Tử vi tọa thủ cung Mệnh – Toàn thư

      

      DUNG MẠO VÀ TÍNH CÁCH

      Người có sao Tử vi tọa thủ cung Mệnh thường có sắc mặt
mầu vàng tía, người to béo, tướng mạo hiền hậu điềm tĩnh, ánh mắt trong sáng.
Mệnh nam thì vai rộng lưng dày, rắn rỏi uy nghiêm; mệnh nữ thì đôn hậu thanh tú,
phúng phính đãy đà, khoan thai quý phái.

   
  Tính cách ngay chính ngay thẳng, trung hậu thật thà, bên ngoài cứng rắng bên
trong yếu mềm, có lòng tự trọng tự ái, tâm địa lương thiện, có lòng nhân hậu hay
nghĩ cho người khác, có khí chất tôn quý, có tính kiêu ngạo, thích phân minh rõ
ràng. Có tinh thần trách nhiệm, thích hư vinh, ưa thể diện, tự tin lại hiếu
thắng, giỏi biện luận, tâm địa khá hẹp hòi, thích chiếm hữu, đa nghi thiếu chủ
kiến, dễ làm việc theo cảm tính tùy theo mong muốn của bản thân, thường cảm thấy
tủi thân, dễ tự tìm đến phiền muội. Thông minh học rộng, năng lực quản lý tài
chính giỏi, có khả năng lãnh đạo. Làm việc chăm chỉ nhiệt tình, tính cầu toàn,
thích những điều mới mẻ.

   
  Nữ có sao Tử vi tọa thủ cung mệnh, ngoài có tiền đồ còn có dung mạo xinh đẹp,
da dẻ mịn màng, khí thái đoan trang,
được giáo dục tốt, là mẫu phụ nữ vợ
đảm mẹ hiền điển hình. Đại đa số đều có được người bạn đời có địa vị cao trong
xã hội, hưởng cuộc sống hạnh phúc về cả vật chất lẫn tinh thần. Nếu gặp Cát tinh
thì là người vợ giúp chồng, nuôi con giỏi. 

      SUY ĐOÁN MỆNH LÝ

     
Sao Tử vi tuy là Đế tọa phú quý, có khí thể độc
tôn, quyền uy cao ngất, là chúa tể của các sao nhưng khi tọa thủ tại cung Mệnh,
thì không nhất định là thể hiện phú quý vinh hoa, còn phải xem xét cát hung của
các sao trong cung và các cung bên cạnh, cung đối diện và cung tam hội với cung
này.

   
  Sao Tử vi không thích hợp tọa thủ một mình, tọa thủ một mình cũng giống như vị
vua đơn độc không có hiền thần phò tá, lại vì làm việc không có chủ kiến, thường
bó buộc trong vỏ bọc tôn quý, dễ bị gian thần tiểu nhân làm hại, dễ độc đoán
chuyên quyền, về tinh thần không tránh khỏi cô độc, nếu không biết biến thông
thì khó tránh khỏi gặp trở ngại tai ương.

   
  Người có sao Tử vi tọa thủ cung mệnh, thích được người khác tiếp thu ý kiến
của bản thân, thích ra lệnh, thường đưa ra kiến nghị cho người khác, nên dễ bị
hiềm khích. Do sao Tử vi có khuynh hướng duy trì địa vị tôn quý của mình, hy
vọng được người khác tôn trọng và thừa nhận. Vì vậy tính tình thường kiên định,
đòi hỏi cái tôi khá cao, làm bất cứ việc gì đều rất nghiêm túc, có khả năng cải
tiến đi lên, đồng thời lại mang tính cầu toàn, thích thể hiện mặt tốt đẹp của
bản thân ra ngoài; nhiều khả năng do nỗ lực sau này trong công việc thể hiện nổi
trội mà trở nên có quyền uy ở một phương diện nào đó. Sau khi thành danh, tất
tiếp tục khẳng định cái tôi, nếu chuyên về tri thức hoặc kỹ thuật đặc thù, lấy
hiện trạng đột phá, đồng thời biết tiếp thu ý kiến của bạn bè, duy trì bản năng
có lòng hiếu kỳ với bất kỳ sự việc nào, tất có vận may được hiển đạt lớn, nếu
không sẽ dễ đi theo khuynh hướng hư danh.

   
  Sao Tử vi hợp nhất đồng cung với 6 cát tinh phò tá, cũng hợp cát tinh như
Thiên phủ, Thiên tướng, Thái dương, Thái âm, Lộc tồn, Thiên mã, hoặc gặp được hỗ
trợ trong cùng một cung, như vậy mới có thể phát huy được uy lực chân chính của
đế tinh.

   
  Suy đoán cát hung của sao Tử vi tọa thủ tại cung mệnh cần phải đồng thời xem
xét Tam thai, nếu cung vị của sao Tử vi là Trung thai, thì trước nó một cung là
Thượng thai, sau nó một cung là Hạ thai. Các sao Tam thai đều là cát tinh của
miếu vượng thì mọi việc hanh thông. Nếu các sao của Tam thai đều là hung tinh
rơi vào thế hãm thì mọi việc không như

        Hỏa tinh thuộc dương Hỏa,
Linh tinh thuộc âm Hỏa. Cho nên có thuyết “Hỏa minh Linh ám”, có nghĩa là Hỏa
tinh mang lại điều không hay từ mặt chính diện, ngoài sáng; còn Linh tinh thì
ngầm mang lại tại hại, trong tối.

 

      Cũng do bản
chất này, nên khi Hỏa tinh và Kình dương đồng độ, thì chủ về “kích phát”, còn
khi Linh tinh và Đà la đồng độ, thì chủ về “trui
rèn”.

 

      Hễ Hỏa tinh
hoặc Linh tinh ở cung Mệnh, hoặc ở cung Phụ mẫu, chủ về khi còn bé, đã chia ly
với gia đình, hoặc là làm con thừa tự người khác.

 

      Hỏa tinh thủ
Mệnh, hoặc thủ cung Phụ mẫu, gặp các sao Phụ diệu Tá diệu không đủ “cặp đôi”
(sao lẻ), thì chủ về cha mẹ lưỡng trùng, có hai họ, hoặc cha mất
sớm.

 

      Hỏa tinh ưa
đồng độ với Tham lang, chủ về đời người tích cực tiến
thủ

 

      Tinh hệ Tử Sát
cũng ưa Hỏa tinh đồng độ ở một cung, gặp thêm Kình dương thì càng đẹp, cũng chủ
về tích cực tiến thủ, có điều không bằng Hỏa Tham hóa Lộc, đây là  cách có thể
phát lên một cách nhanh chóng (Tử vi tọa mệnh, đến cung hạn Thất sát, cũng chủ
về đột nhiên biến thành hanh thông, nhưng không bằng “Hỏa Tham” chủ về kiếm được
tiền).

 

      Hai kết cấu sao
thuật ở trên, không nên có Đà la đồng độ, nếu không sẽ biến thành “cách phá cục“, chủ về phá
hoại.

 

      Hỏa tinh bay
đến cung có tinh hệ ổn định (như Tử vi, “Tử Phủ”, Thiên phủ, Thiên lương,
.v.v…), có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, có thể khiến tinh hệ chính diệu
thiên về phát triển tính “cương”. Ví dụ như tinh hệ “Thái dương Thiên lương” chỉ
có tính chủ quan, thêm Hỏa tinh thì có tính ngoan
cố.

 

      Uy lực của Linh
tinh kém hơn Hỏa tinh, nhưng là âm hỏa nên Linh tinh chủ về kéo khá dài, vì vậy
mang đến tai nạn cũng có tính lâu dài. Ví dụ như Hỏa tinh phần nhiều mang đến
tính tổn thất vật chất chỉ thuộc loại không may nhất thời, còn đối với Linh
tinh, thì mang lại tai nạn thường kèm có đau khổ nội tâm, mệnh tạo rất khó
quên.

 

      Bốn sao Linh
tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về thất bại, mà
sự thất bại này, là do mệnh tạo tự chuốc lấy. Nếu có lưu Đà, lưu Xương cung khởi
nguyên cục “Linh Xương Đà Vũ”, thì tai họa càng kịch
liệt.

 

      Liêm trinh hóa
Kị có Kình dương đồng độ, lại gặp Linh tinh, gọi là cách “Hình tù hội Linh” chủ
về chết bất ngờ, hoặc chết về binh đao. Nguyên cục “Hình Tù hội Linh” lưu niên
có lưu Dương cung khởi, thì tai họa càng dữ dội, thường thường xảy ra trong kỳ
khắc ứng.

 

      Tinh hệ Liêm
Sát có Kình dương đồng độ, gặp Linh tinh, gọi là cách “Liêm Sát Dương Linh”, là
mệnh chết ngoài chiến trường.

 

      Linh tinh cũng
không ưa đồng độ với Phá quân, chủ về kinh doan làm ăn thất bại, nhưng thích hợp
với các nghề nghiệp có tính trắc trở như nha sỹ, bác sỹ, chuyên viên về trật đả,
làm nghề tháo dỡ, thợ sửa xe, sửa thuyền, .v.v…

 

      Hễ có Hỏa tinh
và Linh tinh giáp cung, cung bị giáp thường thường rất xấu. Như giáp cung Tài,
chủ về vất vả bôn ba mà tài khí rất kém. Hỏa Linh chia ra ở các cung Phúc đức và
cung Mệnh, chủ về cuộc đời nhiều sóng gió trắc trở. Hỏa Linh chia ra ở cung Mệnh
và cung Phu thê, phần nhiều cũng chủ về vợ chồng không êm ấm, đời người khó
thuận lợi toại ý.

 

      Các chính diệu
không ưa Hỏa Linh giáp cung là Thiên cơ, Thiên đồng, Cự môn, Thiên tướng, Thiên
lương, các chính diệu này cũng không ưa chúng đồng cung, dễ biến thành phá
cách
. Như tinh hệ Cự Cơ an mệnh tại cung Mão, Cự môn hóa Lộc, là “Cự Cơ đồng
lâm cách” chủ về phú quý, nếu có Hỏa Linh đồng độ thì chủ về no ấm mà không giầu
sang.

      Cung Phu thê gặp
Hỏa Linh, thì chủ về thành hôn trong tình cảnh bối rối vội
vàng.

      Hỏa Linh ở cung
Mệnh, chủ về trước thì “việc sắp thành lại
hỏng
“, trải qua nỗ lực mới chuyển thành “việc sắp hỏng thì lại thành“. Người theo võ
nghiệp gặp chúng thì chủ về lập được công trạng.

      Nữ mệnh gặp Hỏa
Linh, cổ nhân cho răng hiếp đáp chồng, khắc con, quan hệ nhân tế rất kém, tính
cách cương cường, nặng nhất là gặp Hỏa tinh, cổ nhân còn nói là “lòng lang dạ
sói”. Những luận đoán này cần phải xem xét tinh hệ chính diệu thủ cung Mệnh mới
định được. Không thể luận đoán theo cách nói của cổ nhân
được.

 

      Cung Phúc đức
gặp Hỏa Linh, phần nhiều nội tâm nóng nảy, nhưng vẫn có phân biệt. Hỏa tinh chủ
về tính “cương” (cứng rắn), Linh tinh chủ về tính “liệt” (dữ dội). Tính “cương”
thì phần nhiều nóng nảy, tính “liệt” thì không dùng lời nói nhưng dùng hành động
đọt ngột để phản kháng.

 

      Cho nên hai sao
tuy cùng tính cứng rắn, nhưng tính cứng rắn của Hỏa tinh mang tính chính diện,
bộc trực, còn tính cứng rắn của Linh tinh thì thâm trầm hơn.

   

      Hai sao Hỏa Linh rất ưa đồng độ với Tham lang, gọi là cách “Hỏa
Tham”, hay cách “Linh Tham”, chủ về phát lên một cách nhanh chóng, hoặc chủ về
lập đương công danh một cách nhanh chóng. Ngoài ra Hỏa Linh cũng ưa đồng độ với
hai chính diệu Tử vi và Thất sát, đối với Tử vi thì có thể hóa giải tính cứng
rắn của Hỏa Linh, đối với Thất sát thì có uy và có thể nhiếp phục Hỏa Linh. Cho
nên nếu so sánh, thì mệnh cục Tử vi có Hỏa tinh đồng độ sẽ ít sóng gió trắc trở
hơn mệnh cục Thất sát có Hỏa tinh đồng độ.

   

      Cự môn là
“ám tinh”, rất kị gặp Hỏa tinh và Linh tinh, bởi vì Hỏa Linh không đủ sức làm
sáng Cự môn, mà “ám” của Cự môn thì đủ để làm u ám Hỏa Linh. Nếu Cự môn đồng độ
với Hỏa tinh hoặc Linh tinh, thì chủ về người dễ xung động, mà còn nhiều thị
phi.

 

      Hỏa tinh và Linh tinh cũng không ưa Liêm trinh, vì
Liêm trinh là âm hỏa, các sao Hỏa cùng tụ tập một cung, gặp Thất sát và Kình
dương sẽ chủ về xảy ra bất chắc.

 

      Cổ nhân có lập hai
cách cục liên quan đến Hỏa Linh, một là “Hỏa Linh giáp mệnh cách”, hai là “Linh
Xương Đà Vũ cách”.

 

      Cổ nhân nói: “Hỏa Linh giáp mệnh là
bại cục”, trong Đẩu Số, hễ bị một cặp sát tinh giáp cung, nhất định sẽ có khuyết
điểm, như Kình Đà giáp cung, Không Kiếp giáp cung, và Hỏa Linh giáp cung. Cung
bị Hỏa Linh giáp cung sẽ có khuyết điểm gì, thì phải xem tinh hệ bị giáp cung mà
định, thông thường, sẽ khiến đời người bị giảm sắc.

   

     
Xuất thân như nhau, cùng học như nhau, thậm chí cùng làm việc trong một cơ cấu,
đến sau trung niên, thì lại một thăng một trầm, có thể là vì bị “Hỏa Linh giáp
mệnh cách” mà chính diệu của cung mệnh lại vô lực. Đây là căn cứ quan trọng, cần
phải xét chính diệu có lực hay vô lực.

   

      Nếu bị giáp
cung là tinh hệ có lực, như “Vũ khúc Thất sát”, “Vũ khúc Thiên phủ”, “Liêm trinh
Thất sát”, “Tử vi Thất sát”, sẽ chủ về mệnh tạo vẫn có thể phát dương quang đại,
bất quá chỉ phải trải qua gian khổ mà thôi.

   

      Nhưng nếu
cung vị bị Hỏa Linh giáp cung lại có Kình dương, thì lúc luận đoán phải cực kỳ
thận trọng. Kình dương có thể biến thành “thiện” mà cũng có thể biến thành “ác”,
không thể luận chung chung được.. Lúc này phải quan sát các sao hội hợp ở tam
phương tứ chính mà định tính chất của nó.

 

      Còn cách
“Linh Xương Đà Vũ” là an mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà tam phương tứ chính
lại hội tụ 4 sao Lịnh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc, cổ nhân nói: “Linh Xương
Đà Vũ, hạn đến thì nhảy sông”, chủ về có tai nạn sông nước. Đây là do cổ nhân
chứng nghiệm được nên đưa ra kết luận này. Vương Đình chi cho rằng, cũng có thể
xem là điềm báo tai nạn thông thường, nhất là về giao
thông.

 

      Cần lưu ý, nếu nguyên cục có Vũ khúc và Linh
tinh hội chiếu (Hỏa tinh thì không phải), trong đại hạn hoặc lưu niên, cần phải
có lưu Xương, lưu Đà hội hợp. Bởi vì “Linh Xương Đà Vũ cách” cũng bao gồm cả lưu
Xương lưu Đà, vốn dĩ đã có Đà la Văn Xương, lại bay vào lưu Đà hoặc lưu Xương,
xung khởi Đà la, Văn xương, thì tai họa sẽ xảy ra, năm đó cần phải cản thận giữ
gìn sức khỏe, đồng thời đề phòng tai nạn sông nước và tai nạn giao
thông.

       Hỏa tinh ưa các sao Cát, ưa người sinh ở hướng
Đông và hướng Nam, ưa người sinh vào các năm Dần Mão Tị Ngọ Tuât

     
Hỏa tinh ưa ở các cung Dần – Ngọ – Tuất

      Hỏa tinh kị các sao Hung,
kị ở các cung Thân – Tý – Thìn

      Hỏa tinh là Cát thì chủ về phát tài
năng hơn người, Hung thì chủ về gặp nhiều tai ách.

      Linh
tinh ưa và kị giống Hỏa tinh

      Linh tinh là Cát thì chủ về ngầm phát
phúc, là Hung thì chủ về ngầm bị xâm hại.

 

      Khẩu quyết
an Hỏa tinh và Linh tinh

      An Hỏa tinh và Linh tinh,
căn cứ chi của năm sinh để khởi giờ Tý

 

      Thân Tý Thìn
nhân Dần Tuất dương

      Dần Ngọ Tuất nhân Sửu Mão phương

     
Tị Dậu Sửu nhân Mão Tuất vị

      Hợi Mão Mùi nhân Dậu Tuất phòng

       Văn xương hóa thành sao Kị, ý nghĩa trực
tiếp nhất là “sai lầm về văn thư”, cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn
thư, .v.v … đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền
phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là “chữ nghĩa gây ra rối ren,
phiền phức”.

       Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền,
nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến
thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa
Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người
khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị
thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra.
Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm
mà bị tổn thất.

       Văn xương hóa Kị, lạc hãm
thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu
trưng cho là “mau quên”, có lúc lại biểu trưng cho “có tài mà không gặp cơ hội,
học mà không dùng”, Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho “bỏ học nửa
trừng”.

       Văn xương thích hợp làm công việc
quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không
được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị
quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về “lốm đốm”, cho nên
biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu
mùa. 


      Trên là những ý vị phổ biến và khái quát
của Văn Xương hóa Kị, cần phải xem xét các sao hội hợp thực tế mà định tính chất
cụ thể.
      Vũ khúc là sao “tiền tài”, lúc hóa thành
sao Kị sẽ biểu trưng cho tình trạng xoay chuyển tiền bạc khó khăn, hoặc vì người
khác mà phải ngưng dừng nửa chừng, có lúc vì hoàn cảnh khách quan thúc đẩy mà
phải mở rộng việc kinh thương buôn bán đến nỗi không khái toán và dự toán được,
khiến tiền bạc tổn thất. Đây là ý nghĩa cơ bản của Vũ Khúc hóa
Kị.

      Vì vậy có lúc cũng chủ về bệnh tật dây dưa kéo
dài, hoặc tiến hành một sự kiện nào đó vượt quá dự liệu, do đó ảnh hưởng đến
tình hình chi tiêu. Ví dụ như Vũ Khúc hóa Kị ở cung Điền Trạch đồng độ với Tham
Lang, chủ về vì sửa sang nhà cửa vượt ngoài dự toán ban đầu, để hoàn thiện thì
phải cố thu xếp, dẫn đến tiền bạc trống rỗng.

      Vũ Khúc
chủ về “quyết đoán”, sau khi Hóa Kị nhuyễn hóa thành “quyết liệt”, có nghĩa là
khi phải giải quyết vấn đề rắc rối phức tạp thì thường quá cứng rắn, nên dễ bị
trắc trở. Tinh hình như vậy rất dễ xuất hiện trong vấn đề tình cảm, cho nên hôn
nhân trở nên bất lợi. Cổ nhân cho rằng đây là tinh hệ “không có lạc thú phòng
the”, ở thời hiện đại đây là điềm tượng hôn nhân đổ
vỡ.

      Vũ Khúc hóa Kị cũng bất lợi về sức khỏe, chủ về
phẫu thuật. Lúc hội hợp các sao không tốt, thì chủ về khối u, phù thũng. Khi hội
hợp với Tạp diệu chủ về các bệnh có tính hao tổn, nếu còn gặp thêm các sao Sát –
Hình, có lúc biểu trưng cho bệnh ung thư.

      Do Vũ Khúc
hóa Kị có đặc tính “quyết đoán”, do đó còn có thể biểu trưng cho rụng răng, đau
răng.

      Nói chung Vũ Khúc hóa Kị ở 12 cung đều có ý vị
không cát tường.

      “Vũ
khúc Thiên phủ” đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Vũ khúc hóa Kị thì Thiên phủ
ắt sẽ hóa Khoa. Tham khảo mục Thiên phủ – can Nhâm hóa
Khoa.

      “Vũ khúc Tham
lang” đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì gặp Lộc tồn), mà Vũ Khúc
hóa Kị, tam phương hội hợp với “Liêm trinh Phá quân” và “Tử vi Thất sát” mà Tử
vi hóa Quyền.

      Tinh hệ này thường chủ về lý tưởng quá
cao mà “lực bất tòng tâm” (bao gồm cả năng lực tài chính), vì vậy mà xảy ra thất
bại. Cho nên có lúc cũng chủ về việc sắp thành lại
hỏng.

      Nếu có các sao đào hoa đồng độ, thì nên theo
ngành nghệ thuật biểu diễn, giải trí, vui chơi, thì lại có thể phát huy. Nếu có
Sát tinh đồng độ, thì thích hợp với ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật. Việc
theo những ngành nghề này, còn có thể hóa giải đặc tính xấu của Vũ Khúc hóa Kị,
nhưng vẫn khó tránh gặp phải rắc rối về tinh cảm.

      Nếu
có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về sau khi phát lên một cách đột ngột sẽ dễ
bị suy sụp nhanh chóng. Cần phải xem xét các sao Lưu niên để tìm cách “xu cát tị
hung”.

      “Vũ khúc Thiên
tướng” đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Vũ Khúc hóa Kị, đối cung là Phá quân,
tam phương là “Liêm trinh Thiên phủ” mà Thiên phủ hóa Khoa, lại hội Tử vi hóa
Quyền. Tinh hệ này “tam phương tứ chính” đều hội Sát
tinh.

      Tinh hệ này có hai điểm bất lợi: Một là, hôn
nhân dễ sóng gió, trắc trở trọng đại; Hai là, ưa hợp tác với người khác để sáng
lập sự nghiệp, nhưng thường vì nóng lòng muốn mau thành, mà bị tổn thất, thất
bại.

      Đạo “xu cát tị hung” là kết hôn muộn, rất nên
thận trọng trong việc lựa trọn bạn đời. Phải suy tính kỹ lưỡng kế hoạch hợp tác,
và định rõ các điều kiện hợp tác một cách tỷ mỹ mới có thể tiến
hành.

      Đại khái là, tinh hệ này không nên hợp tác kinh
doanh, trái lại có thể nên một mình đảm trách công việc, nguy cơ thất bại cũng
nhỏ hơn.

      “Vũ khúc
Thất sát” đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Mão có thể gặp Lộc tồn), đối
nhau với Thiên Phủ hóa Khoa, tam phương hội với “Liêm trinh Tham lang” và “Tử vi
Phá quân” mà Tử vi hóa Quyền.

      Tính chất cơ bản của
tinh hệ này là “cô độc và hình khắc”, cho nên không thích hợp với nữ mệnh, chồng
và con đều dễ ly tán. Cổ nhân cho rằng nên làm nhị phòng hay kế thất, thời hiện
đại chủ về không có hôn lễ chính thức.

      Đời người
thường gặp sóng gió lớn, đây cũng là đực điểm của tinh hệ này, cho nên mưu sự
thường rất hao tổn sức lực, tinh thần bị áp lực rất nặng. Ở cung Mão thì đỡ
hơn.

      Nhiều lực để thư giãn, giảm áp lực, lại chủ về
thích tiêu sài, nữ mệnh thì càng nặng. Nếu có Phỉ Liêm đồng độ, thì mua sắp
cuồng nhiệt, nhưng mua rồi lại thường không dùng tới.

      Vũ Khúc độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Tham
Lang, tam phương hội hợp với “Liêm trinh Thiên tướng”, và “Tử vi Thiên phủ” mà
Tử vi hóa Quyền và Thiên Phủ hóa Khoa. Ở cung Thìn thì bị Kình dương Đà la hội
chiếu, ơ cung Tuất thì đồng độ với Đà la.

      Thìn và
Tuất là “Thiên la Địa võng”, Vũ Khúc hóa Kị ở đây dễ biến thành suy nghĩ nông
cạn. Thường hay nóng lòng muốn đột phá, nhưng khi xử lý sự vụ lại gây thêm phản
ứng ngược, dẫn đến tình hình càng thêm rắc rối khó khăn và phiền
thức.

      Tinh hệ này còn chủ về khi bị trắc trở thì lại
thường có phải ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do đó dễ biến thành
thất chí.

      Thích lãng phí cũng là khuyết điểm của tinh
hệ này. Thường thường tổn hao tiền vì bạn bè, mà thường không thấy được báo
đáp.

      Cũng chủ về hai lần kết hôn, nên kết hôn muôn,
nhất là nữ mệnh.

     

      “Vũ khúc
Phá quân” đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn
đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với “Liêm
trinh Thất sát” và “Tử vi Tham lang” mà Tử vi hóa Quyền.

 
    Tổ hợp các sao cơ bản đã có tính chất đổ vỡ và trắc trở, nhất là khi hợp tác
với người khác sẽ có kết cục xấu.

      Vũ Khúc hóa Kị ở
cung Hợi, thì Kinh dương và Đà la sẽ giáp cung, thành cách “Kình Đà giáp Kị”,
tình hình sẽ xấu hơn ở cung Tị. Ngoài việc không nên hợp tác với người khác, còn
chủ về cuộc đời phần nhiều đều bị kinh tế áp lực, hễ có hành động thì liền bị
kinh tế giới hạn, khiến không thể đạt được lý tưởng. Nếu có thêm Hỏa tinh Linh
tinh đồng độ, thì đây là hiện tượng sụp đổ, thường thường việc sắp thành lại
hỏng. Gặp Thiên nguyệt, Thiên hư, Âm sát, thì chủ về cơ thể suy nhược, bệnh
hoạn.

      Hễ Vũ Khúc hóa Kị, thì Tử vi trong nhóm “Tử vi
Tham lang” ắt sẽ hóa Quyền, vì vậy tình hình khó khăn kinh tế thường do ham muốn
quyền lực gây ra, biểu hiện ở khuynh hướng “lực bất tòng tâm” và khuynh hướng
lãng phí.

      Vũ khúc hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, nam
mệnh bất lợi về hôn nhân, chủ về vợ lộng quyền.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *