Untitled Post

sưu tầm : một số bài phú về dịch học
Sau khi nạp giáp quẻ
dịch, tìm được hào động, hào trì thế, một số bài phú như Toái kim phú, Thông
huyền phú chỉ dẫn cách đoán khá chi tiết, sau đây là một đoạn tổng hợp.

I- Trì thế các hào.
* Phụ mẫu trì thế chủ thân lao
( Hào Phụ mẫu trì thế thì ta rất lao nhọc)
Cầu tự thiếp chúng dã nan chiêu
( Cầu con, cầu thê thiếp rất khó nên )
Quan động Tài an nghi phó thí
( Nếu được hào Quan động, hào Tài an tịnh là cầu danh, Ứng cử được )
Tài diêu mưu lợi mạt tâm tiêu( Có hào Tài động thì mưu lợi chẳng nhọc lòng )
Chiếm thân Tài động vô hiền phụ
(Chiếm thân mạng gặp hào Tài động là không được vợ hiền )
Hựu khũng khu khu thọ bất cao
( Lại còn sợ tuổi thọ không được hưởng lâu )

– Lại nói thêm:
Phụ mẫu trì thế Huynh đệ hòa, cháu con xa cách tật bệnh đa.Cầu quan ứng cử đều
đặng tốt,Tử tôn dâm loạn phải lìa xa.

* Tử hào trì thế sự vô ưu
(Được hào Tử tôn trì thế thì mọi việc đều không sợ ưu phiền )
Cầu danh thiết kỵ tọa đương đầu
( Cầu danh rất kỵ Tử tôn trì thế hay phát động khắc hào Quan )
Tỵ lọan hứa an thất khả đắc
( Chạy lọan chắc bình an, không lo hư hao,thất thoát )
Quan tụng tùng kim tiện liễu hưu
( Quan sự, tố tụng không hề gì, có lẽ xong )
Hữu vô sanh vô khắc chư ban kiết
( Được sanh mà không bị khắc, thì muôn việc đều tốt )
Hữu khắc vô sanh phản kiến sầu
( Còn bị khắc mà không được sanh thì sẽ thấy sự buồn rầu )

Lại nói thêm:
Tử hào trì thế sự vô ưu,Quan quỉ tùng lai tiện liễu hưu.
Tài vật thử thời ưng dĩ đắc,Thanh minh đắc sự hữu lai du.

1- Càn. Điềm triệu :
Khốn long đắc thủy- Rồng gặp nước.

Đầu tiên, lần đầu, khởi đầu, đứng đầu, ông già, đầu bạc,
cứng, mạnh, tốt, kiêu sa, vàng bạc.

2- Khôn. – Điềm triệu : Ngạ hổ đắc thực – Hổ đói được mồi.
Nhu thuận, đức dày, đất đai, mềm, đám đông, tiểu nhân, bà
già, phụ nữ, mẹ, tấm vải, áo mặc, thuận tòng, đi về phía Tây nam lợi, chịu theo
mà được lợi.

3- Truân. – Điềm triệu : Loạn tu vô đầu – Rối như tơ vò.
Khó khăn, vất vả, yếu đuối, ngần ngại, do dự, phải nhờ sự
giúp đỡ, rối loạn,gian nan, chẳng mất, còn đầy, chưa làm, hiện ra mà không mất
chỗ.

4- Mông. – Điềm triệu : Tiểu quỷ thâu tiên – Quỷ nhỏ dụng
tiên.

Chưa sáng sủa, mờ mịt, chưa đạt thành, ngu dại, ngây thơ,
không hiểu, còn non, trẻ con, khó thông suốt, không nói lại. Có âm mưu mà không
biết.

5- Nhu. – Điềm triệu : Minh châu xuất thổ – Ngọc sáng hiện
ra.

Chờ đợi, được ăn uống, không tiến lên được, nhàn hạ, đều
đều.

6- Tụng – Điềm triệu : Nhị nhân tranh lộ – Hai người tranh
đường đi.

Kiện cáo, bàn luận, tranh luận, bất an, có tranh chấp, trái
ý nhau, việc mới manh nha đủ thứ tranh cãi. Không thân.

7- Sư – Điềm triệu : Mã đáo thành công – Thành công đắc ý.
Đông đúc, quần chúng, tắc đường, hãm bí, phải lo, không tự
giới, không tự giác, ra quân, chinh phạt.

8- Tỉ – Điềm triệu : Thuyền đắc thuận phong – Như thuyền gặp
gió.

Gần gũi, hòa hợp, tương trợ, thông thuận, quan hệ qua lại,
tiếp xúc, chọn lựa, người thân

KIM – OANH – KÝ
BÁT MÔN THẦN KHOÁ

LỜI NÓI ĐẦU

Nhiều người nghe đến hai tiếng Bát Môn đều ham, cũng như nhắc đến tài của Khổng
Minh ai nào chẳng khen phục. Khổng Minh là người sáng tác ra quẻ Bát Môn ấy.

Cũng lắm ông khó tính như soạn giả không tin gì lắm nhưng khi học qua được mới
rõ quẻ tuy đơn gian mà ứng nghiệm.
Từ trước những ông chỉ chuyên nội quẻ Bát Môn cũng nổi tiếng đó đây, song nói
là môn ruột đừng hòng các ông ấy chỉ lại cho ai.Có người gặp đặng quyển ấy lưu
truyền, nhưng vấp phải Hán tự khó như Pháp văn chẳng phải chữ đâu nghĩa đó theo
nối Việt văn, nên cần phải hiểu rõ lý của nó.

Hơn nữa Hán văn còn bí mật hơn. Cả một bài dài thườn thượt mỗi câu gói ghém đầy
bí mật lại chẳng phân câu cho nên một bài mà mỗi lần bạn đọc qua thấy nghĩa mỗi
lần khác nhau.

Nên soạn giả giúp đủ tài liệu cho các bạn hiếu kỳ có được môn này trong tay mà
kinh nghiệm cho thoả.
Lý Thuần Phong: Thái sử lệnh đời Đường Cao Tông, giỏi thiên văn lịch số là một
nhà toán học xuất sắc đã làm chú thích Thập bộ toán kinh. Phó Dịch: cũng là
Thái sử lệnh đời Đường.
*Soạn giả: Thái Kim Oanh

BÁT MÔN THẦN KHOÁ

*GIỜ ÂM LỊCH :-

Nhiều môn toán độn cần ghép giờ Âm lịch lúc người ta mốn xem mà định quẻ, lấy
sai giờ thì quẻ đoán sai cả, đến việc chọn ngày giờ cũng cần nhất là giờ Âm
lịch. Mỗi 1 ngày đêm là 12 giờ âm lịch (hiệp đồng hồ). Bắt đầu từ giữa đêm là
giờ: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi mỗi giờ là 2
tiếng đồng hồ. Giờ tháng trước sớm hoặc trễ hơn tháng sau những 10 phút, đầu
giờ tháng 11 là 0 giờ 10 phút, đầu giờ Tý tháng năm là 1 giờ 10 phút sớm hoặc
trễ cả 1 tiếng đồng hồ.

Xem kỹ đây là tính theo giờ Việt nam (từ 1960—1975) (Múi giờ 8)
Tháng 11: đầu giờ Tý là 0 giờ 10 phút (đầu giờ Ngọ là 12 giờ 10 phút)
Tháng 12 và tháng 10: đầu giờ Tý là 0 giờ 20 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 20
phút)
Tháng 1 và tháng 9: đầu giờ Tý là 0 giờ 30 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 30 phút)
Tháng 2 và tháng 8: đầu giờ Tý là 0 giờ 40 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 40 phút)
Tháng 3 và tháng 7: đầu giờ Tý là 0 giờ 50 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 50 phút)
Tháng 4 và tháng 6: đầu giờ Tý là 1 giờ (giờ Ngọ là 13 giờ đúng)
Tháng 5: đầu giờ Tý là 1 giờ 10 phút (và giờ Ngọ là 13 giờ 10 phút)

*Bạn tinh ý 1 chút thì nhớ đặng khỏi cần dùng đến sách.
Từ tháng 11 thuận đến tháng 5 mỗi tháng lên 10 phút, và từ tháng 5 đến tháng 11
mỗi tháng sụt xuống 10 phút.


BẢNG GIỜ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM THEO MÚI GIỜ 7

Tháng 11: đầu giờ Tý là 23 giờ 10 phút (đầu giờ Ngọ là 11 giờ 10 phút)
Tháng 12 và tháng 10: đầu giờ Tý là 23 giờ 20 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 20
phút)
Tháng 1 và tháng 9: đầu giờ Tý là 23 giờ 30 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 30 phút)

Tháng 2 và tháng 8: đầu giờ Tý là 23 giờ 40 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 40 phút)

Tháng 3 và tháng 7: đầu giờ Tý là 23 giờ 50 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 50 phút)

Tháng 4 và tháng 6: đầu giờ Tý là 0 giờ (giờ Ngọ là 12 giờ đúng)
Tháng 5: đầu giờ Tý là 0 giờ 10 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 10 phút)

NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH, TƯƠNG KHẮC
1. Tương sinh theo chiều mũi tên như sau:
Kim --> Thuỷ--> Mộc-->Hoả-->Thổ-->Kim (khép kín)

2. Tương khắc theo chiều mũi tên như sau:
Kim--> Mộc--> Thổ--> Thuỷ—>Hoả--> Kim (khép kín)

NGŨ HÀNH VƯỢNG TƯỚNG THEO 4 MÙA
Mùa xuân: tháng 1 tháng 2 thộc Mộc – thì hành Mộc vượng, Hoả tướng, Thuỷ hưu,
Kim tù, Thổ tử.
Mùa hạ: tháng 4 tháng 4 thuộc Hoả – thì hành Hoả vượng, Thổ tướng, Mộc hưu,
Thuỷ tù, Kim tử.
Mùa thu: tháng 7 tháng 8 thuộc Kim – thì hành Kim vượng, Thuỷ tướng, Thổ hưu,
Hoả tù, Mộc tử.
Mùa đông: tháng 10 tháng 11 thuộc Thuỷ – thì hành Thuỷ vượng, Mộc tướng, Kim
hưu, Thổ tù, Hoả tử.
Tứ quý: tháng 3 tháng 6 tháng 12 thuộc Thổ – thì hành thổ vượng, Kim tướng, Hoả
hưu, Mộc tù, Thuỷ tử

Được vượng tướng, tốt, hưu tầm thường, tù, tử xấu.

THIÊN CAN, ĐỊA CHI THUỘC NGŨ HÀNH
1. Thiên can
Giáp, Ất – Mộc; Bính, Đinh – Hoả; Mậu, Kỷ – Thổ; Canh, Tân – Kim; Nhâm, Quý –
Thuỷ

2. Địa chi
Hợi, Tý – Thuỷ; Dần, Mão – Mộc; Tỵ, Ngọ – Hoả; Thân, Dậu- Kim; Thìn, Tuất, Sửu,
Mùi – Thổ.

TAM HỢP
Hợi- Mão- Mùi, Tỵ- Dậu- Sửu, Thân- Tý- Thìn; Dần- Ngọ- Tuất.

LỤC HỢP
Tý- Sửu; Dần- Hợi; Mão- Tuất; Thìn- Dậu; Tỵ- Thân; Ngọ- Mùi.

TỨ HÀNH XUNG
Tý-Ngọ-Mão-Dậu; Thìn-Tuất-Sửu-Mùi; Dần-Thân-Tỵ-Hợi

LỤC XUNG
Tý-Ngọ; Sửu-Mùi; Dần-Thân; Mão-Dậu; Thìn-Tuất; Tỵ-Hợi

LỤC HẠI
Tý-Mùi, Sửu-Ngọ; Dần-Tỵ; Mão-Thìn; Hợi-Thân; Tuất-Dậu

BÁT QUÁI
Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài
Càn- Kim: Tây Bắc -Tuất Hợi, tháng 9; 10 sắc trắng, thuộc số 6 (lục càn)
Khảm-Thuỷ: Chính Bắc -Tý, tháng 11, sắc đen, thuộc số 1 (nhất khảm)
Cấn-Thổ: Đông Bắc – Sửu Dần , tháng 12, giêng, sắc vàng, thuộc số 8 (bát cấn)
Chấn – Mộc: Chính Đông-Mão, tháng 2, sắc xanh, thuộc số 3 (tam chấn)
Tốn-Mộc: Đông Nam-Thìn Tỵ, tháng 3;4, sắc xanh, số 4 (tứ tốn)
Ly-Hoả: Chính Nam- Ngọ, tháng 5, sắc đỏ, thuộc số 9 (cửu ly)
Khôn-Thổ: Tây Nam-Mùi Thân, tháng 6;7, màu huỳnh, thuộc số 2 (nhì khôn)
Đoài-Kim: Chính Tây-Dậu, tháng 8, màu trắng, thuộc số 7 (thất đoài)

CỬU CUNG BÁT QUÁI
Nhất Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn,
cửu Ly (Là số của Cửu cung)

BÁT MÔN ĐẠI ĐỘN LUẬN
Bát môn vốn là Bát quái biến ra khởi thuận hành mỗi cung vị tại Khảm thuận hành
là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Kiển, Tử, Kinh, Khai. Thứ tự như sau:

Hưu tại Khảm
Sinh – Cấn
Thương -Chấn
Đỗ – Tốn
Kiển – Ly
Tử – Khôn
Kinh – Đoài
Khai – Càn

Trại ra bát môn cho khỏi lầm lạc các môn độn khác
Nếu thạo can chi, ngũ hành, bát quái thì xem Bát môn rất dễ.

*Bát môn thần khoá bổ sung :-
Tại hạ xin hân hạnh góp ý thêm vào Bát môn thần khoá mục Tam hợp:
Hợi-Mão-Mùi thuộc Mộc cục
Thân-Tý-Thìn thuộc Thủy cục
Ty.Dậu-Sửu thuộc Kim cục
Dần-Ngo.-Tuất thuộc Hoả cục
Chân thành cảm ơn bài đăng của Thái Tuế và tác giả Thái Kim Oanh.

CÁCH ĐỘN QUẺ

Các cung được thể hiện như Hình vẽ 1. Bàn tay làm công cụ để tính độn

Tháng giêng khởi tại Cấn, (đầu dưới ngón trỏ)
Tháng 2 tháng 3 tại Chấn, (giữa ngón trỏ)
Tháng 4 tại Tốn, (đầu trên ngón trỏ)
Tháng 5 tháng 6 tại Ly (đầu trên ngón giữa)
Tháng 7 tại Khôn (đầu trên ngón áp út)
Tháng 8 tháng 9 tại Đoài (giữa ngón áp út)
Tháng 10 tại Càn (đầu dưới ngón áp út)
Tháng 11 tháng 12 tại Khảm (đầu dưới ngón giữa)

*Chú ý: Xem kỹ tháng 1-4-7-10 mỗi tháng chiếm một cung. Còn 4 cung khác mỗi
cung chiếm hai tháng.

Vậy là tháng nào đã xác định được cung khởi rồi. Tiếp tục trên cung khởi (đã
được xác định theo tháng như trên). Khởi tại cung đó là ngày mùng 1 đến ngày
khách đến xem, đến cung nào tiếp đó lại khởi tại cung đó bắt đầu là giờ Tý đến
giờ khách đến xem vào cửa nào thì căn cứ vào cửa đó để đoán quẻ.
Nên nhớ đều phải tính thuận theo chiều kim đồng hồ

*Ví dụ:
Ngày mùng 8 tháng giêng giờ Thân có khách lại coi quẻ.
Tháng giêng khởi tại Cấn. tại Cấn khởi ngày mùng 1, tính thuận mỗi cung – mùng
2 tại Chấn, mùng 3 tại Tốn, mùng 4 tại Ly, mùng 5 tại Khôn, mùng 6 tại đoài,
mùng 7 tại Càn, mùng 8 tại Khảm.

*Tiếp tục:
Trên ngày khởi giờ, tại Khảm là giờ Tý (chỗ mùng 8 Khảm). Giờ Sửu tại Cấn, giờ
Dần tại Chấn, giờ Mão tại Tốn, giờ Thìn tại Ly, giờ Tỵ tại Khôn, giờ Ngọ tại
Đoài, giờ Mùi tại Càn thì giờ Thân tại Khảm, Khảm là Hưu vậy lấy quẻ HƯU để
đoán.

Nếu họ cầu công danh thì đoán quẻ Hưu nơi bài thơ công danh, bằng họ xem cầu
tài thì đoán quẻ Hưu bài cầu tài là đúng.

BÁT MÔN PHÚ CHƯỞNG

Luận từ thái cực phân sơ
Âm Dương nhị khí xoay vần lưỡng nghi
Lập làm Bát quái định vì
Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài.
Mới sinh tù thử di lai
Tỏ đặng lòng trời thông sự Quốc gia
Lập làm Bát quái truyền ra
Sửa sang việc nước việc nhà cho an
Kiết hung mỗi sự mỗi tàng,
Ngũ hành phân xét liệu toan tỏ bầy
Chỉ xem 8 vị ngón tay,
Biết lẽ trời đất chuyển xoay dữ lành
Màng chi Quỷ Cốc tiên sinh
Màng chi đại định vỏ kinh kỳ cầm
Màng chi Đại độn lục nhâm.
Màng chi huyền mạng nham nhâm toàn đồ
Màng chi Du Lỗ nhị đô (Du đô Lỗ đô)
Màng chi lịch phụ thông thơ pháp mầu
Việc đời đại sự đổi thay
Rủi may đâu để nào ai biết tình
Đời Đường Lý Tịnh tiên sinh
Đời Hán Gia Cát Khổng Minh dạy truyền
Sinh môn tại Cấn tháng giêng
Cai nội danh gọi đặt tên cung Dần
Tháng 2, tháng 3 Mão cung
Thương môn tại Chấn là trung nội tù
Tháng 4 thuận tiến 1 ngôi
Đỗ môn tại Tốn vậy thời khởi đi
Tháng 5 tháng 6 thuộc Ly
Kiển môn tại Ngọ vậy thì cho thông
Tháng 7 thì khởi tại Khôn
Tử môn là hiệu cho thông cai ngoài
Tháng 8 tháng 9 khởi Đoài
Kinh môn tháng ấy trong ngoài phân minh
Tháng 10 tại Càn đinh ninh
Khai môn đó gọi là nơi Kim ngoài
Tháng Một tháng Chạp vừa hai
Khởi ngay tại Khảm là bài Hưu môn
Tám cửa tìm khởi đã khôn
Ngày giờ cho biết kẻo còn hồ nghi
Tháng nào mùng 1 khởi đi
Ngày đâu giờ đó tức thì cứ gia
Tý Ngọ Mão Dậu vậy là
Ấy thật quẻ nhất chẳng ngoa an bài
Thìn Tuất Sửu Mùi quẻ 2
Bán hung bán kiết vậy thời kể ra
Dần Thân Tỵ Hởi quẻ 3
Muôn việc chẳng hòa, chỉnh thiệt xấu thay.

(Trên đây là bài phú cách độn quẻ )

THÍ DỤ :-

Trường hợp có 3 người đến xem quẻ, như tháng giêng ngày 16 giờ Thân.
Người nào cũng điểm theo thường lệ, khởi tháng giếng tại Sinh trên tháng khởi
ngày là mùng 1 tại Sinh, 2 tại Thương, 3 tại Đỗ..vv… đến 16 tại Hưu, trên
ngày khởi giờ điểm giờ Tý tại Hưu, Sửu tại Sinh, Dần tại Thương, đến giờ Thân
tại Hưu dùng cửa Hưu mà đoán.

Giờ đến lượt xem tiếp quẻ thứ 2 cho đàn ông. Vẫn điểm theo tháng ngày giờ như
trước, thuộc cử Hưu, nhưng là quẻ sau này xem cho đàn ông thì phải nghịch tầm
ngũ dương là từ cửa Hưu đếm ngược lại đến cung thứ 5, nhằm cửa Kiển, dùng quẻ
Kiển mà đoán
(Xem Hình vẽ 2)

Lại xem tiếp một quẻ đàn bà, cũng đoán như trên là dùng cửa Kiển của quẻ trước
và quẻ xem cho đoàn bà thì tiến tam âm là tiến dụng cung 3 đến tại Kiển 1, Tử
2, Kinh 3, dùng Kinh môn mà đoán.
(Xem Hình vẽ 2)
Càn – cha / chồng
Khảm – trung nam
Cấn – thiếu nam (út)
Chấn – trưởng nam
Tốn – trưởng nữ
Ly – trung nữ
Khôn – mẹ / vợ
Đoài – thiếu nữ (út)

Giả như: Có người bị mất trộm nhờ xem của đã đi gần xa.
Ví dụ toán gặp quẻ cửa KHAI, Khai tại Càn cung là quẻ Càn là lục càn là 6 bước,
6 dặm (1 dặm mười bước) xa 600 thước, hoặc 6 cây số.

Hỏi về phía nào? Càn Tây-Bắc Tuất-Hợi là của đã về hướng Tây-Bắc.
Hỏi ai là chủ mưu? Càn :- cha / chồng . Cứ quẻ Càn mà đoán

Hỏi tầm kẻ gian được không? Giả như chiếm Bổ tróc (bắt kẻ gian nhân) giao
thương các loại. Dĩ nhật vi nhân dĩ thời vi tặc. Nhật khắc tức đắc. Lấy ngày
làm chủ lấy giờ làm kẻ gian. Ngày khắc giờ thì đặng.

Ví dụ: Quẻ xem ngày Tỵ hay Ngọ thuộc Hoả giờ Thân thuộc kim. Hoả Khắc Kim tức
là ngày khắc giờ vậy là đặng.

Hoặc hỏi lâu mau thì sẽ đặng? Nhật vi nội, thời vi ngoại, ngoại khắc nội tấc
tốc, nội khắc ngoại tấc trì…
Vượng tướng tấc tốc, hưu tù tấc trì (vượng tướng hưu tù coi lại phần đã post ở
trên). Giờ khắc ngày thì mau, ngày khắc giờ thì chậm, quẻ vượng tướng thì mau,
hưu tù ắt chậm.

CÔNG DANH ĐỆ NHẤT CHIẾM HÔN NHÂN (Cưới gả)

HƯU tất tiền sum hậu tất ly (mới đầu sum họp sau thì chia tay)
SINH tăng phú quý khánh lộc tuỳ (2 vợ chồng phú quý)
THƯƠNG vi tiền chiếm hậu hoà hiệp
ĐỖ tất nam tầm, nữ diệc bi…
KIỂN tất trung ngoạt phân phi cách
TỬ lai bán lộ biệt mông thuỳ (giữa đường bị li biệt)
KINH phòng cô độc sầu tam sự (cô độc buồn sầu)
KHAI phát vinh hoa chỉ lưỡng thì

*THÁI KIM OANH

Kỳ
Môn Ðộn Giáp là một khoa học về phương – vị dựa trên cơ sở nguyên lý Cảm Ứng
Ðiện Từ
.

Ta
đều biết trái đất là một từ trường lớn, chịu ảnh hưởng của hệ Mặt Trời, tức
chịu ảnh hưởng của Mặt Trời, Mặt Trăng và các hệ sao khác. Con người là một vật
mang điện (nhân điện). Khi một vật mang điện mà di động trong một từ trường nó
sẽ bị từ trường ảnh hưởng, cảm ứng và tác động. Mà từ trường của trái đất lại
chịu sự ảnh hưởng của cả Hệ Mặt Trời. Mặt Trời, Mặt Trăng, và các hệ sao khác
luôn luôn di chuyển, do đó sự cảm ứng và tác động điện từ vào con người ta cũng
luôn luôn thay đổi theo từng ngày, từng giờ, từng phút. Làm cho con người ta
lúc khỏe lúc yếu, lúc tốt lúc xấu.

Kỳ
Môn Ðộn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sự
ảnh hưởng của điện từ trường đó sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi
cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm.

Kỳ
Môn Ðộn Giáp là một môn cổ học tinh hoa của người Trung Hoa được phát minh vào
khoảng 5 ngàn năm trước đây. Từ thời Hoàng Ðế lập quốc đã được sử dụng trong
trận chiến với Si Vưu. Sau này, được các Thánh hiền khác như Thái Công, Lã
Vọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng Khổng Minh, Lưu Bá Ôn, . phát triển và hoàn
chỉnh thêm. Thời xưa, chủ yếu được dùng trong đấu tranh chính trị và quân sự.
Hiệnnay, Kỳ Môn Ðộn Giáp đã được áp dụng rất rộng rãi trong mọi lĩnh vực trong
đời sống hàng ngày.

Kỳ
Môn Ðộn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng
Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên,
Ðịa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Ðịa Nhân rồi tìm ra Thiên Thời Ðịa
Lợi Nhân Hòa).

Kỳ
là Tam kỳ và Lục Nghi trong 10 Thiên can thì Ất, Bính, Ðinh được gọi là Tam Kỳ,
còn Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Con giáp được ẩn đọng
trong Lục Nghi nên gọi là Ðộn Giáp.

Môn
là Bát Môn, tức là tám cửa. Gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Ðỗ Môn, Cảnh
Môn, Kinh Môn, và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra.
Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Ðồ mà Gia Cát Khổng Minh đã sử dụng
để nhốt Lục TỐn. Tên trong Bát Trận Ðồ là Thiên Môn, Ðịa Môn, Phong Môn, Vân
Môn, Long Môn, Hổ Môn, Ðiểu Môn, và Xà Môn. Bát Trận Ðồ này xem thì rất đơn
giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Cái kỳ
diệu đó có lẽ cũng chỉ có một số nhà quân sự vĩ đại như Gia Cát Khổng Minh, Tôn
Tử, Thái Công, Trương Lương, Lưu Bá Ôn mới hiểu hết được cái thần diệu vĩ đại
của nó. Ở Việt Nam
chỉ có cụ Trạng Trình là thấu hiểu được môn khoa học này. Vậy Bát Môn thực tế
là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Ðất đối với con người ta.

Ngoài
ra còn có Cửu Cung Tinh tức là chín cung màu. Là 1 – Trắng, 2 – Ðen, 3 – Biếc,
4 – Lục, 5 – Vàng, 6 – Trắng, 7 – Ðỏ, 8 – Trắng, và 9 – Tím. Là chín loại bức
xạ của tuyến Vũ Trụ, chúng xuyên qua lớp khí quyển tới mặt đất và ảnh hưởng đến
sinh lý, hành vi của sinh vật trên trái đất.

Cửu
Thiên Tinh là 9 ngôi sao gồm có 7 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu và 2 ngôi sao
phụ. Chúng có tên là Thiên Bồng, Tiên Nhuế, Thiên Xung, Thiên Phụ, Thiên Cầm,
Thiên Tâm, Thiên Trụ, Thiên Nhiệm và Thiên Anh. 9 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu
này có ảnh hưởng tới con người ta trên Trái Ðất đã được biết từ ngàn xưa.

Bát
Thần là 8 ông thần có tên Trực Phù, Ðằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu
Tước, Cửu Ðịa, và Cửu Thiên.

Tất
cả những yếu tố trên ảnh hưởng tới trái đất theo năm, tháng, ngày, giờ và thời
tiết, gây nên những cảm ứng khác nhau cho vạn vật trên trái đất trong đó có con
người chúng ta, hình thành tốt (cát) hay xấu (hung). Sự biến hóa thay đổi đó
được thể hiện trên 9 cung của Bàn Ðồ Kỳ Môn Ðộn Giáp như một mạch điện từ, nó
thay đổi biến hóa theo sự vận chuyển của trái đất và Thái Dương Hệ theo năm,
tháng, ngày, giờ và tiết khí. Vậy Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp chính là một
“Phương vị học” được dùng để tuyển cát, tức dùng để chọn một thời
điểm một hướng tốt, thời điểm đó và hướng đó ta có thể có được thiên thời, địa
lợi, nhân hòa, để htực hiện mục đích riêng của ta, và biến vận xấu thành vận
tốt.

Tam
Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp xưa kia được dùng trong đấu tranh chính trị quân sự, sau
này mới phát triển và được dùng trong mọi lĩnh vực cả về tướng mệnh học, địa lý
bói toán, .

KIM – OANH – KÝ
BÁT MÔN THẦN KHOÁ

LỜI NÓI ĐẦU

Nhiều người nghe đến hai tiếng Bát Môn đều ham, cũng như nhắc đến tài của Khổng
Minh ai nào chẳng khen phục. Khổng Minh là người sáng tác ra quẻ Bát Môn ấy.

Cũng lắm ông khó tính như soạn giả không tin gì lắm nhưng khi học qua được mới
rõ quẻ tuy đơn gian mà ứng nghiệm.
Từ trước những ông chỉ chuyên nội quẻ Bát Môn cũng nổi tiếng đó đây, song nói
là môn ruột đừng hòng các ông ấy chỉ lại cho ai.Có người gặp đặng quyển ấy lưu
truyền, nhưng vấp phải Hán tự khó như Pháp văn chẳng phải chữ đâu nghĩa đó theo
nối Việt văn, nên cần phải hiểu rõ lý của nó.

Hơn nữa Hán văn còn bí mật hơn. Cả một bài dài thườn thượt mỗi câu gói ghém đầy
bí mật lại chẳng phân câu cho nên một bài mà mỗi lần bạn đọc qua thấy nghĩa mỗi
lần khác nhau.

Nên soạn giả giúp đủ tài liệu cho các bạn hiếu kỳ có được môn này trong tay mà
kinh nghiệm cho thoả.
Lý Thuần Phong: Thái sử lệnh đời Đường Cao Tông, giỏi thiên văn lịch số là một
nhà toán học xuất sắc đã làm chú thích Thập bộ toán kinh. Phó Dịch: cũng là
Thái sử lệnh đời Đường.
*Soạn giả: Thái Kim Oanh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *