có mưa to gió lớn chi hết.
 Nhà phong thủy giật mình, đi quanh ngôi mả, bất ngờ lại thấy có vết đất bị cầy lên, giống như một luống cày nhỏ, mà kỳ dị hơn nửa, ở hai bên mả thứ cỏ tươi ngày thường vẫn mọc xanh rờn, lại héo hắt hẳn đi, in hệt quang cảnh điêu tàn sau một cơn hỏa hoạn vậy.
 Đồng thời, trên mặt đất cằn cổi đó, còn nhớp nhúa một chất nước nhày nhụa đỏ ngầu như máu tươi, chạy thẳng một vệt dài, ăn thông từ gò đất hình con Hỏa đến mộ phần.

Mùi hôi thúi chính do từ chất máu ấy phát ra.
 Nhìn kỷ vết máu, thầy địa lý sửng sốt, ngơ ngác một lúc lâu, rồi mới lầm bầm qua nét mặt tái nhợt, hải hùng :
 – Kỳ dị ! Đúng đây là dấu vết quái vật từ con Hỏa bò tới ngôi mả, tác hại, nên long mạch mới bị đứt, rớm máu ! Hừ, nguy hiểm thiệt !… Quan Phủ họ Vi vội hỏi :
 – Có chuyện gì mà Tiên sinh kinh nghi, lo sọ thế ?
 Nhà phong thủy nhìn quan Phủ, ngập ngừng mãi, rồi mới chậm rải trả lời :
 – Thấy các hiện tượng vừa xảy ra, tôi chợt nhớ tới lời ghi chú trong một cuốn cổ văn, khảo cứu về các kiểu đất. Tổ sư môn địa lý đã từng dạy rằng, khi nào có “quái vật xuất hiện bất thường, đoạn long, phạt mộc thị tai ương” , thì sớm muộn thế nào cũng sẽ có tin dữ đưa tới !
 – Không thế nào tránh khỏi.
 Quan Phủ có vẻ hoài nghi, hỏi lại :
 – Nhưng đoạn long, phạt mộc thì tôi được thấy, còn quái vật thì đâu ?
 Thầy đồ nghệ chỉ vào một vệt máu dài, giải thích :
 – Cứ như mùi uế khí với dấu vết còn ghi lại, thì nhất định từ hôm qua tới nay, phải có một loại quái vật, mà tôi ngỡ là giống “Kim Tâm cổ” một thứ độc trùng kỳ dị, xuất hiện bất ngờ, do con Hoả tạo ra, để tác hại cho gia đình quan lớn…Nếu lời cổ nhân dạy không sai lầm thì rồi đây, thế nào cũng phải có chuyện không hay …
 Quan Phủ Nước Hai không nói gì, buồn bả đi theo nhà phong thủy qua gò Con Hỏa.
 Gần đến nơi, mọi người cùng đứng khựng lại, vì trước mặt họ, những bùa chú, chai lọ, chỉ ngũ sắc, giấy vàng bạc mới được trấn yểm đêm trước, nay bị vứt tung toé, bừa bải khắp nơi, như có một bàn tay huyền bí quái ác nào vừa đào lên, đem liệng bỏ ở bên gò đất.
 Không hẹn, mà cả Vi Văn L. cùng thầy địa lý đều thở dài ngao ngán.
 Họ đang muốn sai người dọn dẹp các thứ cho gọn ghẻ, thì chợt thấy viên cai lệ Nước Hai, từ đằng xa phi ngựa tới, hốt hoảng đưa trình quan Phủ L. một tấm giấy xanh.
 Đó là bức điện tín của Vi Văn Định gửi cho Vi Văn L. báo tin về vụ người em út, đang làm kỷ sư ở Hải Phòng, không biết vì buồn phiền chuyện gì trong gia đình, đã dùng súng lục tự sát. Vì vậy, Định yêu cầu L. phải xuống ngay Hải Phòng để cùng Định lo liệu việc tống táng đứa em xấu số.

Vi Văn L. cầm bức điện tín, tay run bần bật, hai mắt đỏ hoe đẩm lệ, thẩn thờ nhìn quanh một vòng, rồi nắm tay thầy đồ Nghệ, nói qua giọng nghẹn ngào :
 – Thôi muôn việc đều không tránh khỏi số trời. Xin tiên sinh thu xếp về Nước Hai nghỉ ngơi, để tôi đi Hải Phòng lo liệu việc nhà.
 Việc trấn yểm con Hỏa không cần nữa.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *