TRUY TÌM VỀ MỘT GIAI THOẠI ĐẶT MỘ . BÀI 3

BÁC HỒ VÀ VI VĂN ĐỊNH .

Posted Image

Posted Image

CHA CỤ VI VĂN ĐỊNH VÀ CỤ ĐỊNH LÚC 13 TUỔI
.



Posted Image

CÁC CON GÁI
CỤ VI VĂN ĐỊNH

Posted Image

TẤM PHẢ HỆ
HỌ VI BẰNG ĐỒNG NẠM BẠC RẤT ĐẸP , BỊ NGƯỜI DÂN Ở ĐÂY LẤY LÀM NẮP CHUM . Lần này
, dienbatn cùng con cháu họ Vi mới lấy về được và rất nhiều nước mắt đã rơi
.

Posted Image 


ƯỚC VỌNG CỦA DÒNG HỌ VI HIỆN NAY .” Chúng tôi gồm đại diện các hậu duệ của dòng họ Vi , dân
tộc Tày tại Bản Chu , xã Khuất xá , Huyện Lộc bình , Tỉnh lạng sơn , xin trình
bày với … như sau .

Theo Gia phả của họ Vi , cũng như trong Địa chí
của Tỉnh Lạng sơn , do NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1999 , và theo tư
liệu sưu tầm và dịch từ bản chữ Hán của nhà Dân tộc học Lã Văn Lô ( Viện dân tộc
học Việt Nam ) , họ Vi là một trong 7 dòng họ lớn ở Lạng sơn . Cụ Thủy Tổ là VI
KIM THẮNG ( ở Nghệ an ) , đem quân theo Vua LÊ THÁI TỔ khởi nghĩa ở vùng Lam sơn
, góp phần đánh đuổi quân Minh . Giặc bình xong , khi luận công , ông được liệt
vào hàng Khai Quốc Công Thần , được phong chức trụ Quốc tước thảo lễ Đô đốc Mật
Quận công , được dự vào việc khu cơ . Năm 1431 , Vua sai con trưởng của ông là
VI PHÚC HÂN giữ chức đồng tri Hoàn Quận công , cầm một đạo quân đông tới ba vạn
người và voi lên Lạng sơn tiễu phỉ , chiêu dân ( lúc đó dân siêu tán để tránh
loạn lạc ) . Ông kiêm cai quản xứ Quảng yên , sau trấn thủ biên thùy , triều
đình cho lấy châu Lộc bình làm quê quán , đời đời làm Phiên Thần không cho về
quê nữa . ” Chế độ Thổ Ty hay chế độ thế tập phiên thần là chính sách cai trị
chính của triều đại Phong kiến Việt nam ở các dân tộc vùng thiểu số , chủ yếu ở
vùng Tày , Nùng là địa bàn chống xâm lăng của Phong kiến phương Bắc dưới nhiều
triều đại . Triều đình phải phong những công thần hoặc con cháu của họ , cho
phép họ lấy vài thôn hay vài xã làm Thái ấp , đời đời kế tục cai trị địa phương
. Những lưu quan ấy và con cháu của họ trở thành một thứ Quý tộc của địa phương
, thường gọi là 7 họ Phiên thần hay Thất tộc Thổ Ty . Họ dần dần đồng hóa với
người Tày . các Phiên Thần hay Thổ ty rất mực trung thành với triều đình , làm
nhiệm vụ chiêu dân lập ấp , cai trị nhân dân , trấn thủ biên thùy và khi có giặc
thì đem quân bản bộ đến giúp triều đình đánh giặc ” .

Và từ đó dòng họ
Vi làm Thổ ty và tồn tại 13 Thế hệ tại Lộc bình , Lạng sơn . Ban đầu dòng họ Vi
tại Lộc bình lập Thái ấp tại Dinh Chùa ( Xã Tú đoạn ) . Đến đời Khuê Quận công
VI PHÚC VĨNH ( Đời thứ 8 ) , mới dời chỗ đến chân núi Lộc Mã ( nay là bản Chu ,
xã Khuất xá , Huyện Lộc bình ) . ” Nguyên xứ này sông núi quanh co , đất từ dãy
núi Côn sơn , Mẫu sơn chạy sang , hai sông gặp nhau thật là một thắng cảnh của
cả lạng sơn , không riêng chỉ là nơi núi non hùng vĩ của một khu …Nguồn gốc ,
gia thế bảy họ Thổ ty thì họ Vi là dòng họ trâm anh hơn cả . Trải qua 22 đời nhờ
ơn nước , các đời nối tiếp nhau cai quản quân dân làm đến Khanh , Tướng …giữ
chức kiêm cai quản Tỉnh đến sông Bồ Đề , uy trấn biên thùy , tiếng vọng trong
Nam ngoài bắc , được Triều đình ban thưởng Huân công , công lao bậc nhất , cấp
thêm cho hai Huyện trung châu làm ngụ lộc ( tức là để thu thêm thuế má nuôi quân
) , Tướng bày tôi được ân vinh đến thế là tột bậc ” .

Đó là các tư liệu
về nghiên cứu mối quan hệ khăng khít về Lịch sử và Văn hóa vốn có giữa các thành
phần dân tộc trong Đại gia đình Tổ quốc Việt Nam , trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước . Hiện nay họ Vi ở bản Chu đã phát triển đến Thế hệ thứ 17 . Hiện tại
họ Vi chúng tôi còn tồn tại hệ thống mồ mả Tổ tiên nhiều đời tại Khau loáng, Nậm
nè , Nà Khưa , Phiêng Phai và một số di tích khu thờ Họ đã bị tàn phá nghiêm
trọng sau chiến tranh biên giới 1979 tại bản Chu . Hiện tại khu đất của nhà thờ
họ đã có một số hộ dân vào làm nhà ở và Xã đã xây dựng nhà trẻ tại đây , nhưng
phần lớn còn để hoang hóa chưa sử dụng . Do trải qua 3 cuộc Chiến tranh kéo dài
, chúng tôi không có điều kiện về quê sinh sống và trông nom mồ mả , bảo quản
Nhà Thờ Dòng Họ tại Bản Chu . Từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 90 , hàng
năm chúng tôi đều về quê để trông nom tu tạo mồ mả của Tổ tiên và đã có những
mối quan hệ gắn bó với Chính quyền địa phương và nhân dân Bản Chu . Nhưng khi về
đến quê hương , chúng tôi không còn Nhà Thờ Họ để thắp nén hương tưởng nhớ đến
Tổ tiên theo truyền thống đời đời của dân tộc Việt nam ta .

Với những tư
liệu về Văn hóa , Lịch sử của 7 họ Thổ ty tại Lạng sơn , cũng như của riêng dòng
họ Vi chúng tôi đã nêu , thì khu đất của Thái ấp họ Vi tại Bản Chu là mảnh đất
vô cùng linh thiêng đối với hậu duệ họ Vi chúng tôi , đồng thời cũng là chứng
tích Lịch sử về Trấn ải biên thùy của nhân dân địa phương bao nhiêu đời nay ,
tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ gìn giữ , bảo tồn . Chính vì vậy chúng tôi đề
nghị …xem xét phần đất còn lại trong khu Thái ấp họ Vi cũ , để giao lại cho
con cháu họ Vi có nguồn gốc tại Bản Chu , xây dựng nhà thờ họ Vi , để chúng tôi
có nơi thắp nén hương thờ cúng Tổ tiên và xin Tổ tiên cho phép con cháu họ Vi
cùng nhân dân xã Khuất xá được tiến hành sửa chữa , bảo tồn khu di tích một thời
là Thái ấp của họ Vi tại Bản Chu . Với mục đích lưu giữ lại một trong những di
tích Lịch sử , Văn hóa tại tỉnh nhà …..

THAY MẶT GIA TỘC HỌ VI TẠI BẢN
CHU

TRƯỞNG BAN ĐẠI DIỆN .

VI VĂN ĐÀI .

Lời kết : Mong
muốn của dòng họ Vi là hoàn toàn chính đáng . Người viết xin ghi lại và mong
được sự trợ giúp của các cấp Chính quyền địa phương , nhằm bảo tồn một khu di
tích Lịch sử – Văn hóa có một không hai của Thành phố Lạng sơn .

Khoau
loáng cuối năm Bính Tuất – 2006 – dienbatn . 


TRUY
TÌM HUYỀN THOẠI THỨ HAI : MẢ TÁNG TREO .



MẢ TÁNG TREO

Từ Lương Đường đến Lương Ngọc” Nhật Nguyệt Linh Khí tụ,

” Ngũ Phụng triều dương
lai,

” Thập Bát Tiến Sĩ, Tam Tể Tướng,

” Tử Tôn vinh hiển, mãn
cân đai.”của Quán Trung Lang

Đồng bào Bắc Việt nói
chung và bà con tỉnh Đông nói riêng, hẳn không mấy ai không biết, hay nghe nói
đến một lần, về ngôi mả Vũ Hồn, một ngôi mả mà hài cốt không chôn sâu dưới ba
thước đất như vạn, triệu mộ phần khác, mà lại được táng treo theo một phương
pháp rất quái dị, thuộc địa phận làng Lương Đường.

Làng Lương
Đường ở phủ Bình Giang tỉnh Hải Dương, vốn là một đất Văn học, từng là nơi chôn
nhau cắt rún của nhiều vị danh sĩ, mà sự nghiệp về văn chương đã thành bất tử,
như ông Phạm Quý Thích ngày xưa và Phạm Quỳnh gần đây.

Theo lời
các vị bô lão thuật lại thì hình như sau một nạn lụt nặng nề, hai chữ Lương
Đường, đã được đổi lại là Lương Ngọc.

Điểm đặc biệt đáng lưu ý
là dân cư làng này mỗi khi di cư đến lập nghiệp ở đâu, phần nhiều đều thành lập
được một làng Lương Ngọc phụ, quy tụ những bà con thân thích, có xây dựng đình
riêng để thờ vọng thần hoàng, như ở Hà Nội có đình Lương Ngọc tọa lạc tại phố
Hàng Bông (ngoài cửa cho một tiệm bazar mướn), ở Bắc Ninh cũng có một làng Lương
Ngọc nữa…

Những làng Lương Ngọc phụ, hết thảy đều được tổ
chức như ở xã chính : cũng có hội đồng Hương Chính, cũng có ngôi thứ chốn đình
trung để hàng năm cứ đến ngày hội hè, cúng lể ở xã chính, các nơi phụ, cũng cử
hành cuộc tế lể rất trọng thể, rồi cử một phái đoàn về tham dự cuộc tế lể ở xã
chính tại tỉnh Hải Dương.

Trước hiệp định Giơ-neo, ngôi mả táng
treo vẫn còn nguyên vẹn chiếm một khu vực khá rộng, cây cối um tùm, dây leo
chằng chịt, trông xa giống hệt một khu rừng nhỏ.

Vẫn theo lời
truyền tụng của những ông già bà cả sở tại mà giai thoại từng được phổ biến sâu
rộng, hầu như một câu chuyện thần kỳ, làm đầu đề sôi nổi, lý thú trong những lúc
trà dư tửu hậu của mọi người, thì kiểu đất có ngôi mộ táng treo là kiểu đất Ngũ
Phụng triều Dương, do một thầy địa lý chính tông từ Trung Quốc qua đây tìm được,
định dùng để an táng hài cốt tổ phụ, nhưng vì nhiều lẽ huyền bí, dị kỳ, nhà
phong thủy tàu không làm chủ được ngôi đất quý, buộc lòng phải nhường lại nơi
quý địa cho Vũ Hồn, hy vọng được “ăn có” với họ Vũ một phần nào sự phước trạch
kết phát.

Tất cả những sự bí ẩn của ngôi mả táng treo, đều tóm
tắt trong mấy câu tổng kết của nhà Phong thủy Trung Hoa, lưu lại cho gia đình họ
Vũ, trước khi lão đem một đứa con họ Vũ về Tàu :

” Nhật Nguyệt
linh khí tụ,

” Ngũ Phụng triều dương lai,

” Thập Bát Tiến Sĩ,
Tam Tể Tướng,

” Tử Tôn vinh hiển, mãn cân đai. !”

Những
lời tổng kết trên, còn được ghi rõ trong cuốn gia phả của dòng họ Vũ Hồn (chỉ có
con cháu thuộc về dòng họ chính của Vũ Hồn, mới có gia phả ghi chú rõ ràng sự
linh ứng của ngôi mả táng treo, các ngành họ Vũ khác, mặc dầu vẫn có liên hệ với
ngành Vũ Hồn nhưng không được biên chép đầy đủ.)

LONG MẠCH TỪ DÃY THẬP
VẠN ĐẠI SƠN…

Một người Trung Hoa họ Vương, nguyên quán tại tỉnh Triết
Giang, được thụ hưởng một nền học vấn chân truyền về môn phong thủy, vì ông cha
y từng đặc biệt nghiên cứu khoa học thần bí ấy từ ba đời
trước.

Nghe đồn ở miền Thập Vạn Đại Sơn có nhiều kiểu đất đế
vương hay phát công hầu, khanh tướng, họ Vương liền thu xếp hành trang mạo hiểm
đi đến tận nơi, lang thang suốt một năm trời ròng rả, vất vả, gian lao, nhiều
lúc tưởng như nguy hiểm tới tính mạng, mới tìm được một ” tổ sơn ” rất quý : chỗ
phát sinh một long mạch, mà nếu đo kiêm được chính huyệt, nhất định sẽ nắm được
sự kết phát trong tay.

Lần theo sự vận hành, di chuyển của mạch đất, họ
Vương đến phủ Bình Giang, tỉnh Đông vào một ngày cuối mùa thu về đời vua Trần
Nhân Tôn.

Thấy long mạch vận chuyển đến phương Nam, rồi kết tụ
ở vùng Lương Đường, họ Vương mừng rỡ như người sắp chết đuối bỗng vớ được mảnh
gổ trôi giữa dòng sông, vội đi tìm chỗ tạm trú, ý muốn ở lại lâu ngày, để dò tìm
kiếm cho ra chính huyệt, vì tuy biết long mạch kết tụ ở đất Lương Đường, nhưng
cả một vùng đồng ruộng, gò, đống mênh mông, bát ngát, mà mới chỉ quan sát sơ
qua, họ Vương biết sao được huyệt chính ở chỗ nào, mặc dầu y là nhà phong thủy
chính tông rất tinh thông về môn địa lý ?

Vốn là người học
thức, lanh lợi, bặt thiệp, họ Vương mua sắm ít lể vật, tìm vào chỗ mấy bô lão,
hương chức trong làng, để ngỏ ý muốn xin ở lại đất này để sinh cơ lập
nghiệp.

Các quan chức dịch, chức sắc sở tại vui vẻ chấp thuận
ngay lời yêu cầu của chú khách.

Một ông cựu phó Tổng còn tỏ ý
sốt sắng hứa cho họ Vương ở nhờ thửa đất còn thừa ngay tại phía sau nhà ông ta,
chỉ cách ngôi chợ trong làng có ít bước, rất tiện lợi cho sự đi lại, buôn
bán.

Họ Vương chỉ cần tốn ít tiền, mua tre, nứa, làm sơ sài một
căn nhà lá, là đã có thể ở tạm được, để lấy chỗ buôn bán, sinh sống hàng ngày
rất dễ dàng.

Họ vương hớn hở, ưng thuận liền, hai ba lần cảm tạ
ông phó tổng, rồi sau đấy, lại đưa ngay tiền nhờ ông phó tổng lo liệu giúp việc
đắp nền, làm nhà, viện cớ : y lạ lùng, bở ngở, ông phó tổng đã thương thì xin
thương cho trọn vẹn, mai sau, nếu có cơ ăn nên làm ra, y sẽ không dám quên công
ơn trời biển ấy.

Đồng tiền đã có sức vạn năng
!

Chỉ ba hôm sau, trên nền đất của ông phó Tổng cựu, đã mọc lên
một căn nhà tuy nhỏ hẹp, nhưng xinh xắn, gọn gàng.

Và, đến
phiên chợ sau, căn nhà đó, lại biến thành tiệm thuốc bắc Quảng An Đường, do họ
Vương làm chủ.

Nhờ đức tính cần mẩn, siêng năng, học vấn uyên bác, thầy
lang họ Vương, chẳng mấy chốc đã mua chuộc được cảm tình của dân cư sở tại, và
luôn cả bà con mấy làng tổng kế cận.

Nhất là từ khi, nhờ thuốc
của ” Chú Chệt gầy”, một số người mắc chứng nan trị, hay vào loại thập tử nhất
sinh, được chửa khỏi, thì họ Vương đã nghiểm nhiên là một danh y, nổi tiếng như
cồn ở khắp phố Bình Giang.

Nhưng có điều lạ, là thấy lang chỉ tiếp các
con bệnh từ sáng sớm cho đến tối mịt, còn từ lúc đỏ đèn trở đi, thì dù con bệnh
có khẩn cầu, nài ép đến đâu, thầy lang cũng đóng chặt cửa, không chịu đi mà cũng
chẳng chịu mở cửa bao giờ !

Lúc đầu, nhiều người bất bình trước
thái độ mà họ cho là kiêu căng, cậy mình ” mát tay”, được “thánh cho ăn lộc” lại
lên mặt hợm hỉnh, cố tình làm khó dễ con bệnh.

Có người đa nghi
hơn, còn cho sự bế môn, trục khách ấy, hẳn đã bao hàm một hành động gì bí mật
khả nghi.

Nhưng lâu dần rồi cũng quen, không ai còn bàn ra tán
vào, thì thầm, dị nghị nữa, mà người nọ còn bảo cho người kia biết rõ ràng về
giờ khắc “Chú chệt gầy” bốc thuốc, chẩn mạch, để người nhà hay các bệnh nhân ở
xa khỏi phải tốn công đi lại, chầu chực, đợi chờ vô ích. !

Dân
cư quanh vùng, không một ai ngờ rằng : đêm nào thầy lang họ Vương cũng chờ cho
thiên hạ, đâu đó đắm chìm vào giấc ngủ say sưa, mới lặng lẻ, khoác bộ y phục dạ
hành ra đi, bước chân nhẹ nhàng nhưng chắc nịch và nhanh nhẹn dị thường, không
gây ra một tiếng động nhỏ nào khả dỉ làm kinh động mọi người, nhất là những đàn
chó rất thính tai và tinh mắt.

Như một khách dạ hành mô tả
trong những cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp Trung Hoa, họ Vương thoăn thoắt bước
nhanh trên con đường đất gồ ghề, mặc dầu màn đêm bao trùm khắp nơi, tối đen như
mực, không nghe qua một tiếng động nhỏ nào, ngoài tiếng gió vi vu xào xạc và côn
trùng rên rỉ ở các hồ ao.

Tiến thẳng ra cổng Đông, thầy địa lý
Tàu đi tuốt sang con đường lớn trước mặt, rồi rẻ luôn xuống cánh đồng Lương
Ngọc, lần bước theo những bờ ruộng khập khểnh tới gần một trống canh mới ngừng
chân giữa một vùng gò đống mấp mô, mà trước đấy, hắn đã nhiều lần qua lại, nhớ
kỹ cả địa hình, địa thế khắp chung quanh.

Tìm một gò đất cao
nhất, họ Vương đưa mắt nhìn bốn phía, nhận xét được rõ ràng cả từ lùm cây bụi
rậm, cũng như hình thể các thửa ruộng trước mặt, vì họ Vương vốn là một võ sỹ,
am hiểu hết các môn nội ngoại công phu, tinh thục quyền cước và đặc biệt hơn hết
còn luyện được cặp mắt cực kỳ sáng suốt có thể nhìn vào bóng đêm mà vẫn phân
biệt được rành mạch các đồ vật nhỏ nhất như giữa ban ngày.

Họ
Vương gật đầu lẩm bẩm nói một mình :

– Quả thật không uổng công
lao dầm mưa giải nắng, lặn lội gió sương từ ngót một năm trời nay gian khổ. Đúng
là kiểu đất Ngũ Phụng Triều Dương mà tổ sơn đã phát nguồn từ Thập Vạn Đại Sơn,
không ngờ long mạch vận chuyển nhiều khe, băng ngang qua hàng trăm ngàn dãi đồi
núi trập trùng, quanh co mãi mới chịu ngừng lại kết tụ tại đây, để dành cho dòng
họ Vương hưởng thụ.

Nhìn năm gò đất, tuy nằm rải rác khắp cả cánh đồng,
nhưng hết thảy đều hướng đầu vào chiếc gò cao nhất về sống lưng, y mừng thầm,
lấy chiếc la kinh bọc kỹ trong chiếc khăn gói nhỏ đeo trên vai, ra xem phương
hướng.

Khi đã phân biệt được rõ ràng vị trí nơi mình đứng, họ
Vương mới dùng tróc long làm phép hô thần…

Trời đất đang đắm
chìm trong cảnh tỉnh mịch âm u, giữa tấm màn đêm bao la vô tận, chợt nổi lên một
trận gió ào ào, làm lúa ruộng cùng một lúc chuyển động rào rào, như những tiếng
reo hò của trăm vạn quân hùng tráng.

Rồi chớp giật lia lịa, tỏa
ánh sáng xanh lè rợn người, như báo hiệu một cơn mưa dử
dội.

Thầy địa lý sửng sốt trước hiện tượng lạ lùng ấy, vì suốt
từ ban ngày tới bây giờ, bầu trời không có một triệu chứng gì bất thường, khả dĩ
gọi được là có điềm mưa to, gió lớn.

Nhất là từ lúc chập tối,
họ Vương có ý riêng, đã chăm chú xem thiên tượng, thấy nền trời xanh ngắt, cao
vòi vọi, từng đám mây xám nhạt, lững lơ bay lượn, trông đẹp mắt lạ
lùng.

Vậy mà chỉ phút chốc, cảnh trời quang mây tạnh bỗng biến mất để
nhường chỗ cho gió giăng chớp giật, hung hãn dữ dội như sắp nổi cơn giông tố phủ
phàng.

Còn đang kinh nghi với những ý nghĩ bâng khuâng, lo lắng ấy, thì
một tiếng sét lỡ đất, lỡ đất long trời bỗng nổ lên ngay trước mặt, tia lữa văng
tung toé như ánh điện quang, làm họ Vương hoảng hốt nhắm nghiền mắt lại, đưa cả
hai tay lên bịt chặt lấy lổ tai rồi cứ thế băng mình chạy vội vào tạm trú trong
một cái quán hoang của nông dân sở tại dựng nên, để lấy chỗ nghỉ chân những buổi
trưa hè nóng bức, vì y yên trí là với gió giăng, chớp giật, sấm rền như thế, thì
thế nào mà trời chẳng đổ mưa đến nơi, nếu không mang chân tìm nơi ẩn náo, thì
tránh sao cho khỏi bị tắm nước mưa bất tử ?

Nhưng họ Vương kinh ngạc
xiết bao khi thấy sau tiếng sét kinh tâm táng đởm ấy, cảnh vật lại trở về với
bức màn đêm triền miên yên tỉnh cơ hồ như không có gì khác lại xảy ra hết
!

Bầu trời lại cao vòi vọi, như buổi chiều tà, mây xanh kết tụ thành
những hình thù quái dị vẫn lờ lững nhẹ nhàng bay theo luồng gió nhẹ nhàng vi vu
mát rượi !

Hàng ngày, hàng vạn ánh sao khuya lấp lánh trên nền trời cao
vút, chứng tỏ một cách hùng hồn cho cảnh trời tươi đẹp, khiến cho họ Vương,
trong một phút hoài nghi, đã tưởng là mình vừa trải qua một cơn ác mộng, chứ
trời ấy, mây ấy thì làm sao mà lại có thể phát sinh được cảnh chớp giật, gió
văng, sấm rền làm như bầu trời sắp sụp vậy.

Nghĩ thế rồi, thầy địa lý
vội cấu thử tay mình để xem mình tỉnh hay mê ?

Nhưng rõ ràng là y cảm
thấy đau nhói, khi tự bấm mạnh hai móng tay vào da thịt.

Vậy thì tại sao
lại có những hiện tượng quái dị kia ?

Một ý nghĩ hải hùng thoáng loé lên
trong trí óc, khiến cho y giật mình, hoảng hốt, không cần suy luận lôi thôi gì
hơn nữa, vội cắm đầu, cắm cổ chạy nhanh về phía chiếc gò cao, nơi hắn vừa đặt
tróc long để hô thần.

Họ Vương hồi họp trống ngực đập liên thanh, rồn
rập như người đang chờ đợi một sự phán quyết dứt khoát cho số mạng của mình, nên
dù bị vấp ngã luôn mấy lần, vì những hố rảnh sẽ ngang sẽ dọc trên các bờ ruộng,
hắn cũng không cần lưu ý rới, cứ mãi miết chạy bay về phía gò cao.

Mười
trượng… rồi tám trượng… họ Vương vẫn chạy nhanh vùn vụt, nhưng khi còn cách
gò đất chừng năm trượng hắn bỗng đứng khựng lại, thở giốc, há hốc miệng muốn kêu
mà không thành tiếng, cứ giương mắt nhìn trợn trừng nhìn sững về phía đặt tróc
long lúc trước, da mặt nhợt nhạt như người đang chơi vơi trên một chiếc thuyền
con ở giữa trùng dương trong một cơn gió bảo ghê ghớm kinh
hồn. Trước mắt hắn chiếc tróc long bị tiếng sét vừa rồi đánh
trúng, bật tung mỗi nơi một mảng, mảnh vuông lụa đỏ dùng lót tróc long cũng bị
cháy xém quá mất nửa nằm trơ trỏng bên chiếc khăn gói và các thứ dụng cụ cần
thiết để nghiên cứu về môn địa lý bọc ở bên trong đều bị bắn ra vương vãi mỗi
nơi một ít, dính đất nham nhở chẳng ra hình tính chi hết.

Thật là chuyện
vô cùng quái dị, lần thứ nhất mới xãy ra cho họ Vương sau mấy chục năm trời theo
đuổi môn phong thủy thần kỳ !

Nếu hắn không được chứng kiến cảnh sét
đánh lòe lửa ngay trước mặt, thì hắn tin làm sao được sự tan tành, đổ vở hiện
thời, qua những mảnh vụn của chiếc tróc long, địa bàn, trừ vuông lụa bị cháy
giở, tất cả các thứ đều như có một bàn tay bí mật nào đó đã dùng búa to đập nát,
phá hủy tơi bời.

Họ Vương về được tiệm thuốc thì trống canh đã điểm năm
tiếng khô khan.

Hắn cố làm vẻ thản nhiên, đi nằm nghỉ một lát cho đở mệt
để lấy sức tiếp khách như không có việc gì xãy ra hết.

Nhưng trên nét
mặt dày dạn phong trần của hắn, vẫn in hằn vẻ ưu tư, thờ thẩn, chứng tỏ tâm trí
hắn đang hoang mang đến cực độ, trước những hiện tượng vừa xảy ra đêm hồi
khuya.

Tuy chưa biết đích xác sự trở ngại sẽ đến mức độ nào, nhà phong
thủy giàu kinh nghiệm cũng có thể mường tượng được rằng : ngôi đất qúy Ngũ Phụng
triều dương kia, còn bao trùm nhiều sự bí ẩn, dị kỳ, mà có lẽ trong các loại
sách vở khảo cứu về môn địa lý, chưa hề được ghi chép rỏ ràng, mặc dầu từ khi
theo phụ thân học khoa phong thủy, họ Vương đã được nhìn thấy tận mắt, hay đọc
qua cổ văn nhiều kiểu đất lạ lùng đòi hỏi những phương pháp mai táng nhiêu khê,
những bùa phép quái đản !

Linh tính như báo trước cho hắn biết là còn
gặp lắm sự thất bại chua cay trong mưu toan an táng hài cốt tổ phụ hắn trong
kiểu đất hiếm có giữa cánh đồng làng Lương Đường, vì thông thường, nếu không có
điều gì trở ngại, thì với tài ba thông suốt cổ kim, với khả năng phong phú về
môn địa lý, họ Vương đã có thể dùng tróc long tìm hiểu tường tận sự chuyển vận
của long mạch dưới lòng đất và hô thần để được biết thêm các phương pháp cần
thiết cho công việc mai táng hài cốt sau này, ngay từ đêm hôm qua chứ có đâu lại
bị cản trỡ một cách kinh khủng, bất ngờ đến thế ?

GIỮA THANH THIÊN BẠCH
NHẬT, THẦY ĐỊA LÝ TÀU GẶP DỊ NHÂN

Tiết lộ danh tinh Vũ Hồn.

” Vũ
Hồn vi chủ,

” Ngũ Phụng Triều Dương,

” Hà Nhân chiếm
cứ,

” Tất hữu tai ương “

Đã có sự ngang trái ấy, thì hy vọng mai
táng được trôi chảy ngôi mả tổ trong khu đất đặc biệt kia, quả thực là mỏng
manh, hồi hộp vô cùng!

Mười phần hẳn không chắc gì được một
!

Niềm lo âu, thắc mắc ấy, đã không cho phép họ Vương ngồi yên trên ghế
lang y, để đóng vai trò cứu nhân, độ thế, như cái bề ngoài hắn đã cố ý tạo ra,
từ khi mới đặt chân đến vùng này, hầu dễ dàng hoạt động cho công cuộc tìm đất
!

Vả lại, sự kiên nhẩn, chịu đựng của người ta, cũng chỉ có chừng đó
!

Họ Vương, dù là khách giang hồ, từng in gót giầy trên khắp các ngả
đường, từ Thiểm Tây qua Vân Nam, Cao bằng, Lạng Sơn đến tỉnh Đông Hải Dương,
cũng vẫn mang nặng những tham vọng, mong ước thông thường của thiên
hạ.

Vì vậy, chỉ chịu đựng một cách rất miển cưỡng được từ sáng sớm cho
đến cuối giờ Tỵ, hôm ấy, lần tiễn chân một sản phụ đến bắt mạch, xin điều trị
cho chứng bệnh đau ruột của bà ta đã mắc phải, từ khi hạ sanh đứa con trai mới
được ba tháng đang bồng trên tay, thì họ Vương cảm thấy nóng lòng nóng dạ, bồn
chồn thần trí, hoảng hốt tâm can, ngồi đứng không yên chỗ, cứ thở ngắn, than dài
dường như gặp phải một điều gì cực kỳ khó giải quyết lắm ! Trước hắn còn cố nén,
ngồi lỳ trên ghế để bắt mạch kê đơn cho bệnh nhân, sau không kiên nhẫn được nữa,
hắn phải đứng vùng dậy, sửa soạn y phục ra đi.

Đi đâu ?? Họ Vương không
biết mà hắn cũng không cần biết đến làm gì !

Sự thực, hắn chỉ muốn ra
khõi căn nhà đang ở, để cầu mong những ngoại cảnh làm vơi trong khoảnh khắc nỗi
ưu tư, khiến cho hắn tạm thời lãng quên được những sự kỳ dị vừa xãy ra đêm
trước.

Ôm mối tâm sự mông lung, họ Vương thả bước trên đường làng, mà ý
nghĩ gửi tận nơi đâu, bất giác ngâm nho nhỏ mấy câu thơ :

” Nhật Nguyệt
Linh Khí tụ,

” Ngũ Phụng triều dương lai,

” Thập Bát Tiến Sĩ,
Tam Tể Tướng,

” Tử Tôn vinh hiển, mãn cân đai.”

Chợt mây đen kéo
đến mịch trời, gió thổi ào ào, báo hiệu một cơn mưa rào sắp đổ
xuống.

Thầy địa lý cuống quít chạy vội vào một ngôi miếu cô hồn ở giữa
cánh đồng. Trên bệ gạch, chỉ có trơ trỏng một bình nhang xây liền với chiếc bệ,
bốn bề mạng nhện giăng mắc, tạo cho ba gian miếu một quang cảnh hoang vắng, thê
lương, âm u, lạnh lẽo, như đã từ lâu, không có ai đến cúng lễ !

Bên
ngoài gió vẫn rít lên từng cơn dữ dội, làm những chiếc lá bàng nối tiếp nhau,
rơi rào rào xuống trước miếu.

Mưa đã bắt đầu nặng hạt.

Họ Vương
cảm thấy lạnh buốt, toàn thân như có nước thấm vào da thịt, làm cho hắn rùng
mình luôn mấy cái liền, phải nép người vào phía sau bệ thờ. Một lúc sau, mõi
chân và rét quá, hắn đành ngồi bệt xuống nền gạch, co hai gối lên, để tỳ cầm vào
như muốn che cho người đỡ lạnh.

Quang cảnh lúc đó thật buồn nãn. Trong
miếu hoang tàn đến rợn tóc gáy !

Bên ngoài mưa mỗi lúc một thêm tầm tả,
chớp giật sấm nổ đùng đùng.

Họ Vương cảm thấy thân thể nhẹ bỗng, thần
trí lâng lâng như đang bay bỗng ở giữa không trung.

Thoáng cái đã đến
một vùng thành quách nguy nga, cung điện vàng son lộng lẫy.

Thầy địa lý
còn hoang mang, chưa biết đây là nơi nào, thì bỗng thấy cửa giữa mở toang, hắn
vội tiến vào với giáng điệu bâng khuâng, sợ hãi.

Kỳ dị làm sao, quang
cảnh ở phía trong lại giống hệt cánh đồng làng Lương Đường mà mới đêm trước, hắn
đã dùng phép hô thần, nhưng lại bị thổ thần phá hủy tan nát.

Đưa tay lên
dụi mắt mấy lượt để cố nhìn ra chung quanh, thì quả nhiên là hắn không nhận định
sai lầm một chút nào hết : đây kia rõ ràng là năm thửa ruộng, nàm thoai thoải
như những con Phượng Hoàng thu mình, chầu cả vào một gò đất ở ngang giữa cánh
đồng nơi mà hắn tin chắc là chỗ kết tụ long mạch của kiểu đất Ngũ Phụng triều
dương.

Lão chưa kịp quan sát kỷ lưỡng hơn nữa ở hai bên tả, hữu thì trên
gò đất, bỗng hiện lên một đám mây ngũ sắc, thấp thoáng ẩn hiện ánh hào quang, mà
lạ lùng thay giữa đám mây ngũ sắc, bay lượn lơ lững ở ngay giữa nơi mà hắn cho
là chánh huyệt bỗng nổi bật lên những dòng chữ son đỏ chói :

” Vũ Hồn vi
chủ,

” Ngũ Phụng Triều Dương,

” Hà Nhân chiếm cứ,

” Tất
hữu tai ương !”

Thế rồi, những tia chớp ngoằn ngoèo, xanh lè, chợt lại
tung ra liên tiếp, sấm sét ầm ầm, mà kỳ dị làm sao, lại chỉ như nhắm vào chính
giữa huyệt chiếu thẳng xuống, không sai chệch một ly.

Họ Vương ngây mặt,
theo dõi những hiện tượng quái đản đó một lúc lâu, đang muốn liều mạng đến gần
để nhìn cho rõ, bỗng một luồng chớp từ phía xa phóng mạnh tới, xẹt ngang mặt
hắn, khiến hắn nhắm vội mắt lại, nghiêng hẳn đầu qua bên trái, đến lúc mở mắt
ra, thì cả quang cảnh kỳ ảo biến đâu hết.

Giật mình, họ Vương cố trấn
tỉnh nhìn quanh, thì thấy vẫn đang ngồi co ro trong hoang miếu gió bên ngoài
từng cơn, vẫn thổi vào xào xạc, ray rứt, hòa cùng tiếng mưa rơi tầm tả, tạo cho
khu miếu hoang một vẻ buồn tê tái, lạnh lẽo, mơ hồ !

Thầy địa lý bâng
khuâng tự hỏi : những cảnh mình vừa được chứng kiến là mộng hay
thực.

Bảo là mộng, thì sao những địa hình, địa thế lại hiển hiện theo
đúng như sự an bài của Tạo Hóa trên cánh đồng làng Lương Ngọc, giống như đúc
chung một khuôn vậy ! Chính họ Vương, người đã từng tha thiết vơi khu đất quý
ấy, người đã tốn phí bao nhiêu tâm huyết lẫn công phu mới theo dõi được sự vận
chuyển long mạch rất phức tạp, kỳ công, từ dãy Thập Vạn Đại Sơn, xuyên qua biên
giới đến các tỉnh miền Thượng Du Bắc Việt và giờ đây kết tụ ở miền Hải Dương,
nhưng thực ra, cũng vẫn chưa “nhập tâm” được toàn bộ địa hình, địa thế kiểu đất
Ngũ Phụng triều dương, vậy thì không thể nào nói được là một cơn mộng mị hảo
huyền do ảnh hưởng của sự tưởng tượng quá phong phú trong trí não, tâm tư của
thầy địa lý tạo ra, khiến cho lúc ngồi rỗi, mơ màng nhớ đến kiểu đất quý, nhà
phong thủy lại có dịp mơ màng ra hình dung khu linh địa ấy !

Nhưng nếu
đã không phải là ảo mộng, thì đó phải là sự thực, một sự thực do một mảnh lực
huyền bí kỳ ảo bày ra để cảnh cáo thầy địa lý.

Bất giác, họ Vương nhớ
lại tất cả mấy dòng chữ lấp lánh hào quang ẩn hiện trong đám mây ngũ sắc bay lơ
lững trên khu chánh huyệt :

” Vũ Hồn vi chủ,

” Ngũ Phụng Triều
Dương,

” Hà Nhân chiếm cứ,

” Tất hữu tai ương !”

Nhà
phong thủy lim dim cặp mắt mơ màng nghĩ đến lúc bị lật đổ tróc long, rồi thở
dài, lẩm bẩm :

– Những hiện tượng quái dị đêm qua, cùng những việc vừa
xảy ra trước mắt, nửa như thực, nửa như mơ, đều chỉ nhằm một dụng ý : khuyên ta
không nên nghĩ đến kiểu đất Ngũ Phụng triều dương nữa. Nếu không chịu tuân theo
ý trời, cứ cố tình cưỡng lại, thì sớm muộn, thế nào cũng phải chịu tai hoạ
!

Hắn nghiến răng, chua chát nói tiếp :

– Hừ, tai họa ? Trong
đời làm thầy địa lý, mình đã phải chịu bao nhiêu tai họa, mỗi khi tìm được một
kiểu đất đẹp, mà mộ chủ, lại không phải là nhà có đầy đủ phước trạch để hưởng
thụ ân sủng của Thượng Đế ?

Nhưng dù sao, đó chỉ là những kiểu đất
thường, sự kết phát chỉ hời hợt, mong manh, không lấy gì làm huy hoàng, vĩnh
cữu.

Vã lại, đấy toàn là việc thiên hạ, do mình nhẹ dạ, nhận lời giúp đỡ
cho người khác, không phải vì tư lợi, mà thực ra, chính là có cơ hội học hỏi
thêm, thu thập kinh nghiệm thêm, để khi có căn bản chắc chắn về môn học cao
siêu, huyền bí đó, sẽ tự tìm lấy cho nhà mình một ngôi đất quí, có thể đem lại
được sự kết phát hoàn toàn về cả các thứ phúc, lộc, thọ.

Trải bao vất
vả, phong sương, gian lao, nguy hiểm, mình mới đến được đây và khám phá được
kiểu đất quý báu đáng gọi được là hãn hữu trên thế gian.

Nhà phong thủy
chợt ngừng bặt, đưa ký ức trở về với giấc mộng để cố nhớ lại cả bốn dòng chữ
hiện hình, giữa đám mây ngũ sắc rồi lại thở dài, lẩm bẩm thêm :

– Thập
bát Tiến Sĩ, Tam Tể Tướng ! Kết phát nhiều đến thế, thì nhất định là đại quý rồi
! Là được hưởng phúc lộc lâu dài lắm rồi ! Quả thật không còn ngôi đất nào tốt
đẹp hơn thế nữa ?

So với những kiểu đất đế vương thì nó có kém thật đấy
!

Nhưng để bù lại sự phú quý, Thượng Đế đã cho con cháu mộ chủ được
hưởng phúc lâu dài !

Coi đi, kéo lại, mình có thể nói được rằng : đó
cũng không kém gì kiểu đất đế vương đâu ?

Vậy mà, đau đớn thay, hắn lại
không hô được thần, kiểm soát được hướng chuyển vận của long mạch. Trong đêm
trước, và mới đây, giữa lúc vào miếu tránh mưa, lại còn mơ màng, nữa tỉnh, nữa
mê, được chứng kiến những hiện tượng dị kỳ, huyền ảo, không hiểu có phải do Thần
linh, Thổ địa linh thiêng, cố tình an bài, bố trí, để cảnh cáo cho họ Vương,
gián tiếp mách bảo cho họ Vương biết rằng ngôi đất quý ở cánh đồng làng Lương
Đường, đã được Thượng Đế dành riêng cho Vũ Hồn, không ai được phép tranh giành,
chiếm đoạt. Ai cố ý làm trái ý Trời, sẽ bị Thần linh nghiêm phạt.

Nhưng
Vũ Hồn là ai ?

Đấy mới là điều thắc mắc mà họ Vương đã mang nặng trong
tâm khảm từ sau khi vào miếu Cô Hồn tránh mưa !

Trời đã ngớt mưa. Những
đám mây đen bao phủ không trung, phút chốc tan biến gần hết, chỉ còn vương vấn
lại mấy áng bạch vân, lờ mờ như sương khói mơ hồ, bay theo luồng gió từ phía
Đông Nam tới, và chỉ mấy phút sau, cũng tản mác dần, trả lại vẽ quang đảng cho
bầu trời.

Thầy địa lý vùng đứng lên, sửa soạn lại y phục, thong thả bước
ra cửa miếu, vừa đi vừa bâng khuâng nghĩ đến những hiện tượng mới xãy ra, mà hắn
không biết là mộng hay thực.

Họ Vương luôn mồm lẩm bẩm :

– Vũ
Hồn vi chủ, Vũ Hồn vi chủ !

– Hừ, Thế là nghĩa lý gì ? Chẳng lẽ khu đất
này lại thuộc về quyền sở hữu của Vũ Hồn sao ? Mà Vũ Hồn là ai mới được chứ
?

Thật là rắc rối, khó hiểu vô cùng.

Hắn đang vò đầu, bứt tai,
đăm chiêu, khổ sỡ, thì chợt có tiếng chân chạy huỳnh huỵch, từ phía xa vọng lại,
mỗi lúc một gần, khiến hắn giật mình, đứng khựng lại, ngơ ngác nhìn quanh, hồi
họp ngó chừng…

Rồi… tiếng chân người rõ hẳn… Từ khúc quẹo đằng đầu
đường, một bóng đen chợt ló hình qua một bụi khúc tần rậm rạp, giây tơ hồng
chằng chịt còn ướt đẩm nước mưa, lóng lánh như những hạt kim cương.

Bóng
người rõ dần, rõ dần, hướng thẳng vào cửa miếu bước nhanh.

Họ Vương vội
đứng nép mình, tựa lưng vào khuôn cửa gổ mọt, sẳn sàng như người thủ thế, sẳn
sàng chờ đợi đối phó với những sự bất ngờ.

Người mới xuất hiện là một
nông dân thuần túy, qua lớp áo quần lam lũ, dày cộm, dính đầy bùn đất, mặt mày
tuy đen sạm, in hằn dấu vết dày dạn phong sương nhưng hai mắt trợn trừng, sáng
quắc, lại long lanh như hai tia chớp có mảnh lực, làm nổi gai óc những người
đứng trước mặt.

Họ Vương hoảng hốt, vừa muốn quay gót, tránh mặt bỏ vào
trong miếu, thì người nông dân lực lưỡng lạ mặt đã bước lẹ đến bên cạnh, nhìn
thẳng vào giữa mặt nhà phong thủy, gằn giọng, tiếng nói sang sảng như chuông
đồng :

– Ngũ Phụng triều dương của Vũ Hồn, nghe chưa ? Thượng Đế đã dành
cho họ Vũ ngôi mả ấy ! Không một ai được quyền xâm phạm tới ! Nhà ngươi nên tìm
Vũ Hồn, rồi giúp họ Vũ thì thế nào cũng được hưởng chung phước trạch
!

Dứt lời, người nông dân lạ mặt, quay ngoắt mình về lối cũ đi
thẳng…

Thầy địa lý toan chạy theo, nhưng hai chân cứng nhắc, không
nhút nhít. Hắn hốt hoảng gọi thất thanh liền mấy tiếng, nhưng kỳ lạ làm sao, hắn
chỉ ú ớ trong cổ họng, chứ không làm sao nói được thành tiếng rõ ràng như thường
nhật, đành cứ đứng tựa lưng vào khung cửa gổ, mặt ngơ ngác nhìn theo bóng dáng
người nông dân lạ mặt, khuất dần quá bụi khúc tần rậm rạp ngay chỗ khúc quẹo vào
đường làng.

Với tâm trí bàng hoàng; họ Vương đứng nguyên như thế tới một
khắc đồng hồ, cho đến lúc bóng dáng người nông dân khuất hẳn sau lùm cây, hắn
mới cất nhắc được chân tay, liền hốt hoảng chạy theo người lạ mặt, nhưng bốn bề
vắng ngắt, trên con đường đất chạy từ miếu Cô hồn vào trong làng, chẳng có một
ai hết.

Họ Vương lo sợ như kẻ mất hồn, bước thấp, bước cao trở về tiệm,
lòng hoang mang trăm mối nghi ngờ thắc mắc…

Vì thế, họ Vương thường
phải vắng nhà luôn. Việc trông nom săn sóc cửa nhà, hoàn toàn được trao phó cho
người vợ họ Trần và Vũ Hồn đảm nhiệm.

Bà chủ tiệm thuốc Bắc là một thiếu
phụ nhan sắc khá diểm kiều, bản chất lại thông minh lanh lợi, nàng sở dĩ phải
kết hôn với họ Vương chỉ là vì nhà nàng quá nghèo túng, khổ sở, không trả nợ mấy
món nợ quan trọng đã đến kỳ hạn phải bồi hoàn cả gốc lẫn lãi. Hơn nữa, thân mẫu
nàng lại mắc phải một chứng bệnh hiểm nghèo, gần đất xa trời mà trong nhà quá bê
bối, không đủ sức tìm thầy, chạy thuốc.Vì vậy, khi được họ Vương tình nguyện điều trị giúp, lại hứa
trao tặng một số tiền lớn làm sính lể, cha mẹ nàng liền nhận lời gả cho họ
Vương, vừa để đền ơn cứu mạng của họ Vương vừa để lấy chỗ nương nhờ về mai
hậu.

Mối tình chồng vợ giữa cô gái họ Trần và thầy lang họ Vương, bởi
thế, chỉ có bề ngoài chứ không nồng nàn, thắm thiết chan chứa yêu đương như
những đôi uyên ương mới xây dựng tổ ấm gia đình khác.

Ví dù cho họ Vương
có tử tế, rộng lượng đến đâu, trước mặt Trần thị, thầy lang cũng chỉ là người
ngoại chủng, ngôn ngữ bất đồng, mà theo quan niệm hôn nhân của thời đại phong
kiến thì con gái những gia đình nền nếp không bao giờ chịu lấy chồng Tàu, chồng
Chệt !

Đấy là chưa nói đến số tuổi quá chênh lệch, giữa đôi bên : họ
Vương đã ngoại tứ tuần, trong lúc cô gái họ Trần mới có 19 cái xuân xanh, khiến
cho sau hôn lễ, mỗi khi có dịp phải đi sóng đôi với chồng ra ngoài đường những
trẻ con quanh vùng, thường vỗ tay reo hò, chế diễu, hát nheo nhéo câu ca dao
:

” Tiếc thay con ngựa bạch lại thắng giây cương bằng thừng,


Tiếc cho con người thế ấy lại nâng lưng ông cụ già !

” Lạy chú, chú bỏ
con ra,

” Ra đường ai biết rằng cha hay chồng,

” Nói ra đau đớn
trong lòng,

” Ấy cái nợ truyền kiếp, há phải là chồng em đâu ?

Lúc đầu tiên, cô gái họ Trần, từ địa vị một thiếu nữ bần hàn, quần
nâu, áo vải, chân lấm tay bùn, quanh năm vật lộn với luống cày, đổi bát mồ hôi
mới kiếm nổi miếng cơm, nên khi được họ Vương cưới về làm vợ, nàng rất thỏa mản,
vì ngoài sự sung sướng về vật chất, nàng còn báo hiếu được cho cha mẹ, nhờ số
tiền dẫn cưới khá quan trọng của ông chủ tiệm thuốc Bắc để cha mẹ nàng có thể
thanh tóan hết các món nợ nần, bê bối từ mấy năm nay.

Nhưng sau lể vu
quy chỉ chừng một tháng, mỗi khi ra ngồi ngoài quầy tủ thuốc, nhất là những dịp
có việc phải đi với chồng ra đường, thiên hạ hiếu kỳ, tệ hơn hết là những trẻ
con trong làng, đã vỗ tay reo hò, chạy theo chế riễu nàng thậm tệ, khiến cho
nàng tủi thẹn vô cùng.

Lòng tủi thẹn mỗi ngày một nặng nề đưa dần đến sự
chán ghét người bạn gối chăn khác dòng giống.

Do đấy, cô gái họ Trần
thường chỉ thích chuyện trò với anh quản gia Vũ Hồn mà nàng tin rằng dù sao,
cũng vẫn là người đồng hương, cùng chung một tiếng nói với nàng, thì hẳn là phải
biết kính trọng nàng hơn hẳn là chú Chệt, lúc nào cũng ngô nghê như Chú Tàu nghe
kèn, chẳng xứng đáng một chút nào với áng nhan sắc diểm kiều, duyên dáng của
nàng, từ xưa tới nay, vẫn nổi tiếng là một thôn nữ xinh đẹp nhất phủ Bình Giang
!

Trước Vũ Hồn còn sợ hải, dè dặt, không dám suồng sả, đùa cợt với cô
chủ trẻ tuổi, mặc dầu cô chủ cứ luôn luôn tỏ ra vô cùng dể dãi.

Nhưng
chỉ ít lâu sau đấy, nhằm một buổi tối, nhân cơ hội họ Vương phải đi coi mạch cho
một bệnh nhân ở trên Sặt, đường xá xa xôi, bắt buộc thầy lang phải ngủ lại nhà
con bệnh đến sáng hôm sau mới có thể về được, nên cô chủ trẻ tuổi đã sai Vũ Hồn
đóng kín cổng ngỏ, ngay từ lúc sẩm tối, viện cớ là nhà vắng người, bà chủ cần
phải đề phòng những sự bất trắc bất ngờ.

Bề ngoài thì thế, nhưng sự thực
bên trong lại khác hẳn !

Đó là một điều tính toán rất kỷ, chín chắn của
một thiếu phụ, trời cho nhan sắc mặn mà, khôn ngoan tháo vát, nhưng trớ trêu,
lại sinh trưởng nhằm cảnh gia đình nghèo khổ, túng thiếu, đến nổi một đoá hoa
mơn mởn sắc hương, phải lọt vào tay một chú Chệt đáng tuổi cha, ông, khiến cho
cô gái hẩm hiu duyên số ấy, dù được sống trong nhung gấm, vàng son, tha hồ ăn
ngon, mặc đẹp, kẻ hạ người hầu, cũng cảm thấy tủi buồn, đau khổ, suốt ngày đêm
rầu rỉ, thở vắn, than dài.

Không những thế, họ Vương thường viện cớ bận
rộn, săn sóc bệnh nhân, để có khi vắng mặt đến ba, bốn ngày đêm liên tiếp, làm
cho tình gối chăn lạnh nhạt, so với vẻ quyến luyến keo sơn của những cặp vợ
chồng mới cưới khác, thì quả thực là cách biệt nhau một vực, một
trời.

Tính tình chú Chệt chủ tiệm thuốc lại mỗi lúc một thêm khó khăn,
khắc khổ. Đối với cô gái họ Trần chú không mấy khi cười nói, tỏ vẽ yêu thương,
đi vắng thì không sao, êm thắm cửa nhà, mà cứ về đến tiệm là thế nào chú Chệt
cũng la lối om sòm, phiền trách vợ, rày mắng người giúp việc, chẳng lúc nào ngớt
tiếng.

Sức chịu đựng của thiếu phụ họ Trần chỉ có chừng !

Nàng
không thể chôn vùi mãi tuổi xuân tràn trề nhựa sống của những ngày mới vu quy
vào chốn sầu thành vô tận, bên cạnh một người chồng ngoại chủng, khắc khổ như
một nhà truyền đạo, lạnh nhạt như một kẻ tu hành.

Đã đến lúc nàng phải
đi tìm một nguồn an ủi khác, kẻo nay lần mai lữa, năm tháng cứ vùn vụt trôi qua,
chôn vùi một kiếp hồng nhan đang tha thiết yêu đời, dưới hố sâu hờn tủi của kẻ
vị vong, có chồng mang tiếng phòng không trọn đời. !

L.T.G. (Lời tác
giả) Trước khi viết về ngôi mả táng treo, chúng tôi đã cố gắng đi dò hỏi những
vị bô lão nguyên quán ở vùng Hải Dương Bắc Việt để mong tìm hiểu rõ ràng hơn,
chính xác hơn những chi tiết bao quanh ngôi mả, có thể gọi được là kỳ lạ, độc
nhất vô nhị ở Việt Nam, mà sự kết phát chẳng những đã lâu dài, lại còn hiển
hách, bất cứ dưới thời đại nào !

Nhưng qua những lời truyền tụng hay
chiếu theo một vài tài liệu đã sưu tầm được, thì chúng tôi chỉ thấy hoang mang
không biết đâu là sư thực, vì có người nói thế này, lại có người bảo thế khác,
tam sao thất bản, khiến cho chúng tôi, càng cảm thấy thất vọng, đành chỉ còn
biết : lựa chọn những giả thuyết gần sự thực hơn hết, có lý hơn hết, để nêu ra,
với hy vọng ấy, mong chờ sự chỉ giáo của qúy vị cao minh, nhất là những bậc lão
thành ở tỉnh Đông.

Thì sự mong chờ của chúng tôi quả đã không đến nổi
thất vọng ! Mới đây chúng tôi có tiếp được bức thơ của một vị lão thành, tự nhận
là dòng họ Vũ ( rất tiếc là Vũ Lão tiên sinh lại không muốn cho chúng tôi nêu rõ
quý tính cao danh và địa chỉ, nên ở đây chúng tôi phải chiều ý Vũ lão tiên sinh,
mong bạn đọc thân mến, lượng tình thông cảm) đã cho chúng tôi biết thêm nhiều
chi tiết quý giá, mạc dù chúng tôi vẫn còn một vài nghi vấn, muốn được hầu
truyên cùng Vũ Lão tiên sinh trong một kỳ sau.

Trước khi thuật
lại đầy đủ những chi tiết bổ ích ấy để cống hiến quý vị độc giả thân mến, chúng
tôi xin chân thành cảm tạ thịnh tình chiếu cố của Vũ Lão tiên sinh, đã không
quản công phu, sốt sắng giúp đở cho chúng tôi, có những tài liệu dồi dào để hoàn
thành công cuộc biên khảo này.

Một lần nữa xin Vũ Lão tiên sinh
nhận cho ở đây lời cảm tạ thành thực của chúng tôi.

Trong một bài trước,
chúng tôi có nói đến làng Lương Đường, sau được đổi thành Lương
Ngọc.

Nay được biết đó chỉ là tên hợp nhất của hai làng Lương Đường và
Ngọc Cục, cũng thuộc địa phận phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương Bắc
Việt.

Còn ngôi mả táng treo thì thuộc phạm vi làng Vạn Nhuế, huyện Nam
Sách, cũng trong địa giới tỉnh Hải Dương.

Theo gia phả của họ Vũ, được
đặt ở ngôi thờ tại đình làng Vạn Nhuế, thì lai lịch của ông tổ được ghi chép như
sau : ” Vũ Hồn , An Nam Đô Hộ Sứ “, và cũng chính Vũ Hồn đã tự tìm lấy được kiểu
đất : ” Cửu Thập Bát tú triều dương” lúc đang đảm nhiệm trọng trách An nam Đô Hộ
Sứ (chúng tôi sẽ có dịp thảo luận về nghi vấn này trong một số báo sau
).

Kiểu đất có ngôi mả treo gồm tới 98 (cửu thập bát tú) cái gò nhỏ nằm
rải rác bao quanh một cái gò lớn, ở chính giữa (gò thứ 99) mà trên đỉnh gò là mả
Vũ Hồn.

Điểm đặc biệt là phong cảnh quang đảng của khu vực ” Cửu thập
bát tú triều dương”, vì ngoài 99 cái gò, tuyệt nhiên không còn có cây cối chi
khác.

Vẫn theo gia phả của họ Vũ đã ghi chép, thì sau khi khám phá được
kiểu đất tuyệt đẹp, cực kỳ quý báu đó, Vũ Hồn liền trở về Trung Quốc, xin triều
đình cho phép mình được đem họ hàng con cháu, di cư sang An Nam lập nghiệp.Chính
do đấy, mà hài cốt của Vũ Hồn, sau lúc ông từ trần, mới được an táng tại làng
Vạn Nhuế.

Trước khi tìm được kiểu đất để dành cho việc mai hậu, Vũ Hồn
còn tìm được một khu đất khác, dùng làm nơi sinh cư lập nghiệp cho bà con trong
họ, theo mình từ Trung Quốc qua. Nơi đó là làng Khả Mộ, sau được cải lại là Mộ
Trạch, thuộc tổng Tuyền Cử, huyện Năng An, phủ Bình Giang, tỉnh Hải
Dương.

Địa hình địa thế làng Mộ Trạch cũng đặc biệt vô cùng, thu gọn
trong một khu vực vuông vắn như được cắt sén, gọn gàng, không hề có chỗ nào lồi
lõm hay khúc khuỷu.

Dân làng hết thảy đều là họ Vũ, con cháu của Vũ
Hồn.

Ngoài ra không có một dòng họ nào khác tới cư ngụ hay tá túc cả.
Ngay tại hai bên cổng ngôi đình thờ ông tổ Vũ Hồn vẫn còn có đôi câu đối
:

” Vi tử tôn lập vạn thế cơ, Khanh, Tướng, Công vô trị loạn.”


Dữ Thiên Địa dồng nhất, nguyên khí, Hoàng, Vương, Đế, Bá hữu Long ô

dịch nôm là : Vì con cháu, lập nên cơ sở vạn năm Khanh, Tướng, Công
Hầu vì thời bình hay thời loạn cũng đều có; Cùng với nguyên khí của Trời Đất,
Hoàng, Vương, Đế, Bá ở thời thịnh hay suy cũng vẫn có.

Đồng thời, gia
phả cũng còn ghi lại : lúc Cao Biền đuổi quân Nam Chiêu, khi đi ngang qua làng
Mộ Trạch, họ Cao vốn là tay thông kim bác cổ, có chân tài, thực học về môn phong
thủy, lúc ấy cũng phải ngẩn ngơ trước kiểu đất quý báu, hiếm có kia, rồi gò
cương ngựa, rơ roi mà khen ngợi rằng : ” Tiến Sĩ sào ! ” (Cái tổ của các vị Tiến
Sĩ).

Vì vậy tại cổng Đông làng Mộ Trạch, người ta mới thấy có tấm bia,
khắc ba chữ ” Tiến Sĩ sào” để kỷ niệm lời ca ngợi một kiểu đất văn học tuyệt vời
do chính một người thông hiểu địa lý như Cao Biền đã phải thốt ra.

Có lẽ
cũng vì địa hình địa thế đẹp đẻ tuyệt vời của làng Mộ Trạch, và căn cứ vào lời
khen ngợi “Tiến Sĩ sào” do tự miệng một nhà phong thủy kỳ tài như Cao Biền thốt
ra mà số người thành đạt ở làng Mộ Trạch lại có rất nhiều, chứ không phải ” Thập
Bát Tiến Sĩ, tam Tể Tướng” như chúng tôi từng đề cập đến trong một kỳ
trước.

Ngoài một số đông sĩ tử thi đậu cao khoa, làng Mộ Trạch còn có
nhiều người làm đến Công Hầu, Khanh Tướng.

Vì thế trong gia phả, mới
thấy ghi chú ” Thập Bát Quận Công, tam Tể Tướng”. Nhưng danh tính các vị quận
công hiển đạt trong dòng họ Vũ cho đến bây giờ, vẫn chưa ai tra cứu được, mặc
dầu tại Văn Miếu Hà Nội còn có những danh bia Tiến Sĩ ghi danh tính những Ông
Nghè ở dưới triều Lê, Nguyễn.

Muốn minh chứng sự khác biệt giữa hai làng
Luơng Đường và Mộ Trạch chỉ cách nhau co trên dưới ba cây số ngàn, Vũ Lão Tiên
Sinh đã cho chúng tôi biết thêm : trong gia phả của dòng họ Vũ còn thấy ghi rằng
:

” Mộ Trạch quan, thiên hạ an,

” Lương Đường quan, thiên hạ
loạn …”

Như thế đủ rõ hai làng không liên hệ chi với nhau
hết.

Về ngôi mả táng treo, Vũ Lão Tiên Sinh cũng không cho là lạ lùng
chi hết, mà đó chỉ là một cái huyệt, được đào rộng ra, bốn góc trồng bốn cây
cột, đầu cột có giây xích liên lạc với nhau, hài cốt đặt trong tiểu và để trên
các giây xích ấy, xong rồi cho đổ đất lấp kín như các ngôi mộ khác.

VẪN
CÒN NHIỀU NGHI VẤN

Với mục đích tôn trọng dư luận, chúng tôi đã trích
đăng tất cả những tài liệu liên quan đến ngôi mả táng treo, do chính một bậc lão
thành trong dòng họ Vũ, hiện diện ở miền Nam, nay đích thân viết cho chúng tôi,
để đính chính những chi tiết chúng tôi từng đưa ra từ mấy số trước, mà Vũ Lão
Tiên Sinh cho là quá hoang đường !

Sự thực, tài liệu sưu tầm của chúng
tôi nếu có bị sai lạc, lầm lẩn, thì đó cũng không phải là lổi sơ sót của chúng
tôi, vì chúng tôi cũng chỉ làm công việc của một người tường thuật lại những lời
truyền tụng trong dân gian về ngôi mả táng treo, mà qua sự kết phát hiển hách
lâu dài đã thành một giai thoại rất phô thông của quảng đại quần
chúng.

Sự suy luận của chúng tôi không phải là vô căn cứ, vỉ đồng bào
Bắc Việt nào, trước đây, không đã có hơn một lần, được nghe “thiên hạ đồn” về
ngôi mả táng treo, cùng sự lựa chọn đứa con bé sinh đôi, nặng đồng cân hơn đứa
con lớn, để đem về Trung Quốc của thầy địa lý Tàu, sau khi nhường kiểu đất quý
cho Vũ Hồn – vì tự biết nhà mình bạc phước vân vân và vân vân.

Sau khi
đăng tải đầy đủ những chi tiết về ngôi mả táng treo, do chính một vị lão thành,
trong dòng họ Vũ đưa ra, chúng tôi xin nêu ra đây những nghi vấn đã khiến cho
chúng tôi phải thắc mắc khá nhiều qua những tài liệu nói trên.

Căn cứ
vào tài liệu ghi trong gia phả của họ Vũ thì Vũ Hồn là một vị đại thần Trung
Quốc, không biết rõ đời nào, được bổ nhiệm làm An nam Đô Hộ Sứ, qua đây tìm được
kiểu đất “Cửu Thập Bát Tú Triều Dương”, có thể phát được tới “Thập Bát Quận
Công, tam Tể Tướng, nên đã về Tàu, xin Triều đình cho phép mình được đem họ hàng
qua lập nghiệp tại Mộ Trạch, một địa điểm cũng vô cùng đặc biệt về phong thủy,
đến nổi nhà phong thủy chính tông cừ khôi là Cao Biền từ đời nhà Đường, được cử
qua An nam làm Đô Hộ Sứ khi đuổi giặc Nam Chiếu, về qua làng Mộ trạch, thấy
phong cảnh kỳ tú, địa thế vuông vắn, đã phải nghi ngờ trước kiểu đất Văn Học,
tuyệt vời, mà gò cương chỉ roi ngựa, khen là “Tiến Sĩ sào” !

Theo những
lời ghi chú trên, thì ta có thể tin tưởng được rằng : Vũ Hồn sanh vào đời nhà
Đường bên Tàu, vì sau khi chinh phục được nước ta, năm Kỷ mảo, vua Cao Tôn nhà
Đường, mới chia xứ Giao Châu thành 12 Châu, 59 huyện và thiết lập An Nam Đô Hộ
Phủ.

Nước ta được gọi là An Nam, bắt đầu từ đây.

Trong gia phả
của họ Vũ, có ghi ” Vũ Hồn An Nam Đô Hộ Sứ.” thì lời phỏng đoán của chúng tôi
trên đây, hẳn không quá xa sự thực ?

Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn thắc
mắc, vì qua những tài liệu lịch sử còn sót lại, chúng tôi đã cố sức dò kiếm, mà
trong số quan lại nhà Đường được phái sang An Nam, tuyệt nhiên không có vị nào
là họ Vũ hết !

Kể từ đời Lý Uyên, vị vua dựng lên nghiệp nhà Đường xưng
hiệu là Cao Tổ Hoàng Đế, trong sử cũng chỉ thấy chép : vị quan được nhà vua cử
sang cai trị Giao Châu là Đại Tổng Quản Khâu Hoa.

Sau đấy là Quang Sở
Khách, Dương Tư Húc, Trương Bá Nghi, Cao Chánh Biện, Triệu Vương, Cao Biền
v…v…

Không có một viên quan tàu nào họ Vũ, nhất là chức Đô Hộ Sứ cả
!

Ngoài nghi vấn trên, chúng tôi còn không khỏi ngạc nhiên, về đoạn nói
về Cao Biền.

Như ai nấy đều biết, không những qua lời nhân dân truyền
tụng từ cửa miệng người này qua cửa miệng người khác, mà còn được ghi chép trên
nhiều tài liệu giấy trắng, mực đen khác về Cao Biền thì nhà chính trị kiêm quân
sự Trung Hoa này, còn có biệt tài về môn phong thủy, học được dị thuật hú gió,
gọi mưa, mới nghe cứ như chuyện phong thần vậy !

Về tài năng và sự
nghiệp của Cao Biền thì chính sử gia, kiêm học giả Trần Trọng Kim, đã viết trong
cuốn V.N. sử Lược như dưới đây :

Mùa thu năm Giáp Thân (864) Vua nhà
Đường sai tướng Cao Biền sang đánh quân Nam Chiếu ở Giao Châu.

Cao Biền
vốn là danh tướng của nhà Đường văn vỏ toàn tài, rất được quân sĩ mến phục. Năm
Ất Dậu (865) Cao Biền cùng quan Giám quân Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải
Môn. Nhưng họ Lý không ưa Cao Biền, thường tìm mưu hãm hại.

Hai người
bàn định tiến binh, Cao Biền dẫn 500 quân đi trước hẹn họ Lý đi sau tiếp ứng.
Nhưng họ Lý không chịu xuất binh, Cao Biền vẫn thắng được quân giặc trong lúc
chúng đang gặt lúa không kịp đề phòng.

Sau đấy nhờ có tướng Vi Trọng Tề
vâng mệnh vua Đường, đem 7000 quân sang tiếp viện cho Cao Biền, nên Cao Biền lại
thắng luôn mấy trận nữa, khiến cho quân Nam Chiếu hoảng sợ, chỉ lo giữ gìn thế
thủ, chư không dám tấn công như trước nữa.

Cao Biền thấy thế liền viết
biểu gửi vể Tàu báo tin. Nhưng sứ giả về đến Hải Môn, lại bị Lý Duy Chu bắt giữ,
không cho họ Cao Biền liên lạc với Triều Đình.

Vua Đường trông đợi mải,
không thấy tin tức gì của Cao Biền, phải sai sứ giả sang hỏi, thì Lý Duy Chu lại
tâu dối rằng : Cao Biền án binh ở Phong Châu không chịu giao binh cùng quân
giặc.

Vua Đường nghe tin ấy, nổi giận lập tức, hạ chiếu sai Vương An
Quyền sang làm tướng đánh Cao Biền và triệu họ Cao về triều hỏi
tội.

Ngay tháng ấy, Cao Biền phá tan được quân Nam Chiếu rồi lại tiến
binh vây hãm La Thành, đã được hơn mười ngày, sắp hạ thành, bỗng nhận được tin
Vương An Quyền và Lý Duy Chu sẽ sang thay mình thì biết ngay mưu kế hiểm độc của
bọn gian thần, liền trao phó binh quyền cho Vi Trọng Tề rồi cùng mấy tên gia
nhân thân hành đi suốt đêm về triều.

Nhưng trước đó, Cao Biền cũng đã
sai người bí mật lén về kinh đô dâng biểu, trần tấu về tình trạng ở phương Nam,
và nhân mạnh luôn cả sự đố kỵ của họ Lý để xin nhà vua minh xét…

Vua
Đường xem biểu, biết rõ sự tình cả mừng, vội xuống chiếu thăng chức cho Cao Biền
và sai họ Cao trở lại phương Nam, tiếp tục cầm binh chinh phạt Nam
Chiếu.

Chẳng bao lâu binh Đường đã dẹp yên quân giặc.

Đất Giao
Châu lại bị nội thuộc nhà Đường, sau 10 năm bị quân Nam Chiếu phá
lại.

Vua Đường phong cho Cao Biền làm Tiết Độ sứ và đổi đất An Nam làm
Tỉnh Hải…

Cao Biền trị dân có phép tắc nên ai cũng kính trọng mến
phục.

Vì vậy, nhiều người tôn là Cao Vương, Cao Biền đắp lại thành Đại
La ở bờ sông Tô Lịch…

Sử chép rằng Cao Biền thường dùng phép phù thủy,
khiến thiên lôi phá hủy những thác gềnh ở các sông ngòi trong xứ, để cho thuyền
bè đi lại dể dàng.

Tục truyền rằng : Cao Biền thấy ở bên Giao Châu ta
lắm đất đế vương thường cứ cưỡi diều giấy đi yểm đất, phá hủy những chỗ sơn thủy
đẹp và triệt hạ mất nhiều long mạch…

Ngoài tài liệu của Trần tiên
sinh, trong dân gian còn đồn đải rằng : họ Cao thường đi khắp núi cao rừng rậm,
ngõ hẽm, hang cùng, thấy nơi nào địa thế kỳ khu, phong cảnh xinh đẹp, khả dỉ
nghi được là chỗ quy tụ những long mạch kết phát, là tìm cách trấn yểm, phá hủy
cho kỳ được.

Đó không phải là ý riêng của Cao Biền, mà chính là y đã
vâng mật chiếu của triều đình : dùng mọi phương pháp yểm trừ những huyệt đế
vương, cũng như những kiểu đất kết phát khác, để mong cũng cố nền móng đô hộ lâu
dài trên đất nước này.

Với trọng trách ấy, một người có căn bản vững
chắc về môn phong thủy như Cao Biền, một danh tướng kiêm chính trị gia lổi lạc,
đã từng xây được thành Đại La lại đào cả sông Tô Lịch để cắt đứt long mạch của
chốn cố đô, thì bao giờ y lại chịu bỏ qua kiểu đất ” Cửu Thập Bát Tú triều
dương” và luông cả khu quý địa làng Mộ Trạch ?

Bảo rằng Vũ Hồn đã tìm
thấy được ngôi đất đặc biệt đó, từ trước ngày Cao Biền được vua Đường cử sang
nhậm chức Đô Hộ Sứ ở An Nam, chúng tôi e rằng giả thuyết đó cũng không được vững
lắm, vì ngoài lý do không có một viên quan nhà Đường nào họ Vũ, ta còn phải kể
đến những sự phiền toái, phức tạp của công cuộc di cư những con cháu trong dòng
họ Vũ qua lập nghiệp ở làng Mộ Trạch, mà sau khi tìm được địa diểm hợp ý, Vũ Hồn
đã về Tàu, xin phép triều đình cho đem họ hàng qua đây, lập riêng thành một kiểu
giang sơn quy tụ toàn người trong họ Vũ.

Sự kiện đó có đúng không ? Nếu
đúng, thì thời gian Vũ Hồn được cử làm Đô Hộ Sứ ở An Nam là năm nào, mà vị đại
thần Trung Quốc ấy lại có thể tìm được đất, di cư đem con cháu qua lập nghiệp,
phát đạt hiển hách làm được cả đền thờ, viết được cả câu đối, ghi nhớ công ơn
người khai sáng, để khi Cao Biền có dịp đi qua, chỉ còn biết ngẫn ngơ, trước
kiểu đất văn học tuyệt vời đó !

Nếu bảo rằng Vũ Hồn sang An Nam sau Cao
Biền, thì giả thuyết ấy e rằng không đúng !

Vì cái chức An Nam Đô Hộ Sứ
chỉ được đặt ra về đời Vua Cao Tôn nhà Đường, đồng thời với danh từ An Nam Đo Hộ
Phủ.

Nhưng đến khi Cao Biền đánh thắng được quân Nam Chiếu, nước ta trở
lại nội thuộc nhà Đường, thì vua Đường lại đổi An Nam làm Tỉnh Hải và phong cho
Cao Biền làm Tiết Độ Sứ.

Do đấy mà chúng tôi tin rằng ngôi Mả Táng Treo
chỉ có thể được an táng từ trước ngày Cao Biền qua nước ta, căn cứ vào số quan
Trung Quốc “Thiên Triều” phải qua đây, trong những thời kỳ nước ta bị Bắc thuộc,
không đời nào còn thấy có chức An Nam Đô Hộ Sứ nữa !

Tóm lại chúng tôi
không tin rằng : ngôi mả táng treo, được táng sau thời Cao Biền đem binh sang
đánh quân Nam Chiếu, vì một lẽ dể hiểu : nếu được thấy kiểu đất ấy thì một người
tinh thông phong thủy như họ Cao, có đâu lại chịu bỏ qua, nhường chốn cát địa
cho người khác hưởng thụ.

Nhưng ngôi mộ nếu đã không được táng trong
thời kỳ Cao Biền sang bình định nước ta, thì mả ấy được táng từ đời nào ? trước
đấy hay sau đấy.

Điều đáng cho ta thắc mắc nhiều hơn hết là cái chức An
Nam Đô Hộ Sứ của Vũ Hồn, vì như chúng tôi đã trình bày trong kỳ trước : Xứ Giao
Châu chỉ được đổi tên là An Nam từ đời Vua Cao Tôn Nhà Đường cũng như chức vị Đô
Hộ Sứ, chỉ được đặt trong thời gian ít năm gần đây, cho đến khi Cao Biền dẹp tan
quân Nam Chiếu, dâng biểu về triều báo tiệp, thì vua Đường lập tức đổi An Nam là
Tỉnh Hải, và đặt ra chức Tiết Độ Sứ để cai trị nước ta.

Nếu bảo khu đất
“Cửu Thập bát Tú triều dương” và làng Mộ Trạch, còn là những vùng hoang địa cho
đến khi Cao Biền đi qua thì thật là vô lý !

Một nhà phong thủy kỳ tài
lỗi lạc như Cao Biền, lại mang nặng chiếu mạng của vua Đường : phải triệt hạ
trấn yểm cho kỳ hết, những kiểu đất trong những miền sơn thủy kỳ khu, quy tụ
long mạch đế vương, hay công hầu, khanh tướng, thì có bao giờ lại chịu bỏ qua
một kiểu đất văn học tuyệt vời như nơi có ngôi mả táng treo của Vũ Hồn và nơi
quy tụ con cháu dòng họ Vũ tức là làng Khả Mộ, mà theo tài liệu ghi chú trong
gia phả họ Vũ, sau được đổi tên là làng Mộ Trạch. Nhất định Cao Biền không thể
nào giữ thái độ thản nhiên, bất động như thế được.

Một là nhà địa lý tài
ba ấy phải chiếm đoạt lấy, để an táng hài cốt tổ phụ, nhất là vào hoàn cảnh của
họ Cao lúc đó, đang bị kẻ thù âm mưu hãm hại, tìm đủ cách sàm tấu với triều đình
thì một nhân vật lổi lạc văn võ song toàn, trí mưu gồm đủ như Cao Biền, rất có
thể xưng hùng một cõi bằng cách tạo lập riêng biệt cho mình một sự nghiệp, bắt
đầu bằng ngôi mả “Cửu Thập bát Tú”, và sau đó, dùng làng Mộ Trạch để quy tụ con
cháu làm vây cánh, há không phải là mưu kế vạn toàn sao ?

Hai là, nếu
Cao Biền không muốn hoạt động cho sự tư lợi của mình, thì chiếu theo chiếu mạng
của nhà vua, nhà phong thủy đó cũng phải phá huỷ kiểu đất, triệt hạ long mạch,
để không cho một ai, lợi dụng khu cát địa ấy, ngóc đầu lên được ?

Vậy mà
cả hai giải pháp trên, đều không được Cao Biền xử dụng, thì đủ hiểu vùng đất đai
kỳ tú đó đã có chủ từ lâu, hoặc giả Cao Biền không hề được đặt chân đến vùng
Lương Đường, Ngọc Cục một lần nào hết !

Đặt giả thuyết là ngôi mả táng
treo được an táng từ khi bắt đầu có chức Đô Hộ Sứ và xứ Giao Châu được mang tên
là xứ An Nam, nghĩa là vào đời vua Cao Tôn nhà Đường bên Tàu.

Đồng thời
ta cũng cứ tạm tin Vũ Hồn là quan Đô Hộ Sứ đầu tiên do nhà Đường bổ nhiệm sang
cai trị đất An Nam, theo như lời ghi chú trong gia phả họ Vũ mà tài liệu còn
được đặt thờ trên ngai, mặc dầu trong sử sách, chúng tôi đã tốn công tra cứu,
không hề thấy một viên quan văn võ, lớn nhỏ nào của nhà Đường, được phái qua đất
An nam, mang họ Vũ, chứ đừng nói là chức Đô Hộ Sứ, một chức vụ nếu chúng tôi
không lầm, không thua kém gì chức Thái Thú về trước, hay chức Tiết Độ sứ sau
này, cũng do nhà Đường đặt ra.

Nếu tạm tin là có quan Đô Hộ Sứ Vũ Hồn,
từ bên Tàu qua cai trị đất này, rồi đặt thêm một câu hỏi phụ : họ Vũ đóng doanh
trại ở đâu mà lại có thể tìm được kiểu đất ” Cửu Thập bát Tú triều dương” và
làng Mộ Trạch để có thể sau đấy, về triều đình xin phép nhà vua cho di cư con
cháu qua An nam lập nghiệp ?

Thời gian tìm kiếm được đất, trở về Tàu,
rồi lại qua An Nam, theo sự chuyển vận ngày xưa, đường lối giao thông không
thuận tiện, nào qua suối băng rừng, nào trèo non, vượt bể liệu mất bao nhiêu
ngày tháng ?

Đó là chưa kể đến những sự trở ngại khác, rất có thể xãy
ra, về phương diện chính trị, cho một viên quan nhận mệnh vua đi trấn nhậm
phương xa chưa làm được điều gì đặc biệt đã lại về triều xin đem con cháu qua
lập nghiệp ở nơi mình đang cai trị, thì há không sợ nhà vua nghi ngờ, và các bạn
đồng liêu dị nghị rồi tìm cách ngăn cản sao ?

Ai cũng biết rằng cái nghề
làm quan ỡ bên Tàu, một khi được bổ đi trấn nhậm các vùng bị nội thuộc là có một
cơ hội làm giàu chắc chắn, tha hồ mà vơ vét, đục khoét, làm mưa, làm gió với đám
dân đen bản xứ !

Vậy thì trước miếng mồi ngon béo bở ấy, các triều thần
văn vỏ nhà Đường, đâu có dại gì mà để cho Vũ Hồn được độc quyền hưởng thụ
?

Mà không những chỉ hưởng thụ một mình, Vũ Hồn lại còn về đem con cháu,
họ hàng qua An nam lập nghiệp, một cách quá dể dàng, khiến cho giờ đây, khi đọc
đến đoạn này, người ta đã phải bâng khuâng tự hỏi : Trong thời đại phong kiến
cực thịnh, vấn đề di dân lại thực hiện nhanh chóng đến thế sao ?

Nếu
tính cộng tất cả thời gian từ lúc Vũ Hồn sang An Nam làm Đô Hộ Sứ, cho đến khi
tìm được đất về Tàu, xin nhà vua đem con cháu qua thành lập làng Mộ Trạch, rồi
lại tiếp tục cai trị dân An Nam, cho đến lúc chết để được mai táng trong kiểu
đất Cửu Thập Bát Tú triều dương, thì thời gian tổng cộng đó là mấy năm ?, mà đến
khi Cao Biền qua đấy, mọi việc đã đâu vào đấy cả rồi, nghĩa là đã có ngôi mả
táng treo và làng Mộ Trạch đàng hoàng rồi, khiến cho Cao Biền đành chỉ còn nhìn
kiểu đất mà tỏ ý tiếc hận.

Qua mấy kỳ vừa rồi, chúng tôi đã trình bày
những nghi vấn về thời gian chính xác, của ngôi mả táng treo, và tin rằng, nếu
Vũ Hồn có quả là người Trung Hoa thật sự, được làm quan tới chức Đô Hộ Sứ, thì
ngôi mả ấy phải được táng trong khoảng thời gian từ năm quan Đô Hộ Sứ Khâu Hòa
được bổ qua đấy đến năm quan Đô Hộ Sứ (sau là Tiết Độ Sứ) Cao Biền đem quân sang
đánh quân Nam Chiếu, mặc dầu trong số các quan lại nhà Đường (xin nhắc lại thêm
một lần nữa) đặt chân lên đất An nam , không hề có một ai mang họ Vũ hết, kể cả
các quan lớn, nhỏ văn, võ ! 


Vả lại, nếu tài liệu được ghi trong gia phả của họ Vũ là
đúng, thì Vũ Hồn đã xuất chinh làm quan to từ trước khi thấy kiểu đất Cửu Thập
bát Tú triều dương và vùng Khả Mộ, nghĩa là họ Vũ vẫn là một thế gia lệnh tộc ở
Trung Quốc từ lâu rồi, chứ đâu phải do kiểu đất Cửu Thập bát Tú triều dương đem
lại được sự kết phát, tạo ra cho Vũ Hồn cái địa vị vinh quang, hiển hách ấy
?

Vậy thì những linh khí nhật nguyệt, kết tụ thành kiểu đất đặc biệt, có
một không hai ở dưới gầm trời này, há chẳng bị giảm mất một phần nào sự hiệu
nghiệm ư ?

Rút kinh nghiệm của những kiểu đất quý báu từ xưa tới nay, mà
sự kết phát kỳ dị, qua những hiện tượng lạ lùng, có khi gần như hoang đường,
quái đản, đã được phổ biến sâu rộng trong dân gian, khiến cho những giai thoại
ấy được truyền tụng, thông thường không kém gì những câu ca dao tục ngữ, hoặc do
tự chúng tôi sưu tầm được, thì những kiểu đất đặc biệt, phần nhiều điều đem lại
sự kết phát rất bất ngờ, huyền diệu : từ dây rơm, áo vải đến mũ mảng, cân đai,
từ hàn sĩ, không có đất cắm dùi, đến ông Nghè, ông Bảng nghênh ngang, võng lọng
chớ ít khi thấy một kiểu đất quý đem lại sự kết phát cho một gia đình, đang được
kết phát như trường hợp của quan An Nam Đô Hộ Sứ Vũ Hồn lúc mới được bổ nhiệm
qua đây.

Hơn thế nữa, các Cụ nhà ta trước kia, mỗi khi có cơ hội đề cập
đến chuyện mồ mả, đất cát, thường bao giờ cũng đem câu : “Tiên tích đức, hậu tầm
long” ra, để khuyên bảo con cháu, không phải dụng ý khuyến thiện : cần phải tu
nhân, tích đức, làm điều lành, tránh điều dữ trước đi, rồi sau mới có thể nghĩ
đến truyện tìm thầy địa lý để nhờ kiếm cho một kiểu đất kết phát !


đời, ai cũng biết đồng tiền có sức mạnh vô biên !

Vì đồng tiền, người ta
có thể thay đen, đổi trắng, vẻ phấn bôi son mặc sức mua danh, bán lợi theo ý
muốn của mình !

Nhưng riêng về việc mồ mả, đất cát thì đồng tiền quả
thật không tạo được nổi một mảy may ảnh hưởng nào dù cho những nhà đại phú giàu
có vào loại Thạch Sùng, Vương Khải ngày xưa, cũng đành tâm bó tay chịu phép,
không thể ỷ mình dư vàng ngọc, dư tiền bạc, để mà tha hồ mượn thầy địa lý tìm
những kiểu đất quý báu, hầu hy vọng một sớm, một chiều, từ địa vị phú hộ, nhảy
lên quan lớn, muốn chém giết ai tùy thích
!

************************************************** ****

Lão
còn phân trần rành rẻ cho mọi người khỏi nghi ngờ thắc mắc :

– Sở dĩ lão
muốn dùng kiểu đất có một không hai ở dưới gầm trời này, để an táng hài cốt họ
Vũ, mà không chiếm đoạt lấy cho riêng mình, là vì lão đã biết chắc rằng tổ tiên
họ Vũ rất dày âm công, phước trạch, nên Trời Phật mới dành riêng kiểu đất ấy cho
họ Vũ, không một ai được phép xâm phạm.

Vả lại, Vũ Nghĩa là con trai thứ
của Vũ Hồn, từ nay đã mang họ Vương, là con nuôi của lão, thì nhiều ít, dù muốn,
dù không, sau này vận mạng của nó cũng phải liên hệ với mộ phần thân phụ
nó.

Như vậy, lão dù có tặng họ Vũ kiểu đất đặc biệt song nghĩ cho cùng
không thiệt thòi gì, vì chính con nuôi lão (Vũ Nghĩa) cũng được hưởng thụ một
phần phước trạch của ngôi mả kết phát.

Trần thị vui vẻ bằng lòng. Họ
Vương chọn ngày cải táng xong xuôi, rồi đem Vũ Nghĩa, nay đổi là Vương Nghĩa về
Tàu !

Trần thị nhắn tin mời thân phụ nàng qua chơi để tiếp đải họ Vương,
hầu tránh những lời dị nghị của dân làng, vì dù đã có hai con với Vũ Hồn, lại
thêm mang vòng khăn tang trên đầu với chuổi ngày buồn tẻ của kiếp sống vị vong,
người trong thôn xóm cũng vẫn không quên mối tình duyên ngắn ngủi giữa nàng với
thầy lang họ Vương năm trước.

Đêm hôm ấy, nhân bàn đến chuyện cải táng
Vũ Hồn, họ Vương vui miệng, đã thú thật các việc đã qua : từ khi lão theo dõi
long mạch cho đến lúc tìm thấy huyệt quý, nhưng thử đi, thử lại nhiều lần, lão
đành khoanh tay khuất phục số mạng, không sao cưỡng nổi mệnh trời, vì qua bao
nhiêu hiện tượng quái đản, dị kỳ, lão tự biết, nhà mình bạc phước, chưa đủ âm
công hưởng thụ kiểu đất kết phát hiển hách đó, mà Thượng Đế đã dành riêng cho Vũ
Hồn.

Lão cũng không dấu những sự hiển linh ghê ghớm, khi bị sét đánh
trúng tróc long, một mảnh lực huyền ảo nào đó đã phá tan luôn cả bùa phép, ngăn
cản không cho lão hô thần, chiêu tập âm binh, và sau đấy, còn báo mộng cho lão
biết lòng trời, chỉ ban kiểu đất cho họ Vũ, ai cố tình chiếm đoạt nhất định sẽ
gặp tai họa.

Nghe lão thuật chuyện người nông dân xuất hiện, giữa một
cơn mưa gió, gió mưa tầm tả, lúc lão phải vào tạm trú trong miếu cô hồn, để mách
bảo rành mạch cho lão biết đích xác danh tánh người được hưởng thụ phước trạch
của thánh thần, cả hai cha con Trần thị cùng ngơ ngác nhìn nhau nhu dò hỏi,
nhưng cả hai đều không biết người nông dân kỳ dị ấy là ai, mặc dù họ Vương đã
phác tả lại rõ ràng tỷ mỷ nét mặt và giáng điệu của người nông dân lạ lùng
đó.

Cả hai cha con cùng một lượt, điểm danh dân làng ở từng thôn, từng
xóm, xem có ai vào cở tuổi ấy, có tầm vóc người và nét mặt như thầy lang vừa
phác tả.

Song họ chỉ thất vọng, ngao ngán nhìn nhau, lắc đầu, vẻ băn
khoăn in hằn trên hai khuôn mặt một già, một trẻ !

Thấy thế, họ Vương
chỉ còn biết kết luận mơ hồ : đó có lẻ là thổ thần hiển linh, chứ nếu là người ở
trong vùng thì cha con họ Trần, vốn là dân sở tại, lẻ tất nhiên phải biết chứ có
lý đâu lại chẳng có thể nào đoán ra được là ai ?

Họ Vương thuật tiếp đến
sự dò hỏi cố tìm cho kỳ được Vũ Hồn.

Lão thú thật: Khi chưa tìm thấy họ
Vũ , thâm tâm lão vẫn hoài nghi, không tin chắc sự hiển linh của thổ thần mách
bảo, cũng như sự tiết lộ dị kỳ của người nông dân ở miếu Cô hồn. Nhưng đến khi
tìm được Vũ Hồn, mướn được họ Vũ về làm quản gia cho tiệm thuốc, nhất là sau
nhiều cuộc dò xét kín đáo, biết được rõ ràng về lai lịch, gốc tích cùng nền tảng
âm công, tu nhân tích đức của tổ tiên họ Vũ thì lão mới thật sự giật mình, hoảng
kinh hồn vía trước lẻ trời huyền bí, và bàn tay an bài kỳ diệu của Hóa Công. Nhờ
đấy, lão mới tự nguyện, khấn vái cùng thánh thần, xin tuân theo mệnh trời,
nhường kiểu đất quý đã tìm được cho Vũ Hồn, mà chỉ xin ghé hưởng một phần phước
trạch.

Qua bao nhiêu đêm thao thức không ngũ, lão suy tính kỷ lưỡng, để
tìm cơ mưu thực hiện ý định trên. Mãi sau mới suy nghĩ được cách mượn giống,
nghỉa là cố sức gầy dựng cho Vũ Hồn sớm thành gia thất, rồi xin một đứa con họ
Vũ đem về Tàu làm con nuôi cho mang họ Vương chính thức. Như vậy, vừa nên tình,
nên nghĩa, lại vừa tạo được phước trạch cho riêng họ Lão mà vẫn không trái với
lòng trời.

*** HẾT ***

( Tài liệu của ANNE NGUYỄN – Đăng bên
TUVILYSO. ) BÀI THỨ HAI SƯU TẦM

Mộ
Trạch: Làng Tiến Sĩ“Làng Mộ Trạch
thì nặng bằng một nửa thiên hạ” (Vua Tự Đức)

Đó là làng Mộ Trạch, xã Tân
Hồng huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Một làng nhỏ có tới 36 tiến sĩ, nếu kể cả
ba vị do các cơ sở khoa học Trung ương và tỉnh phát hiện nhưng các cụ của làng
còn đang đối chiếu với ngọc phả hương thôn và tộc phả các dòng họ thì là 39.
Dường như hỏi bất cừ người dân trưởng thành nào trong huyện về làng tiến sĩ là
được chỉ tới nơi đây. Vào làng hỏi bất cứ công dân trưởng thành nào cũng được kể
cho nghe về xuất xứ tên gọi cũng như người khai sinh ra bờ tre ngõ lối của
làng!

Kể rằng:

Vũ Công Huy là quan chức đời Đường đã sáu mươi
tuổi vẫn không con cái. Quá buồn chán, Vũ Công Huy cáo từ quan và xin phép vua
Đường cho du hành về phương Nam. Thấy đất Thanh Lâm nay là vùng Nam Sách, Hải
Dương có nhiều gò đống rất đẹp và linh thiêng ngài bèn đem hài cốt cha sang mai
táng. Rồi Vũ Công Huy gặp một người con gái nết na, thuỳ mị, xinh xắn nhất vùng
tên là Nguyễn Thị Đức bèn lấy làm vợ. Họ đưa nhau trở về Trung Quốc. Năm 804 vợ
chồng sinh hạ một người con trai tuấn tú đặt tên là Vũ Hồn. Năm bảy tuổi Vũ Hồn
đã đọc thông viết thạo. Năm mười hai tuổi học đâu nhớ đấy. Năm mười tám tuổi thi
đình đỗ cao, được bổ làm quan, rồi được vua Đường phong chức Đô Ngự xứ ở quận
Giao Châu tức Việt Nam ta lúc đó còn đang trong thời kỳ Bắc thuộc.Đô Ngự xứ Vũ
Hồn đi kinh lý thấy vùng đất Bách nhạn hồi sào ở vùng Bình Giang ngày nay, cho
rằng nơi đây mến mộ lòng người, dân chúng có thể phát về đường khoa cử bèn lập
ấp đem mẹ từ phương Bắc sang nuôi dưỡng và gọi vùng đất này là Khả Mộ. Tên có từ
ngày ấy. Dần dần lưu truyền đời con đời cháu đọc chệch đi nên làng mang tên Mộ
Trạch như ngày nay.

Mẹ mất. Vũ Hồn đưa về mai táng ở thôn Kiêt Đặc thuộc
vùng núi Phượng Hoàng, Chí Linh bây giờ. Ngày 23 tháng Chạp năm Quý Dậu (853) Vũ
Hồn 49 tuổi không bệnh mà hoá. Dân chúng khiêng đi mai táng gặp buổi chiều mưa
giông sấm sét dữ dội mãi lâu không ngớt đành bỏ về. Sáng hôm sau trời quang mây
tạnh họ ra để tiếp tục công việc thì không thấy thi xác đâu cả. Như là đã biến
thành thần và bay vút lên trời. Dân chúng bèn bẩm tâu lên các quan cai trị. Vua
Đường cho người về xem xét thấy đúng bèn ra sắc phong Dương Cảnh thành hoàng –
Lâu đài cý sĩ. Nhân dân nhớ ơn rước bài vị của vua Đường ban chiếu cùng hương
hồn ông vào đình ngự lẫm ngôi vị thành hoàng của làng.

Con đường đèn
sách

Xứ Đông ngàỵ xưa bao cả vùng đất rộng lớn gồm Hải Dương, Hưng Yên,
Hải Phòng… sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh vào thời Lê và truyền thống học
tập đỗ đạt của con em xứ Đông ngày càng được phát huy, số người đỗ đạt từ thi
hương đến thi hội ngàỵ càng nhiều. Hiện nay 82 bia tiến sĩ còn lại ở Văn Miếu,
Hà Nội, ta dễ dàng tìm thấy phần khá lớn khoa bảng thành đạt thời xưa xuất thân
từ xứ Đông và đặc biệt người làng Mộ Trạch có trên 18 văn bia.

Xét trên
phạm vi đơn vị huyện của xứ Đông, mật độ tiến sĩ tập trung khá cao ở Văn Giang,
Ân Thi, Chí Linh, Thanh Lâm, Đường An, nhưng trong phạm vi một làng xóm thì Mộ
Trạch là điếm sáng rực rỡ mãi mãi toá ánh hào quang từ ngàn xưa cho tới hôm nay.
Làng Mộ Trạch nhỏ bé tới tận năm 1945 mới có xấp xỉ1000 nhân khẩu và hôm nay có
hơn 700 hộ với 2800 nhân khẩu. Ấy vậy mà dưới những năm tháng u tịch của mười
thế kỷ trước đã lần lượt xuất hiện tới 36 vị tiến sĩ, chưa kể đến cử nhân, tú
tài, đứng vào bậc nhất cả nước về trình độ học vấn. Đặc biệt có những khoa thi,
những kỳ thi, sĩ tử ra đi từ làng Mộ Trạch đã giành thành tựu vẻ vang xứng danh
tổ tiên dòng tộc. Ngọc phả của làng cũng như trên bia số 18 tại Văn Miếu – Hà
Nội còn ghi rõ khoa thi năm Bính Thân, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ tư (1656) dưới
thời Lê Thần Tôn và Trịnh Tráng có tới 3000 người dự mà chỉ được chọn đỗ sáu thì
đệ tam giáp làng Mộ Trạch là Vũ Trác Lạc, Vũ Đãng Long, và Vũ Công Lượng, nghĩa
là chiếm tới một nửa những con người thành đạt của cả thiên hạ. Tiếp đến là khoa
thi Kỷ Hợi năm 1659 Mộ Trạch lại có tới bốn người đỗ tiến sĩ là Vũ Cầu Hối, Vũ
Công Đạo, Vũ Duy Hải và Lê Công Triều.

Hầu hết danh sĩ làng Mộ Trạch đều
để lại những tác phẩm văn học có giá trị cho đời sau: Lê Cánh Tuân có Vạn ngôn
thư và 12 bài trong Toàn Việt thi lục. Lê Thiếu Đình có Tiệt trại thi tập. Vũ
Hữu có Đại thành toàn pháp. Vũ Quỳnh có Đại Việt thông giám và Lĩnh nam trích
quái. Vũ Cán có Tùng niên thi tập và Tứ lục bi lâm. Lê Nại có Việt sử thông
giám. Vũ Phương Đề có Công dư tiếp ký 43 tập. Vũ Huy Tấn có Văn tế quân Thanh…
và nhiều người có công với nước hoặc tài trí đặc biệt hơn người được dân gian
lưu danh muôn thuở như: Vũ Nạp, phó tướng của Trần Quốc Bảo đã thay mặt chủ
tướng khi Trần Quốc Bảo tử trận, xông pha giữa mũi tên hòn đạn, chỉ huy quân sĩ
phá tan thế trận của giặc Nguyên trên sông Bạch Đằng bắt sống tướng giặt là Ô Mã
Nhi và Phàn Tiếp. Sau này ông được vua nhà Trần ban cho bài vị Đồng Giang hầu Vũ
tướng công. Hai con trai ông là Vũ Nghiên Tá và Vũ Hán Bi cùng đỗ Thái học sinh
khoa Giáp Thìn (1304) triều vua Trần Anh Tôn. Rồi Lê Thiêu Dĩnh, Lê Thúc Hiển và
con trai là Lê Cảnh Tuân đã vào tận xứ Thanh phò tá Lê Lợi góp phần diệt tan
giặc Minh được liệt vào hàng danh sĩ công thần nhà Lê. Rồi trạng ăn Lê Đỉnh,
trạng chạy Vũ Cương Trực, trạng vật Vũ Phong, trạng cờ Vũ Huyên và trạng toán Vũ
Hữu. Mỗi ông trạng đều có danh tính thật trong sử sách của làng cùng với công
trạng kiệt xuất và sự thêu dệt do lòng ngưỡng mộ tôn kính đời đời.

Làng
Mộ Trạch nghèo. Dân từ ngàn xưa thuần nông cầy cấy, dệt vải, nhưng vẫn hết sức
chăm lo đèn sách. Các bậc già nhất của làng kể lại là làng có quán khảo văn.
Hàng năm, trước khi sĩ tử trảy hội thi hương hay thi đình do Nhà nước tổ chức
đều phải qua kỳ thi làng ở quán khảo văn. Tại đây các môn sinh chẳng những nâng
mình lên trong tầm hiểu biết mà còn làm quen tới cách thức, thể lệ. Những quán
văn ấy của thời xa xưa chắc chắn bằng tranh tre nứa lá không thể tồn tại đến
ngày nay những nó được ghi mãi trong lòng người truyền tụng từ đời này qua đời
khác. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Đức Dực Tôn Anh Hoàng Đế Tự Đức vốn thông minh
hay chữ đã phải thốt lên Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ tức là riêng làng Mộ
Trạch tài năng bằng một nửa thiên hạ.

Gia phả họ Vũ của làng còn ghi một
giai thoại: Lại bộ tả thị lang Nguyễn Văn Phong lục vấn rằng người làng Mộ Trạch
có tý xảo thần thế gì đó mới nhiều người đỗ đến thế. Kỳ thi hương năm Canh Trị
thứ tý (1666) ông xin về xứ Đông làm đề điệu (chủ khảo). Ông cho đào mỗi thí
sinh một hố, trên đắp liếp, người thì ngồi trong đó làm bài. Ông chọn những câu
văn hóc hiểm làm đề thi, lại truyền cho hai ban sơ khảo và phúc khảo chỉ được
chọn những quyển nào viết chữ rõ ràng, không dập xoá, sửa chữa. Quan trường chấm
bài xong, tuyển được ba mươi quyển hợp cách trình quan đê điệu chấm lại. Nguyễn
Văn Phong chỉ lựa được sáu quyển, còn đánh trượt. Sau khi xếp thứ bậc rồi khớp
phách để yết bảng, thì người đỗ đầu là Vũ Văn Hiên, 18 tuổi, đậu ngay giải
nguyên. Người thứ hai lã Vũ Bật Lại. Người thứ ba là Vũ Chấn, đều ra đi từ làng
Mộ Trạch. Ba người kia là của khắp thiên hạ.

Mộ Trạch xưa nhiều người
làm quan là vậy nhưng không giàu. Người dân mang hết nghị lực cho sự nghiệp học
hành của con em mình. Chữ thánh hiền được nâng niu quý trọng. Đàn ông tiêu biểu
của làng là làm quan hoặc làm nghề dạy học. Thầy đồ Chằm (tên nôm làng Mộ Trạch)
nổi tiếng về tài nãng và trọng nhân cách, là thầy dạy dỗ từ bước đi đầu tiên của
bao cử nhân, tiến sĩ. Dân gian quanh vùng có câu: Tiền làng Đọc. Thóc làng Nhữ.
Chữ làng Chằm. Làng Đọc có nghề nhuộm cổ truyền mỗi năm thu hàng bồ tiền của
thiên hạ. Làng Nhữ ruộng nhiều và tốt lắm thóc nhất vùng. Còn làng Chằm, như ta
đã biết, nổi tiếng hay chữ, nhiều người đỗ đạt cao và thầy đồ học sâu hiểu rộng.
Tại các cuộc thi thử hay quán khảo văn của làng, các bậc đại nho nghiêm khắc với
bài vở và phong độ của những người ôm chữ thánh hiền là các môn sinh. Khuyến
khích nhau hoc hành chuyên cần, nghiêm túc, có hệ thống đã trở thành nếp sống
văn hoá mang truyền thống đặc sắc và là nguyên nhân quan trọng bậc nhất tạo sự
thành đạt cho các môn sinh làng Mộ Trạch.

Nơi an toạ của các vị
thần

Đó là đình! Giữa vùng địch hậu Liên khu Ba suốt thời kháng chiến
chống Pháp thật hiếm thấy còn có ngôi đình đồ sộ với đây đủ tiền cung, hậu cung,
các hoành phi câu đối, vững vàng hàng cột lim vòng tay người ôm mới xuể trên
từng trụ đá. Đình thờ thần hoàng Vũ Hồn có công lập ra làng Khả Mộ và đem chữ
thánh hiền từ phương Bắc về tận nơi đây. Tới triều Lê Mạt các cuộc khởi nghĩa
nổi lên khắp nơi trong đó có cuộc khởi nghĩa vang dội của quận He Nguyễn Hữu
Cầu. Đình bị tàn phá. Bà Nhữ Thị Nhuận là người rất có tâm huyết với dân, với
nước, thấy vậy liền bỏ tiền ra tu chỉnh ngôi đình. Bà là người tài ba lỗi lạc
thương nước thương dân nên khi có giặc cướp nổi lên ở trấn Nghệ An vua liền cử
bà vào dẹp giặc. Đội quân của bà toàn nữ. Giặc cướp trông thấy cờ hiệu nữ tướng
Nhữ Thị Nhuận thì lần lượt tan rã hoặc bỏ vũ khí đầu hàng. Bà còn đùng cây quế
chữa bệnh cho dân nghèo nên được vua phong Quận quế phu nhân và được dân phong
là hậu thần có bia ở cạnh đình.

Đình làng Mô Trạch có tới 12 sắc phong
của các triều vua và hiện nay vẫn còn giữ được tám. Đình được Nhà nước ta công
nhận di tích văn hoá ngày 2 tháng 4 năm 1991.

Thăm đình làng Mộ Trạch
sau khi ghi nhận những bản sắc văn hoá của kiến trúc ta dễ chú ý tới những tên
tuổi đã vĩnh hằng tồn tại qua năm tháng. Danh sách 36 tiến sĩ được treo trang
trọng. Tiếp đến là danh sách năm vị tiến sĩ có công bảo vệ Tổ quốc. Đó là cụ Vũ
Nạp như đã đề cập tới. Tiếp đến là Lê Thiêu Dĩnh tham gia khởi nghĩa Lam Sơn
dưới cờ nghĩa của Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Ông trở thành công thần nhà Lê và từng
được cử cầm đầu đoàn sứ bộ sang Trung Quốc. Người thứ ba là cụ Vũ Dự dưới thời
Lê Trịnh đã cùng Cường quốc công Nguyễn Xí năm 1459 trừ bọn gian thần Phạm Bàn,
Phạm Đôn đưa vua Lê Thánh Tôn lên ngôi mở đầu thời kỳ Hồng Đức phát triển rực rỡ
nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Thời Lê trung hưng có cụ Vũ Trác Oánh
lãnh đạo nông dân Hải Dương nổi lên chống tham quan ô lại. Người thứ năm là cụ
Vũ Tấn, đỗ phó bảng năm Ất Mùi 1778 từng phụng mệnh vua Quang Trung đi sứ nhà
Thanh.

Dân Mộ Trạch say sưa kể lịch sử ngôi đình – một di tích lịch sử
văn hoá đồng thời ai ai cũng có thể kể về năm tiến sĩ biệt tài được phong trạng.
Trạng ăn: Lê Nại, Trạng cờ: Vũ Huyên, Trạng Vật: Vũ Phong, Trạng Toán: Vũ Hữu,
Trạng chạy: Vũ Cương Trực.

Con đường hôm nay

Chúng tôi về thăm
làng Mộ Trạch vào buổi chiều một ngày cuối năm. Ai cũng bận rộn. Bí thư Đảng uỷ
xã Vũ Xuân Đoàn, trưởng thôn Vũ Huy Tuệ, phó Chủ tịch hội Cựu chiến binh Vũ Quốc
Ái, cùng nhiều cán bộ và bà con thôn xóm vừa kế chuyện vừa đưa chúng tôi đi thăm
đình, thăm miếu.

Làng hôm nay có 13 dòng họ nhưng dòng họ Vũ đông hơn cả
và thành đạt hơn cả. Một ngàn năm trôi qua chi nhánh của họVũ toả đi khắp nơi,
đỗ cao thành đạt khắp nơi, nhưng đâu đâu cũng nhớ về tổ tiên Vũ Hồn một thời
khẩn hoang lập làng, lập xóm. Sử sách còn ghi lại thuỷ tổ họ Đặng Vũ ở làng Hành
Thiện, Nam Định là Đặng Vũ Thiên Thế do làm con nuôi họ Đặng mà được mang họ như
vậy. Và khi Vũ Hồn được vua Đường cử sang làm Đô hộ xứ Giao Châu ông cũng để lại
một chi ở vùng Phúc Kiến, Trung Quốc. Khi ông Đặng Quốc Kiều con cháu họ Đặng
Vũ, Nam Định tham gia Việt Nam Quang phục hội theo tìm cụ Phan Bội Châu ở Nhật
Bản đúng lúc Chính phủ Nhật trục xuất sinh viên Việt Nam. Ông Kiều chạy sang
Trung Quốc và đến Phúc Kiến tìm lai lịch con cháu Vũ Hồn tại nơi đâỵ. Bà con họ
Vũ đã tiếp đón ông vô cùng niềm nở, vui mừng vì đã trên ngàn năm, con cháu dòng
tộc họ Vũ ở hai chi, một chi Trung Quốc, một chi Việt Nam, mới gặp lại nhau.
Biết ông còn tiếp tục sang Xiêm La (Thái Lan) hoạt động Cách mạng họ đã giúp ông
khoản tiền lớn để đi đường và bố trí giúp ông vào làm bồi cho một gia đình người
Âu tại Vọng Các (Băng Cốc).

Đời sống dân làng đổi thay nhanh chóng.
Người đói không có và tỷ lệ gia đình nghèo chỉ còn năm phần trăm. Con cháu làng
Mộ Trạch nay toả khắp nơi trong nước và ngoài nước làm ăn và khá nhiều người
thành đạt. Dân Mộ Trạch có truyền thống lấy ngày 8 tháng Giêng Âm lịch hàng năm
làm hội làng. Ngày hội làng vừa qua có chương trình độc đáo gọi là tôn vinh tiến
sĩ. Những tiến sĩ thời nay! Những người có học hàm học vị và cả những người có
thành tựu lớn lao trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội và kinh tế. Người ta nhắc
đến những tên tuổi như tiến sĩ Vật lý nguyên tử ở Nhật Bản Vũ Khắc Thịnh, Giáo
sý tiến sĩ Vũ Tuyên Hoàng, nhà giáo Vũ Đình Liên, cụ Vũ Đình Hoè từng làm Bộ
trưởng Bộ Tư pháp dưới thời Cụ Hồ, tiến sĩ Vũ Phương Nghi ở Pháp gửi thư về có
đoạn viết: Có thể nói, nhờ lòng tự hào về làng Mộ Trạch mà tôi đã phấn đấu vươn
lên mọi khó khăn để đạt bằng tiến sĩ văn học ở Paris.

Chúng tôi tới làng
Mộ Trạch đúng vào dịp đài truyền hình vừa làm đoạn phim phóng sự về anh thương
binh Vũ Hồng Quang. Anh bị cụt tay trái, cụt bốn ngón của bàn tay phải và nhiều
vết khác trên mình với loại thương tật một trên bốn. Hoàn cảnh gia đình khó khăn
nhưng anh Quang đã gắng hết sức nuôi nấng con cái trưởng thành. Ba con đều tốt
nghiệp đại học, hai con tốt nghiệp cao đẳng và gần đây con gái Vũ Thị Đào của
anh đã bay sang Pháp làm luận án tiến sĩ. Ngày nay ở làng Mộ Trạch chẳng ai ngây
thơ làm việc xây lại Quán khảo văn hay Kỳ Anh Hội lão nhưng nhà nào cũng có chỗ
học cho con cái, cũng động viên thế hệ trẻ noi theo truyền thống cha ông mà nắm
lấy tri thức phục vụ cho đất nước, làm vẻ vang cho gia đình, họ tộc và thôn xóm.
Đặc biệt họ Vũ ở Mộ Trạch xưa và nay đều chiếm đầu bảng về học hành đỗ đạt. Họ
Vũ có nhiều nhà thờ. Nhưng chỉ có một nhà thờ được lấy tên là Thế Khoa Đường do
vua Lê phong tặng vì có ba người nối dõi liên tiếp đều là con trưởng thi đỗ tiến
sĩ. Con cháu họ Vũ nói riêng và con em làng Mộ Trạch nói chung đang say sưa lao
động xây dựng thôn xóm, xây dựng cuộc sống, và gắng hết mình học hành để vươn
lên tầm cao mới của trí tuệ. 

Vừa rồi , dienbatn cùng với Nguyên Vũ với hai vợ chồng một
thân chủ có dịp vào nghiên cứu mộ tổ dòng họ Vũ ( Võ ) tại Nam sách – Hải dương
. Mời các bạn cùng tham quan nhé .

Posted Image

Mộ nằm cách
đường vào Thị trấn Nam sách – Hải dương khoảng 300 m về tay trái nếu từ Đò Hàn
đi lên .

Posted Image

MỘ DÒNG HỌ
VŨ ( VÕ ) NẰM TRÊN GÒ ĐẤT CAO NHẤT NGAY TRUNG TÂM LONG HUYỆT LA THÀNH VIÊN CỤC
.

Posted Image

CÁC BẬC THANG DẪN LÊN ĐỈNH MỘ .

Posted Image 


HÀNG LOẠT GÒ ĐỐNG NỔI LÊN TRÊN CÁNH ĐỒNG DO KHÍ DƯ CỦA LONG
MẠCH ĐẨY THẲNG LÊN THEO CHIỀU ĐỨNG . ĐÂY LÀ MỘT LONG MẠCH CÓ KHÍ ĐI NGẦM , CHỈ
NỔI LÊN THẲNG ĐỨNG TẠI ĐÂY , DO VẬY KHÔNG BỊ TÀN PHÁ BỞI CON NGƯỜI THEO THỜI
GIAN . ĐÓ CŨNG CHÍNH LÀ LÝ DO LONG HUYỆT NÀY TỒN TẠI SUỐT GẦN 1.200 NĂM
.

Posted Image


PHÍA MẶT BIA KHẮC BẰNG HÁN VĂN
.

Posted Image

MẶT BIA
KHẮC BẰNG VIỆT VĂN .

Posted Image

MẶT BIA KHẮC BẰNG PHÁP VĂN .



Posted Image 


DIENBATN VÀ NGUYÊN VŨ .

Posted ImageTOÀN CẢNH MỘ VŨ HỒN
.

Posted Image

NGƯỜI TA ĐANG PHÁ HOẠI MỘT LONG MẠCH LỚN CỦA ĐẤT NƯỚC , MỘT
” TIẾN SĨ SÀO ” , BẰNG CÁCH ĐỔ RÁC RA CÁNH ĐỒNG .

Posted Image

Posted Image

Posted Image

PHÁ HOẠI BẰNG CÁCH ĐÀO AO CÁ PHÁ VỠ KẾT CẤU LONG MẠCH
.

Posted Image


LÒ GẠCH ” LUÔN LUÔN ĐI CÙNG NĂM THÁNG ” VỚI LONG HUYỆT
.

Posted Image

SOS, SOS, SOS – HÃY CỨU LẤY TIẾN SĨ SÀO
.

dienbatn . – Trong truyện có nói đến mả táng treo, với cách thức an
táng vô cùng lạ, không hề giống kiểu an táng thông thường nào; mà xem trong bức
hình thì mộ cụ VH lại được an táng theo kiểu thông thường?

Theo sách cũ
viết lại , ngôi mộ này táng theo kiểu , bốn đầu góc quan tài được treo lên bốn
cột sắt và giằng lại bằng xích . Sau đó mới phủ đất lên trên . dienbatn cũng
không rõ là thực hay hư vì không có tư liệu phản bác nào khác . Thực tế thấy
Huyệt mộ này Khí phát mạnh mà trầm , ấm . Đứng gần thấy rất sảng khoái
.

– Theo cách nghĩ phổ biến, nội minh đường nên có nước, và mức độ dồi
dào của nước chỉ mức độ giàu sang. Đồng thời đó cũng là dấu hiệu thủy tụ có thể
nhìn bằng mắt thường. Tuy nhiên, không chỉ có mộ của cụ Vũ Hồn mà KV còn thấy
một số ngôi mộ khác cũng phát Văn…, táng ở đồng ruộng, thì theo anh có hội yếu
tố đó không? Hay tính nước ở xa hơn, hay những ngôi đó phát thanh
bạch?

Tùy theo tính chất của Long mạch mà vấn đề nước quan trọng đến mức
độ nào . Bạn nên nhớ , Long mạch này đi rất sâu , tới vùng cánh đồng này mới
trồi lên theo chiều thẳng đứng, cứ như một bông sen từ dưới bùn mọc lên . Chính
vì vấn đề đó mà Long mạch này ít bị con người tàn phá hơn là những Long mạch nổi
, chạy theo hình con rắn trên cánh đồng . Điều này cũng chính là nguyên nhân
Long Huyệt kết phát tới gần 1.200 năm mà vẫn còn sung mãn .Trong trường hợp này
, đào ao cho Thủy tụ , không những không có lợi mà chính là phá cách cục của
Long Huyệt . Lý thuyết luôn màu xám – Chỉ có cây Đời mãi mãi xanh tươi
.Tài liệu thư dịch dân gian đầu tiên chép về Vũ Hồn đó là bản
ngọc phả lưu ở miếu thờ thần tổ Vũ Hồn làng Mộ Trạch. Bản ngọc phả này có thể
sao lại từ bản được nội các Bộ Lại sao vào ngày tốt, tháng trọng thu (tháng 8),
năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740) từ chính bản do Hàn lâm lễ viện, Đông các đại học sĩ
Nguyễn Bính soạn vào ngày tốt, tháng mạnh xuân (tháng Giêng) năm Hồng Phúc
nguyên niên (1572). Bản sao ngọc phả hiện nay có thể thuộc thế hệ thứ 6 hoặc thứ
7 ?

Ngọc phả có đoạn viết:… Năm Tân Mùi, thời Đường, Đức Tông
đặt Triệu Xương làm (Giao Châu) Đô hộ (sứ), lúc đó có một người ở phủ Thường
Châu (Trung Quốc) gia truyền y bát, nối được nghiệp nhà tên là Vũ Công Huy;
đường làm quan của ông hiển đạt. Vợ cả là Lưu Thị Phương đã ngoài 60 mà trong
mộng chưa thấy hùng bi, ngoài cửa chưa treo cung hồ thỉ (chưa có con trai). Cảnh
muộn mằn khiến ông buồn rầu không vui, thường than rằng; Vàng núi, thóc bể khinh
như cỏ rác; con hiếu cháu hiền trọng như vàng ngọc. Ông bèn tạ ơn triều đình trả
chức xin hồi hương. Vua Đường chuẩn y, lại cấp cho ông xe ngựa, châu báu. Ông về
quê sống cảnh ab nhàn cùng làng xóm. Ông lại tinh thông phong thủy, thong hiểu
phép địa lý chính tông.

Lại có thuyết nói rằng: Có thời gian
ông (Huy) sang Nam Việt vãng cảnh sơn thủy, khi đến trang Mạn Nhuế, thuộc huyện
Thanh Lâm, trấn Hải Dương thấy một khu đất có thế sơn thủy bao quanh, long hổ
cùng chầu lại. Ông lập tức quay về đem cốt của tổ tiên sang táng vào khu đất ấy
tại xứ Đống Già (tức Đống Rờm).

Thủa ấy ở trang Mạn Nhuế có
người con gái tên là Nguyễn Thị Đức tuổi vừa đôi tám, tính hạnh đoan trang, ngôn
dung uyển nhã; nếp nhà thi lễ, truyền đã nhiều đời.Ông lấy làm bằng lòng mà yêu.
Tự nói rằng: Nàng mày ngài, má đào, lưng liễu dáng vẻ như tiền thực là quốc sắc.
Phúc địa (đất phúc) sinh phúc nhân quả không sai.

Ông bèn mượn hồng điệp
đưa mối cầu hôn. Nàng tới tuần cập kê, thật là thiên lý kỳ duyên. Hai người cùng
nhau kết tóc se tơ thành chồng vợ. Từ đó ông tạm cư ngụ ở nơi quê
ngoại.

Được hơn một năm, có lần Nguyễn Thị Đức mộng thấy người
thần đem quả đào tiên, nàng nuốt lấy; sau tỉnh dậy rồi nói chuyện với chồng. Ông
nói rằng: Đó là điềm lành. Vợ chồng bèn đưa nhau về Bắc quốc.

Từ đó
Nguyễn Thị Đức mang thai. Đến ngày 8 tháng giêng, năm Giáo Thân, đêm ấy có một
đám mây vàng hình tròn như chiếc tán che phủ trước sân, rủ xuống tới đất. Nguyễn
Thị sinh hạ một thần nhi, thiên tư tuấn tú, khí chất hiên ngang, mày vua Nghiêu,
mất vua Thuấn, lưng vua Vũ, vai vua Thang, dáng vẻ thật lạ thường. Ông bèn đặt
tên cho con là Hồn.

Bảy tuồi Hồn đi học; sách vở xem qua một
lượt là nhớ hết. Mười hai tuổi đã tinh thông văn chương, qua cửa Trình, Chu, học
lực vượt hơn họ Âu (Âu Dương Tu), họ Tô (Tô Đông Pha), thi tài cùng ông Lý (Lý
Bạch), ông Đỗ (Đỗ Phủ). Lại còn dốc chí cung tên hay đọc binh thư, tinh thông
văn võ, rõ là bậc anh tài.

Năm 16 tuổi thi Đình , vua ( Đường )
xét Hồn là bậc ky tài , học lực tinh thông, trên thông thiên văn dưới tường địa
lý, không việc gì, vật gì mà không biết không hiểu. Vua cho đó là nhân tài bật
nhất của thiên hạ, phong cho làm chức quan Lễ bộ tả thị lang; ban cho xe ngựa,
mũ áo về vinh quy. Vũ hồn về bái tạ từ đường tổ tiên; sau đó lại hồi triều nhậm
chức.

Được hai năm thăng làm Đô đài ngự sử, hơn năm sau nhận
mệnh của vua Đường lấy tên là Hàn Thiều nhậm chức Giao Châu Thứ sử vào thời
Đường,Kinh Tông năm Bảo Lịch nguyên niên (825). Đến thời Đường, Vũ Tông năm Hội
Xương nguyên niên (841) ; Vũ Hồn được tiến thăng An Nam Đô hộ Kinh lược sứ thay
người tiền nhiệm là Hàn Ước (Thay Mã Thực ) .

Khi ngài phụng
chiếu đến Nam Việc tuần thú, kính lý thiên hạ đã đến trang Mạng Nhuế, huyện
Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương – tên cổ là Hồng bộ, sau đổi là Dương
Tuyền . Ngài vào làm lễ bái yết mộ tổ. Lại đi đến trang Khả Mộ, huyện Đường An,
phủ Bình Giang thấy trang ấy sơn thuỷ hữu tình, long trầu hổ ấp, nội sào ngoại
sào, tả phù hữu bật, năm con ngựa chầu đằng trước, bảy ngôi sao chiếu đằng sau,
thần đồng đứng hai bên, bảng bút bày sẵn thật là nơi đất phát tổ Tiến sĩ .Ngài
bàn vẽ thành địa đồ (cắm đất).

Khi trị nhậm ngài chủ trương đắp
La Thành kiên cố. Bèn sai tướng sĩ tiến hành gấp công việc không kể ngày đêm.
Nhân do quân ở phủ làm loạn, ngài phải bỏ phủ thành chạy về Quảng Châu.Giám quân
Đoàn Sĩ Tắc tiếp quản mà vỗ yên loạn binh, phủ thành lại ổn định.Đến năm Bính
Dần, Hội Xương năm thứ 6 (846) người Man Nam Chiếu vào cướp phủ thành. Ngài lên
một chiếc xe nhẹ về Bắc quốc xin lệnh của vua. Vua Đường sai Bùi Nguyên Dụ làm
Kinh lược sứ, xuất binh đánh bại người Man Nam Chiếu. Được một năm vua xuống
chiếu đảm đương nhiệm quốc gia, sẽ báo đáp sau. Nay muốn ông (Hồn ) về triều
cùng nhau yến tiệc thân tình, đàm thoại mưu kế. Oâng cho rằng, người xưa được
một ngày nuôi cha mẹ, dẫu làm quan Tam công.( Thái sư, Thái phó, Thái bảo ) cũng
không sướng bằng. Tôi nay còn có mẹgià há nên tham muốn giàu sang mà không nghỉ
đến sự hiếu dưỡng hay sao?Bèn dâng biểu xin từ quan, nộp lại chức về nhà nuôi
dưỡng mẹ già. Vua thuận tình ban cho tiền vàng, gấm vóc.

Vâng mệnh vua,
ngài về ngay quê nhà đón mẹ già sang sống ở Việt Nam ; cho thiết lập một lâu đài
ở Thượng khu , trang Khả Mộ làm nơi phụng dưỡng mẹ già và khyến bảo nhân dân
chuyên làm điều lợi trừ việc hại . Dân điều có lễ nghĩa, nhà nhà giàu thịnh; đấy
là công đức của ngài vậy. Dân đều chịu ơn đó và coi ngài như mặt trăng, mặt
trời, thân thiết như cha mẹ. Ngài là thuỷ tổ sáng lập nhân dân
vậy.

Khi nhân dân làm lễ, nhân đó xin rằng : Nay lâu đài làm
chổ ở, về sau làm mộ tự, ngài hứa cho vậy và bảo rằng : Trang khu có hậu thì
phải trọng di mệnh của ta . Vạn năm về sau trang khu không quên thờ cúng . Ngài
lại cho thêm 5 nén vàng, tậu ruộng, ao làm việc hậu, cúng tế. Nhân dân đều vâng
theo, ưng cho thôn sở tại trông đều và tế tự.

Khi ấy đức thánh Mẫu già,
bệnh đã lâu, thuốc không sẵn, cầu đảo thần không hiệu đã mất. Ngài khóc than kêu
trời rất thương xót; rước linh cữu lên táng ở trang Kiệt Đặc, huyện Thanh Lâm,
(nay thuộc huyện Chí Linh ). Từ đường hương khói được 3 năm thì mãn tang; khi ấy
ngài 49 tuổi. Vào ngày 3 tháng 12 khi ngài đang ngồi ở học đường, bổng nhiên
trong người thấy bất an, không bệnh mà mất. Táng tại xứ Đống Dị, đầu bản trại.
Bỗng nhiên trời đất tối sầm, mây mù che kín. Một giờ lâu trời quang đã thấy kién
mối đùn đắp đất thành một ngôi mộ lớn. Nhân dân và gia thần đều kinh hãi, lập
tức đem về đó trình báo lên quan huyện. Huyện quan làm sớ tâu vua. Vua bèn truy
nguyên lúc bình nhật, sắc phong làm phúc thần, lại phong : Đương cảnh thành
hoàng, lâu đài cư sĩ, linh ứng Đại vương.

Sắc chỉ cho Thượng
khu , trang Khả Mộ lên kinh thành rước mỹ tự về lập miếu phụng thờ; truyền khu
cấm địa ấy gọi là Mả Thần, sở tại ức niên hương hỏa, kính vậy
thay.

Lại nói rằng:Từ đấy về sau vẫn thường linh ứng. Các triều
đại đế vương đều có sắc phong thêm mỹ tự cho Đại vương.

Đến đời
Trần Nhân Tông, quân Nguyên- Mông xâm chiến nước ta ; kinh thành bị thất thủ;
Trần Quốc Tuấn phụng mệnh vua cầu đảo bách thần phù giúp; đức thần tổ ta hiển
ứng ngầm giúp ( âm phù ). Khi bình được Ô Mã Nhi, Phàn,Tiếp vua bèn phong thêm
mỹ tự cho đại vương: một vị thần thông minh, trí sáng ,mạnh giỏi, cao lớn, đáng
thần bậc trên.

Đến thời Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn, bình
lũ Mộc Thạnh, Liểu Thăng ở Chi Lăng;10 năm yên được thiên hạ, lại phong thêm mỹ
tự ch thần : Giúp đời, yên dân, giúp rất thiêng, ứng lớn, ông thần bậc
trên.

Sắc ban cấp cho Thượng khu; trang Khả Mộ trùng tu miếu vũ, thịnh
vượng tốt đẹp thay.

Vâng khai ngày sinh , ngày hóa và chữ húy,
nhất thiết không được mạo dùng . Chữ bên tả là bộ thuỷ, chữ bên hữu là bộ quân
(ghép lại là chữ Hồn ).

Cho thượng khu , trang Khả Mộ lấy ngày
sinh thần 8 tháng Giêng làm chính lệ. Lễ dùng lợn đen, xôi rượu, ca xướng, đánh
cờ, đu tiên. Các trò đó chỉ chơi trong 10 ngày.

Ngày hóa của
thần là ngày 3 tháng 12 (Chạp) lấy làm chính lệ . Lễ dụng tuỳ nghi, ca xướng thì
cấm.

Trích trong bài tham luận”HUYỀN TÍCH VÀ LỊCH SỬ VŨ HỒN – THUỶ TỔ,
THẦN TỔ HỌ VŨ (VÕ) Ở MỘ TRẠCH” của Tiến sĩ Vũ Duy Mền 

Giả Thuyết Cổ Truyền Về Họ Vũ

(Dòng Vũ Hồn Tại Việt
Nam)

Tác giả: Đặng Tư KhiêmTổ họ Vũ phát tích tự làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay đổi
thành phủ Bình Giang thuộc tỉnh Hải Dương (Bắc Việt).

Tục truyền: Hồi
Bắc thuộc, khu đất làng Mộ Trạch cạnh đường, có một quán hàng bán nước và quà
bánh cho khách qua lại của một bà quả phụ trạc ngoại tứ tuần cùng đưá con trai
độ 14,15 tuổi. Những người trong vùng cũ không ai rõ lai lịch người đàn bà này,
chỉ biết gọi là bà quán nước và đứa con trai là Vũ Hồn mà thôi. Sinh kế của hai
mẹ con bằng quán nuớc thường thiếu thốn, nên Vũ hồn phải đi câu cá tôm và bắt
cua ốc bán lấy tiền thêm giúp mẹ.

Một ngày mùa hạ nóng nực, một
người Tàu lữ du qua đó, ghé quán hàng nghỉ ngơi, uống nước, rồi lân la hỏi thăm
khách ngồi cùng trong quán về thanh danh, đạo đức của ông Vũ Hồn ở vùng nàỵ Mọi
người ngơ ngác nhìn nhau và trả lời rằng nơi này không có ai là ông Vũ Hồn cả,
chỉ có thằng nhỏ con bà chủ quán này tên là Vũ Hồn.

Lúc đó
người Tàu mới bắt đầu dể ý ngắm nghía bà này, nhận thấy tướng mạo đoan trang,
phúc hậu; và một lúc sau lại thấy một thằng nhỏ, xách chiếc lọ sành, bước vào,
kêu mẹ và nói, “hôm nay không kiếm được tôm cá, chỉ có ốc”. Nó không bán mớ ốc
đó, nhưng đem về luôc để mẹ ăn vì mẹ nó thường thích ốc luộc. Người Tàu chăm chú
nhìn cậu bé, áo quần lam lũ nhưng mặt mày hớn hở; phúc tướng hiện rõ trên án
đường. Ông ta bèn làm quen, hỏi chuyện cậu bé, ngỏ lời khen ngợi lòng hiếu thảo
và sự ngoan ngoãn của cậu; nhưng cậu bé chỉ đáp lại bàng những nụ
cườị

Thấy vậy, người Tàu ngỏ ý với bà chủ quán rằng ông muốn
cho cậu bé theo làm học trò ông để ông dạy dỗ; ông hy vọng là sẽ có thể giúp gầy
dựng tương lai cho cậụ. Ý kiến đó được những người cùng ngồi trong quán hưởng
ứng và đốc thúc thêm vào; bà chủ quán và cậu con nghe suôi ta, nên đã chấp thuận
ngaỵ Người tàu vui vẻ mở gói, lấy ra một số tiền , tặng cho người mẹ để bà có
thêm vốn làm ăn để đời sống được sung túc hơn.

Đoạn người Tàu
cáo biệt bà và mọi người, dắt cậu bé ra đi, hẹn ba năm sau sẽ trỏ lại. Mới được
hơn môt năm đã thấy hai thầy trò trở về, nói thật mọi chuyện với bà chủ quán. Từ
đó người ta mới biết người Tàu là một thày địa lý.

Nhân khi đi
tìm những ngôi đất qúy, ông đã tới làng Mộ Trạch và nhận thấy nơi đây có ngôi
đất đại phát vinh hoa, khoa hoạn kế thế, vĩnh cửụ Ông thày địa lý liền nảy ra ý
định đem hài cốt thân phụ đến an táng vào nơi này. Chủ tâm như vậy rồi, ông quay
về nhà trọ nghỉ ngơi, ngủ sớm để hôm sau quy hồi cố hương để thực hiện ý định
của mình. Vừa chợp mắt ngủ, ông thày địa lý đã mộng thấy một vị long thần đến
báo cho biết rằng ngôi mộ đó đã dành cho Vũ Hồn rồi vì nhà hắn đã tích được
nhièu âm phúc, rằng không ai có thể chiếm đoạt được; nếu ai đó cứ cố ý làm sai
lòng Trời, thì sẽ phải chịu những hậu quả chẳng lành.

Giật mình
tỉnh giấc, thày địa lý sợ hãi, băn khoăn nghĩ ngợi về lời của vị thần trong
mộng, rồi đình chỉ việc hồi hương. Từ đó ông bắt đầu lưu tâm dò hỏi tông tích Vũ
Hồn với mưu đồ riêng tư là ràng buộc cá nhân mình với các thế hệ con cháu tương
lai của Vũ Hồn.

Sau khi tính độn về long mạch địa cơ, ông biết
rằng huyệt này cứ 300 năm mới mở một lần, mà ngày đó lại đã tới sát nơi rồi, nên
hai thày trò ông phải vội vã trở về để Vũ Hồn đem hài cốt cha cất táng vào nơi
đó đúng với sự sắp đặt về phần kim theo phương pháp của khoa huyền bí địa lý
học. Công việc xong xuôi, hai thày trò đến từ biệt bà chủ quán để ra đi, không
hẹn ngày tái ngộ.

Hai năm sau, Vũ Hồn, lúc này đã 18 tuổi, về
lại cố hương cùng ông thày. Lần này ông thày bỏ tiền ra mua một ngôi nhà gần chợ
để ở và đồng thời vừa buôn bán, vừa dạy chữ Hán, vừa hành nghề đông ỵ Nhờ đã cư
lâu ngày tại đây, nên thày đã quen thuộc với tất cả mọi người trong
vùng.

Một ngày kia, thày ngỏ ý với một người địa phương để nhờ
họ làm mối cho một cô gái nhà nghèo, nhưng nết na và có nhan sắc. Ý muốn đã đạt,
thày cho mở tiệc linh đình rồi mời tất cả nhưng người quen thân đến dự và chứng
kiến việc hôn nhân. Tiệc gần tàn vào khoảng quá ngọ, thày đứng dậy nói, dáng vẻ
hoảng hốt: Vì tôi có việc bận tại quê nhà, đáng lẽ phải ra về từ ba hôm trước,
nhưng vì quên lãng, sáng nay mới nhớ ra; bởi lẽ đã chót hẹn làm đám cưới, nên
phải nán lại cho xong việc. Bây giờ tôi phải lên đường; tôi xin mọi người trông
nom và giúp đõ gia đình tôi trong thời gian tôi vắng mặt, rồì quay lại nói cùng
cô dâu những lời an ủi: vì hoàn cảnh, tôi phải tạm biệt ít ngày, ước mong sẽ có
thể trở về sớm khi đã thu xếp xong công việc. Sau hết ông giao chìa khóa và tất
cả cơ nghiệp cho cô dâu và Vũ Hồn với những lời dặn dò cần thiết trước khi từ
biệt.

Từ đó, chỉ có cô vợ và Vũ Hồn cùng đảm trách tất cả mọi
công việc trong gia đình. Ngày qua, tháng lại, thấm thóat đã ba năm mong chờ mà
chẳng thấy ông thày trở qua và cũng không nhận được tìn tức gì về ông cả. Lửa
gần rơm lâu ngày cũng cháy; hai người cùng lứa tuổi, lại luôn luôn sát cánh bên
nhau, và đã quên những lời ông thày dặn, nên đã cùng nhau trao đổi tình yêu;
chẳng bao lâu cô vợ đã mang thai và sinh hạ được hai con
trai.

Ngày đầy tháng hai đứa trẻ vừa qua được mấy ngày, thì đột
nhiên ông thày xuất hiện trở về. Trong lúc Vũ Hồn bận việc vắng nhà, còn cô vợ
(bây giờ là vợ Vũ Hồn) lúc đó đang ẵm một đứa con; cô nhớn nhác sợ sệt, chỉ kịp
chào ông thày một tiếng, rồ bỏ trốn mất. Ông thày lúc đó nổi giận, lớn tiếng la
mắng om sòm. Hàng xóm nghe tiếng, tất tả đên hỏi thăm, tìm lời can gián, an ủi,
tìm dùm cách giải quyết. Một lúc lâu sau, họ dẫn vợ chồng Vũ Hồn về tạ tội cùng
ông thày, và để nhận lãnh những lời mắng nhiếc.

Đứng trước việc
đã rồi, ông thày chỉ còn biết thở dài, uể oải nói với vợ chồng Vũ Hồn: Chúng mày
bất nghĩa; chẳng lẽ tao cũng lại bất nhân nữa sao? Thôi, tao cho chúng mày tất
cả cơ nghiệp này vì tao không còn mặt mũi nào mà tiếp tục ở lại đây nữa. Có điều
là tao cần bắt lại của chúng mày một đứa con để nuôi dưỡng cho vui cảnh gìa vì
tao không có vợ con gì cả. Ý kiến đó được mọi người có mặt tán đồng; vợ chồng Vũ
Hồn cũng phải chấp nhận để mọi việc được êm xuôi. Thế rồi ông thày bế ẵm, cân
nhắc hai đứa nhỏ, chọn đứa nặng cân hơn để mang theo ông về Trung quốc, và để
dứa nhẹ cân lại đất Việt.

Đó là đầu mối gây cho họ Vũ, dòng Vũ
Hồn, những thế hệ nối tiếp mỗi ngày thêm đông đảo; đa số hậu duệ Của Vũ Hồn
thông minh, xuất sắc, đã trở nên nổi danh về khoa hoạn qua các triều đại xưa
trong lịch sử nước nhà.

———-

Chú thích:

Câu truyện
trên đây có lẽ cũng giống như nhiều câu truyện thần thoại khác đã được đặt rạ
Mục đích là để thu hút sự hiếu kỳ của mọi người, và ngẫu nhiên được truyền tụng
mãi tới ngày naỵ

Trích trong Đặng vũ phả Ký của Tiến sĩ Đặng
Phương-Nghi

(Centre International d’Etudes Vietnamiennes, 6 Rue Augustin
Thierry, Paris 75019, France, 1989) 


CÁC VỊ “TIẾN SĨ VÕ”

Tức TẠO SĨ họ VŨ đời Hậu Lê(Từ
năm Đinh Mùi 1727 đến năm Ất Tị 1785)
HIỆP sưu khảo-

Người nghiên cứu về gia – tộc – học Việt
Nam

Biên soạn năm 1998
Tạo sĩ là học vị cao nhất về Võ khoa đời xưa. Nó là Tiến
sĩ Võ và cũng phải trải qua các khoa thi võ nghệ từ thấp lên cao, thường phải
đậu Sơ cử (tức là Cử nhân Võ) xong mới được vào thi Bác cử để lấy Tạo sĩ. Kỳ thi
Sơ cử (Cử Võ) và Bác cử cũng phải thi viết lý thuyết khá gay go qua các kỳ thi.
Do đó Tạo sĩ phải khá giỏi về chữ nghĩa văn hóa mới đọc được binh thư, kinh điển
và làm được văn bài sát hạch trong khoa thi Tiến sĩ Võ. Vì thế, Tạo sĩ tuy rất
giỏi thập bát ban võ nghệ và trải qua nhiều pha thi đấu các loại binh khí và coi
như được xếp vào hàng võ nghệ cao cường rồi. Triều đình và Binh Bộ còn bắt các
thí sinh phải lầu thông kinh sử, binh pháp và sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bắc Sử, Nam
Sử nữa, bằng cách trả lời qua văn bài các câu hỏi rất chi tiết về chính trị,
quân sự thời xưa và hiệntại khá ngoắt ngoéo để thử tài kiến thức, văn hóa của
thí sinh võ. Ai có giỏi chữ nghĩa, thông hiểu các sách Tôn Ngô binh pháp, Hổ
Trướng xu cơ, Binh thư yếu lược, Kinh, Sử, Tử, Tập,… mới viết được các bài văn
nghị luận có cơ sở võ lược, chính trị quân sự xuất sắc. Như thế Tạo sĩ đời Hậu
Lê cũngnhư triều Nguyễn (thế kỷ 18 và 19) là các bậc văn võ kiêm toàn cả. Đậu
Tạo sĩ xong thường trở thành các tướng lĩnh và giữ chức vụ quan trọng ngoài biên
ải, các Trấn, Doanh hoặc Võ quan cao cấp trong triều đình. Do đó, Tạo sĩ cũng
được rước vinh quy bái tổ long trọng không kém gì Tiến sĩ. Tên tuổi cũng được
ghi vào sử sách, tạc vào bia đá ở Võ miếu để lưu danh muôn đời sau. Nhưng xưa
khia, trong xã hội Nho học, thường có quan niệm và thành kiến “Trọng văn khinh
võ” nên đã có câu ca dao như sau :

“Văn thì ngũ phẩm đã
sang

Võ thì tam phẩm còn mang gươm hầu”

Vì thế sách vở
xưa để lại thường ít quân tâm đến các võ khoa và ít chép lại những danh sách Võ
cử, Tạo sĩ, như các bảng sĩ tử trúng cách Hương cống, Cử nhân, Tiến sĩ trong các
khoa thi văn (Hương thí, Hội thí, Đình thí). Vì vậy, sưu tầm được danh sách các
vị đậu Võ khoa đời xưa cũng rất khó khăn.

May sao, trong các cổ
thư chữ Hán để lại còn có một bản nhan đề : “Lê Triều Tạo sĩ Đăng Khoa Lục”,
không đề tên tác giả. Nay ở trong kho sách Hán Nôm còn có bản ký hiệu A. 1176,
đã cung cấp cho đời sau chúng ta một danh sách gồm hơn 200 vị Tạo sĩ, Đồng Tạo
sĩ thuộc đời Hậu Lê, từ năm Thái Bảo thứ 5, khoa Giáp Thìn – 1724 đến khoa Ất Tỵ
– 1785 (61 năm) đời vua Cảnh Hưng (Hiển Tông) thứ 46. Sách này ra đời triều Gia
Long.

Trong số này chúng tôi đếm được 21 vị Tạo sĩ và Đồng Tạo
sĩ họ Vũ. Đặc biệt, dòng họ Vũ (Võ) ở làng Hà Hoàng thuộc huyện Thạch Hà (Nghệ
Tĩnh) vốn tổ tiêngốc ở làng Hoa Đường, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, Hải
Dương đã đậu Tạo sĩ, Đồng Tạo sĩ tới 16 người. Vì thế mà ở vùng Thanh, Nghệ thời
xưa đã ca ngợi họ Vũ (Võ) của làng Hà Hoàng rằng : “NGƯỜI NGHỆ AN, GAN HÀ HOÀNG”
và “TRẢO NHA CHI NGÔ, THẠCH HÀ CHI VŨ” (Họ Ngô ở Trảo Nha, họ Vũ ở Thạch Hà có
nhiều người tài giỏi) và tônvinh dòng họ Vũ (Võ) đó là “THẠCH HÀ THẾ TƯỚNG” có
nghĩa là : “đời đời nối tiếp nhau làm tướng là dân ở xã Hà Hoàng huyện Thạch
Hà”. Theo lời truyền tụng và gia phả của họ “VÕ TÁ” xã Hà Hoàng thì đã sản sinh
ra hơn 36 võ tướng có công nghiệp hiển hách, trong đó có tới 20 vị là Quận công
thời Hậu Lê. Chi họ VÕ TÁ đó có nguồn gốc từ họ “VŨ TÁ” ở xã Hoa Đường và cũng
từ ở Mộ Trạch (Hải Dương) mà ra.

Sau đây là danh sách 21 vị đậu
Tiến sĩ Võ = Tạo sĩ họ Vũ trong khoảng 58 năm (1729 – 1785) mà sử sách còn chép
để lại, đánh dấu một giai đoạn lịch sử huy hoàng võ nghiệp của các vị Tạo sĩ,
Đồng Tạo sĩ họ VŨ. Đây là chưa thể thống kê nổi trong mấy trăm năm khoa cử về võ
nghệ của nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, thời Lê Trịnh và Hậu Lê. Nhà Nguyễn (1225 –
1919) có bao nhiêu danh tướng mạng họ Vũ (Võ). Chúng ta lần lượt thống kê các
Tạo sĩ họ Vũ, chỉ trong 60 năm theo thứ tự niên đại như sau
:

1. VŨ KHÚC LÂM : Đậu Tạo sĩ khoa năm Đinh Mùi 1727, niên hiệu
Bảo Thái thứ 8 (đời Vua Lê Dụ Tông 1706 – 1729) thời chúa An Đô Vương Trịnh
Cương cầm quyền. Ông Khúc Lâm quê ở xã Vương Xá, huyện Cẩm Giàng, trấn Hải Dương
(phủ Thượng Hồng). Chưa rõ sự nghiệp của Ông.

2. VŨ TÁ ĐỨC và
VŨ TÁ TỔNG : Thuộc dòng họ Vũ Tá ở xã Hà Hoàng, tổng Thượng Thất, huyện Thạch
Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An (nay thuộc về tỉnh Hà Tĩnh, gần thị xã). Ông Tá Đức
đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (thứ ba” khoa thi Võ Tiến sĩ năm Vĩnh Khánh thứ ba
(đời vua Lê Duy Phương) tức khoa Tạo sĩ năm Tân Hợi (1731) thời chúa Trịnh
Giang. Còn ông Tá Tổng đậu Tạo sĩ bậc “thứ Trúng” (thứ tư” cùng khoa với ông Tá
Đức. Sự nghiệp của 2 ông này cũng như tất cả các Tạo sĩ họ “Vũ tá” dưới đây
(tiếp theo) phải xem trong “THẠCH HÀ, HÀ HOÀNG VÕ TÁ TỘC PHẢ” mới rõ vậy. Nếu có
cơ hội thuận tiện nào, sẽ sưu tầm và nghiên cứu sau?

3. VŨ TÁ
TRUNG : Cùng dòng họ Vũ Tá nổi danh như đã chép rõ nguyên quán ở trên. Ông Tá
Trung cũng đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (hạng ba) trong khoa thi Tạo sĩ năm Vĩnh
Khánh thứ 5, Quý Sửu (1733) đời vua Lê (Duy Tường) Thuần Phong (1732 – 1735)
thời chúa Trịnh Giang. Chưa rõ sự nghiệp của ông ra sao?

4. VŨ
TÁ TÍN : Đậu Tạo sĩ khoa thi Bính Thìn (1736) đời vua Lê (Duy Thìn) Ý TÔNG (1735
– 1740) niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 thời chúa Trịnh Giang. Chưa rõ sự nghiệp của
ông thế nào?

5. VŨ TÁ THỤY và VŨ TÁ CƠ : cả hai ông cùng một
dòng họ Vũ xã Hà Hoàng, đậu Tạo sĩ cùng một khoa thi năm Vĩnh Hựu thứ 5 đời vua
Lê Ý Tông và Trịnh Giang; Đó là năm Kỷ Mùi (1739). Chưa rõ sự nghiệp của 2 ông
Tạo sĩ này.

6. VŨ QUỐC CAN : Nguyên quán làng Đôn Thư, tổng Thì
Trung, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng (sau thuộc Hà Đi6ng,
Hà Tây) trong một gia đình họ Vũ có truyền thống khoa bảng văn học nổi tiếng.
Ông Can đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” (thứ ba) khoa thi Tạo sĩ năm Nhâm Thân
(1752) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 (đời vua Lê Huy Diêu, Hiển Tông) thời chúa
Trịnh Doanh cầm quyền (1740 – 1767). Không rõ sự nghiệp của ông Quốc Can ra sao?
Có thể tra cứu trong Vũ Tộc phả xã Đôn Thư (Thanh Oai) sẽ
biết.

7. VŨ TÁ KIÊN : Đậu Tạo sĩ bậc “trúng Hạng” ở kỳ thi năm
Giáp Tuất (1754) đời vua Lê Cảnh Hưng (Hiển Tông – Duy Diêu) năm thứ 15. Ông Tá
Kiên đậu thủ khoa kỳ thi này. Sự nghiệp của ông ra sao chưa
rõ.

8. VŨ ĐĂNG KHOA : Cũng cùng đậu tạo sĩ đồng hạng 3 (trúng
Hạng) với ông Tạo sĩ Tá Kiên, nhưng đứng thứ nhì. Quê của ông Đăng Khoa ở xã Kim
Lan, tức xã Kim Quan cũ, thuộc huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương.
Chưa rõ sự nghiệp của ông.

9. VŨ TÁ THẠC : Đậu Tạo sĩ hàng nhì
bậc thứ tư (thứ Trúng) khoa thi năm Cảnh Hưng thứ 18, Đinh Sửu (1757) đời vua Lê
Hiển Tông, thời chúa Trịnh Doanh cầm quyền. Chưa rõ sự nghiệp của
ông.

10. VŨ TÁ BẬT : Đây là vị Tạo sĩ họ “Vũ Tá” thứ 9 làng Hà
Hoàng. Ông đậu khoa Qúy Mùi (1763) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 đời vua Lê Hiển
Tông (1740 – 1786), lúc Trịnh Doanh vẫn cầm quyền. Chưa rõ sự nghiệp của ông,
chỉ biết ông đậu tạo sĩ thư 4 bậc bốn (thứ Trúng)

11. VŨ TẤT
NHÂM : Cùng đậu một khoa thi với ông Tạo sĩ Tá Bật năm 1763. Nhưng ông Tất Nhậm
đậu hạng Đồng tạo sĩ hạng ưu Trúng. Quê quán ở xã My Thử, tổng Tông Tranh, huyện
Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương. Ông là dòng dõi họ Vũ Tất của vợ chúa
Trịnh Cương (Vũ Thái Phi)

12. VŨ TÁ THÌ : Cũng là dòng họ Vũ
(Võ) ở Hà Hoàng, ông Tá thì đậu Tạo sĩ loại thư 3 trúng Hạng, khoa Bính Tuất
(1766) niên hiệu Cảnh Hưng 27 (đời vua Lê Hiển Tông – chúa Trịnh
Doanh).

13. VŨ TÁ KIÊU, VŨ TÁ DAO và VŨ TÁ DỰ : Ba ônghọ Vũ Tá
cùng đậu Tạo sĩ một khoa Nhâm Thìn (1772) đời vua Cảnh Hưng – chúa Trịnh Sâm.
Khoa này có 23 vị Tạo sĩ đậu thì chi họ Vũ Tá chiếm 3 vị.

14.
VŨ ĐÌNH KHANH : Đậu tạo sĩ thư 5 khoa Bính Thân (1776), quê quán làng Tiên Cầu,
huyện Kim động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Thượng (nay là tỉnh Hưng Yên) năm
1977 ôngbị xóa tên trong bảng đậu Tạo sĩ vì mang sách vào trường thi trong ngày
phúc hạch.

15. VŨ TÁ CANH : Đậu Đồng Tạo sĩ khoa Kỷ Hợi (1779)
gọi là “Thịnh Khoa” đời vua Lê Cảnh Hưng thứ 40 – chúa Trịnh Sâm. Quê ông Tá
Canh ở xã Hoa Đường, huyện Đường An,phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay là làng
Lương Ngọc, huyện Bình Giang, Hải Dương). Vốn là gốc tích của họ Vũ Tá ở làng Hà
Hoàng, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, nay thuộc Hà Tĩnh. Đấy là nét son cho họ Vũ
Tá nói chung, đã hiển danh về võ nghiệp và có truyền thống rất thượng võ, nhiều
đời.

16. VŨ TÁ SIÊU và VŨ TÁ VIÊM : Cùng chi họ ở xã Hà Hoàng
tại huyện Thạch Hà (Nghệ An). Cả 2 ông Tạo sĩ họ Vũ Tá này đều đậu Tạo sĩ hạng
tư khoa thi năm tân Sửu (1781), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 42 (đời vua Lê Hiển Tông
: Duy Diêu và chúa Trịnh Sâm.

Xem như thế , đủ thấy họ Vũ (Võ)
chẳng những phát về khoa bảng văn học mà còn phát triển cả về võ nghiệp. Đây là
chúng ta mới tìm ra tên các vị tạo sĩ họ Vũ trong khoảng 55 năm / đời Hậu Lê (từ
năm 1727 – 1781), chỉ trong phạm vi “xứ Đàng Ngoài” trong hơn nửa thế kỷ. Trong
cả một quá trình hơn 500 năm trước đó (từ đời Trần, Hồ, Lê, Mạc) và sau đó là
nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn hơn 100 năm nữa, có các kỳ thi võ nghệ, đã phải có đến
hàng trăm ông đỗ tương đương Tạo sĩ, Cử võ họ Vũ tham gia việc quốc phòng, an
ninh cho các triều đại mà rất tiếc đến nay chưa thể thống kê được đầy đủ! Có lẽ
đây là một đề tài nghiên cứu cho một công trình khoa học lịch sử quốc phòng đời
xưa ở nước ta nói chung và cho tộc đoàn họ Vũ (Võ) cả nước nói riêng. Hy vọng
lớp trẻ tài năng sau này sẽ làm được đề tài trên.http://www.hovuvo.co…?article_id=404


 PHƯƠNG PHÁP HUYỀN BÍ : DẪN LONG HAY DỤ LONG
.
Các bạn nghiên cứu môn Phong thủy Âm phần , thường đọc những
tài liệu từ xưa để lại qua Hán văn rất nhiều . Nhưng dienbatn cam đoan phép DẪN
LONG hay DỤ LONG này chưa hề có trên các loại sách đó . Đây là một phép của
PHONG THỦY HUYỀN THUẬT có xuất xứ từ thời rất xa xưa , mà những người được sở
hữu cuối cùng lại xuất phát từ thời nhà Hồ và được truyền đến nay . dienbatn may
mắn được Ân sư truyền lại cho sở đắc này . Nay xin phép mạo muội nói sơ qua để
các bạn có thêm ý niệm . Xin hồi hướng công đức này cho Tổ , cho Ân sư và các
Huynh đệ đồng môn .

Thường từ trước đến nay , chúng ta chỉ nghe đến việc
tầm Long – Tróc mạch , nghĩa là dưa theo Địa hình có sẵn mà chúng ta tìm nơi
Huyệt vị kết phát và Táng hài cốt vào đó .

Đó chính là chiều Dương của
Phong Thuỷ Âm Trạch . Chiều Âm của nó tức là làm ngược lại . Chúng ta đã có Âm
phần được xây cất lâu đời rất tốt rồi . Nhưng vì một lẽ nào đó , Long khí không
chạy qua vùng đất đặt Âm phần . Không lẻ chúng ta phải Cải táng để đưa Âm phần
về đúng nơi mà dòng Long khí kết Huyệt ??? Đây chính là nhiệm vụ của phép DẪN
LONG hay DỤ LONG , nhằm lái đường Long Khí đi về đúng nơi Âm phần có sẵn . Việc
này có thể hiểu nôm na như chúng ta đã có mạng lưới điện Quốc gia đi qua , nhưng
chúng ta phải có hệ thống dẫn điện từ mạng lưới đó về nhà để sử dụng vậy . Người
ta có thể dẫn Long khí đi xa khoảng vài trăm mét , hoặc mạnh hơn có thể lên tới
cả cây số . Tuy nhiên , càng quá xa thì Cường độ của Long khí càng giảm , giống
như hiện tượng sụt áp khi ta dẫn điện từ mạng vào nơi quá xa vậy .

Bản
chất của phương pháp DẪN LONG hay DỤ LONG là tương tự như vậy . Một điều kỳ diệu
của phương pháp này là lúc đầu , mới dẫn được Long khí về thì dòng Long khí cực
nhỏ , nhưng qua một thời gian , dòng Long khí tự động được tăng cường lên ,
giống như một con kênh đào , lúc đầu con nhỏ , nhưng khi có nước chẩy qua , áp
lực nước sẽ biến kênh đào thành một con sông .

Việc chuẩn bị và biện
pháp DẪN LONG hay DỤ LONG rất phức tạp , phức tạp về tính toán thời điểm , vị
trí , Phúc đức dòng họ . Phức tạp từ việc nguồn của Long khí như thế nào ? Tính
chất của Long khí ra sao ? có hợp với Âm phần có sẵn không ???

Công việc
và cách tính toán cụ thể , người viết không được phép trình bày ở đây , chỉ dám
tiết lộ một điều quan trọng là : Việc DẪN LONG hay DỤ LONG phải theo một quy
trình nghiêm ngặt , phải có đủ thuốc Dẫn Long , Phù , Sớ ….

Phép DẪN
LONG này có cái lợi là không phải di chuyển Mồ mả có sẵn , hiệu quả rất nhanh và
chính xác . Tuy nhiên , người Thày Phong thủy làm việc này cũng hao tổn rất
nhiều chân khí . Do vậy mà cũng không nên thực hiện nhiều

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *