Untitled Post

PHONG THY LUN

MỤC LỤC
PHONG THỦY LUẬN
Bài viết này dienbatn đã viết dở bên trang TUVILYSO. Nay thấy
có nhiều người muốn nghiên cứu Phong Thủy một cách tường tận và cụ thể nên
dienbatn xin biên tập lại, ngõ hầu giúp mọi người được tý chút gì đó về Phong
Thủy một cách đơn giản hơn. Xin hồi hướng công đức này cho GS. TS NGUYỄN HOÀNG
PHƯƠNG và Huynh DAOKY ở nơi chín suối. Cầu mong cho các Huynh sớm về cõi Phật. dienbatn
.
Thân gửi các bạn trên Diễn đàn Phong thủy.
Từ trước tới nay, phần lý thuyết Phong thủy được viết rất nhiều, hằng
hà sa số cuốn sách đã được in hoặc lưu truyền trong dân gian. Tuy viết rất
nhiều, nhưng vấn đề lý thuyết của bộ môn Phong thủy, vì không được dựa trên một
căn bản Lý thuyết thống nhất và triệt để nên tùy theo điều kiện cụ thể mà phát
triển ra rất nhiều Môn phái Phong thủy, có lý luận và cách thực hiện nhiều khi
trái ngược lẫn nhau, khiến người đời sau không làm sao hiểu được và tính chất
Thần bí cứ dần dần xen vào và từ đó Thuật Phong thủy trở nên một cái gì đó
Huyền bí, khó hiểu và được coi là Mê tín dị đoan.
Việc tìm lại cội nguồn Lý thuyết của bộ môn Phong thủy nói riêng và
Lý thuyết của Dịch lý Đông phương nói chung, là một vấn đề rất thiết yếu. Công
việc này đòi hỏi rất nhiều thời gian nghiên cứu, sưu tầm, nhận định , tập hợp
và sắp xếp lại. dienbatn không dám có tham vọng làm việc đó, chỉ xin làm viên
đá nhỏ lót đường cho sự nghiên cứu của các bạn. Nếu thành công thì thành quả đó
xin tặng lại các bạn , hoặc nếu chẳng đi đến đâu cả thì âu cũng là số Trời, và
những gì có được xin các bạn cứ dùng làm tư liệu để tiếp tục những bước sau này.
Mọi việc đều phải có sự khởi đầu và như người xưa nói: “VẠN SỰ KHỞI ĐẦU NAN “. Trong bài viết này dienbatn xin được công bố,
những bài viết, những ý tưởng của một số Cao nhân ẩn danh, không muốn xuất hiện.
Đúng hay sai còn phụ thuộc nhiều yếu tố, song dienbatn xin kính cẩn cảm ơn các
vị Tiền bối đã chỉ giáo. dienbatn chỉ là người trích dẫn, sắp xếp lại cho thứ
tự và mạch lạc hơn, ngoài ra do sự kém cỏi thô lậu, không có ý tưởng gì hay nên
xin các bạn cũng đừng chấp. Nào , bây giờ chúng ta bắt đầu khởi hành.

1- LỜI NÓI ĐẦU:

Theo sử sách còn truyền lại, từ khi Phục Hy lập ra Bát quái
định Thiên đồ, xa thì trông Thiên văn, đại Địa, gần thì trông ở người, vật, toàn
đồ Vũ trụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN: Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA: Tinh
ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN:
Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo, mỗi thành
phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO: Là sự vận hành các phần tử Thiên hà, Thiên hệ, Tinh tú châu lưu
an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO: Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn
vật.
NHÂN ĐẠO: Là cái đức lớn của Thiên -Địa, Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới
minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động, nếu ngưng , nghỉ tức là hoại , là
diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc, hạnh phúc cho mọi người
tức là cả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo. Vì
thế , các bậc Tiền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh
giới Chân -Thiện -Mỹ, họ chiêm nghiệm , học hỏi từ Thiên nhiên địa vật, tạo nên
nền tảng Kiến trúc . Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn, Địa thế, Nhân
sinh), nên gọi là thuật Phong thủy. Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái
đồ, Hà Lạc.

NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ.

Trước khi Tầm Long, trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để
hiểu biết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ. Trong thân thể con người có 365
đại huyệt và gần 1. 000 huyệt nhỏ khác, cũng có Khí, có Thủy, có Hỏa, kinh lạc
như Đại Vũ trụ bên ngoài. Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa
trong bản thể, tức là phần tu luyện Pháp Đạo, Đạo Thuật để đạt được đức Nhân. Có
Đức Nhân rồi mới tìm hiểu biết về Đại Vũ trụ, tầm Long, tróc mạch những nơi
“Tàng Phong tụ Thủy “, là những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm
ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể.
Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng, còn điểm Huyệt
trên đất, nước, âm, dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc , con cháu nhiều đời.
Do vậy, các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật, nhằm khai mở Tâm năng, khiếu
Cảm xạ, Thấu thị là chính yếu, còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là
căn bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi, chứ việc
Tầm Long , trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng.
Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện, khai
thác đúng mức những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:
-Cảm xạ các giao động mạch Khí. Tìm nguồn nước.
-Thần giao cách cảm. Tương tác giữa người này và người kia.
-Sử dụng tâm năng Tiên đoán, thấu thị.
-Hóa giải theo ý muốn.
-Biết được Thiên vận, Địa thế, Nhân cơ, các nguồn thông tin, dữ
liệu từ Vũ trụ.
-Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu, giải phẫu. . .
-Trị liệu bằng Trường Sinh học.
Ngày xưa ở Trung quốc, Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật
xây dựng, kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố: HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.
1/KHÍ:
là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ, vật thể, Đất, Nước, con người. .
2/LÝ:
Là quy luật vận động, vận chuyển , tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa. Gồm ba
nguyên tắc:
a/Trời chưởng quản Địa, Nhân.
b/Trời, Đất đều tác động đến Vật chất và con người, nên phải biết
vận dụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống.
c/Vận mạng , hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người
chết, tức là Âm trạch. Do vậy người xưa có câu: “Người sống thì xem cái
nhà , người chết thì xem cái mồ “.
3/SỐ:
Là những tượng số của Dịch lý(Nghi, Tượng, Quái, Hào).
4/HÌNH:
Là hình thể vùng đất, dòng nước, cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng
tốt đến mạch khí.
Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn
nhau. Yếu tố được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng
năng lực của Đất hay còn gọi là sóng điện từ. Chính hai lực này chi phối, ảnh
hưởng đến hoạt động của Trường Sinh học con người, nếu hai lực này tương phản
thì đem lại kết quả xấu cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang
ở, hoặc Âm trạch táng tử thi. Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con
người sẽ tốt, sức khỏe dồi dào, kinh tế phát triển lên mãi.
Do vậy, Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của
Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái, là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình
trải nghiệm trên 5. 000 năm. Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ
căn cứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định.

PHONG THỦY.

Phong: Là Gió.
Thủy: Là nước.
Hỏa: Là Lửa.
Là tinh túy của Đất, sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào
Khí. Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó. Thiên vận
có sự biến đổi thì Địa khí tương ứng với nó. Thiên khí vận động ở trên thì Nhân
khí tương ứng với nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo. Như
vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.
Hoàng Thạch Công nói: Một Âm, một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo).
Một tĩnh , một động là Khí, một Vãng một Lai là Vận. Hà đồ -Lạc thư hợp thành
số lẻ;”Cơ “là Tịnh Dương hay thuần Dương, số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm
hay Thuần âm.
Sách “CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ “của Tiên sinh
Tử Linh Thành viết: “Vào thời Phục Hy, Thần nông, Hoàng đế;sông Hoàng hà
dịch chuyển từ Long môn đến Lã Lương Sơn, Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành
sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn vào biển lớn. Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy
qua phương Nam, rồi từ Nam chuyển
hướng lên Đông bắc, Dự châu đóng ở giữa. Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ
nhạc triều bái, thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa. Cũng là nơi xuất hiện
ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu, Thuấn, Khổng tử. Phía Bắc Hoàng hà , còn
phương Nam là Trường giang, Thái sơn (Tỉnh An huy) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn
chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt
tộc). Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết
thành một vùng Bảo địa hay Linh địa. Có Linh Tú khí. Quách Đại Quân viết rằng: “Ta
xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu, mà Quý
châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn
không dừng thẳng đến đất Giao châu, nên nước ấy có Can Long kết thành Linh bảo
địa”.
Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,
ông cha truyền khẩu, bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến
tranh bị đô hộ Bắc thuộc.

TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT.

Sách có câu: “Tiên tu nhân lập âm chất, nhi hậu tầm Long
“.
Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi, nhằm thăng hoa
cuộc sống vật chất đầy đủ, công danh hiển hách, vợ đẹp con ngoan, Gia đình hạnh
phúc. Sách THÔI QUAN THIÊN viết: “Trong nhà có người đức hạnh cao
thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí “. Qua câu nói
trên tức là con người làm chủ Linh khí vạn vật do phần Tâm khícủa chính mình. Các
Phong Thủy Sư không hiểu điều này thì dủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa
cũng chẳng linh nghiệm.
Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần cảm ứng tức là
Thiên Đạo (Đạo Trời);sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất, tạo nhân
quả tốt. Tục ngữ có câu: “Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt “.
Do vậy, tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị, Phong Thủy Sư phải tích đức
hành thiện làm căn bản. Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng, thì ắt Thiên cơ sẽ
ứng, Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc. Bởi
Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi , vận Trời ứng cho, chứ
chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi nội dung, cứ tưởng rằng tầm
được Long huyệt rồi, con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc, cái gốc chúng ta
chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn, rõ là ta chẳng biết gì cả. Nếu như các Phong
Thủy Sư họ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương, Công Hầu,
Khanh tướng cho con cháu họ, chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ?
Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua cử làm An
nam Tiết độ sứ đô hộ nước ta, thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều
nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long, sau đó xưng Vương. Cao
Biền còn sợ Tú khí Địa linh của nước Việt chúng ta, nên thường cưỡi diều giấy
bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát , làm hư hại rất nhiều Long mạch.
Nhưng ý người muốn sao bằng Thiên vận (Ý Trời). Ít lâu sau Cao Biền bị triệu
hồi, phải bỏ thành Đại La. Đất Việt là Địa Linh thì tất phải có Nhân kiệt, nối
tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, giành chiến thắng cho dân tộc.
HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho, Đạo xem đó là căn bản.
Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là nội dung của Khí. Khí là hình
thức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm. Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì: “Bất
ngôn nhi mặc tuyên đại hóa. . . “(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ
trụ), luôn cảm ứng cùng Tâm khí con người. Quách Phác nói: “Cát hung cùng
cảm ứng lẫn nhau, họa phúc cũng tự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến “.
Khi táng di hài Tổ tiên, chắc người ta phải chọn Địa huyệt thật tốt
mà an táng, song song với việc trên , người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân,
tâm cầu lấy gốc rễ của Đạo. Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt, sẽ
cho kết quả trái ngược, làm tổn hại đến con cháu đời sau.
Nếu như có Nhân, tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thiện ác tùy vào
Tâm khi chiêu lấy họa phúc. Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay
Địa táng một cách ngẫu nhiên, con cháu sau này phát Đế Vương, Công hầu. Trường
hợp như thân Phụ của ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG), Âm phần
phát được 9 đời Chúa và 9 đời Vua. . . vv. Đó là phần Âm chất đã tích lũy từ
nhiều đời nên chiêu tập được Nhân -Quả, được Trời -Đất cho hưởng Phúc, đâu phải
tầm Long trích Huyệt mới được.
Triệu Quang viết cuốn: “PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ
“, có nói rằng: “Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt
tốt “. Dẫu cái tốt, xấu của Phong thủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung, nhưng
Âm đức của con người có thể cải biến được Vận -Mạng. Đến như các bậc Tiền bối
Phong thủy như Cao Biền, Quách Phác tài giỏi kinh Thiên động Địa , nhưng khi
gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình, bời biết đạt Địa lợi, nhưng
Thiên thời và Nhân hội còn khuyết, không dám nghỉ bàn. Tóm lại việc “TIÊN
TÍCH ĐỨC, NHI HẬU TẦM LONG
“của người xưa dạy quả không sai.

PHẦN TẦM LONG -CẮM HUYỆT:

Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn, xem tinh tú trên trời. Sao Tử vi
ở phương Bắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở phương Nam;Sao Thái vi
ở phương Tây, nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương. Lấy tứ chánh
vị Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long, và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm
Long (Tiên Thiên). Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó, thấy
cảnh vật xung quanh xinh đẹp, trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa , dị thảo thì
phải biết đó là Long, phải biết phân biệt đầu , đuôi, Can, Chi, Triền, Giáp, Hộ
vệ sơn chạy đến đâu. Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này, xem cục
thế lớn, nhỏ, tốt xấu. Sau cùng quan sát xem tính tình, ăn ở của dân địa phương
nơi đây thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long.
Kinh Thư có viết: “Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn
tương hỗ với nhau, Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành. . . Dương đức sẽ hình
thành từ thân thể của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện
hạnh của ta “. Tóm lại thuật Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán, nhìn
thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long mạch ắt phải sáng tỏ.
MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 loại: SINH LONG, PHÚC LONG, ỨNG
LONG, ẤP LONG, UỔNG LONG, SÁT LONG, QUỶ LONG, KIẾP LONG, DU LONG, BỆNH LONG, TUYỆT
LONG, TỬ LONG. Các tên này nhằm chỉ vào sự tán tụ của chân Khí mà gọi. SINH
LONG, PHÚC LONG, ỨNG LONG, ẤP LONG là bốn loại Chân Khí hội tụ, còn tám loại
Long kia là tán Chân Khí;hình thể của Long ngắn, gấp khúc ít lần đi lên, xuống
hoặc đi lên mà không đi xuống, xuống mà không lên, cho nên nó làm cho mạch Khí
thế đi xuống. Còn tụ Chân Khí thì trải dài , lên xuống theo hình thể nhiều lần.
Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch, theo đường hướng mà đi
xuống, đoạn ẩn , doạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó
là SINH LONG.
Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi thì gọi là PHÚC LONG.
Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên, ôm vòng trở lại
thì gọi là ỨNG LONG.
Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần, khí trùng điệp, hình dáng giao
đầu lẫn nhau gọi là ẤP LONG.
Long mạch hình thế hiểm ác, gấp rút, trùng điệp, nhưng không đối xứng
chỉnh tề gọi là UỔNG LONG.
Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG.
Loại phân chi, chia cắt mạch gọi là QUỶ LONG.
Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG.
Loại mà Khí lưu ly, tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG.
Mạch Khí không lên, xuống, không chuyển động gọi là BỆNH LONG.
Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG.
Mạch nằm riêng biệt không hộ, giáp, triền và không có Khí lực gọi
là TUYỆT LONG.
Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì
tác động cho những âm phần táng trong cuộc đất như:
SINH LONG thì con cháu ðược hưởng Phúc , Thọ. PHÚC LONG thì con
cháu Phú quý. ỨNG LONG thì con cháu giầu có, hiếu thuận. ẤP LONG thì con cháu
Lễ ðộ , nhường nhịn, thuận hòa.
SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai họa, chết chóc. QUỶ LONG
và BỆNH LONG thì con cháu bị bệnh tật, không an cư, nghèo khổ. DU LONG thì con
cháu hoang đàng, dâm loạn. TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử thương, tuyệt
tự, không có người nối dõi Tông đường.
12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần, quan
hệ đến người còn tại tiền, nên vì thế khi mai táng cho người chết, không thể
không lựa chọn đất cắm Huyệt.
Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 thế núi căn cứ vào
hình dáng, tư thế mà chia ra làm 9 RỒNG:
1/XUẤT DƯƠNG LONG.
2/SINH LONG.
3/GIÁNG LONG.
4/PHI LONG.
5/HỒI LONG.
6/NGỌA LONG.
7/ẨN LONG.
8/ÐẰNG LONG.
9/LĨNH QUẦN LONG.
Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU: “Phong thủy Ðịa lấy Sinh
khí làm chủ, lấy Long Huyệt làm nền tảng, Sa, Thủy làm bổ trợ. Xem Phong thủy
chính là quan sát sự thuận ứng nghịch phản của Sơn và Thủy, Khí cứng rắn nhu
hòa của Âm Dương, lý Phân ly, hội hợp của tụ và tán.
Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao, vượt lên, hướng đi
của Ðịa mạch hoạt bát như Long, nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.
Ðịa mạch xuất hiện ở giữa, xung quanh có Sa trướng trùng trùng. Sa trướng của
nó có gần có xa, có nghênh có tống, có triền, có hộ vệ. Khi hiệp cốc xuất hiện ,
chúng đều thu giữ Ðịa Khí, tựa Phong yêu (Lưng ong) và Hạc tính (Gối Hạc) vậy, có
nơi tạo ra thế cử đỉnh, có chỗ tạo ra hình Giáp hộ, nơi giao tiếp của Ðịa mạch
không bị đứt đoạn, khi Phong suy đi qua hai bên Hiệp cốc , thì Ðịa mạch lại tựa
như hai bên mạn thuyền song song mà ra. Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng
sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần, tựa hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống
nơi này. Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ, muôn hình vạn trạng. Minh đường rộng rãi
bằng phẳng, Thủy khẩu giao kết , uốn lượn xung quanh, bốn phương tám hướng
không có nơi nào bị khuyết hãm. Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này, khí Âm
Dương phân biệt cùng tiếp, chỗ cao chỗ thấp, lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên
như hai cánh tay giang rộng, trên phân ra, dưới hợp lại, Ðịa thế tròn và nhọn
cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ. Thủy trong , Thủy ngoài đều ôm ấp, bao
quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội. Nơi được như vậy được xem là đại
Phú đại Quý của Phong thủy vậy. “
Trong phần trên chúng ta đã phân tích mối quan hệ giữa tam tài THIÊN
-ÐỊA -NHÂN
, mối quan hệ giữa Long mạch, Huyệt vị. . . . vv. Từ ðây chúng
ta lần lượt xem xét đến hai nhánh chính của Phong thủy là ÂM TRẠCH VÀ DƯƠNG
TRẠCH.
Phần ÂM TRẠCH rất phức tạp và còn nhiều rối rắm, dienbatn sẽ
viết ở phần sau. Bây giờ chúng ta đi vào địa hạt thứ nhất của Phong thủy là DƯƠNG
TRẠCH
-Tức là nơi sinh sống của người tại tiền. Theo định nghĩa: Dương
trạch là nơi sinh sống của người tại tiền (đang sống), nó không chỉ bao gồm nhà
cửa, cơ sở làm ăn, buôn bán mà xét rộng ra nó còn bao gồm cả các Thành phố, Tỉnh
lỵ. . . .
Trong thuật Phong thủy hiện nay, có rất nhiều Trường phái, đang bàn
cãi lung tung cả và ai cũng cho rằng Trường phái của mình là đúng nhất. Tạm
thời người ta có thể chia ra các Trường phái chính như sau:
1/PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH -Hiện nay do Thái Kim Oanh đang chủ xướng.
2/PHÁI DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (Còn đi theo nó là Dương cơ chứng giải)
của Triệu Cửu Phong chủ xướng.
3/PHÁI HUYỀN KHÔNG HỌC .
4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY.
5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.
Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác , nhưng dienbatn chỉ xét
đến những Trường phái nổi bật nhất hiện nay.
Bây giờ người viết xin đi vào chi tiết cụ thể từng môn phái một. Tất
nhiên chỉ có thể nêu những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất, sau cùng xin chia
sẻ với các bạn một số kiến thức Phong thủy còn chưa được phổ biến rộng như PHONG
THỦY LẠC VIỆT, CẢM XẠ

PHONG THUỶ VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.

Trước hết chúng ta phải bắt đầu từ những khái niệm cho về sau khỏi
cần phải tranh luận về vấn đề này.
1/TRẠCH:
Là một cuộc đất, có
ranh giới hoặc không , được sử dụng vào công việc chôn cất, làm mồ mả, nhà mồ
hay xây cất nhà cửa , Làng mạc, Thành phố. . Cũng có một số người coi Trạch là
dải đất, giống như con lươn trên đê. Riêng người viết chỉ quan niệm đơn giản
Trạch là một cuộc đất, vùng đất. Trong Trạch lại được chia ra làm Âm Trạch và
Dương Trạch.
2/ÂM TRẠCH:
cuộc đất dùng để chôn người chết, còn gọi là Mồ mả. Phong Thủy cho rằng, nếu
người chết được chôn vào một cuộc đất tốt về Phong thủy thì sẽ truyền được Phúc
ðức cho con cháu đời sau.
3/DƯƠNG TRẠCH:
cuộc đất được dùng vào mục đích làm nhà cửa, Ðình , Chùa, Miếu mạo, Thôn xóm, làng
mạc, Thị trấn, Thành phố. Dương trạch phải hài hòa với Thiên nhiên, có môi
trường tốt đẹp, làm cho con người thấy vui tươi , mạnh khỏe, hạnh phúc. Dương
trạch tốt tức là môi trường tốt.
4/LONG MẠCH: Mạch là
nguồn gốc, là đường dẫn máu đi nuôi cơ thể người ta;Long là con Rồng. Nhưng
trong Phong thủy, người ta gọi Long mạch là những dải Núi, dải đất, Dòng sông, dòng
nước chảy, nhấp nhô, uốn khúc như Rồng, thoắt ẩn, thoắt hiện. Long mạch có thể
chỉ vài chục cây số, nhưng cũng có thể là vài ngàn cây số.
Long mạch lại được chia ra SƠN MẠCH VÀ THỦY MẠCH.
SƠN MẠCH: Là những
dải Núi, dải đất đi từ Tổ Sơn đến Huyệt. Tổ Sơn là Núi cao, nơi xuất phát Sơn
mạch. Dải Núi đi ra khỏi Tổ Sơn gọi là Hành Long. Hành Long lại được chia ra
làm CÁN LONG: Là dải Núi chínhđi ra từ Tổ Sơn và BÀNG LONG: Là chi nhánh đi ra
từ Cán Long. Long mạch lúc nổi lên thành Núi, đồi , gò , đống, lúc lại chìm sâu
vào lòng đất, có khi vượt qua cả những dòng sông.
THỦY LONG : Là các
mạch nước dòng sông bắt nguồn từ các Tổ Sơn, chảy theo các Sơn Long. Thủy Long
cũng có Cán Long và Chi Long, đổ vào Minh đường rồi thoát ra ở Thủy khẩu tiêu
Thủy.
Sơn Long đi thuận theo chiều nước chẩy gọi là Thuận Long. Ði ngược
chiều nước chẩy gọi là Hồi Long, đi ngang qua chiều nước chảy gọi là Hoành Long.
Theo cấu tạo Ðịa chất nước Việt nam ta, nói chung Núi sông chạy từ
Tây Bắc xuống Ðông Nam
(Trục CÀN -KHÔN), do vậy Long mạch thường đi theo trục CÀN -KHÔN, hoặc CÀN -LY
là chính. Long đi theo hướng này là thế chính có tính chất rất bền vững, dài
lâu. Long thuận thì nước chầu xuống, Long ngược thì nước chầu lên. Thuận nước
chầu lên là thế thuận, nước chầu xuống là thế nghịch.
6/THỦY KHẨU: Thủy
khẩu là nơi mà nước chẩy vào Minh đường. Chẩy đến gọi là Thủy lai, chẩy đi gọi
là Thủy khứ. Nơi nước chẩy vào gọi là Thiên môn, nơi nước chẩy ra gọi là Ðịa hộ.
Dòng nước chẩy đến, chẩy đi tại vị trí Huyệt rất quan trọng, riêng về nó người
ta có hẳn một mục là THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH, xét đến sự tốt xấu của hướng
các dòng nước đối với Huyệt vị.
ÐIỂM HUYỆT: Sau khi đã tìm được địa thế hội đủ các tiêu chuẩn của Long mạch, Thủy
khẩu, Minh đường, Long -Hổ, Sơn, Chu tước, Huyền vũ. . . , các phương vị sinh ,
Vượng thì cần phải chọn nơi tụ khí để xác định chính xác vị trí Huyệt. Làm như
vậy được gọi là Ðiểm Huyệt.
Ðiểm Huyệt là công việc vô cùng khó , là việc phải tổng hợp tất cả
các kiến thức về Ðịa lý Phong thủy, các Kinh nghiệm , các pháp của Huyền thuật,
cảm giác của Phong thủy sư, kết hợp với La kinh để chọn được vị trí cát lợi
nhất cho việc xây cất nhà cửa hay táng Mộ. Cãn cứ vào địa hình, Ðịa thế có thể
lấy đúng giữa Huyệt, lấy ở Huyệt nhánh hay bên cạnh Huyệt.
7/MINH ÐƯỜNG: Theo danh từ , Minh đường là nơi ngày xưa Vua, Chúa tiếp các Bá
Quan, Văn -Võ triều bái. Trong Phong thủy, Minh đường là vùng đất phía trước
của Huyệt vị. Minh đường cũng được chia ra làm Nội Minh đường, Trung Minh đường
và Ngoại minh đường, gọi chung là Tam đường. Minh đường ở trước Huyệt gọi là
nội Minh đường. Minh đường được bao bọc bởi hai tay Long -Hổ gọi là Trung Minh
đường. Minh đường ở ngoài Án Sơn gọi là ngoại Minh đường.
8/HUYỆT VỊ: Nghĩa
gốc của từ Huyệt là hang ổ, sào Huyệt, là ngôi nhà bằng đất, là chỗ châm cứu
trên cơ thể con người. Trong Phong thủy , Huyệt là nơi tập trung Khí của Long
mạch.
9/ÁN SƠN: Án có
nghĩa là cái bàn làm việc của các cụ Ðồ Nho ngày xưa (Án Thư). Án cũng co nghĩa
là che chắn trước mặt. Án Sơn là núi nhỏ chắn trước Huyệt như cái bàn làm việc
trước mặt người ngồi, Án Sơn không được quá cao. Huyệt có Án như Chủ có Khách, Vua
có Tôi.
10/TRIỀU SƠN: Triều có nghĩa là đối diện như Chủ với Khách. Triều Sơn là núi to ở
phía xa hơn Án Sơn. Triều Sơn mà hai bên có Thủy lưu kèm theo Triều vào Huyệt
là Triều Sơn quý. Như vậy tính chất của Triều Sơn và Án Sơn tương tự như nhau ,
nhưng khác nhau ở độ cao và tầm xa.
11/SA SƠN: Là Núi
ở xung quanh Huyệt. Trong Ðịa lý chia ra các Sa (Sơn) như sau: Án sơn, Triều
sơn, Thanh long, Bạch hổ, Tả phù, Hữu bật, La thành viên cục, Lạc sơn, Hạ thủ
sa, Thủy khẩu sa, Cản môn sơn, Hoa biểu sơn, Bắc Thần tinh, La tinh sơn, Quan
tinh sơn, Quỷ tinh sơn, Diệu tinh sơn. . .
12/THANH LONG (TAY LONG): Thanh long là Núi hay dải đất nằm bên TRÁI Huyệt. Có khi Sơn
mạch chạy đến Huyệt rồi phân ra hai nhánh như hai cánh tay ôm lấy Huyệt tạo nên
Thanh long, Bạch hổ. Thanh long chủ DƯƠNG, CON TRAI, KHÍ DƯƠNG.
13/BẠCH HỔ: Là Núi
hay dải đất bên Phải Huyệt. Bạch hổ chủ Âm, Con Gái, Khí Âm.
Thanh long – Bạch hổ đối với Huyệt giống như chúng ta ngồi trên
chiếc ghế có hai tay tựa vậy, hai tay này phải cân đối mới tốt.
14/TẢ PHÙ HỮU BẬT: Là hai
trái núi nằm hai bên tả hữu của Huyệt vị. Tả phù hữu bât cần phải cân xứng về
cả độ cao, xa gần, lớn nhỏ. Nếu không xứng lứa vừa đôi là Huyệt không quý. Người
ta gọi tả phù – Hữu bật là Nhật Nguyệt giáp chiếu, hay Văn võ thị vệ. Tả phù
hữu bật dịch về phía sau của Huyệt gọi là Thiên ất, Thái ất. Dịch về phía trước
một chút gọi là Thiên hồ, Thiên giác. Nếu dịch về phía trước một chút nữa và
chụm đầu vào nhau gọi là Kim ngô, Chấp pháp. Nếu nằm ở hai bên Minh đường Gọi
là Thiên quan, Ðịa trực. Nếu nằm ở hai bên Thủy khẩu gọi là Hoa biểu, Cản môn.
15/LA THÀNH VIÊN CỤC: Là thế
núi bao bọc xung quanh Huyệt vị như tường thành bao quanh trùng trùng điệp điệp,
lên xuống nhấp nhô bảo hộ Huyệt vị, tựa như cánh sen ôm lấy nhị hoa. Nếu có
điều đó là Huyệt quý.
16/HẠ THỦ SA: Còn
gọi là hạ quan, Hạ tư. Núi nằm bên cạnh dòng nước chảy ra ở bất kỳ phương nào
của Huyệt đều gọi là Hạ thủ sa. Hễ có Hạ thủ sa là có sự kết phát. Dòng chảy
trước Huyệt rẽ về bên nào thì bên đó Hạ thủ. Hạ thủ sa cần trùng điệp, dày đặc,
liên tiếp, không được mỏng, nhỏ.
17/BẮC THẦN SA: Là núi
đá dựng đứng ở giữa Thủy khẩu mà có hình thù kỳ quái. Núi Bắc Thần sa rất quý
hiếm, thường đi với Huyệt Công hầu , Khanh tướng. Bắc Thần sa càng hùng vĩ càng
cát lợi.
18/LA TINH: Là núi
nhỏ hoặc gò nổi lên ở giữa Thủy khẩu giống như Bắc Thần sa. La tinh có thể là
núi nhỏ, gò đá hoặc đất, nếu là đá thì tốt hơn là đất. La tinh tròn trặn hay
nghiêng vát là tốt. La tinh có bốn bề la mặt nước là tốt. Ðịa thế Huyệt có La
tinh là địa thế Huyệt quý.
18/QUAN TINH: Là núi nhỏ đằng trước Huyệt ở phía ngoài đối diện với Thanh long, Bạch
hổ, kéo sơn mạch ra đằng trước.
20/DIỆU TINH:
tảng đá lớn nhô lên ở hai bên tả hữu của Huyệt. Diệu tinh to lớn và đẹp thì sẽ
tạo phú quí lâu dài.
21/QUỶ TINH: Là sơn
mạch ở đằng sau Long Huyệt mọc ra hai cánh, để cho Huyệt trườn gối lên. Chỉ có
Hoành long kết Huyệt mới có Quỷ tinh. Quỷ sơn không nên qua cao, lớn vì sẽ đoạt
mất chân khí của Long Huyệt. Huyệt có Quỷ tinh đẹp là Huyệt quý.
22/CẦM TINH: Là sơn
thạch (Núi đá) ở giữa Thủy khẩu , còn gọi là Hỏa tinh Hà Lạc. Hình dạng của Cầm
tinh giống như cái bút lông, con cá đang bơi, hay Rùa, rắn, dài, nhọn, vuông
tròn, cao thấp, tụ hay tán. Huyệt có Cầm tinh là Huyệt quý.
23/HUYỀN VŨ: Là sơn mạch đằng sau Huyệt. Huyền vũ là nơi mà từ đó Mạch chẩy vào
Huyệt. Huyền vũ cao đầy thì có nhiều khí mạch dự trữ. Huyền vũ cúi đấu, bằng
phẳng, vuông tròn là quí. Tôn nghiêm có bút nhọn, thanh tú thì quý. Thấp, mỏng
bị gió thổi, thô bạo lấn át Huyệt là xấu.
24/CHU TƯỚC: Là các
sa sơn ở trước Huyệt, là các gò đống ở trước Huyệt. Nó múa lượn, chầu đón Huyệt,
tốt tươi, sáng sủa, vòng cung ôm lấy Huyệt là quý. Sơn chạy tán loạn, lởm chởm ,
âm u là xấu.
Ghi chú: Những
định nghĩa trên dienbatn viết theo KS. TRẦN VĂN TAM trong cuốn XÂY
DỰNG NHÀ Ở THEO PHONG THỦY
.



PHONG THUỶ

Trong phần này có một bài của
Nguyên Vũ (Văn Hóa Phương Đông), tóm lược rất nhiều sách về các khái niệm trong
Phong Thủy. Người viết xin đưa vào để các bạn tham khảo – dienbatn.
Phong thủy: Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở,
thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng,
bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa
phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là
phong thủy không hợp. Sách Táng thư viết: “Mai táng phải chọn nơi có sinh
khí. Kinh viết: Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ
nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng”. Do vậy mà
có tên là Phong thủy.
Hai chữ Phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi
trú ngụ hoặc mai táng cát tường phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong
thủy.
Phong thuỷ thuật: Học thuyết cổ đại Trung Quốc hướng dẫn người ta lựa
chọn nơi trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với một hệ
thống lý luận và phương pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng
môi trường tự nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con người có
thể ảnh hưởng đến con cháu của người đã khuất hoặc đến vận mệnh của những người
sinh sống tại đó. Thuật này đề xuất lý luận và phương pháp hướng dẫn người ta
chọn cát tránh hung, cầu phúc tránh họa. Thuật Phong thủy có nguồn gốc xa xưa, thời
thượng cổ con người đã chú ý đến ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi
cư trú của loài người, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích. Khi loài
người bắt đầu có hoạt động xây dựng một cách tự giác, việc tìm kiếm cho được
nơi trú ngụ an toàn, thích hợp, tiện lợi đã trở thành một trong những nhu cầu
cơ bản. Khi việc chôn cất người chết trở thành phương thức chủ yếu, do ảnh
hưởng của quan niệm sùng bái linh hồn và tổ tiên, người ta cố tìm cách mai táng
sao cho có thể giữ gìn lâu dài thi thể người chết. Thời kỳ Tiên Tần, do trình
độ khoa học còn thấp, các hình thức bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong
xã hội gắn liền với hoạt động xây dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến như Bốc
trạch, Bốc cư, Bốc lạc phản ánh tình hình đương thời. Đồng thời các học thuyết
âm dương, ngũ hành, bát quái Chu Dịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp
dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc cư, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong
thủy nhờ đó có được cơ sở tư tưởng triết học cần thiết. Thời Lưỡng Hán, đã xuất
hiện các trước tác về Phong thủy như Cung trạch địa hình, Kham dư kim quí. Các
học thuyết Hình pháp gia, Kham dư gia cũng mang nội dung Phong thủy. Mối quan
hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung họa phúc của con người đã trở nên rất mật
thiết, đồng thời xuất hiện những người chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều
này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu sấm) và hàng loạt điều cấm kỵ mang tính chất
mê tín đang thịnh hành trong xã hội đương thời. Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều,
quan niệm nhà ở và mồ mả gắn với cát hung họa phúc của con người được tầng lớp
sĩ đại phu tiếp nhận rộng rãi, thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật
Phong thủy. Các sách Phong thủy xuất hiện nhiều chia ra 2 loại: Dương trạch và
âm trạch. Thuyết “Tứ Linh”cũng bắt đầu hình thành. Các quan niệm âm dương
ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà lạc, âm luật quý hậu được áp dụng vào
thuật Phong thủy. Đến thời kỳ Tùy Dường, thuật Phong thủy về cơ bản đã hình
thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời hàng loạt, trong đó Trạch Kinh có
đến mấy chục loại, Táng thư có trên trăm loại. Sách Trạch kinh, Táng thư đời
Đường là 2 trước tác chuyên về Phong thủy sớm nhất của Trung Quốc còn đến nay, những
điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại thể đã hoàn bị, làm cơ sở lý luận cho 2
trường phái lớn là Lý pháp và Hình pháp trong học thuyết Phong thủy sau này. Nhất
là Táng thư đề xuất “thuyết sinh khí”đã trở thành lý luận căn bản nhất của
học thuyết Phong thủy. Sách này mượn tên Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác
được tôn là người sáng lập học thuyết Phong thủy. Một nhân vật trọng yếu khác
trong lịch sử thuật Phong thủy là Dương Quân Tùng cũng là người đời Đường, được
tôn là tổ sư. Cuối đời Đường, xuất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong
thủy sư. Thời kỳ Tống Nguyên Minh Thanh, thuật Phong thủy càng được hoàn thiện
và phát triển về lý luận và phương pháp, đồng thời chia thành nhiều trường phái
khác nhau. Phái Lý pháp đặc biệt thịnh hành, song chứa đựng quá nhiều điều
huyền bí. Ảnh hưởng của thuyết Phong thủy trong xã hội cũng ngày một gia tăng, thâm
nhập vào mọi tầng lớp xã hội; đồng thời được Lý học đời Tống Minh và giai cấp
thống trị phong kiến ra sức ủng hộ, có tác động vô cùng mạnh mẽ tới đời sống xã
hội Trung Quốc cổ đại.
Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, Tụ
khí, Đắc khí. Nội dung gồm 2 loại lớn là Phong thủy dương trạch và Phong thủy
âm trạch, trong đó Phong thủy âm trạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng. Nội
dung của Phong thủy âm trạch bao gồm: khảo sát hình dạng núi non sông nước
trong một phạm vi khá rộng, xác định địa chất địa mạo, lựa chọn vị trí và
phương hướng của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất thổ nhưỡng, thước tấc
huyệt mộ, cây cỏ trên mặt đất, cách thức và thời gian mai táng, các vật kiến
trúc phụ bên trên huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm nội dung dùng sức người cải
tạo địa hình. Nội dung của Phong thủy dương trạch thì gồm có: chọn địa điểm nhà
ở, thôn xóm, thành phố, khảo sát môi trường kiến trúc xung quanh chúng, địa thế
cao thấp, hình dáng và bố cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày giờ khởi
công và trình tự xây dựng, hướng mở cổng cửa, kích thước cổng cửa, các loại cây
trồng và phương vị sở tại còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở
tính thống nhất giữa nhà ở với các công trình xây dựng xung quanh. Bết kể dương
trạch hay âm trạch cũng đều có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy
hình thế sông núi làm chính; Lý pháp thì lấy nguyên lý suy diễn thuật số làm
chính; hai “pháp”có chỗ mạnh chỗ yếu, nên về sau người ta theo xu thế kết
hợp cả hai.
Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa cổ truyền Trung
Quốc, hiển nhiên chứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần được gạn đục khơi trong. Đồng
thời thuật Phong thủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con người tích
lũy hàng ngàn năm trên cơ sở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới
được phát hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất: thuật Phong thủy thực tế
là lý luận qui hoạch thiết kế xây dựng cổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp
các khoa địa chất học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học,
tâm lý học, là tinh hoa của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại, cùng với Doanh
tạo học và Tạo viên học hợp thành 3 cột trụ của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ
đại. Tuy thuật Phong thủy có giá trị không thể xem nhẹ, nhưng vì nó khoác bộ áo
huyền bí và lối diễn đạt dung tục, nên khó hiểu và có khi bị chê cười; hơn nứa
quan niệm cho rằng vị trí mai táng có thể quyết định cát hung họa phúc của con
cháu chưa hề có tư liệu khoa học nào xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần
dần bị thay thế (chẳng hạn bằng hỏa táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa.
Kham dư: Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán thư. Dương
Hùng truyện viết: “Kham dư là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo
đồ trạch thư”. Văn tuyển. Cam tuyền phú
viết: “Hoài Nam Tử nói Kham dư “hành hùng (đực) để biết thư (cái). Hứa
Thận nói Kham là đạo trời, dư là đạo đất vậy”. Hán thư. Nghệ văn chí chép
14 quyển “Kham dư kim quí”. Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo chứng
là “sách viết về phương vị Phong thủy”. Sử ký. Nhật giả liệt truyện. “Thời
Hiếu Võ đế, có triệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cưới vợ ? Các nhà
ngũ hành đáp có thể; các nhà kham dư đáp không được”. Tùy thư. Kinh tịch
chí có chép “Kham dư lịch chú”, “Địa tiết kham dư”, bàn về
cách chọn ngày giờ. Đủ biết kham dư thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong
thủy. Theo khảo chứng của các học giả thời nay, kham dư thoạt tiên chỉ tên 12
vị thần. Các nhà kham dư căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách
quan sát tượng trời để phán đoán cát hung dưới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán
nói kham dư là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy. Từ thời
Tùy Đường trở đi, người ta dần dần coi Tướng trạch và Tướng mộ là kham dư. Đời
Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết: “Các nhà Kham dư thời
cổ tức là các nhà “tướng trạch đồ mộ”thời cận đại, các nhà địa lý ngày
nay”; chứng tỏ về sau người tá mới đưa nghĩa Phong thủy vào khái niệm Kham
dư. Ngoài ra, các văn nhân sĩ đại phu quen dùng thuật ngữ Kham dư, còn dân gian
thì gọi là Phong thủy.
Địa lí: Tức Phong thủy. Vương Tịch Chi đời Tống trong Mãnh thủy yên
đàm lục viết: “Văên Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dương địa lý”. Cố
Viêm Võ đời Thanh trong Xương Bình sơn thủy ký, quyển thượng, viết “Hoàng hậu
họ Từ qua đời, Lễ bộ thượng thư Triệu Hồng được lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân
Khanh tới, chọn đất tốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xương Bình”.
Địa lí học: Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hưng tạo ký của Lục Du
đời Tống: “Kỷ Thực Trượng nhìn bốn phía hỏi, “Ai biết ngôi chùa kia
là do trời đất tạo dựng nên. . Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới
sai ta chọn địa dư này chăng?”Tức là khi hỏi ý kiến các nhà địa lí học, thì họ
nói gần giống như Kỷ vậy”.
Địa học: Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109
viết: “Đời sau khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ
sư”.
Âm trạch: Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thượng viết: “Đại phu bói về
nhà ở và ngày mai táng”. Sớ: “Trạch, nghĩa là đất mồ mả”. Đời
sau người ta thêm nghĩa nhà ở, nơi trú ngụ vào chữ “trạch”, nên gọi
mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120: “Nếu ta chết ở chốn này, thì
đây là âm trạch”. Còn bao hàm nội dung chọn đất mai táng, tức Phong thủy
âm trạch.
Dương trạch: Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời cổ, chu
“trạch”vừa có nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong
thủy gọi mồ mả là âm trạch, còn nhà ở là dương trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh
khuyết danh đời Đường: “Phàm dương trạch tức là có khí dương ôm âm, âm
trạch tức là có khí âm ôm dương”. Còn bao hàm nội dung chọn đất làm nhà, xây
dựng nhà cửa, tức phong thủy dương trạch.
Âm dương trạch: Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong thủy
âm trạch và Phong thủy dương trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức
đại diện cho Phong thủy.
Thanh ô thuật: Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử soạn Táng kinh, nên
các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy
là thuật Thanh ô, người chuyên hoạt động Phong thủy là “Thanh Ô đồ”.
Thanh nang thuật: Tức thuật Phong thủy. Tấn thư. Quách Phác truyện: “Phác
giỏi chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dương tài tình. Có ông thày họ Quách
ẩn cư ở Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thày đem 9 quyển
sách chứa đựng thuật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh
nang (chiếc túi vải xanh) tặng Phác”. Nhờ đó phác giỏi xem tướng đất. Đời
sau lại có Thanh nang kinh, tức Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh
chuyên nói về Phong thủy, mượn tên Quách Phác viết lời tựa. Dần dần thuật Phong
thủy được gọi là thuật Thanh nang.
Trạch tướng: Tướng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thư. Ngụy Thư truyện: “Thư
mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày
tướng nói: nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thư còn bé mà
thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thư nói: Họ ngoại có được
trạch tướng tốt vậy”.
Về sau người ta dùng hai chu “ngoại sanh”(cháu ngoại) thay
cho chu “trạch tướng”. Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu
Nguyên Nhất đời Đường viết: “Vương Mãng
làm Thị lang, chuyên về trạch tướng, chí khí hào hùng, rất
giống người cậu của mình”.
Gia tướng: Tức Phong thủy dương trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của
gia đình, hình tướng của gia trạch, nên gọi là Gia tướng (tướng nhà).
Địa tướng: Tức Phong thủy âm trạch. Vì nó gắn liền với hình thế của sông
núi, hình tướng của mồ mả, nên gọi là Địa tướng (tướng đất).
Bốc triệu: Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để
mai táng. Quản thị địa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị: “Bốc triệu
dinh thất gồm 2 việc; một là luận sơn (núi), hai là luận hướng, là điểm mấu
chốt của nhà kham dư”.
Bốc cát: Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy chủ hậu
lục, quyển 1, của Vương Minh Thanh đời Tống, viết: “Vĩnh Xương Lăng bốc
cát, lệnh cho Tư thiên giám Miêu Xương đi xem tướng đất ở Tây Lạc”. Về sau
“Bốc cát”được dùng để chỉ việc chọn đất mai táng.
Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là
tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong
thủy âm trạch.
Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa
là tiến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là
Phong thủy âm trạch. Hoàng đế trạch kinh: “Chiêm táng là nhìn cảnh sông
núi xem lành hay dữ, địa điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát
đạt hay tuyệt tự”.
Tướng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát
hung tọa hướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm
trạch. Tống sử.
nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển.
Tướng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa
chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng
những việc liên quan.
Tướng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa
chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất
của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc
chọn đất làm mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển
109: “Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng
vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng của tướng trạch, tướng địa”.
Tướng thổ: Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác
định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng: “Nơi sông
núi mỹ lệ, cây
cỏ tốt tươi, “Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô
thị”.
Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như
tro, quá khô cứng, hoặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung;
còn thấy chắc chắn, tươi nhuận, cây
cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào bới,
thấy chắc chắn dày dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là “Uất thảo”,
cũng là đất lành. Cho nên phàm đất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ
phần. Trong thuật Phong thủy đây là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa
tích cực.
Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm
bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ được xây dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc
cáo: “Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực”. Đời
sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc.
Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: “Bốc
lạc dịch long thế, Hưng loạn võng bất vong”.
Bốc thục: Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng
kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi nướng,
mai rùa có những đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo:
“Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực”. Đời sau
liền gọi việc chọn đất xây dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân
đời Tấn: “Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập”. Tùy thư. Cao Tổ kỷ
thượng: “Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, Bốc thực tướng thổ, nên xây
dựng đô thị”.
Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Việt xuân thu.
Câu Tiễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán: “Đường Ngu bốc địa,
Hạ ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc”. Cũng dùng đó để chỉ riêng
việc lựa chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu
thơ “Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ”. Đời sau bèn dùng
để thay cho hai chữ Phong thủy.
Bốc trạch: Chữ “trạch”có 3 nghĩa: l) Nơi trú ngụ 2) Phần
mộ 3) Lựa chọn. Cho nên bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định
đất xây dựng kinh đô. Thượng thư. Chiếu cáo: “Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc
trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh”, ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc
để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cư trú. Bài thơ “Vi nông của Đỗ Phủ đời
Đường có câu: “Bốc trạch tòng từ lão Vi nông khử quốc xa”. Thơ Di cư
Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu: “Đào Tiềm ái bốc trạch, Thẩm ước
phú giao cư “. 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần mộ.
Lễ ký. Tạp ký thượng: “Đại phu bốc trạch và ngày mai táng”. Sớ của
Khổng Dĩnh Đạt: “Trạch là đất mai táng”. Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài
thượng của Cố Viêm Vũ đời Thanh: “Bốc trạch dĩ an vương khảo triệu, Huề
xuất hoàn qui cố nhân trai”. Đời sau bèn gọi Phong
thủy là Bốc trạch.
Bốc cư: Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần
bản kỷ. “Đức công nguyên niên, bốc cư Ung”. Sau chỉ việc chọn đất
định cư. Nghệ văn loại tụ, quyển 64, dẫn bài thơ “Hành trạch”của Tiêu Tử
Lương nước Tề thời Nam
triều: “Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại”. Bài thơ Ký đề giang
ngoại thảo đường của Đỗ Phủ đời Đường có câu: “Thị tửu ái phong trúc, Bốc
cư tất lâm tuyền”.
Bốc thất: Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài
thơ Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu: “Phiêu
phiêu số niên như nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây”. Minh sử. Trương
Khả Đại truyện: “Khả Đại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ
kỳ thê tử”.
Bốc vũ: Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc
giang công hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều: “ái nái bốc vũ Kim
Lăng, doanh đới lâm hách”.
Bốc trúc: Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu
Hứa truyện chép rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi
đền Tống Hy ở khe suối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện: “Bốc
trúc dương tiễn sơn trung, độc thư thập niên dư”
Bốc lân: Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu
công tam niên: “Thả Ngạn nói: Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. ‘Nhị, tam
tử tiên bốc lân hề”. Đỗ Dự chú giải: “Bói láng giềng tốt”. Bài
thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đường có câu: “Nhất tạc bồi tích trượng,
Bốc lân nam sơn u”. Thực ra chỉ việc chọn đất cư trú, đồng thời biểu thị
với người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ.
Bốc lão: Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cư. Tịnh
danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc
lão ở Đan Đồ”.
Chiêm trạch: Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch
tức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng
đế trạch kinh: “Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà
dự đoán tình hình họa phúc cát hung”
Tướng trạch: Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch
nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương
vị tọa hướng cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng
thời xác định trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên
trong ngôi nhà. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện: “Thư
mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày
tướng nói: nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển”. Tùy thư. Kinh tịch chí có
chép “Tướng trạch đồ”8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép “Tướng trạch đồ”1
quyển.
1) Sinh khí: Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của
toàn bộ hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm
dương tràn ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống
ắt thành mưa, còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận
hành tùy theo lòng đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô
cao trên mặt đất. Cho nên nói “Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành
hình ở bên ngoài vậy”(Táng kinh dực). Bởi thế tìm sinh khí trước tiên phải quan
sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành,
gặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía. Cho nên điều quan trọng
nhất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để sinh khí không
bị gió thổi tứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà nuôi dưỡng vạn vật. Loài
người được nó nuôi dưỡng thì cát, mất sự nuôi dưỡng của nó thì hung. Sự sống
của loài người là kết quả hội tụ sinh khí, sinh khí ngưng kết thành cốt cách
của con người. Người ta chết đi, máu thịt rứa nát, xương cốt vẫn còn; nếu đem
thi thể của tổ tiên cha mẹ mai táng ở nơi sinh khí hội tụ, thì sinh khí sẽ nhập
vào xương cốt mà trở thành nuôi dưỡng con cháu của họ, cho nên nói: “Mai
táng phải thừa sinh khí vậy”(Táng thư). Đây là cơ sở lý luận của Phong thủy âm
trạch. Còn về Phong thủy dương trạch mà nói, vì sinh mệnh của con người do sinh
khí hội tụ tạo nên, bởi vậy cũng cần phải tìm được mảnh đất có sinh khí thịnh
vượng mà xây dựng nhà ở, để chủ nhà được sinh khí nuôi dưỡng. Nhưng sinh khí
dưới lòng đất nuôi dưỡng người từ bên dưới, lực lượng ở sâu mà công hiệu chậm, cho
nên khác với âm trạch, dương trạch còn phải có được “thiên hạ”(khí trời). Khí
trời trực tiếp sưởi ấm thân thể con người lực lượng ở bên trên mà công hiệu
nhanh, cho nên “Dương trạch dưới thì tiếp nhận cát khí của đất, trên thì
muốn có vượng khí của trời”(Tướng trạch kinh soạn. quyển 4), bởi vậy khi xây
dựng nhà ở phải chú ý hướng mở cổng, cửa, hình dạng ngôi nhà, lựa chọn phương
vị, để tiếp nhận vượng khí, loại trừ tà khí.
2) Phương vị. Chỉ khi xây dựng hoặc tu sửa nhà ở, một phương vị cố định nào
đó đối lập với “tử khí”. Nếu tiến hành xây dựng, tu sửa ở phương vị
sinh khí này, ắt sẽ thu được hồng phúc lớn lao. Phương vị có sinh khí không
giống nhau trong một năm: tháng giêng ở Tý, Quý (tức chính bắc và phương bắc
dịch sang đông 15 độ, Xem mục nhị thập tứ sơn); tháng 2 ở Sửu, Cấn; tháng 3 ở
Dần, tháng 4 ở Mão, ất; tháng 5 ở Thìn, Tốn; tháng 6 ở Tỵ, Bính; tháng 7 thân, Canh;
tháng 8 Mùi, Khôn; tháng 9 ở Thân, Canh; tháng 10 ở Dậu, Tân; tháng 11 ở Tuất, Khôn;
tháng 12 ở Hợi, Nhâm. Trong 1 năm, bắt đầu từ phương chính bắc, thuận theo
chiều kim đồng hồ mà xoay 1 vòng.
3) Tức sao Sinh khí. Xem mục Sinh khí tinh.
4) Chữ “khí”ở đây theo quan niệm của cổ nhân khác với
“không khí”, nó là một chất đặc biệt trong vũ trụ hoặc trong cơ thể người.
Ngoại khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ dòng nước chảy trên mặt đất. Nước
chảy trên mặt đất gọi là Ngoại khí. Thứ khí này mềm. Ngoại khí chuyển tải, chỉ
nội khí mới có thể tụ lại, nên Long vận hành mà sinh khí tùy theo, thủy (nước)
ngăn lại mà nội khí tụ.
Nội khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí trong đất. Sinh khí vận
hành trong lòng đất, nên gọi là nội khí. Thứ khí này cứng.
Long thần: Tức sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí vận hành
trong lòng đất, biểu hiện là long mạch, thần diệu khó đoán, chủ mọi cát hung, nén
dùng hai chữ “Long thần”để biểu thị sự kỳ diệu của nó.
Thiên khí:
1) Khái niệm Phong thủy. Hai khí âm dương tràn ngập trong trời
đất; ẩn tàng mà vận hành dưới lòng đất thì gọi là “sinh khí”, phát
tán trôi nổi trong không trung thì gọi là “thiên khí”. Hoặc nói là
khí chia ra âm dương, khí dương gặp gió thì vận hành, sưởi ấm thân thể, người, tức
khí trời, thực ra là sinh khí trong không trung. Phong thủy dương trạch coi
việc tiếp nhận thiên khí là điều cốt yếu.
2) Phương vị. Trong 24 sơn, sinh khí ở phương vị 8 thiên can
Giáp, Canh, Bính, Nhâm, ất, Tân, Đinh, Quý, là thiên khí.
Địa khí: Khái niệm Phong thủy. Sinh khí vận hành trong đất, phát
ra mà sinh thành vạn vật, nên gọi là địa khí. Đối xứng với nó ắt là thiên khí. Xem
mục Sinh khí, Thiên khí.
Cát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí thịnh vượng. Thuộc dương. Thi
thể người chết sau khi mai táng nếu được cát khí nuôi dưỡng, thì vong hồn sẽ
bay lên phù hộ cho con cháu hưởng phú quí. Sinh khí cũng được gọi là cát khí.
Sát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ gió độc thổi đến từ khe núi, hẻm
núi hoặc chỗ lõm trong núi. Cổng nhà ở nếu bị sát khí thổi vào thì hung, cản
thay đổi hướng cổng, cửa.
Thực khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi sơn (núi) là Thực
khí, đất càng cao thì khí càng dày, đất càng thấp thì khí càng mỏng, cho nên
núi càng phải lớn mới là cát. Nhưng Thực khí không thể tự nó khai phá, muốn làm
cho Minh đường rộng rãi, thoáng khí, còn phải dựa vào tác dụng của thủy lưu. Xem
mục Hư khí.
Hư khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi thủy (nước) là Hư
khí. Nước càng sâu khí càng mạnh, nước càng nông khí càng yếu, cho nên nước
phải sâu và chảy xa mới là cát. Nhưng Hư khí không thể tự nó trở thành nông sâu,
núi cao thì nước mới cô thể dài xa, nên Hư khí còn cần phối hợp với Thực khí. Xem
mục Thực khí.
Hung khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ thứ khí không tốt trong lòng đất. Thuộc
âm. Nếu thi thể người chết sau khi mai táng bị hung khí tấn công, thì vong hồn
sẽ bị hung khí dìm xuống, ảnh hưởng xấu đến con cháu, khiến con cháu trở nên
nghèo hèn, hiếm muộn, tai họa.
Lậu khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí bị tiết thoát. Trong thuật
Phong thủy, Long đến hình dừng, nhưng thủy lưu không ôm lấy, tạo thành chỗ
khuyết, sinh khí từ chỗ khuyết ấy tiết thoát ra, gọi là Lậu khí. Không lành.
Phong thủy dương trạch cho rằng, nếu cửa sau đối diện với cửa
trước, thì sinh khí vào nhà sẽ theo cửa sau mà tiết thoát đi, là Lậu khí. Nếu
hai bên phòng ở không có hành lang mà thông thẳng ra ngõ hẻm, là nhà bị Lậu khí
không lành.
Cốt trùng: Là loại sinh vật hư cấu (không có thật). Thuật phong thủy cho
rằng loài người tiếp nhận sinh khí mà hình thành, sinh khí ngưng kết thành
xương cốt. Người ta chết đi, máu thịt sẽ rữa nát, duy xương cốt vẫn còn. Sau
khi mai táng, sinh khí thấm vào xương cốt, có ảnh hưởng tốt con cháu người đã
khuất. Thời Trung Hoa Dân quốc, Viên Cao phát triển thuyết này, cho rằng xương
cốt loài người giống như san hô, do các cốt trùng nhỏ xíu ngưng làm thành. Người
ta chết đi, cốt trùng vẫn còn, cảm với sinh khí mà ảnh hưởng tới con cháu (xem
Thuật bốc phệ tinh tướng học, quyển 3). Thực chất đây là dùng học cận đại phụ
họa thuật Phong thủy, hoàn toàn vô căn cứ.
Địa lý ngũ quyết: Năm nội dung lớn, có tính chất khái quát lý luận Hình
pháp trong thuật Phong thủy, là Long (tầm long), Huyệt (định huyệt), Sa (sát
sa), Thủy (quan thủy), Hướng (lập hướng). Sự tổng kết khái quát 5 yếu tố lớn đó
có ảnh hưởng khá mạnh tới lý luận Hình pháp.
Tam cương ngũ thường: Tổng kết lý luận mà thuật phong thủy đưa
ra cho phù hợp với quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến. Tam cương là: “Một,
Khí mạch, là cương phú bần tiện; hai, Minh đường, là cương sa, thủy đẹp xấu; ba,
Thủy khẩu, là cương sinh vượng tử tuyệt”. Ngũ thường là: “Một, Long, long
phải chân (thật); hai, Huyệt, huyệt phải đích (đúng); ba, Sa, sa phái tú (đẹp);
bốn, Thủy, thủy phải bao (ôm); năm, Hướng, hướng phải cát (lành).
Ngũ tính: Đem họ (họ tên) của người phối với ngũ âm, ngũ hành, rồi căn
cứ vào đó mà dự đoán cát hung của nhà ở, phần mộ. Thuyết này rất thịnh hành vào
giữa thời Hán và Đường, mai một dần từ thời Tống, Nguyên. Cách thức cụ thể như
sau: trước tiên, phối họ với ngũ âm. Ngũ âm gồm: cung, thương, giốc, chủy, vũ. Phát
âm họ của một người, nếu âm ở trong cổ họng là cung, ở chân răng 1à thương, ở
kẽ răng là giốc, ở lưỡi là chuỳ, ở môi là vũ. Ngũ hành gồm: thổ, kim, mộc, hỏa,
thủy. Ví dụ các họ Trương, Vương, là thương; họ Vũ, Dữu là vũ; họ Liễu là cung;
họ Triệu là giốc. Người không am hiểu âm vận, có thể tra cứu trước tác Phong
thủy có liên quan để biết họ của mình thuộc âm nào. Định được ngũ âm rồi, thì
biết được ngũ hành. Sau đó căn cứ nguyên lý ngũ hành sinh khắc mà xây nhà đặt
cửa. Ví dụ, họ Trương là âm thương, thì cổng, cử chính không được đặt ở hướng
nam, vì thương thuộc kim, mà phương nam là hỏa, hỏa khấc kim, không lành. Lại
như họ Đồ là âm chủy, cổng nhà không được mở ra hướng bắc, vì chủy thuộc hỏa, mà
phương bắc thuộc thủy, thủy khắc hỏa, không lành. Ngũ tính có quan hệ với tọa
hướng của phần mộ, có ca quyết đơn giản như sau: “Thương, giốc nhị tính, bính
nhâm ất tân; cung, vũ, chủy tam tính, giáp canh đinh quý, đắc địa đắc cung, thứ
sử vương công; đắc địa đắc cung, hữu thủy vô chung; thất địa đắc cung, tử tôn
bất cung, thất địa thất cung, tuyệt tự vô tông (Hoàng đế trạch kinh).
Ngũ phúc lục cực: Tình trạng cát hung. Ngũ phút gồm: thọ, phúc, khang
ninh, hiếu đức, khảo chung mệnh; I ục cực gồm: yểu chiết (chết sớm), bệnh tật, lo
buồn, nghèo khổ, độc ác, yếu ớt. Thuyết này gặp trong Thượng thư. Thuật Phong
thủy cho rằng lục cực cứ bám riết, ngũ phúc chẳng tới là do ngũ hành mất cân
bằng tạo nên. Cho nên chọn đất mai táng phải tìm nơi sinh khí thịnh vượng, thuận
hợp ngũ hành, để trừ lục cực đón ngũ phúc.
Ngũ hung Tình trạng hung họa. Gồm bệnh tật thương tích, sinh ly
tứ biệt, tai nạn hình phạt, yểu chiết cô đơn, ngang ngược điên cuồng. Học
thuyết Lí pháp trong thuật Phong thủy cho rằng mai táng phải có được âm long, âm
huyệt, âm ứng, hoặc dương sơn, dương thủy, dương huyệt, dương ứng, là khí thuần
nhất, thì có thể tránh được Ngũ hung. âm dương ở đây chỉ thuộc tính âm dương
của phương vị Xem mục Nhị thập tứ sơn.
Giang Tây phái: Trường phái Phong thủy. Thuật Phong thủy có hai trường phái
lớn. Phái Giang Tây do Dương Quân Tùng đời Đường khởi xướng. Họ Dương về cuối
đời sống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn là người Giang Tây, nên có tên
như vậy Thuyết này lấy hình thế làm chính, tìm nơi khởi đầu và kết thúc của sơn
mạch, thủy lưu; lặn lội phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để
định huyệt vị tọa hướng, chú trọng quan sát hình dạng sơn loan thủy đạo, nhấn
mạnh sự phối hợp long, huyệt, sa, thủy. Còn gọi là phái Loan đầu. Thuyết này về
sau hình thành nên lý luận Hình pháp. Phái Giang Tây với Dương Quân Tùng là tổ
sư, lần lượt truyền cho Tăng Văn Sán, Lại Văn Tuấn, Ngô Cảnh Loan, Mục Vũ. Trước
tác của phái này hiện còn rất nhiều, tiêu biểu là Hám long kinh, Nghi long kinh,
Thập nhị trượng pháp của Dương Quân Tùng, Táng thư người đời Tống mượn danh
Quách Phác, Thôi quan thiên của Lại Văn Tuấn. Lý luận của phái Giang Tây chú
trọng quan sát giới tự nhiên, tiến hành tổng kết qui nạp rất nhiều hình thế
sông núi, kết tinh nhiều kinh nghiệm hợp lý. Thuyết này lấy âm trạch làm chủ, dương
trạch thường mượn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng
của nhà ở và sự phối hợp về hình thức trong không gian. Phái Giang Tây từ đời
Đường Tống trở đi, lưu truyền khá rộng, đời Mình, Thanh có sút giảm, nhưng vẫn
được xã hội tiếp thu rộng rãi, có ảnh hưởng rất sâu rộng.
Hình pháp: 1) Học thuyết Phong thủy. Tức hệ thống lý luận Phong thủy do
trường phái Giang Tây đưa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho rằng sinh
khí vận hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí vượng mà
cát, ắt hình sẽ đẹp đẽ uyển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi
vậy, có thể căn cứ vào hình mà biết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm
ra đất tốt. Theo thuyết này, lý luận âm trạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long,
định huyệt, sát sa, quan thủy, lập hướng, tết cả đều xuất phát từ hoàn cảnh địa
hình tự nhiên mà xác định cát hung. Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều
dạng địa hình tự nhiên, là kết tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Quốc cổ
đại trong việc nhận thức quan sát thế giới tự nhiên. Lý luận dương trạch cũng
chú trọng hình dáng và sự phối hợp hình thức của nhà ở, đưa ra rất nhiều hình
vẽ và cách thức cố định. Phần lớn khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật
Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do trường phái tiên phong Giang Tây đề
xuất và định nghĩa, mà được hậu thế nhất trí thừa nhận.
Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả
giới tự nhiên chân thực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố
hợp lý, lại tương đối dễ hiểu, nên được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, có
ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Trước tác tiêu biểu của thuyết này là: Táng thư,
Hám long kinh, Nghi long inh, Thập nhị trượng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh
huyệt pháp, Ngọc xích kinh, Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dương trạch thập
thư.
2) Một học thuyết về thuật số cổ đại. Nội dung bao gồm: xác
định hình thế sông núi, để xây dựng thành quách, nhà cửa, tức tướng địa, tướng
trạch, tướng người, tướng lục súc tướng vật thể mà định cát hung. Đời sau bèn
dùng hai chữ Hình pháp như chữ Phong thủy.
Loan đầu phái: Tức phái Giang Tây. Vì học thuyết này chú trọng
hình dạng của núi sông, nên có tên như vậy.
Phúc hiến phái: Trường phái Phong thủy. Một trong 2 trường phái lớn của thuật
Phong thủy. Thuyết này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Kiến), nên có tên
gọi như vậy. Đến Vương Cấp thời Nam Tống thì rất thịnh hành. Trường phái này
chủ yếu căn cứ vào cái lý của âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh, Hà Lạc mà
tính toán. Nhấn mạnh âm sơn âm hướng, dương sơn dương hướng, để xác định quan
hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Do phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý
trạch pháp, dương trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dương, xác định hưu cữu
(cát hung) âm trạch cũng thường luận về cát hung của tọa hướng, chủ yếu sử dụng
cách phán đoán trừu tượng là chính, chứ không quan tâm nhiều đến hình dáng cụ
thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là ốc trạch pháp. Thuyết này về sau
phát triển thành học thuyết Lý pháp. Phái Phúc Kiến ít nhân tài, trước tác cũng
không nhiều, có chăng thường là mượn tên của người đời trước, khó biết đích xác
là của ai. Từ đời Minh Thanh trở đi, phái này suy dần, chỉ lưu truyền rộng rãi
ở vùng Chiết Trung, ảnh hưởng kém hơn hẳn phần Giang Tây.
Lý pháp: Học thuyết Phong thủy. Còn gọi là Lý khí, tức hệ thống lý luận
Phong thủy do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng
các nguyên lý thuật số như: âm dương, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà
Lạc để tổng hợp và phán đoán cát hung, nhân mạnh phương vị tọa hướng. Ví dụ
thuyết Bát trạch trong lý luận dương trạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử
nguyên phi bạch, phép Tam hợp trạch, Song sơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số
mệnh của người phối hợp với bát quái, cửu tinh, can chi, ngũ hành mà có được. Trong
âm trạch, Tam ban đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành thủy pháp cũng dùng các
loại nguyên lý thuật số căn cứ vào phương vị sông núi mà tính toán. Dù là âm
trạch hay dương trạch, hầu như không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phương thức
và quá trình suy lý rất trừu tượng, phức tạp, rắc rối. huyền bí, đầu tính tư
biện. Trước tác về lý luận gồm Bát trạch minh kinh, Thanh nang hải giác kinh. Hệ
thống lý luận chặt chẽ, kết quả suy lý gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm
lâu dài. nhiều ít. Lý pháp thịnh hành thời Minh Thanh, nhưng vì tính trừu tượng,
huyền bí nên nó không được tầng lớp dưới trong xã hội tiếp nhận.
Ốc trạch pháp: Tức phái Phúc Kiến. Vì lý luận về dương trạch hết sức chú
trọng nguyên lý thuật số, biện luận phức tạp, độc đáo, rút ra từ Hoàng đế trạch
kinh nên có tên như vậy.
Đồ trạch thuật: Một lý luận Phong thủy thịnh hành giữa thời Hán Đường, phép
này lấy họ tên của người phối hợp với ngũ âm, đem nhà ở, mộ phần cũng phối hợp
với ngũ âm, rồi phối hợp với nguyên lý ngũ hành sinh khắc, để xác định cát hung
về nhà ở và mộ phần của những người có họ khác nhau. Chương “Khiết thuật
thiên”trong Luận hoành của Vương Sung đời Đông Hán, chuyên luận về Đỗ trạch
thuật. Xem mục Ngũ tính.
Hình gia Tức Phong thủy tiên sinh (thày địa lý). Thời Hán có
Hình pháp gia, là người xác định cung độ của nhà cửa mà định cát hung. Về sau
những người hoạt động Phong thủy đều tự xưng hoặc được gọi là Hình gia.
Kham du gia: Lúc đầu là Chiêm gia, về sau là Phong thủy tiên
sinh. Đời Hán có các nhà Kham dư. Sử ký. Nhật giả liệt truyện: “Thời Hiếu
Võ đế, ông mời các thày bói đến hỏi: vào ngày nọ có thể cưới vợ được không? nhà
ngũ hành bảo được, các nhà Kham dư nói không được”. Các nhà Kham dư đoán
cát hung dựa vào 12 thần, tương ứng với khu vực, bao gồm hoạt động xây dựng hữu
quan, có quan hệ nhất định với Phong thủy. Nên đời sau dùng Kham dư để gọi thay
cho Phong thủy, còn nhà Kham Dư tức là Phong thủy tiên sinh. Hằng ngôn lục của
Tiền Đại Hân đời Thanh viết: “Nhà Kham dư đời xưa, tức là người xem nhà
cửa, mộ phần đời nay”. Xem mục Kham dư.
Âm dương gia: Một trong “Cửu lưu”(9 trường phái) thời Xuân Thu, thời Hán
cũng có âm dương gia, bao gồm nội dung: can chi âm dương, ngũ hành sinh khắc, ngũ
đức chung thủy. Trước tác có Kham dư kim quí, cũng chứa đựng nội dung Phong
thủy, nên đời sau gọi Phong thủy tiên sinh là âm dương gia hoặc âm dương tiên
sinh.
Âm dương tiên sinh: Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt
động Phong thủy, vốn xuất phát từ tên gọi âm dương gia thời Tiên Tần. Hai chữ
tiên sinh biểu thị sự tôn kính.
Mông nhân: Chức quan thời Chu, chuyên
trách quản lý phần mộ chung, phân biệt địa hình, vẽ đồ hình trình lên thượng
cấp.
Mộ đại phu: Chức quan thời nhà Chu, chuyên
trách quản lý phần mộ trong nước, vẽ địa hình bốn phương và phần mộ trình
thượng cấp .
Lư trạch đãi chiếu: Chức quan đời Hán. Trung Quốc cổ đại phần
nhiều dùng hệ thống quan lại “Thái sử lệnh”quản lý bốc phệ chiêm tinh, tướng
trạch, tướng mộ; thời Hán thiết chế “Đãi chiếu”37 người dưới chức Thái sử,
trong đó có 4 người là Lư trạch đãi chiếu, chuyên trách về tướng trạch.
Tư thiên đài học sĩ: Chức quan thời Kim. Các triều Trung Quốc
thời xưa dùng hệ thống cơ cấu quan lại Tư thiên đài để quan sát tượng trời, định
lịch pháp. Thời Kim quy định chức Học sĩ trong phạm vi toàn quốc phải trải 1 hi
tuyển mới được bổ vào chức đó. Khoa mục thi tuyển thiên văn, lịch pháp, chiêm
bốc, thuật Phong thủy (Địa lý tân thư) và thuật hợp hôn an táng. Một khi đã
trúng tuyển trở thành Thiên đài học sĩ, phải đồng thời tham gia sự hoạt động
Phong thủy.
Âm dương nhân: chức quan đời Nguyên. Đời Nguyên quy định Tư thiên giám tuyển
chọn âm dương nhân qua thi cử. Khoa mục thi tuyển gồm: chiêm toán, tam mệnh, Chu
dịch, Lục nhâm, Phong thủy dương trạch (thi theo “Chu thư bí áo”, “Bát
trạch thông chân luận”), Phong thủy âm trạch (thi theo “Địa lý tân
thư”, “Doanh nguyên tổng luận”, “Địa lý minh chân
luận”). Trúng tuyển sẽ trở thành âm dương nhân thuộc Tư thiên giám, tham
gia tòng sự hoạt động phong thủy. Về sau, đời Minh cũng có thiết chế âm dương
nhân thuộc Khâm thiên giám, tòng sự hoạt động Phong thủy. âm dương sinh Thời
Nguyên, Tư thiên giám thiết lập khoa âm dương học, học sinh theo học khoa ấy
gọi là âm dương sinh, chuyên về thuật số, lấy Chu dịch làm đầu, thứ đến thiên
văn, tinh mệnh, chiêm bốc, tướng trạch, tướng mộ. Tư thiên giám lo bồi dưỡng
nhân tài, học sinh do các địa phương trong cả nước tiến cử, qua thi tuyển, nếu
đỗ sẽ được nhập học. Đời Minh, Khâm thiên giám cũng có thiết lập khoa Địa lý, dạy
phương pháp lý luận Phong thủy; có chức quan nào khuyết, sẽ được bổ nhiệm.
Phong thủy tiên sinh: Tên thông tục thời xưa gọi những người
chuyên hoạt động Phong thủy. Từ đời Đường bắt đầu có tên gọi. này, nó trở nên
phổ biến khắp nơi trong nước cũng có khi gọi là Phong thủy sư.
Phong thủy sư: Tên gọi nhung người chuyên hoạt động Phong thủy. Xem mục
Phong thủy tiên sinh.
Địa lý gia: Tức Phong thủy tiên sinh, vì Phong thủy còn gọi là địa lý, cho
nên người chuyên hoạt động Phong thủy còn gọi là địa lý gia. Vân lộc mạn chung,
quyển 4, của Triệu Nhan Vệ đời Tống, viết: “Nhà địa lý không rõ có từ thời
nào. Từ khi Hoàng đế ra lệnh thay đổi Giáp tí, phối hợp can chi mà phân ngũ
hành, nay nhà địa lý tất có thuyết đại ngũ hành, chẳng hạn Nhâm thuộc thủy, nhà
địa lý báo bảo Nhâm thuộc Hỏa”. Dung am bút ký. Dật văn của Tích Phúc
Thành đời Thanh: “Người đời rất tin vào lời nói của nhà địa lý, họ bảo mai
táng người thân ở chỗ đất lành, thì con cháu sẽ được giàu sang phú quí, trái
lại sẽ nghèo hèn suy tuyệt”
Địa lý tiên sinh: Người lấy thuật Phong thủy làm chức nghiệp, tức
Phong thủy tiên sinh. Vì Phong thủy còn gọi là địa lý, nên có tên gọi đó. Sơ
khắc phách án kinh kỳ, quyển 16: “Lại cách 2 tháng nữa, mời một địa lý
tiên sinh đến chọn đất hoàn tất việc mai táng Vương thị, từ đó dần dần có người
tới cầu thân”.
Địa lý sư: Tức địa lý tiên sinh. Sơ đàm tập. Sư hữu. Học đạo của Lý Chí
đời Minh: “ở đây Cưu Thắng là địa lý sư (thầy địa lý). Kiên Hồ tứ tập. phong
thủy của Chử Nhân Hoạch đời Thanh: “Thân phụ của Hồ Sơn Khiêm nói với thầy
địa lý rằng, người đời biết tường tận về huyệt mộ trong núi, há biết đến huyệt
mộ trong lòng người”.
Táng sư: Người tòng sự hoạt động Phong thủy âm trạch. Phong thủy chia ra
âm trạch và dương trạch. Âm trạch chuyên nói về việc chọn đất mai táng, nên
người ta gọi người chuyên về hoạt động này là táng sư.
Địa sư: Người tòng sự hoạt động Phong thủy. Phong thủy có tướng địa, bốc
địa, lại còn gọi là địa lý, địa học, nên người ta gọi người chuyên tòng sự hoạt
động Phong thủy là địa sư.
Bốc công: Người tòng sự chiêm bốc. Luận hoành. Cát nghiệm của Vương
Sung đời Hán: “Ban đêm không trăng mà trong phòng tự bừng sáng, vua lấy
làm lạ, bèn triệu Công tào sứ Sung Lan đến để đi hỏi bốc công”. Còn chỉ
người tòng sự hoạt động Phong thủy, tức Phong thủy tiên sinh. Hậu Hán thu. Đống
Tuyên truyện: “Công Tôn Đan làm nhà ở, mà bốc công cho rằng nhà này sẽ có
người chết”. Thái Bình quảng ký, quyển 137, dẫn sách U minh lục của Lưu
Nghĩa Khánh thời Nam
triều: “Phụ thân của Viên An chết, bà mẹ sai An mang gà rượu đến biếu bốc
công, nhờ chọn đất chôn cất”.
Đạo sĩ: Chỉ Phong thủy tiên sinh. Vốn chỉ người theo đạo phương sĩ, tăng
lữ, tín đồ Đạo giáo, trong đó phổ biến chỉ tín đồ Đạo giáo. Vì các phép vu
thuật, phù chú của Đạo giáo cũng giống như các phương pháp tương tự trong thuật
Phong thủy, nên vào một số thời kỳ, ở một số nơi các đạo sĩ cũng tham gia hoạt
động Phong thủy, đồng thời các Phong thủy tiên sinh chân chính cũng được người
ta gọi là đạo sĩ.
La bàn: Còn gọi là La kinh. Công cụ quan trọng nhất trong thuật Phong
thủy. Do Tư nam bàn, Lục nhâm bàn diễn hóa mà thành, xuất hiện như một công cụ
định hình chuyên dùng trong thuật Phong thủy vào khoảng cuối đời Đường Năm 1985
đào được một chiếc la bàn bằng gỗ trong tay bức tượng “Trương Tiên. Nhân”thời
Nam Tống bằng đất nung. Đến đời Minh, Thanh, la bàn được chế tạo khá lớn, chứa
dựng nội dung cũng ngày thêm phức tạp; chiếc la bàn lớn nhất đạt tới hơn 40 lớp,
bao gồm vạn tượng kinh vĩ trời đất, tập hợp cái lý của hai khí âm dương, cái chỉ
của bát quái ngũ hành, cái số của Hà đồ Lạc thư, cái tượng của thiên văn tinh
tú, trình tự của tiết khí bốn mùa, dùng để xác định phương vị, quan sát thiên
văn, tính toán ngày lành, dự đoán họa phúc, trở thành công cụ không thể thiếu
trong hoạt động Phong thủy, biểu hiện nhận thức và hiệu chỉnh góc lệch địa bàn,
đồng thời gợi mở vô số khái niệm mang tính suy lý tổng hợp và liên tưởng triết
học. Nhất là khi ứng dụng cho học thuyết Lý pháp thì nó càng thêm huyền bí khó
hiểu.
La kinh: Tức La bàn. Thuật Phong thủy dùng nó để thâu tóm vạn tượng, kể
cả kinh vĩ trời đất, huyền diệu khó đoán. Xem mục La bàn.
La bàn bát kỳ: Chỉ 8 trạng thái của chiếc kim trên la bàn trong những tình
huống khác nhau, đó là: đường, đoái khi, thám, trầm, nghịch, trắc, chính. Đường,
chỉ chiếc kim la bàn run rẩy bất định, không trở lại trung tuyến, chứng tỏ dưới
đất có đồ cổ. Đoái, nghĩa là đột khởi, chỉ chiếc kim cứ nằm ngang la bàn, không
trở về trung tuyến, chứng tỏ dưới lòng đất có khoáng sản hoặc vật bằng sắt. Khi
nghĩa là dối trá, chỉ việc dùng sắt nhiễm tử dẫn kim, khiến nó di chuyển không
ổn định. Thám, nghĩa là chúi xuống, chỉ chiếc kim nửa nổi nửa chìm, hoặc một
đầu nổi, đầu kia chìm. Trầm, nghĩa là chìm, chứng tỏ dưới đất có đồ đồng. Nghịch,
nghĩa là không thuận, chỉ kim nổi mà không có trật tự. Trắc, nghĩa là không
thẳng, chỉ kim cứ dao động sang hai bên, không trở về trung tuyến. Chính, nghĩa
là không tà, chỉ kim ổn định, luôn chỉ hướng Tí Ngọ. Trong bát kỳ, chỉ có Chính
là cát; còn 7 trạng thái kia chứng tỏ đất chỗ ấy không lành, không nén làm nhà,
xây mộ.
Thiên trì: Trung tâm la bàn, tức lớp thứ nhất. Nói chung, đường kính là 1
thốn 2 phân, tượng trưng 12 tháng trong 1 năm; sâu 3 phân, ví với 1 tháng có 30
ngày. Thiên trì trên la bàn dùng để bố trí kim la bàn chỉ hai hướng nam bắc, cũng
có loại vẽ đồ hình Thái cực mà không bố trí kim la bàn.
Phân kim: Phương vị. Tức lấy 60 Giáp Tí phối thuộc ngũ hành, như Giáp
Tí, ất Sửu là kim, bính dần, đinh mão là hỏa, mậu thìn, kỷ ty là mộc, canh ngọ,
tân mùi là thổ, bính tý, đinh sửu là thủy. Vì ngũ hành lấy kim làm đầu, nên gọi
là phân kim. Còn gọi là 60 long, trên la bàn biểu thị phương vị, đồng thời có
thể dựa vào đó mà phán đoán sinh khắc cát hung.
Chính châm: Trên la bàn lấy phương vị nam bắc mà kim nam châm chỉ hướng
làm Chính châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Thuật Phong thủy dùng các lớp
sở thuộc Chính châm để xác định tọa hướng của nhà cửa, phần mộ. Có thuyết nói
Chính châm dùng để định ô vuông của Lai long.
Địa bàn: Các lớp sở thuộc Chính châm trên la bàn gọi là Địa bàn, thống
nhất ở dưới Chính châm, dùng để xác định tọa hướng. Có thuyết nói vừa để định ô
vuông của Lai vừa để định hướng. Xem mục Chính châm.
Trung châm: Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, ngược chiều kim
đồng hồ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Trung châm, thực
tế là cực nam châm Tí Ngọ. Nó có tác dụng hiệu chỉnh góc lệch địa bàn, có tính
chất khoa học, song thuật Phong thủy giải thích là do tác dụng cảm ứng của khí
ngũ hành hoặc hai khí âm dương. Trung châm trên la bàn dùng để định ô vuông Lai
long. Vì Lai long là từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, nên trước tiên phải xác
định tọa hướng của chúng. Có thuyết nói Trung châm dùng để nạp thủy.
Thiên bàn: Các lớp sở thuộc Trung châm trên la bàn gọi là Thiên bàn, thống
nhất ở dưới Trung châm. Tác dụng của Thiên bàn là định ô vuông Lai long. Vì
long thuộc dương, thiên (trời) cũng thuộc dương, nên gọi là Thiên bàn. Lại vì
trời thuộc dương, mà đất thuộc âm, dương động trước mà âm động sau, nên Thiên
bàn vận hành trước nửa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Thiên bàn dùng để nạp
thủy. Xem mục Trung châm.
Phùng châm: Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, thuận chiều kim
đồng hổ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Phùng châm, thực
tế là cột bóng Tí Ngọ, tức là dùng cột bóng để đo bóng nắng mà biết được phương
vị nam bắc. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Phùng châm để thu nạp sa, thủy.
Vì sa thủy là tử gần ra xa, tử trong ra ngoài, nên cần vận hành nửa bước mà thu
nạp. Có thuyết nói Phùng châm chuyên để tiêu sa.
Nhân bàn: Các lớp sở thuộc Phùng châm trên la bàn gọi là Nhân bàn, thống
nhất ở dưới phùng châm, dùng để tiêu sa nạp thủy. Vì sa thủy là từ gần ra xa, từ
trong ngoài, nên Nhân bàn vận hành sau nứa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói
Nhân bàn dùng để tiêu sa. Xem mục Phùng châm.
Môn xích: Một trong những công cụ chuyên dùng trong thuật Phong thủy. Làm
bằng gỗ, trên cán chia thành từng nấc đều nhau, với các ký tự phân biệt cát
hung, để đo đạc kích thước cổng, cửa và đồ dùng trong nhà. Nếu khớp vào ký tự
cát tường thì là cát (tốt lành), khớp vào ký tự hung thì là hung. Môn xích gồm
các loại như Lỗ Ban xích (thước lỗ ban), môn quang xích.
Lỗ Ban xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Mặt trước và mặt
sau cùng chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 5 phần nhỏ hơn, với
những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. Dùng để đo kích thước cổng, cửa đi, cửa sổ,
phòng khách, bếp, các vật dụng trong nhà. Lấy chiều ngang, chiều dọc, hoặc 3
chiều dài, rộng, cao, nếu rơi vào chữ cát tường là cát, rơi vào chữ hung là
hung. Còn tính chi li hơn, như cổng, cửa chính phòng khách nếu rơi vào các chữ
“quyền lộc”, “cát khánh”, “quan lộc”
“thiên lộc”là đại cát; cửa đi và cửa sổ từng phòng trong nhà
rơi vào các chữ “tử tôn”, “hoạnh tài”, “tuấn nhã”, “yên
ổn”là đại cát; cửa bếp, bệ bếp nếu rơi vào các chu “thanh quí”, “mỹ
vị”là đại cát; cửa đi, cửa sổ thư phòng nếu rơi vào các chữ “trí tuệ”,
“thông minh”là đại cát. Do độ dài của thước thời xưa và thời nay khác nhau,
cho nên khó xác định độ dài tổng cộng của thước Lỗ Ban là bao nhiêu. Theo Hà
Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì con số ấy là 29, 7 cm.
Môn Quang xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Trên
mặt chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 4 phần nhỏ hơn, với
những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. (Xem hình vẽ ở trang 347 nguyên tác). Dùng
để đo kích thước nhà cửa. Lấy chiều ngang, chiều dọc, nếu rơi vào chứ cát tường
(tài, nghĩa, quan, bản) là cát, rơi vào chữ hung là hung. Theo Hà Hiểu Hân
trong sách Phong thủy thám nguyên, thì độ dài tổng cộng của thước Môn quang là
42, 76 cm.
Sơn tổ: Tổ tiên của các mạch núi. Còn gọi là Tổ Long, tức núi Côn
Nam long: Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền nam
Trung Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt
Hoàng Hà, đến núi Chung Nam thì tách khỏi Bắc Long mà chạy xuống phía nam, đến
Thượng Lạc (nay là huyện Thường, tỉnh Thiểm Tây), vượt Hán Thủy, đến núi Kinh, men
mạch núi Đại Ba chạy xuống phía đông nam, lại vượt Trường Giang, đến Hoành sơn,
men phía đông Nam Lĩnh, tới Phúc Kiến, Chiết Giang mà ra biển. Thuật Phong thủy
cho rằng mạch núi Nam Long phần nhiều kỳ vĩ, ở Kim Lăng (nay là thành phố Nam
Kinh) tạo thành địa thế hiểm trở, là đất đế vương phát tích.
Bắc long: Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền bắc Trung
Quốc, xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng
Hà, đến núi Chung Nam, Hoa sơn, lại vượt Hoàng Hà mà quành lên phía bắc, qua
núi Vương ốc, núi Thái Hành, chạy sang phía đông, đến Liêu Đông thì dừng. Thuật
Phong thủy cho rằng Bắc Long là đất kết tuyệt vời, với các đỉnh núi cao ngất
trời, được Hoàng Hà và sông áp Lục ôm ấp trước sau, cùng với mạch núi Yên sơn
tạo nên cơ nghiệp đế vương ngàn năm.
Trung long: Một trong 3 đại hành Long, chỉ mạch núi nằm ở khoảng giữa Nam
Long và Bắc Long. Phần đầu nó đồng hành với Nam Long, đến Tần Lĩnh thì hướng
sang phía đông, qua mạch núi Đại Biệt mà ra biển. Mạch núi này không có thế
liên tục rõ rệt, chỉ là do vua cha của Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương được an
táng tại Phụng Dương, tỉnh An Huy, nên người đời Minh thần bí hóa Trung Long
một cách khiên cưỡng.
Khiếu lĩnh: Mạch núi. Thuật Phong thủy dùng để đặc chỉ mạch núi
ở miền tây nam, thuộc Nam Long. .
Tái viên: Thời xưa gọi vùng biên giới phía bắc là Tái viên. Thuật Phong
thủy dùng để chỉ mạch núi miền đông bắc, thuộc Bắc Long.
Toàn khu: Hình thế núi. Chỉ mạch núi khởi từ đường chân trời, có
đầu có đuôi. Thái tổ ở nơi xuất phát cao lớn hùng vĩ, đoạn giữa liên tục, nhấp
nhô, phần cuối kết huyệt có tình, triều sơn và án sơn phía đối diện ngay ngắn
đoan chính. Chỉnh thể trông như toàn bộ thân mình đầy đủ của một con rồng, như
vậy thì sinh khí tự nhiên thỉnh vượng, an táng sẽ đại cát.
Phân chi: Hình thế núi. Chỉ mạch núi chính tách ra mấy mạch
nhánh, các ngọn núi nhô cao, xếp đặt có thứ tự lớp lang. Chỉ cần Tổ sơn cao lớn
hùng tráng, thì sinh khí của các mạch nhánh cũng sẽ thịnh vượng, an táng sẽ đại
cát.
Ẩn phục: Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tuy có ngọn núi
không cao to lắm, nhưng nhấp nhô chạy đến, liên tục không đứt, lúc ẩn lúc hiện,
đến ngay trước mắt. Long ẩn phục có sức mạnh lâu dài, an táng sẽ cát. Thực tế
tương đương ẩn Long. Xem mục ẩn Long.
Lĩnh quần long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở giữa, được các
ngọn núi xung quanh tiền hô hậu ủng, nghiễm nhiên nó trở thành thủ lĩnh, an
táng sẽ cát.
Sinh long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi cao đẹp, nhấp nhô lên xuống, uyển
chuyển chạy đến một cách sinh động, đồng thời có khá nhiều mạch nhánh, giống
như cành lá phân bố đồng đều, như con rết lắm chân, hoặc không có mạch nhánh, nhưng
giống như chuỗi ngọc đẹp. Sinh Long có tương ngũ hành thuộc hỏa, an táng sẽ cát.
Phi long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi sinh động khoáng đạt, có 2 mạch
nhánh như hình chim nhạn giang cánh, phượng hoàng sải cánh ôm ấp huyệt mộ; an
táng sẽ cát.
Đằng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tương đối thấp, nhưng
dần dần đi cao lên, với các đỉnh núi đẹp, thân núi dày rộng. Phải chọn huyệt
tại đỉnh núi, gọi là định Thiên huyệt; an táng sẽ cát.
Giáng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát cao đẹp lạ thường, nhưng
mỗi lúc đi một thấp dần, giống như con rồng từ trên trời mây đáp xuống biển
xanh. Giáng Long có sinh khí cực vượng, an táng sẽ đại cát. Có câu ca rằng
“Thế nhược giáng Long, thủy nhiễu vân tòng, tước lộc tam công”(Thế như
rồng đáp, từ mây cuốn nước, tước lộc sánh ngang chức tam công) (theo sách Quản
thị địa lý chỉ mông).
Hồi long: Hình thế núi. Như Phiên Long. Chỉ mạch núi uốn lượn trở lại, đầu
đuôi tương ứng, giống như con rồng cuộn mình lại. Hồi Long có tượng ngũ hành là
mộc, là đệ nhất Long; an táng sẽ đại cát.
Phiên long: Hình thế núi. Xem mục Hồi Long.
Ngọa long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi đường bệ sừng sững, dáng vững vàng,
yên ổn, chân núi thu lại như con hổ dừng chân, con trâu nằm quì. Ngọa Long có
sinh khí lâu bền; an táng sẽ cát, tuy phát tích hơi muộn.
Thụy long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi du dương mà đến, thản nhiên bình
dị, khí độ ung dung, tinh thần bình tĩnh, giống như mắt rồng nhắm lại, mạch khí
ẩn phục, tương tự Ngọa Long, có tượng ngũ hành là thổ; an táng sẽ cát.
Hoành long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tràn ngang qua, tiến thẳng không
vòng lại. Nói chung không nên định huyệt; nhưng nếu sa, thủy có tình, có tả hữu
hộ vệ, thì cũng có thể an táng gần sống núi, gọi là Phán Long định huyệt. Xem
mục Phán Long định huyệt.
Xuất dương long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tứ chỗ đất bằng đột nhiên cao vút
lên, siêu quần xuất chúng một mình đẹp đẽ, uốn lượn như rắn bò, giống ngư mãnh
thú ra cửa rừng. Xuất dương Long có sinh khí thịnh vượng, sức mạnh rộng lớn, chớ
thấy nó đơn độc mà bỏ qua; về tượng ngũ hành, Xuất dương Long là kim, an táng
sẽ cát.
Ẩn long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi bàng bạc từ xa mà đến, mạch lạc
không rõ, tông tích lừ mờ, như có như không, giống như rồng rắn ẩn hiện; thực
ra nó uốn trườn liên tục, sinh khí không hề bị tiết thoát, cứ thế tiến đến
thẳng huyệt vị. Ở chỗ tận cùng, địa thế tựa như bàn tay để ngửa; định huyệt ở
nơi hai dòng nước hội tụ; an táng sẽ cát.
Can long: Hình thế núi. Chỉ một mạch núi chính trong một số mạch núi, cao
lớn hùng vĩ, có nguồn gốc từ xa, giống như thiên mã hành không (ngựa trời phi
trên không trung), khí tượng tôn quí, có vô số núi hai bên hộ vệ. Can Long có
sính khí cực vượng, nếu triều và án sơn có tình, thì an táng đại cát, chủ con
cháu đời đời làm quan to.
Chi long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tương đối nhỏ tách ra từ mạch núi
chính, thấp và ngắn hơn núi chủ. Sinh khí của Chi Long không vượng, nếu an táng
ở đó, con cháu chỉ bình thường mà thôi.
Bình nguyên long: Địa hình. Đồng bằng không có núi, lấy gò đống
làm Long. Nếu không có cả gò đống, thì lấy chỗ đất hơi cao làm Long, như câu
“Đất cao 1 tấc cũng là núi”. Nhưng nếu dùng sức người đắp đất cao lên
thành gò thì không Phải là Long. Hoặc lấy thủy đạo làm Long. Xem mục Thủy Long.
Giáp phụ long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi nhỏ hơn ở hai bên mạch núi chính, như
cành lá tách ra tứ thân cây hình thế thâm thúy; an táng sẽ cát.
Ứng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi đối diện với Lai Long; cần phải
ngay ngắn có tình, hô ứng với Lai Long. Nếu Lai Long không có ứng, thì không
phải là Chân Long; Ứng Long không có chủ thì cũng không phải là Chân ứng.
Sát long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hung dữ, đá cứng sần
sùi, nhọn sắc như lưỡi dao, mũi tên, hiểm ác dị thường; an táng ở đó con cháu
sẽ gặp nhiều tai họa, hung hiểm.
Kiếp long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tán loạn, không phân chính phụ, sinh
khí không tụ; an táng sẽ đại hung.
Phúc long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn ốc thâm hậu, hình thế tổ
tông hoàn hảo, có các núi hai bên hộ tống. Phúc Long có sinh khí thịnh vượng;
an táng được phúc. Dù tình huống nơi kết huyệt không thật như ý, cũng có thể
căn cứ địa hình cụ thể mà chọn huyệt mộ.
Bệnh long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi uể oải, lúc liền mạch lúc đứt
quãng, sạt lở, nhiều hầm hố, do đó sinh khí bị thất thoát, không nên mai táng. Nếu
miễn cưỡng kết huyệt, chủ con cháu cô hàn.
Tiến long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn gốc cao lớn, lần lượt
thấp dần tổ tông cha mẹ phân minh, giống như ngựa trời phi xuống ráng mây. Nếu
phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi tựa hồ cao dần lên, an táng sẽ khiến con
cháu làm quan to; tương tự Giáng Long.
Thoái long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi sau khi xuất phát cứ từng bước cao
dần. Nếu ở phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi cứ tựa hồ thấp xuống, như lúi
lại, thì an táng sẽ hung. Dù được huyệt đẹp, con cháu cũng chỉ phát phúc một
đời, khó tránh khỏi bần cùng.
Thuận long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trập trùng chạy đến, các mạch
nhánh hai bên đối xứng, phía trước có dãy núi bao bọc hộ vệ, bản thân nó nhấp
nhô rõ ràng với nhiều mạch nhánh. An táng sẽ cát.
Nghịch long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi chạy đến không thuận, chạy xéo đi
không ngoảnh lại, các ngọn núi phía trước và hai bên huyệt quay đầu đi mỗi cái
mốt hướng, như anh em chẳng buồn quan tâm đến nhau. Không nên mai táng.
Cường long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hùng tráng, linh hoạt
khí khái, mạch nhánh hai bên có lực. Nếu an táng ở chỗ cuối của mạch núi, con
cháu sẽ lập tức trở nên phú quí.
Nhược long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trơ trọi đơn bạc, cỏ cây lơ thơ, tựa
như con trâu gày trơ xương, ngã quỵ xuống đất, như con hạc gày không có gì ăn, rụng
hết cả lông. Nhược Long quá ít sình khí, không nên mai táng.
Tử long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi lở lói, hình thể lở loét, không
thể gượng dậy nổi, không có mạch nhánh hộ vệ, như cá mắc cạn, như cây không
cành lá, chẳng nên mai táng.
Thái tổ: Hình thế núi. Còn gọi là Tổ sơn, Thái tổ sơn, phát tướng. Chỉ
đỉnh núi ở nơi mạch núi xuất phát, đột nhiên nổi lên cao sừng sững, trấn giữ
một phương, là đỉnh núi cao to nhất trong vùng. Từ đây có một hoặc nhiều mạch
nhánh xuất phát mà trườn đi như rắn bò. Thái tổ phải cao chọc trời, hùng vĩ
trang nghiêm, đường bệ đáng kính. Thuật Phong thủy lấy quan hệ gia tộc thời cổ
đại để ví với địa mạo. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ. Nơi mạch núi xuất
phát là Thái tổ, tiếp đến Thái tông, Thiếu tổ, Thiếu tông, Phụ mẫu (cha mẹ), Tử
tôn (con cháu), trong đó con cháu chỉ triều và án sơn. Xem các mục bên dưới.
Tổ sơn: Tức Thái tổ. Xem mục Thái tổ.
Phát tướng: Hình thế núi. Tức Tổ sơn. Xem mục Tổ sơn
Thái tông: Hình thế núi. Tức Thái tông sơn. Chỉ đỉnh núi tiếp sau chỗ
xuất phát, thấp nhỏ hơn Tổ sơn một chút, là phần đầu của mạch núi.
Thiếu tổ: Hình thế núi. Tức Thiếu tổ sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau Thái
tông trong mạch núi, là phần hệ trọng của Long. Nếu hai cánh mở ra, cao to đoan
chính là cát; nếu thấp nhỏ cô đơn là ít sinh khí.
Thiếu tông: Hình thế núi. Tức Thiếu tông sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau thiếu
tổ trong mạch núi, tiếp cận chỗ của mạch núi, nếu rõ ràng mạch lạc và liên tục
là cát.
Phụ mẫu: Hình thế núi. Chỉ nơi nhập thủ của mạch núi, mạch núi tới đó
thì dừng. Phải nguy nga cao đẹp, lại lại có thế đi xuống. Ca quyết nói: “Vấn
quân hà giả vi phụ mẫu, huyệt hậu nga nga tủng nhất sơn”(Xin hỏi thế nào là núi
cha mẹ, là sau huyệt có một ngọn núi cao vút nguy nga). (Theo sách Kham dư mạn
hưng).
Tử tôn: Hình thế núi. Tức triều và án sơn. Chỉ dãy núi đối diện với
Lai Long. Sau khi mạch núi đã tận cùng, cần có đất dung nạp huyệt mộ và sa ở
hai bên tả hữu. Ngay phía trước huyệt mộ, phải có núi cao với diện mạo như chào
đón, gọi là Tử tôn (con cháu) của Long.
Giáng thể: Hình thế núi. Chỉ nơi Lai Long nhập thủ phải có hình thế từ
cao trải xuống thấp dần, để địa thế dần dần trở lại bằng phẳng, tiện lợi cho
việc dựng nhà xây mộ.
Chẩm kháo: Hình thế núi. Chỉ đồi núi ở sau lưng nhà ở hoặc phần mộ, nói
chung là nơi tận cùng của Lai Long, cũng chính là Huyền Vũ. Chẩm kháo có nghĩa
là đối đầu dựa vào phía sau.
Tam thoa: Hình thế núi. Tam là 3, thoa là giao nhau. Chỉ mạch núi ở chỗ
nhập thủ giao nhau như hình chữ “cá”(của tiếng Hán), nên còn gọi là
“Cá tự”. Hai mạch nhánh chạy ở hai bên phía trước là Long, Hổ, huyệt
vị nằm ở giữa chỗ giao nhau, hai bên có dòng nước kèm theo, ví như cái trán
trên mặt người.

SƠN HÌNH VÀ ĐỊA HÌNH

Long mạch núi (sơn mạch): Vốn là tên một con vật mang lại may mắn, theo truyền
thuyết cổ đại Trung Quốc. Thuật Phong thủy mượn để chỉ mạch núi có sinh khí, nhấp
nhô uyển chuyển như hình con rồng, nên gọi mạch núi, thế núi là Long. Âm dương
nhị trạch toàn thư: “Sự vận hành nhấp nhô của mạch đất (địa mạch) gọi là
Long”. Sinh khí vận hành trong lòng đất, không thể trực tiếp nhìn thấy, mà
chỗ sinh khí thịnh vượng biểu hiện là mạch núi. Cho nên, Long là sinh khí sớ
tại, Long đi thì khí đi, Long dừng thì khí dừng. Đất là mẹ của khí, khí dày ắt
núi cao, khí dài ắt Long dài. Khí là mẹ của thủy, Long đi ất thủy tùy theo, thủy
ngăn lại ắt Long dừng. Long gắn liền với sinh khí, dòng nước, chẳng thể tách
riêng. Long dừng khí tụ, ắt là đất lành, có thể làm nhà xây mộ. Do mạch núi
thiên hình vạn trạng, nên Long có hàng loạt tên gọi. Các bộ phận của mạch núi
cũng có sự phân biệt thành các bộ vị khác nhau trên thân Long. Mạch núi có đất,
đá, cỏ cây, trong đó đất là thịt của Long, đá là xương của Long, cây cỏ là da
lông của Long. Ở vùng đồng bằng không có núi, thì chỗ hơi nhô cao lên là Long. Ở
vùng đất thấp trũng, thì thủy đạo (đường nước) là Long, gọi là Thủy Long. Để
phân biệt với mạch núi, thế núi của mạch núi gọi là Sơn Long. Thẩm Long hình, biện
Long mạch, định vị trí của nhà cửa và huyệt mộ, là nội dung quan trọng hàng đầu
của thuật Phong thủy.
Lấy mạch núi chỉ sinh khí, dùng cha Long cho thêm thần bí, là
mặt hạn chế của thuật Phong thủy. Còn mượn cách tìm Long để lặn lội khảo sát
hoàn cảnh địa hình thích hợp cho việc dựng nhà xây mộ, là mặt có giá trị của thuật
Phong thủy.
Địa mạch: Tức mạch khí dưới lòng đất, sự vận hành lên xuống của nó biểu
hiện ở mạch núi trên mặt đất, cũng là “Long”trong thuật Phong thủy vậy.
Long mạch Mạch núi. Nơi sinh khí vận hành. Thuật Phong thủy gọi
mạch núi là Long. Long có mạch khí vận hành trong đó gọi là Long mạch.
Tầm long: Còn gọi là “mịch Long”. Tức là khảo sát toàn diện
và thăm dò đo đạc hoạt động của chủ sơn (núi chính), là bước thứ nhất trong nội
dung của thuật Phong thủy. Phương pháp tiến hành cụ thể là: trước hết, phải xem
mạch núi bắt nguồn tử xa hay gần, tổ tông của nó cao to chừng nào, cha mẹ của
nó ở đâu, tiến thoái rõ ràng hay không; hai bên mạch núi có các chi nhánh nhấp
nhô như hộ vệ hay không, nếu có nhiều thì đại (rất) quí; thứ đến trung quí (quí
vừa), tiểu quí; cuối mạch núi cần có thế thoải xuống, đằng trước cần có thủy
lưu uốn quanh, hai bên có dãy núi hộ vệ, như vậy thì sinh khí mới dừng tụ, gọi
là Chân Long. Long chia ra âm dương, đại thể mạch núi chạy sang bên trái (hướng
đông) là dương, chạy sang bên phải (hướng tây) là âm. Lại coi mạch núi thuộc
phương vị dương chạy đến là dương, mạch núi thuộc phương vị âm là âm. Khi tầm
Long, phải chú ý điều hòa phương vị âm dương. Nguyên tắc chung của tầm Long là
nó phải tụ, nghĩa là mạch chính rõ ràng, uyển chuyển tiến về phía trước, không
nên phân tán thành nhiều mạch nhánh khó tìm. Ở chỗ Long dừng lại, tức chỗ cuối
mạch núi, cần có thủy ôm ấp sinh khí tụ tập; nếu không, sinh khí sẽ thoát đi
nơi khác, là đất hung. Phương vị của nơi mạch núi nhập thủ cũng có qui định
phức tạp, đại thể nếu từ phương bắc nhập thủ là cát Tầm Long là nội dung trọng
yếu của thuật phong thủy. Những tổng kết về mạch núi và một số nguyên tắc là
kết tinh vốn kinh nghiệm lâu dài.
Lai long: Tức núi chính (chủ sơn). Chỉ mạch núi chủ yếu ở giữa, cao lớn
nhất. Lai Long đồng hành với mạch khí, là nơi sinh khí thịnh vượng, có thể dựng
nhà xây mộ, tức là nhừ Lai Long mà đấc sinh khí. Bởi vậy, trước tiên phải khảo
sát phương vị, hình dáng của Lai Long để định cát hung.
Chủ sơn: Địa hình, tức Lai Long. Chỉ mạch núi hoặc ngọn núi chủ yếu ở
phía sau huyệt mộ hoặc nhà ở, là nơi có mạch khí, sinh khí theo đó mà đến. Xem
mục Lai Long.
Tổ long: Mạch núi. Còn gọi là Sơn tổ. Chỉ nơi xuất phát của mọi mạch
núi trong thiên hạ, tức núi Côn Luân. Côn Luân có hình thế cao lớn hùng vĩ, chúa
tể thiên hạ. Tổ Long tách ra 2 đại hành Long là Nam Long và Bắc Long. Có thuyết
nói chia ra 3 đại hành Long, nghĩa là có thêm Trung Long. Tổ Long và hành Long
là nơi sinh khí tổng hội tụ, dựng nhà xây mộ tại đó thì đại cát.

HUYỆT MỘ, HUYỆT PHÁP VÀ TÁNG PHÁP

Huyệt: Địa hình. Chỉ huyệt mộ hoặc mảnh đất sở tại, nơi tận cùng của
Lai Long, sinh khí hội tụ, có hai sa tả hữu bảo vệ, có thủy ngăn lại phía trước.
Huyệt quan hệ mật thiết với mạch khí, hơi xê dịch, tức là thoát sinh khí. Phép
định huyệt vô cùng phúc tạp. Trước tiên phái xác định vị trí hai bên cao thấp, tiếp
đó nhận đúng tọa hướng, thứ ba là phải phối hợp với hình thế bốn phía; bốn là
xác định độ nông sâu thích đáng. Nguyên tắc chung là vừa có được sinh khí nuôi
dưỡng, vừa tránh ba cái hại là bị gió thổi, nước xối và kiến đục. Có rất nhiều
yêu cầu cụ thể, ví dụ, huyệt ắt phải có môi, tức Táng khẩu, phải có trán, tức
Cầu thiềm; phải có hai thủy giao hợp, tức thủy Hà tu và thủy Hợp khâm. Do Lai
Long, hai sa Long Hổ và ứng án phía trước có hình dạng khác nhau, huyệt cũng
phải có vị trí biến đổi tương ứng, nên có khi huyệt ở đỉnh núi, ở sườn núi, ở
chân núi, lại khác nhau như trực thụ, trắc thụ, nghịch thụ. Huyệt cao không nên
chênh vênh, huyệt thấp không nên lặn mất; huyệt nổi rõ không nên vội vã; huyệt
tĩnh không nên huyên náo. Huyệt của núi cao, ắt phải ở chỗ hơi lõm; huyệt tại
vùng đồng bằng, nên ở chỗ hơi nhô cao. Hình của huyệt hoặc hiền như hoa, căng
như nỏ, hoặc như bàn tay để ngửa, như miệng hổ, hoặc như vú xệ, như lỗ rốn. . .
Trong một vài trường hợp cũng có thể dùng sức người cải tạo địa hình cho phù
hợp với yêu cầu kết huyệt. Mục đích cuối cùng của hàng loạt hoạt động Phong
thủy âm trạch là tìm cho được huyệt địa lý tương, phương pháp vô cùng phức tạp,
gắn liền với cát hung họa phúc. Ngoài nội dung mê tín, một số phương pháp rất
chú trọng việc báo vệ thi thể và môi trường tự nhiên.
Thổ huyệt: Huyệt mộ trong đất. Còn có huyệt ở núi đất núi đá. Thổ huyệt
trên núi đất, chọn chỗ chất đất mịn nhỏ, chắc chắn là cát (lành), nếu quá ẩm
thấp, tơi tả thì hung; trên núi đá thì mở huyệt ở chỗ có đất màu hồng và màu
vàng thì cát.
Thạch huyệt: Huyệt mộ trong đá. Còn có sự khác nhau ở núi đất, núi đá. Thạch
huyệt trên núi đá, chọn chỗ đá mềm, ấm, dễ đào khoét là cát; trên núi đất thì mở
thạch huyệt ở chỗ đá có màu tím và màu trắng, chất đá mềm ấm là cát, nếu chất
đá cứng khô là hung.
Bối tù chi huyệt: Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ sườn núi u ám, ẩm thấp. Táng ở
đó sẽ bị kiến đục và nước xối lở, không cát lành.
Đằng lậu chi huyệt: Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ mạch núi xung quanh huyệt bảo
vệ không chu đáo, hoặc trên sống núi có chỗ khuyết. Táng ở đó sẽ bị gió thổi, không
cát lành.
Bất cập chi huyệt: Chỉ huyệt mộ mà ở ngay phía trước không có án sơn, triều
sơn, khiến Ao phong thổi thẳng vào, đời con cháu sẽ bị tuyệt tự, hung.
Bất súc Chi huyệt: Chỉ huyệt mộ nằm ở chỗ không có mạch núi bảo vệ, gió
cứ thổi thốc vào, khiến xương cốt mau bị hủy hoại, hung.
Tứ trấn thập tọa: Huyệt pháp. Tức căn cứ hình thế của Lai Long
để xác định chỗ đặt huyệt mộ. Trấn, nghĩa là trấn thủ; tọa, nghĩa là tọa lạc. Tứ
trấn tức là trấn đầu Long, trấn gáy Long, trấn bụng Long, trấn chân Long (có
khi nói là trấn lưng Long). Tức là căn cứ hình thế hướng đi của mạch núi mà lựa
chọn bộ vị tọa lạc của huyệt mộ. Nói chung, Long chạy thẳng đến, trấn đầu Long,
tức là huyệt ở chỗ tận cùng, còn gọi là Tông Long. Long nằm ngang, trấn gáy
Long, tức là huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, nên gọi là huyệt bám vào
sống núi, hoặc Phán Long. Long cuộn khúc, trấn bụng Long, tức là huyệt ở chỗ
đầu ngoảnh nhìn lại phía trong sườn núi, còn gọi là Ky Long. Long cao to bàng
bạc, trấn chân Long, tức là huyệt ở chân núi, còn gọi là Thửa Long. Do “tứ
trấn”mà sinh “thập tọa”. Trấn đầu Long ắt tọa tai Long, mũi Long, trán
Long, bờm Long; mà tránh đuôi Long, sừng Long, răng Long, mắt Long. Trấn gáy
Long, ắt tọa vai Long, gáy Long; mà tránh lưng Long, cổ Long. Trấn bụng Long ắt
tọa rốn Long, vú Long; mà tránh ngang lưng Long, sườn Long. Trấn chân Long ắt
tọa cổ tay Long, mắt cá chân Long; mà tránh khuỷu chân Long, móng chân Long. Có
nhiều tiêu chuẩn nói về tứ trấn thập tọa khác nhau đôi chút, lại có thuyết nói
thập nhị tọa, thực ra đều biểu thị một cách hình tượng sự lựa chọn bộ vị tốt
nhất để định huyệt.
Tông long: Huyệt pháp. Mạch núi từ xa chạy thẳng tới định huyệt ở chỗ
tận cùng của mạch, thì gọi là Tông Long, hoặc trấn đầu Long. Hình của nó như
nhụy hoa, trông ngay ngắn. Ky phía trước Lai Long không có dãy núi che chở, bị
ác phong thổi thẳng vào làm tiêu tán sinh khí. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Kỵ long: Huyệt pháp. Mạch núi quay đầu ngoảnh lại nhìn phía đuôi, trông
như vòng tròn, định huyệt ở chỗ lõm núi mà đầu Long quay lại, lấy đuôi Long làm
án sơn, thì gọi là Ky Long, hoặc trấn bụng Long. Hình của nó trông như gian
chính của tòa nhà, phía trước huyệt có dãy núi chắn gió. Kỵ đối diện với sơn
khẩu, gọi là “Kiềm lưu trực huyền”, nghĩa là dãy núi hai bên dốc
thẳng xuống, sinh khí theo đó mà thất thoát hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Phán long: Huyệt pháp. Mạch núi chạy ngang, thẳng về phía trước, không
quay đầu nhìn lại, định huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, thì gọi là Phán
Long, hoặc trấn gáy Long. Hình của nó giống như huyệt Kiên tỉnh lúc thân người
đang nằm. Tối kỵ không có huyệt Kiên tỉnh và Hạ sa không ôm vòng, thủy Bát tự
(thủy hình chữ “bát”) không tụ lại, không có sinh khí, hung. Xem mục
Tứ trấn thập tọa.
Thừa long: Huyệt pháp. Mạch núi cao to bàng bạc, nhấp nhô tiến tới; định
huyệt ở khoảng giữa chân núi và vùng đồng bằng, thì gọi là Thừa Long, hoặc trấn
chân Long.
Hình của nó như ánh mắt lờ đờ, ngụ ý thế núi đã hết, nhưng mạch
khí vẫn còn, ở chỗ đất bằng tuy khó tìm dấu vết, song vẫn là đất lành. Ky mất
thế mất mạch, cô đơn không chỗ dựa. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Tam đình: Huyệt pháp. Vốn là thuật ngữ khoa xem tướng, chỉ 3 phần trên mặt
người: phần trán là thượng đình, phần mũi là trung đình, phần miệng là hạ đình;
hoặc chi 3 phần trên thân thể người: phần đầu là thượng đình; phần từ vai đến
eo lưng là trung đình; phần tử eo lưng xuống chân là hạ đình. Lý luận Phong
thủy cho rằng tướng núi giống như tướng người, nên lập huyệt Tam đình, gọi là
Thiên đình, Trung đinh, Địa đình. Huyệt thiên đình nằm ở nơi cao nhất, đòi hỏi
Lai Long lớn và xa, thế xuống như mây vờn, hai bên phía trước có hộ vệ nghiêm
mật, Minh đường ở phía dưới. Huyệt trung đình thì mạch núi uốn lượn, trong
vuông ngoài tròn, rất chú trọng hình thế bốn phía xung quanh, đòi hỏi Minh
đường phải rộng rãi sáng sủa. Huyệt hạ đình nằm ở vùng đất bằng, nhưng không
được tách khỏi mạch khí, đòi hỏi Thủy thành phải như hình cầu vồng ôm ấp kín
đáo.
Thập nhị trượng pháp: Huyệt pháp. Còn gọi là Thập nhị đảo trượng, là phép
Thừa Long định huyệt do Dương Quân Tùng đởi Đường sáng lập. Phương pháp này căn
cứ thế đến khác nhau của mạch núi mà qui định cách định huyệt khác nhau, như
thuận trượng, nghịch trượng thúc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên
trượng, ly trượng, một trượng, đối trượng, phạm trượng, tiệt trượng, đốn
trượng; tổng cộng 12 trượng. Ngoài 12 trượng, còn có hình thế núi đặc thù, tạo
thành 17 phương pháp kết huyệt, như thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm
thúc, nghịch trượng kiêm thuận, đại thể lấy thuận trượng và nghịch trượng làm
phương pháp cơ bản, kiêm với phương pháp khác, rất cụ thể tường tận. Thập nhị
trượng pháp có ánh hưởng rất lớn trong Phong thủy âm trạch, một số nguyên tắc
trở thành tiêu chuẩn mà các Phong thủy sư đều tuân theo.
Thuận trượng: Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ
huyệt) thuận theo mạch chính của Lai Long. Yêu cầu lực lượng của Lai Long phải
hậu trọng, thế đến hơi hòa hoãn, hơi uốn lượn; định huyệt phải chính giữa mạch
khí, dung 4 phép Cái huyệt, Chương huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt. Huyệt loại
này cực quí, chủ con cháu làm vương hầu, trạng nguyên.
Nghịch trượng: Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ
huyệt) ngược với mạch chính của Lai Long. Yêu cầu Tổ sơn phải cao vút, nhấp nhô
chạy thẳng đến trước mặt.
Định huyệt thì lấy Tổ sơn làm Triều sơn, dùng 4 phép Niêm huyệt,
Tịnh huyệt, Câu huyệt, Tà huyệt. Mạch núi phía trước không được chĩa thẳng vào
huyệt, nên huyệt phải cách mạch khí vài thước, ngược đón mạch khí. Huyệt loại
này phát phúc lâu dài.
Thúc trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long dài mà kết thế ngắn, khí tụ ở trên
đỉnh, định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở chỗ sống núi co lại. Yêu cầu chỗ tận
cùng của đỉnh núi phải hơi nhô, sinh khí tụ tại đó giống như huyệt Bách hội
trên đỉnh đầu con người; dùng 2 phép Cái huyệt và Thôn huyệt. Do huyệt ở chỗ
khá cao, rất sợ gió thổi, nên bốn phía phải cao tương ứng, Minh đường viễn tụ. Thúc
trượng nên cao, không nên thấp; nếu thấp sẽ bị núi bốn phía lấn át.
Xuyết trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có thế đến hùng vĩ mà lục lượng nhỏ
nhẹ, đến thẳng mà xuống gấp, cần thoát mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ
huyệt). Mạch và huyệt lúc liền lúc rời, như thể dùng chỉ khâu áo, nên có tên
như vậy (xuyết nghĩa là khâu). Yêu cầu huyệt phải ở cách mạch khí hoặc 1 – 2
thước, hoặc 3 -4 thước, không cao không thấp; thường dùng 2 phép Niêm huyệt và
Trụy huyệt. Nếu huyệt cách mạch
quá gần, khó tránh bị xung sát, nếu cách quá xa, sinh khí không
được tiếp nối.
Khai trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long xộc thẳng đến như kẻ xung sát đáng
sợ, cần né sang hai bên mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thành 2
huyệt; dùng 3 phép Ỷ huyệt, Ai huyệt và Tịnh huyệt, để huyệt mộ tránh bị xung
sát mà tiếp nhận sinh khí từ bên cạnh. Yêu cầu phải quan sát xem Minh đường, sa
thủy, Triều sơn và án sơn qui tụ tại phương nào. Huyệt cách mạch 2 – 3 thước, gọi
là mượn mạch lập huyệt, chủ phát đạt mau chóng.
Xuyên trượng: Huyệt pháp. Chỉ mạch núi đến ngang hoặc đến xéo, định huyệt (kết
huyệt, thụ huyệt) tại chính diện, giống như dùng chỉ xỏ lỗ kim, tra cán búa, khí
nhập vào eo lưng. Yêu cầu Lai Long từ xa đến thẳng, không tách thành các nhánh,
tứ ứng đều tốt; dùng 3 phép Sáp huyệt, Chương huyệt, Cái huyệt. Mạch khí chỉ có
thể đi vào từ eo lưng, không được xung não, sau khi mai táng chủ phát phúc lâu
dài.
Ly trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có khí thế hùng vĩ, đang chạy đến
thì bỗng nhiên sững lại, tụt xuống biến mất tại đồng bằng, cần tách khỏi mạch
mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Long mạch đang nhấp nhô chạy về phía
trước, đến chỗ kết huyệt bỗng dàn trải thoáng rộng, tựa như con rắn con ve lột
xác, sinh khí không tụ, cách mạch 2 – 3 thước ở phía trước tất có chỗ lõm đột
ngột, sinh khí tụ lại ở đó; định huyệt tại đây rất tốt.
Dùng 3 phép Cái huyệt, Tịnh huyệt và Trụy huyệt. Huyệt không
nén sâu.
Một trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long uốn lượn xuống gấp mà chỗ tận cùng
lõm hãm sinh khí đến đó thì hết; định huyệt (kết huyệt thụ huyệt) chỗ lõm, chìm
vào mạch khí. Yêu cầu Lai Long phải có hình thế cao lớn, đến trước huyệt thì
uốn lượn sang hai bên rồi vòng lại, kết thành lõm núi, xung quanh cao, huyệt mộ
tàng ẩn ở sâu bên trong. Dùng 5 phép Chương huyệt, Sáp huyệt, Thôn huyệt, Trầm
huyệt, Giá huyệt. Nếu chỗ lõm quá nhỏ, có thể dùng sức người đục đẽo để tạo
huyệt.
Đối trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long cao thẳng to lớn, ở chỗ nhập thủ
bỗng nhiên thấp xuống, trải ra bằng phẳng, không có chỗ lõm, chỗ kẹp, nên định
huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở giữa mảnh đất đó, hoặc ở chỗ tiếp giáp giữa phần
cao với phần thấp. Do mạch Đối trượng cao mà gấp, xung sát liên tục, nên nửa
cát nửa hung, khó biết thành bại.
Tiệt trùng: Huyệt pháp. Chỉ mạch khí của Lai Long không mạnh mẽ, chưa đến
chỗ tận cùng thì dừng thâu mạch khí mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Yêu
cầu chân núi của Lai Long phải khá dài, lập huyệt ở chỗ mạch khí chưa tận cùng;
huyệt cao ắt bị gió thổi, huyệt thấp ắt bị băng đè, nên cần ngăn chặn mạch khí,
làm cho sinh khí không bị tiết thoát, đó là điểm cốt yếu của Tiệt trượng.
Phạm trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long ngắn nhỏ, hòa hoãn, nên định huyệt
(kết huyệt, thụ huyệt) ở trên mạch; nếu lập huyệt ở chỗ tận cùng thì sinh khí
quá yếu, kém tác dụng, cho nên phải phạm mạch tọa huyệt để lấy vượng khí;
thường dùng 4 phép Chương huyệt, Thôn huyệt, Cái huyệt, Sáp huyệt; đồng thời
yêu cầu Minh đường phải rộng, núi sông phải ở phía xa. Có thuyết nói mạch Phạm
trượng nguy hiểm, lập huyệt kiều này rất hung.
Đốn (đột) trượng: Huyệt pháp. Chi Lai Long cao lớn hùng vĩ, Tứ ứng đều
thấp, nên đắp đất thành gò ở chỗ tận cùng mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt).
Do sinh khí của Lai Long quá vượng, gặp thủy thì dừng mà cuồn cuộn bốc lên, bởi
vậy phải đắp đất tạo huyệt để tiếp nhận sinh khí mà không bị xung. Nếu không
đắp đất thành gò, huyệt mộ sẽ bị mạch khí bắn thẳng tới, mai táng ở đó con cháu
sẽ tán gia bại sản.
Oa kiềm nhũ đột: Địa hình. Thuật Phong thủy cho rằng lập huyệt mộ ở chỗ lõm
tròn, là nơi sinh khí hội tụ. Nơi lõm tròn có hình dạng khác nhau, nên có tên
gọi khác nhau, trên tròn dưới nhỏ là Oa kiềm, dưới tròn trên lớn là Nhũ, giữa
tròn trên dưới nhỏ là Đột.
Bào đột: Địa hình. Ở trong chỗ lõm tròn của huyệt mộ có điểm nhỏ nhô lên,
trông như cái bong bóng nước (bào: bong bóng, đột: nhô lên); Nếu trong Oa kiềm
có Bào đột, gọi là La văn, đại quí.
Phù thổ: Chỉ thổ nhưỡng của mặt đất ở chỗ có huyệt mộ. Bên dưới
nó là Thực thổ.
Thực thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở sâu dưới mặt đất, chỗ có huyệt mộ. Bên trên
nó là Phù thổ, bên dưới nó là Huyệt thổ.
Huyệt thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở rất sâu dưới mặt đất chỗ có huyệt mộ. Bên
trên nó là Thực thổ, trên nữa là Phu thổ. Huyệt thổ ở dưới cùng, như hạt châu
dưới vực, như ngọc trong đá; khi đào huyệt mộ tất phải đào tới Huyệt thổ, không
được đào xuyên sâu hơn. Vì huyệt thổ tàng chứa sinh khí, nếu chưa đào tới đo
thì chưa đắc khí, nếu đào xuyên qua ắt làm tổn thương Long cốt. Phân biệt Huyệt
thổ thì căn cứ vào màu sắc va đường vân của đất. Mà sắc của huyệt thố thì trong
và nhuận ẩm, đường vân của huyệt thổ thì có nhiều dạng, hoặc như đồ hình Thái
cực, hoặc như vỏ ốc, hoặc như lỗ vuông của đồng tiền cổ, vừa vặn dung nạp quan
quách; hoặc bao quanh tảng đá, gỡ bỏ tảng đá đi thì thành huyệt. Còn có cách, khi
đào tơi huyệt thổ thì dùng ngón tay vê thử, nếu đất thành viên tròn, đó chính
là chân thổ (đất thực sự). Sâu dần xuống, đất cứng lại, không thể vê thành viên
nhỏ, tức là chân thổ đã hết, nên san lấp lại dày chừng 2 ~ 3 tấc, rồi hãy đưa
quan tài xuống.
Tam hại: Tức gió, nước, kiến. Phong thủy âm trạch cho rằng huyệt mộ bị
gió thổi, nước xối, kiến đục là 3 cái hại, cho nên phải cẩn thận lựa chọn đất
lành, tránh bị tam hại. Nếu chất đất tại huyệt mộ khô vụn, tơi, huyệt mộ không
sâu, ắt khó tránh bị kiến đục. Nếu huyệt mộ ở chỗ đất ám ấm thấp, đào xuống quá
sâu, thì khó tránh bị nước xói lở. Nếâu xung quanh huyệt mộ sông núi bao bọc không
kín, ngay phía trước lõm khuyết, thì khó tránh bị gió thổi. Huyệt bị tam hại
thì sinh khí không tụ, xương cốt khó được bảo tồøn nguyên vẹn, nguời chết không
yên, người sống gặp họa, đại hung.
Tam cát lục hung: Tam cát nói về huyệt mộ, Lục hung nói về phép mai táng.
Tam cát: một là tàng thần hợp sóc, thần đón quỷ tránh; hai là âm dương xung hòa,
ngũ thổ tứ bị, ba là mục lực chi xảo (nhìn vừa mắt), công lực chi cụ (công lực
có đủ), chu toàn không khuyết, tăng cao ích hạ. Phải chọn đất mai táng sao cho
có thể đón cát tránh hung, điều hòa ngũ hành, bốn phía bảo vệ, dùng sức người
tu bổ được, là cát. Lục hung: một, âm dương sai biệt; hai, ngày tháng sai lạc;
ba, sức nhỏ đòi làm lớn; trông chờ phúc đức lớn; năm, đội trên đạp dưới; sáu, ứng
biến quái dị. Nghĩa là khi mai tang, nếu phạm hung sát, chọn sai ngày giờ cuồng
vọng hưởng phúc, đối xử không đúng với người trên kẻ dưới, phá hoại đất lành, nhiều
lần gặp chuyện kinh dị, đều là hung. Thuật Phong thúy cho rằng huyệt cát mà
táng hung thì chẳng khác gì đem thi thể vứt bỏ đi, rất xấu.
Phong thi: Phép mai táng. phong tục thời cổ, trước khi chôn người chết bèn
dùng thủy ngân rót vào các lỗ trên thi thể để bít kín “thất khiếu”, đề
phòng thi thể khỏi bị thối rữa. Thuật Phong thủy cho răng nếu làm như vậy, thi
thể sẽ không thể hóa, sinh khí khó bề nhập vào, chẳng khác gì thủy táng (đem
vứt xác xuống sông), đại hung.
Đạo táng: Phép mai táng. Thuật Phong thủy qui định: trước khi đào mộ
chôn người chết, phải đem rượu cúng Thổ thần, rồi cắt cỏ ở khoảnh đất ấy thành
3 đoạn, rồi mới đào huyệt mai táng, nếu không sẽ là Đạo táng (chôn trộm), thì
hung.
Ái khoảng: Phép mai táng. Khoảng, nghĩa là huyệt mộ. Phong tục ngày xưa, sau
khi đào mộ, dùng than hoặc củi đốt nóng để sưởi ẩm trong lòng huyệt, gọi là ái
khoảng. Thuật Phong thủy cho rằng, sinh khí gặp lửa sẽ không đến, việc ái
khoảng sẽ diệt hết sinh khí, chẳng khác gì hỏa táng, đại hung. Đồng thời phản
đối việc dùng gạch nung xây quanh huyệt mộ, vì gạch nung đều được chế tạo qua
lò lửa, bên trong vẫn còn khí hỏa; thứ khí hỏa ấy sẽ tấn công sinh khỉ trong
đất, tiêu diệt ngũ hành, hung.
Hóa huyệt: Phép mai táng. Tức ái khoảng. Xem mục ái khoảng.
Quan thượng gia quan: Phép mai táng. Phong tục xưa đem người chết sau chôn
chung vào huyệt mộ của người đã chết trước, gọi là “quan thượng gia
quan”, ngụ ý để lấy phúc. Thuật Phong thủy nghiêm cấm việc đó, vì cho rằng
huyệt mộ được mai táng lần thứ nhất là đất mới, sinh khí thịnh vượng, nếu đào
lần thứ hai để mai táng thì không còn là đất tự nhiên, sinh khí bị tiết thoát, sẽ
làm cho cả hai cùng hỏng. Một mảnh đất cát lành đã có một huyệt đắc khí thì
huyệt thứ hai không có sinh khí; cho nên trong gia tộc đem chôn người chết sau
chung huyệt với người chết trước là hung. Những ngôi mộ danh nhân cũng vậy.
Trạch triệu: Đất huyệt mộ. Hiếu kinh. Táng thân viết: “Bốc kỳ trạch triệu
nhi an thố chi”. Đường Huyền Tông chú giải: “Trạch, nghĩa là đất
huyệt mộ, triệu, đất mồ mả vậy”. Vị nhân trần tình biểu của Trần Tử Ngang
đời Đường có câu “Kim bốc cư trạch triệu, tương nhập cựu doanh”(Nay bói
đất đào huyệt, đem an táng ở ngôi mộ cũ. Về sau các chữ “Bốc trạch”, “Bốc
triệu”đều chỉ việc chọn đất an táng, riêng Bốc trạch còn có nghĩa chọn nơi làm
nhà ở. Xem mục Bốc trạch.
Ngưu miên địa: Đất huyệt mộ. Rút từ Tấn thư. Chu Phỏng truyện: “Hồi Đào
Khản còn nhỏ, Đinh Gian chết, sắp mai táng, nhà có con trâu bỗng dưng bỏ đi đâu
không biết. Gặp một ông già nói: Ở cái gò phía trước lão thấy có con trâu nằm
ngủ, nếu mai táng ở đó, sẽ được làm quan to. Ông già lại chỉ tay về phía một
quả núi mà nói, chôn ở đấy cũng tốt, đời này sẽ có người làm quan hưởng lương
hai ngàn thạch, nói đoạn biến đi luôn. Khản tìm thấy trâu, nhân đó đem mai táng
ở chỗ ấy”. Về sau người ta bèn dùng hai chủ ngưu miên”(trâu ngủ) để chỉ
đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu “Giai thành dĩ bốc ngưu
miên địa, Bình lập Thái sơn đới vĩ tư”.
Giai thành: Đất huyệt mộ. Rút từ Bác vật chí, quyển 7 “Dị văn”: “Đời
Hán, Đằng Công (Hạ Hầu Anh) chết, định mai táng ở bên ngoài thành Đông Đô, các
quan đi đưa tang, chiếc xe tứ mã chở quan tài. Mấy con ngựa không chịu đi, cứ
hí thảm thiết và dùng vó cào xuống đất, hằn thành dòng chữ “Giai thành uất
uất, tam thiên niên, kiên bạch nhật, hu giai Đằng Công cư thử thất”bèn mai táng
tại chỗ đó. Về sau người ta bèn dùng hai chữ “Giai thành”để chỉ đất huyệt
mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu “Giai thành dĩ bốc ngưu miện địa, Binh
lập Thái sơn đới vĩ tư”.
Huyền thất: Nhà mồ. Tư đồ Lã Công lỗi của Trương Hoành đời Hán (xem
Nghệ văn loại tụ, quyến 47): “Khứ thử ninh ngụ, qui ư u đương. Huyền thất
minh minh, tu dạ di trường”. Tấn thư. Tá Quí Tần truyện: “Ái định
trạch triệu, khắc thành huyền thất”. Thuật Phong thủy bèn dung hai chữ
“huyền thất”để chỉ huyệt mộ.
Huyền trạch Huyệt mộ. Trịnh quân mộ chí minh của Hàn Dũ đời Đường
(xem Xương Lê tập, quyển 32), có câu: “Động nhiên hỗn phác tuyệt hà thương,
Giáp Tí nhất chung phản huyền trạch”. Đôn Hoàng, quyển Tử Bá 3358 “Mộ
huyệt phù”: “Thử thư huyền thất tứ giác, đại cát lợi”.
Huyền khư: Huyệt mộ. Quán thị địa lý chỉ mông. Thịnh suy cải độ đệ tứ
thập”: “Đương sơ lũ khảm, cự khoa kim nhật chi huyền khư, huống thử
giai thành, ninh bảo thiên niên chi hoang tần !”với lời chú “Huyền khư, nghĩa
là huyệt vậy”.
Sinh khoảng: Nhà mồ xây dựng cho mình lúc còn sống. Phong tục này có từ đời
Hậu Hán. Hậu Hán thư. Triệu Kỳ truyện: Lúc còn sống, Triệu Kỳ xây dựng thọ tàng
đúc 4 bức tượng Tử Sản, Án Anh, Lý Trát, Thúc Hướng đặt ở vị trí tân khách, lại
tự vẽ chân dung mình treo ở vị trí chủ nhân, ngụ ý tán tụng”. Lý Hiền chú
giải: thọ táng nghĩa là nhà mồ, dùng chữ thọ, ngụ ý mong được lâu bền như chữ
thọ quan, thọ khí vậy”. Về sau, vào đời Đường, quan Tư không xây dựng sinh
khoảng, mỗi khi đến ngày lành vào mùa xuân, mùa thu, lại mời quan khách đến đó
ngâm vịnh. Ngày nay vẫn còn có người theo cách ấy, thực là một hủ tục.

THỦY ĐẠO VÀ THỦY HÌNH

Thủy long: Chi thủy đạo (đường nước chảy) ở vùng đồng bằng. Thuật Phong thủy
vốn lấy mạch núi làm Long, sinh khí tùy theo nó mà vận hành trong lòng đất, là
Nội khí, còn thủy lưu thì gọi là Ngoại khí. Ở vùng đồng bằng sông nước, không
có núi, chỉ có thủy, nên lấy thủy lưu làm Long, đồng thòi cho rằng sinh khí vận
hành trong lòng đất mà vô hình, khi dồi dào sung mãn thì tràn lên mặt đất, tức
là thủy. Quan sát thủy tức là quan sát khí, giống như tầm (tìm) Long ở vùng núi.
Ca quyết nói: “Hành đáo bình dương mạc vấn tông, Chỉ khán thủy nhiêu thị
chân Long”(Thủy Long kinh tự). Thuyết thủy Long lấy dòng sông lưu thông làm
Hành Long, tức là Can Long (thân Long), thân Long uốn lượn. giới định Ngoại khí.
Mương ngòi, kênh rạch là các Chi Long (phân nhánh), Chi Long giao hội, Nội khí
thai nghén. Dựa vào thủy Long mà định huyệt dựng nhà, lấy Chi không lấy Can, nhưng
cần có Can Chi tương xứng. Can Long không có Chi, khí của nó dàn trải, không
thiết thân với nhà ở, huyệt mộ. Chi Long không có Can, tuy phát phúc nhưng
chẳng lâu bền. Điều quan trọng là phải phối hợp Can Chi một cách sinh động. Vùng
sông hồ, nước mênh mông trông như đại Can, dựng nhà có thể hội tụ sinh khí, làm
mộ chỉ cần Chi thủy có tình là được. Trong thuật Phong thủy, thuyết thủy Long
căn cứ vào tình hình vùng sông nước mà được đề ra, có ảnh hưởng rất lớn đối với
Phong thủy dương trạch.
Thủy thành: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu uốn quanh như bức tường thành. Sinh khí
vận hành trong lòng đất, gặp thủy thì dừng; thủy lưu uốn lượn như cánh cung, giới
hạn chân núi, ngăn dừng sinh khí, nên gọi là Thủy thành. Huyệt mộ, nhà ở đều
cần nằm ở bên trong Thủy thành; nếu ở bên ngoài Thủy thành sẽ là phản cung, hung.
Ngoại thuỷ: Thủy đạo. Đối ứng với Nội thủy, tức là dòng nước chảy ở bên ngoài
Minh đường. Thuyết thủy Long lấy Can lưu ở bên ngoài Chi thủy làm Ngoại thủy.
Nội thủy: Thủy đạo. Chỉ dòng nước chảy bên trong Minh đường. Nói chung, nó
chảy theo hai bên mạch núi đến Minh đường, hội hợp ở trước huyệt, yêu cầu phải
Bình, Hoành, Nhiêu; có thể dùng sức người cải tạo cho phù hợp với yêu cầu. Thuyết
thủy Long lấy Chi lưu ở bên trong Can lưu sông nước làm Nội thủy.
Nhuế vị: Thủy đạo. Nhuế, nghĩa là chỗ dòng sông uốn khúc. Còn gọi Thủy bắc
là Nhuế. Phần lớn vị trí của huyệt mộ, nhà ở đều tọa bắc hướng nam; vị trí sơn
nam thủy bắc gọi là Nhuế. Nhưng yêu cầu thủy lưu phải ôm vòng lấy phía trong
như cánh cung, thì chỗ đất ấy mới lành.
Nghênh tài: Thủy đạo. Chỉ phía trước huyệt mộ có thủy lưu bốn phía
chảy tới hội tụ. Thủy tượng trưng tiền tài, nên gọi là nghênh tài. Mai táng thì
cát.
Kim long: Thủy đạo. Thuật Phong thủy lấy Thìn sơn, Tuất sơn, Mùi
sơn, Sửu sơn làm đất Tứ mộ; thuỷ chảy đi phương vị Tứ mộ là cát. Nếu dòng nước
ở phương vị Tứ mộ thông thoáng, thì nói là Kim Long động; nếu dòng chảy ở đó bế
tắc, thì gọi là Kim Long không động. Kim Long động, thì tại đất huyệt mộ âm
dương điều hòa, thư hùng giao hội, cát lành. Kim Long không động, thì thiếu
sinh khí, hung.
Thủy khẩu: Thủy đạo. Chỉ chỗ nước chảy vào chảy ra ở phía trước nhà ở, thôn
xóm hoặc huyệt mộ. Theo lý luận Phong thủy, sinh khí vận hành tùy theo mạch núi,
gặp thủy thì dưng. Nghĩa là Lai Long từ xa đến, ắt cần có thủy lưu ở phía trước
để ngăn Long tụ khí. Bất kể thủy lưu từ phương nào chảy đến và chảy đi phương
nào, chỗ nó đến là nhập khẩu (chảy vào), cũng gọi là Thiên môn; chỗ chảy ra là
xuất khẩu, gọi là Địa hộ. Hai chỗ đó gọi gộp là Thủy khẩu. Yêu cầu Thiên môn
phải rộng rãi, không nên vòng vèo ách tắc; Địa hộ thì phải phong tỏa kín đáo, tối
kỵ chảy thẳng đi một cách vô tình. Do tác dụng của địa hình, nước bao giờ cũng
chảy từ chỗ cao tới, nói chung có thể tự nó tìm cách mở rộng lối đi, nên Địa hộ
(chỗ nước chảy ra) càng trở nên quan trọng. Thuật Phong thủy trong đa số trường
hợp nhắc đến thủy khẩu thì chủ yếu là nói về Địa hộ. Táng kinh dực viết: “Thủy
khẩu là một phía mà các loại thủy cùng chảy ra vậy”. Vị trí của thuỷ khẩu
nên nằm ở giữa hai bên núi cao hoặc ở chỗ mạch núi uốn lượn; yêu cầu dòng nước
uốn khúc mà chảy đi, không thấy nó chảy đi là cát Núi ở hai bên bờ thủy khẩu co
4 tên gọi là Sư (sư tử), Tượng (voi). Qui (rùa), Xà (rắn), lớp lớp che chắn
trong thì tụ khí, ngoài thì chắn gió. Nếu Hanh Long phương khác thích hợp với
thủy khẩu, sẽ tạo thành các cục diện Hoa biểu, Cản môn, Thiên mã đại quí. Xây
dựng đô thành, lăng tẩm đế vương, thì núi ở hai bên thủy khẩu phải sừng sững, cao
đẹp, hùng cứ một phương. Cự li của thủy khẩu có xa và gần. Nhìn chung, đất
huyệt mộ cách thủy khẩu tương đối gần, còn thôn xóm đô thị thì cách thủy khẩu
tương đối xa, từ 1 đến 2 ~ 3 dặm, 7 ~ 8 dặm, thậm chí vài chục dặm, 2 ~ 3 trăm
dặm. Cách thủy khẩu xa tất là đại địa. Thủy khẩu đại chia ra nội, ngoại, đại, tiểu.
Ngoại thủy khẩu tức Đại thủy khẩu, là nơi tổng vào ra của toàn bộ thủy lưu
trong vùng, tức Tổng thủy khẩu. Bên trong Tổng thủy khẩu bất kể Lai Long nhiều
hay ít, kết địa nếu là Can, thì sát thân mình cần có Tiểu thủy khẩu, tức Nội
thủy khẩu, yêu cầu Sa phải thành lớp lớp thu thủy. Ca quyết viết “Quan môn
nhược hữu thập trùng tỏa. Tất hữu vương hầu cứ thử gian”; (Táng kinh dực),
là đất đại quí. Trong Phong thủy dương trạch, tại thủy khẩu người ta có thể
tiến hành kiến tạo các công trình che chắn phong tỏa thủy khẩu, như bắc cầu, đắp
đê, hoặc xây dựng trên bờ đình đài, lầu tháp, hoặc đắp gò nổi ngay trong nước. Ở
vùng đồng bằng không có núi che chắn thủy khẩu, thi đòi hỏi thủy lưu phải uốn
khúc, đồng thời phải kiến tạo công trình phong tỏa. Phương vị của thủy khẩu
cũng có quy tắc phải theo; Ở vùng rừng núi, nói chung thủy lưu tùy theo hướng
của mạch núi mà định, ở vùng đồng bằng, thì căn cứ địa thế cao thấp mà quyết. Đặc
điểm địa hình của Trung Quốc là phía tây cao, phía đông thấp, nên các dòng sông
chủ yếu chảy từ phía tây sang phía đông mà ra biển, cho nên thủy khẩu phần lớn
cũng phải nằm ở phía đông, phía nam hoặc đông nam, mà phổ biến là ở phía đông
nam. Thuật Phong thủy tổng kết rằng thủy khẩu ở vị trí Tốn sơn là cát lành. Thủy
khẩu có nhiều tên gọi, ví dụ Phong môn, ngụ ý có gió thổi vào đây; gọi là Lậu
đạo, ngụ ý sinh khí thất thoát từ đây; nên núi ở thủy khẩu có tên gọi Phong
thành, Cản môn ngụ ý chắn gió, cản gió. Thuật Phong thủy cực kỳ coi trọng thủy
khẩu”. Có lý luận “Nhập sơn quan thủy khẩu”(vào núi quan sát thủy
khẩu), cho rằng một vùng đất có đủ mọi điều kiện tốt mà thủy khẩu không được
phong tỏa, thì rất hung. Tác dụng thực tế của thủy khẩu là giới định phạm vi
bên ngoài của đất huyệt mộ, thôn trấn, đồng thời thủy khẩu cùng nằm ở chỗ địa
thế thấp nhất, thường thường cũng là nút giao thông. Thuật Phong thủy rất chú
trọng thủy khẩu về căn bản là do người ta coi trọng môi trường bên ngoài của
huyệt mộ và thôn trấn.
Kim tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu uốn cong giống như cánh cung,
như cầu vồng, lấy tọa bắc ôm vòng phía nam làm chính thể cát. Nếu tọa đông, ôm
vòng phía tây, gọi là Hữu Kim, chủ con trai thứ phát phúc; tọa tây mà ôm vòng
phía đông, gọi là Tả Kim, chủ con trai cả phát quí; nếu phản cung quay lưng lại
chủ suốt đời bần cùng. Trên thực tế, nhà ở và huyệt mộ nhất thiết phải co thủy
lưu ôm vòng ở một phương.
Mộc tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu chảy thẳng theo hướng nam
bắc.
Vị trí đối diện thẳng với Mộc tinh thủy là bị bắn thẳng, hung. Mộc
tinh thủy phối hợp với 4 tinh khác cung là hung, duy phối hợp với thổ tinh thủy
thì chủ yếu là hung, chỉ có một chút cát lành.
Thủy tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, cát
(lành). Thủy tinh thủy bất kể chảy về phía nào, nếu phối hợp với Kim tinh thủy
đều là cát; nếu gặp Mộc tinh thủy, Hỏa tinh thủy bắn thẳng thì hung.
Hỏa tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu đến xéo đi xéo, hai thủy giao
nhau thành mũi tên, trông thẳng cứng hoặc hơi uốn lên, hung. Chỉ có một thry
đến xéo đi xéo, gọi là Tà phi, cũng hung. Hỏa tinh thủy phối hợp với các tinh
khác, cũng hung.
Thổ tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu tràn ngang, theo hướng đông
tây, hung. Các biến thể như Thổ thành thủy, Trung thổ thủy thì cát.
Thanh long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía đông (phía bên trái) nhà ở và huyệt
mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Chu tước thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía Nam
(phía trước) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng và tiếng nước chảy của nó mà xác
định cát hung.
Bạch hổ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía tây (phía bên phải) nhà ở và huyệt
mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Huyền vũ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía bắc (phía sau) nhà ở và huyệt mộ. Tùy
hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Triều thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu chảy đến từ phía trước nhà ở và huyệt mộ. Yêu
cầu nó phải uốn lượn như con rắn trườn mình mà tới, hoặc như dải ngọc quấn
quanh eo lưng, trông dịu dàng hòa hoãn. Ca quyết nói: “Thủy kiến tam loan,
phú quý an nhàn”(Thủy Long kinh). Nếu chảy thẳng đến, gọi là xung xạ, đại hung.
Kiềm thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ôm vòng hai bên tả hữu huyệt mộ như cái
kìm, còn gọi là “Lưỡng thủy hợp”. Sau khi mai táng chủ con cháu không
phú thì quí. Nếu bên trong cái kìm có chỗ đất cao, định huyệt tại đó, chủ con
cháu văn võ toàn tài.
Đấu thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu có hình dạng tròn, lõm, khuyết như cái đấu.
Ca quyết nói: “Long hổ lưỡng tương đấu, gian nghịch đa hung cữu, phụ tử
bất tương thân, huynh đệ như cừu khấu”(Thủy long king). Hung.
Xung xạ: Thủy đạo. Phàm thủy lưu chảy thẳng đến trước nhà ở hoặc huyệt mộ,
đều gọi là Xung Xạ, đại hung.
Phân phi: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng
chảy đi, gọi là Phân phi. Hung.
Phi thủy: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở một bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng
chảy đi, chứ không ôm vòng lấy phía trong gọi là Phi thủy, hung.
Phản thủy: Thủy đạo. Phàm thuỷ lưu ở một bên hoặc cả hai bên nhà ở và huyệt
mộ như cánh cung ôm ra phía ngoài, gọi là Phản thủy, hung. Nếu thủy lưu ở phía
sau nhà ở, huyệt mộ như cánh cung trở ngược, thì gọi là Phản khiếu thủy. Nếu ở
một bên hoặc ở phía sau thoạt đầu uốn lượn ôm lấy phía trong, nhưng sau đó lại
quay lưng chảy đi, thì cũng gọi là Phản phi hoặc Tiên bão hậu phản, đều là hung.
Ất tự thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình
dạng như chữ Ất, chảy vòng qua nhà, qua mộ mà đi, đại cát.
Chi huyền thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình
dạng như chữ Chi, chữ Huyền, uốn lượn mà đến, đại cát. Nếu Chi huyền thủy ở
phía trước nhà ở hoặc huyệt mộ, gọi là Triều thủy.
Thập tự thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Thập, ngang dọc rõ
ràng, mai táng sẽ hung.
Nếu xây nhà ở trong thị trấn thì cát; riêng một nhà thì hung. Nếu
thủy lưu giao xéo nhau thành chữ Thập, bất luận âm dương trạch, đều là hung.
Tính tự thuỷ: Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Tỉnh, ngang dọc rõ
ràng, mai táng sẽ hung. Nếu xây nhà ở trong thị trấn thi cát, riêng một nhà thi
hung. Nếu thủy lưu uốn lượn mà giao nhau như chữ Tỉnh, thì dựng nhà sẽ đại quí.
Song long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng
uốn lượn như con rồng, đồng thời ôm vòng lấy phía trong, an mộ dựng nhà đại cát.
Lục kiện thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành thần
đồng, trạng nguyên, Tể tướng.
Nghênh thần thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chỉ con cháu trở thành thần
đồng, trạng nguyên.
Kim ngư yêu đới: Thủy Đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại
phú, đại quý.
Tứ long hí châu: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại
phú, đại quý.
Tiên chưởng phủ cầm: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây chủ con cháu thi cử đỗ đạt cao.
Phi phụng thủy: Thuỷ đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu có kẻ trở thành
phi tần.
Hồi long thủy: Thủy đạo. Chi thúy lưu tử phương đông nam chảy đến, vòng sang
phía tây, ôm lấy nhà ở hoặc huyệt mộ, sau đó chảy về hướng đông bắc, hình dạng
như chữ U nằm ngang, chủ con cháu nhiều đời phú quí, làm quan to. Ca quyết nói:
“Thủy thần lai xứ phục hồi đầu, hồi long khí mạch thâu, phúc lý bao tàng
vô thẩm lậu, phát phúc vĩnh vô hưu”(Thủy Long kinh). Nếu thủy lưu từ phương tây
nam chảy đền ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, sau đó chảy về hướng tây bắc, thì
cũng tốt như vậy.
Qua đằng thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, từ
phía sau chảy đến ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, rồi lại chảy về phía sau mà đi;
đại cát. Ca quyết nói: “Diện tiền nhất chuyển nhất trùng khố, tài bảo đa
vô số, đại giang tiện xuất đại quan vinh, tiểu khê tất chủ gia hào phú”(Thủy
Long kinh).
Hoành thủy: Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu từ phía trước hoặc phía sau nhà ở, huyệt mộ
chảy tràn ngang qua, hung.
Thực tế đó là Thổ tinh thủy. Ca quyết nói: “Thất hậu hoành
thủy trực lưu thông, tạm thời vị bại tức bần cùng”(Thủy long kinh).
Đao thương thuỷ: Thủy đạo. Chỉ nơi thủy lưu giao nhau hoặc dừng lại có hình dạng
nhọn như mũi dao, mũi thương, chĩa thẳng vào nhà ở và huyệt mộ, đại hung. Ca
quyết nói: “Lưu lai thủy thế tự đao thương, xạ hiệp xung tâm bất khả đương”(Thủy
Long kinh)
Bát tự phân lưu: 1) Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía trước huyệt mộ chảy ra như hình
chữ Bát, chứ không giao nhau, hung. 2) Hình thế bên trong nhà ở. Chỉ rãnh nước
bên trong nhà từ sân giữa chảy ra thành hình chữ Bát cùng gọi là Thiên thần, hung.
Tam hợp thủy: Thủy đạo. Chi ở 3 chỗ Bát tự, Tiết bao, Cầu thiềm đều có thủy lưu
từ hai bên chảy xuống, chia thành 3 lớp trong ngoài giao hội tại trước huyệt và
ở phía trong hai sa tả hữu, gọi là Tam hợp thủy. Trên thực tế thường thường
không thấy mặt nước, chỉ có rãnh nước rất nông, dòng chảy không rõ. Cách kiểm
tra như sau: đốt cỏ thành tro, rắc tro bốn phía, chờ lúc mưa nhỏ, thấy tro bị
dồn thành vệt, chính là nó. Cũng có Nhị hợp thủy, là Chi long kết mạch. Tác
dụng của Tam hợp thủy là tụ họp sinh khi, nếu không có nó thì không phải đất
lành.
Đại bát tự: Thủy đạo. Ở chỗ tam thoa của Lai Long có thuỷ chảy tách ra hai
bên hình dạng như chữ Bát. Vì bên dưới nó lại có Bát tự thủy phân lưu, nên gọi
là Đại bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai vai.
Tiểu bát tự: Thủy đao. Bên dưới tam thoa của Lai Long, ở chỗ Cầu thiềm, có
thủy chảy tách ra hai bên, hình dạng như chữ Bát. Vì bên trên nó đã cỏ Bát tự
thủy là Đại bát tự, nên gọi nó là Tiểu bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát
tự là hai mắt.
Hà tu thủy: Thủy đạo. Ở hai Sa tả hữu phía trước huyệt mộ có thủy gần như
giao nhau tại phần đầu mút, đó là Hà tu thủy. Ví với cơ thể người, thì Hà tu
thủy là ria mép.
Ngọc tính: Chỉ rãnh, hào chứa nước ở trước huyệt mộ. Nói chung người ta dùng
sức người lát các phiến đá che bên trên rãnh nước cho ngang bằng mặt đất; sau
đó ngầm dẫn nước từ hai bên Lai sơn cho chảy vào Ngọc tỉnh, rồi từ đây cho chảy
ra phương vị lục thế. Thực tế là dùng sức người cải tạo Nội thủy. Ngọc tỉnh có
tác dụng khiến Nội thủy giao hội ở trước huyệt mà không phá hoại địa thế bằng
phẳng của Minh đường Ngọc tỉnh phải là rãnh hoặc hào nước do thiên nhiên tạo
nên ở trước huyệt, không thể do con người đào khoét, nêu không sẽ hứng chịu
nhiều tai họa. Có thuyết nói Ngọc tỉnh là chỗ chứa nước dơ trước huyệt, không
nên che đậy bên trên.
Thủy thanh: Chỉ âm thanh do nước chảy mạnh phát ra. Phàm thủy lưu ở bốn phía
nhà ở, huyệt mộ bất kể từ đâu chảy tới rồi chảy đi đâu, đều phải êm đềm hòa
hoãn mới tốt; nếu chảy xiết réo sôi là hung; nghe rì rào thì được nghe ai oán
hoặc sôi reo, ùng ục như tiếng sấm thì đại hung. Tiếng nước chảy ở trước nhà
nghe như tiếng khóc la thoái tài (tiền tài sa sút).
Thưởng thủy pháp: Phương pháp phân biệt chất lượng tốt xấu của thủy (nước) để xác
định cát hung. Thuật Phong thủy cho rằng vị của nước tốt hay xấu có quan hệ với
cát hung của mạch đất, nên dung Thưởng thủy pháp (phép nếm vị của nước) để dự
đoán tình hình mạch đất. Ở vùng đồng bằng và gò đồi, thì lấy nước giếng, nước
suối hoặc nước mương ngòi; Ở vùng núi thì lấy nước khe suối, đưa lên miệng nếm
thử, nếu thấy vị ngọt, thơm, dịu là cát (lành), nếu thấy vị đắng, chua, cay, nồng
là hung.

PHƯƠNG VỊ VÀ TỌA HUỚNG

Nhị thập tứ sơn: Phương vị. Còn gọi là Nhị thập tứ lộ, Nhị thập tứ hướng, là một
trong những khái niệm quan trọng nhất của thuật Phong thủy. Xuất hiện sớm nhất
trong Ty nam (kim chỉ nam) thời cổ, hiện còn giữ được dụng cụ loại đó chế tạo
vào đời Hán. Tức là đem chia vòng tròn 360 độ thành 24 phần bằng nhau, mỗi phần
là 15 độ, gọi là 1 sơn và dùng 4 duy 8 can 12 chi để đặt tên. Trong thuật Phong
thủy, phàm nói đến phương vị, hầu như đều đề cập 24 sơn; được ứng dụng rất rộng
rãi. Trên hình vê, đường gạch đứt (-) chỉ ranh giới âm dương. Có thuyết nói từ
Tuất sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Ất sơn là dương, từ Thìn sơn thuận chiều
kim đồng hồ đến Tân sơn là âm. Một thuyết khác coi từ Tí sơn thuận chiều kim
đồng hồ đến Bỉnh sơn là dương, từ Ngọ sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Nhâm sơn
là âm. Khi nói đến Tọa hướng thủy pháp, lại thường lấy 12 sơn Nhâm, Tí, Quý. Dần,
Giáp, Ất, Thìn, Ngọ, Khôn, Thân, Tuất, Càn làm dương; còn 12 sơn Hợi, Sửu, Cấn,
Mão, Tốn, Ty, Bính, Đinh, Mùi, Canh Dậu, Tân lam âm. Trong phạm vi dương là
dương sơn dương thủy, trong phạm vi âm là âm sơn âm thủy, phái căn cứ qui tắc
mà phối hợp, dương chảy theo dương, âm chay theo âm, âm dương rối loạn thì hung.
Mỗi một trong 24 sơn có tên gọi cát hung khác nhau, âm dương trạch khác nhau. Dương
trạch lấy Càn sơn làm Thiên môn, Thú dương; Hợi sơn là Chu tước, Long đầu (đầu
của long); Nhâm sơn là Đại họa; Tí sơn là Tử táng, Long hưu thủ (tay phải của
Long), đối ứng quẻ Khảm; Quý sơn là Phạt ngục; Sửu sơn là Quan ngục, Huyền ngục.
Cấn sơn là Quỉ môn Trạch ung; Dần sơn là Thiên hình Long bối (lưng của Long);
Giáp sơn là Trạch hình; Mão sơn là Hình ngục, Long hữu hiệp (sườn bên phải của
Long), đối ứng quẻ Chấn, Ất sơn là Đằng xa, Tụng ngục, Thìn sơn là Bạch hổ, chân
bên phải của Long; Tốn sơn là Địa hộ, Phong môn. Phúc thủ, Tỵ sơn là Thiên phúc,
Trạch cực, đuôi Long; Bính son là Minh đường, Trạch phúc; Ngọ sơn là Cát xương,
chân trái của Long, đối ứng quẻ Ly; Đinh sơn là Thiên thương; Mùi sơn là Thân
phủ; Khôn sơn là Nhân môn, ruột của Long, Phúc nang (Túi phúc); Thân sơn là
Ngọc đường; Canh sơn là Trạch đức. Dậu sơn là Đại (đức, sườn bên phải của Long,
đối ứng quẻ Đoài; Tân sơn là Kim quý, Tuất sơn là Đia phủ, tay trái của Thanh
Long. Tên gọi cát hung của 24 sơn âm trạch thì ngược hướng với dương trạch, ví
dụ Hợi sơn của dương trạch là Chu tước, đầu của Long, thì đối nghịch là Tỵ sơn,
Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, vậy Hợi sơn của Âm trạch biến thành Tỵ
sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, âm trạch Ty sơn biến thành Chu tước,
đầu của Long. Những cái khác theo đó mà suy, nhưng Tứ duy thì không biến động, nghĩa
là Càn sơn, Cấn sơn Tốn sơn, Khôn sơn thì âm dương trạch giống nhau. 24 sơn lại
có tọa mệnh, như Hợi sơn dương trạch là phụ mệnh (mệnh cha), Nhâm sơn là Mẫu
mệnh (mệnh mẹ), Tí sơn là mệnh con trai cả, Quý Sơn là mệnh con trai thứ. Âm
trạch thì lấy Tỵ sơn làm mệnh cha, Bính sơn làm mệnh mẹ, Ngọ sơn làm mệnh con
trai cả, Đinh sơn làm mệnh con trai thứ. Phàm xung phạm mệnh tọa, thì tai họa
sẽ ứng vào người tương ứng, đại hung. 24 sơn có quan hệ với ngũ hành, bát quái,
12 cung, cửu tinh, 24 thiên tinh, 24 tiết khí. Xem mục La bàn.
Nhị thập tứ lỗ: Tức Nhị thập tứ sơn. Xem mục Nhị thập tứ sơn.
Tứ chính: Phương vị. Chỉ 4 hướng chính đông, chính tây, chính nam, chính
bắc. Trong 24 sơn đó là Tí sơn (chính bắc), Ngọ sơn (chính nam), Mão sơn (chính
đông), Dậu sơn (chính tây), phân biệt đối ứng 4 quẻ Khảm, Ly, Chấn, Đoài. Tầm
Long định huyệt nhìn chung không coi việc toạ lạc hoặc mặt hướng về tứ chính là
cát.
Tứ ngung: Phương vị. Tức 4 góc. Chỉ 4 hướng đông nam, tây bắc, tây nam, đông
bắc. Góc đông nam còn gọi là “Giao”, góc tây bắc còn gọi là “Ốc
lậu”, góc tây nam còn gọi là “Áo”, góc đông bắc còn gọi là
“Hoạn”. Trong 24 sơn, Tứ ngung là Càn sơn (tây bắc), Cân sơn (đông. bắc),
Tốn sơn (đông nam), Khôn sơn (tây nam). Hạ tang lấy tọa lạc hoặc mặt hướng về
Tứ ngưng là quí. Tứ ngưng còn gọi là Tứ duy.
Tứ duy:
Phong vị. Tục Tứ ngung. Xem mục Tứ ngưng.
Bát can: Phương vị. Chỉ 8 thiên can trong 24 sơn là Giáp, Canh, Bính, Nhâm,
Ất, Tân, Đinh, Qúy. Phân biệt lần lượt nằm ở các vị trí: chính đông thiên bắc
15 độ (Giáp), chính tây thiên nam 15 độ (Canh), chính nam thiên đông 15 độ
(Bính), chính bắc thiên tây 15 độ (Nhâm), chính đông thiên nam 15 độ (Ất), chính
tây thiên bắc 15 độ (Tân), chính nam thiên tây 15 độ (Đinh), chính bắc thiên
đông 15 độ (Quý). Vì thiên can không có Sát mà địa chi không có Sinh nên hạ
táng lấy tọa lạc hoặc chính hướng tám Can nói trên là quí. Ca quyết có câu: “Cổ
nhân vi hà chỉ hữu bát, trong dục phùng sinh bất phùng sát”(Quản thị địa lý chỉ
mông).
Thiên môn: 1) Phương vị. Chỉ hướng tây bắc. Chính là Càn sơn. Thuyết này
xuất hiện rất sớm. Thuật Phong thủy cho rằng ở phương vị Thiên môn không nên
xây lầu cao, phạm vào chỗ đó sẽ hại cho gia trưởng. Chọn ngày Đinh, ngày Nhâm
trong tháng Năm mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thi cát. 2) Địa hình. Chỗ nước
chảy đến hoặc chảy vào, cần phải rộng mở. Xem mục Thủy khẩu.
Địa hộ:
1) Phương vị. Chỉ hướng đông nam. Chính là Tốn sơn. Còn gọi là Phong môn. Thuật
phong thuỷ cho rằng ở phương vị Địa hộ không nên xây lầu cao, (chỉ nên mở cửa
hoặc xây phòng thấp, để sinh khí khỏi bị bế tắc. Chọn ngày Bính, ngày Tân trong
tháng Mười Một mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. 2) Địa hình. Chỗ nước
chảy đi hoặc chảy ra, cần uốn lượn ngoằn ngoèo. Xem mục Thủy khẩu.
Nhân môn: Phương vị. Chỉ hướng tây nam. Chính là Khôn sơn. Còn gọi là Long
tràng. Phong thủy dương trạch cho rằng Nhân môn là nơi nên làm chuồng trâu
chuồngngựa. Chọn ngày ất, ngày Canh trong tháng Hai mà tu sửa, xây dựng ở vị
trí này thì cát. Có thuyết nói Nhân môn là “Lý quỉ môn”hoặc “Nữ quỉ
môn”, không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phương vị này.
Quí môn: Phương vị. Chỉ hướng đông bắc. Chính là Cấn sơn. Còn gọi là Quỷ
Lộ. Tà khí, Sát khí phần nhiều từ phương này đến, cho nên tuyệt đối không mở
cửa hoặc làm phòng ở. Nên xây tường cao che chắn sát khí. Chọn ngày Giáp, ngày
Kỷ trong tháng Tám mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. Có thuyết gọi đây
là “Biểu quỉ môn”, không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phương vị này.
Quí lộ: Phương vị. Tức Quỉ môn. Xem mục Quỉ môn.
Lục tương: Phương vị. Tương có nghĩa phu trợ. Chỉ trạng thái sinh
vượng của ngũ hành. Thuật Phong thủy lấy Dưỡng, Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm
quan, Đế vượng trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục tương, ở các vị trí lần lượt
khác nhau như: Bính hỏa lấy Ngọ làm Đế vượng. Đinh kim lấy Mùi làm Quan đới. Khôn
thổ lấy Thân làm Tràng sinh, Canh thổ lấy Dậu làm Mộc dục, Tân thủy lấy Tuất
làm Quan đới, Canh mộc lấy Dần làm Lâm quan, Ất hỏa lấy Thai làm Quan đới. Căn
cứ phương vị Lục tương, có thể dự đoán sự cát hung hưu vượng của sơn, thủy. Nói
chung, phàm Long hoặc Thủy đến từ phương vị Lục tương thì đều là cát lợi. Phương
vị sở tại của Lục tương thì biến đổi theo ngũ hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập
tứ sơn ngũ hành thủy pháp).
Lục thế: Phương vị. Thế có nghĩa phế bỏ, suy bại. Thuật Phong thủy lấy Suy,
Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục thế, ở các vị trí
lần lượt khác nhau và biến đổi theo Ngũ hành, như Giáp thủy lấy Dần làm Bệnh, Tốn
mộc lấy Thìn làm Mộ, Càn kim lấy Hợi làm Bệnh, Nhâm hỏa lấy Tý làm Thai, Quý
thổ lấy Sửu làm Suy. Từ đó có thể suy ra cát hung của sơn thủy. Nói chung, phàm
sơn, thủy tử phương vị lục thể đi tới thì không cát lợi. Từ phương vị Lục tương
đến, rồi đi tới phương vị Lục thế, thì cát. Phương vị sở tại của Lục thế thì
biến đổi theo ngu hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập tứ sơn ngù hành thủy pháp).
Tứ mộ: Phương vị. Chỉ 4 phương Thìn sơn, Tuất sơn, Sửu sơn, Mùi sơn trong
24 sơn, lần lượt nằm ở vị trí đông nam thiên đông 15 độ (Thìn), tây bắc thiên
tây 15 độ (Tuất), đông bắc thiên bắc 15 độ (Sửu) tây nam thiên nam 15 độ (Mùi).
Hạ táng mà toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phương vị Tứ mộ thì chỉ có hung, không
có cát. Nêu thủy lưu chảy đi phương Tứ mộ, thì cát lợi. Xem mục Kim long.
Tứ tuyệt: Phương vị. Chỉ 4 phương Dần sơn. Thân sơn, Tỵ sơn, Hợi sơn trong
24 sơn, lần lượt nằm ở vị trí đông bắc thiên đông 15 độ (Dần), tây nam thiên
tây 15 độ (Thân), đông nam thiên nam 15 độ (Tỵ), tây bắc thiên bắc 15 độ (Hợi).
Hạ táng mà toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phương vị Tứ tuyệt thì đại hung.
Tứ hung: Phương vị. Phong thủy dương trạch coi phương vị sở tại của 4 hung
tinh Lục sát, Ngũ quỉ, Họa hại. Tuyệt mệnh là Tứ hung. Ở vị trí Tứ hung thì
phòng ốc nên thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Nếu Du niên của chủ nhà định
cung Sinh tại phương vị Tứ hung, thì không nên động thổ sửa chữa.
Sinh khí tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Sinh Khí, một trong Cửu tinh. Tương
ứng sao Tham Lang, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là quẻ Cấn. Rất tốt. Âm trạch
phong thủy dùng sao này chi phương vị và hình dạng sơn.
Xem thêm mục Tham Lang. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị,
tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thi Sinh Khí ở
phương vị đông nam Tốn ; Đoài trạch thì Sinh Khí ở vị trí Càn, tây bắc. Tại vị
trí có Sao Sinh Khí nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng
nước, chuồng gia súc. Sinh Khí còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục
tương ứng.
Diên niên tinh: Phương vị. Thương gọi tắt là Diên Niên, một trong cửu tinh. Tương
ứng Vũ Khúc, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Đoài. Rất tốt. Âm trạch phong
thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Vũ khúc. Dương
trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các
phương, như Càn trạch thì Diên Niên ở vị trí Khôn, tây nam; Chấn trạch thì Diên
Niên ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Diên Niên nên xây phòng ốc cao
lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng nước. Diên Niên còn là một trong Xuyên cung
cửu tinh. (Xem mục tương ứng)
Thiên ất tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Thiên ất, còn gọi là Thiên Y, một
trong Cửu tinh. Tương ứng sao Cự Môn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Tốn. Tốt
vừa.
Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem
thêm mục Cự Môn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch
khác nhau mà di chuyển các phương, như Khôn trạch thì Thiên ất ở vị trí Khảm, chính
bắc; Ly trạch thì Thiên Ất ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Thiên Ất, nên
xây phòng ốc cao lớn, mở cửa; bô trí phòng ở, chuồng gia súc. Thiên ất còn là
một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Thiên y tinh: Phương vị. Tức sao Thiên ất. Xem mục Thiên ất tinh.
Lục sát tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Lục Sát, một trong Cửu
tinh. Tương ứng sao văn Khúc, ngũ hành thuộc thủy, bát quái là quẻ Ly, hung (xấu
vừa). âm trạch phong thủy dung sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm
mục Văn Khúc. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác
nhau mà di chuyển các phương, như Tốn trạch thì Lục Sát ở vị trí Đoài, chính
tây; Cấn trạch thì Lục Sát ở vị trí Chấn, chính đông. Tại vị trí có sao Lục Sát,
không nên xây phòng ốc cao lớn, mà nên bố trí nhà bếp, nhà vệ sinh. Lục Sát còn
là một trong Xuyên cung cửu tinh.
Xem mục tương ứng.
Ngũ quỉ tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Ngũ Quỉ, một trong Cửu tinh. Tương
ứng sao Liêm Trinh, ngũ hành thuộc hỏa, bát quái là quẻ Chấn, đại hung (rất
xấu). Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm
mục Liêm Trinh. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác
nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thì Ngũ Quỉ ở vị trí Cấn, đông bắc,
Ly trạch thì Ngũ Quỉ ở vị trí Đoài, chính tây. Tại vị trí có sao Ngũ Quỉ phòng
ốc nên thấp bé, nên bố trí chuồng gia súc, nhà vệ sinh. Ngũ Quỉ còn là một
trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Họa hại tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Họa Hại, một trong Cửu tinh. Tương
ứng sao Lộc Tồn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Càn. Am trạch phong thủy
dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Lộc Tồn. Dương trạch
phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà di chuyển các
phương, như Cấn trạch thì Họa Hại ở vị trí Ly, chính nam; Đoài trạch thì Họa
hại ở vị trí Khảm, chính bắc. Tại vị trí có sao Họa Hại phòng ốc nên thấp bé, nên
bố trí nhà bếp, chuồng gia súc. Họa hại còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem
mục tương ứng. .
Họa hoạn tinh: Phương vị. Tức sao Họa Hại. Xem mục Họa Hại tinh.
Tuyệt mệnh tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Tuyệt Mệnh, một trong Cửu tinh. Tương
ứng sao Phá Quân, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Khảm. đại hung (rất xấu).
Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục
Phá Quàn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau
mà di chuyển các phương, như Chấn trạch thì Tuyệt Mệnh ở vị trí Đoài, chính
tây; Cấn trạch thì Tuyệt Mệnh ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Tuyệt
Mệnh, không nên xây phòng ốc cao lớn, chỉ nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Tuyệt
Mệnh còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Phụ Bật tinh: Phương vị. Tên gọi gộp hai sao Tả Phù và Hữu Bật, một
trong Cửu tinh. còn gọi là Phục Vị, hoặc Phục Ngâm. Tương ứng sao Phúc đức, tức
bản cung, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là quẻ Khôn. Tốt vừa. Có thuyết coi là
hung tinh. Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem
thêm mục Phụ Bật, Tả phù, Hữu bật. Dương trạch phong thủy lấy Phụ Bật làm chỗ
ký gửi phúc đức của chủ nhà, chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà
di chuyển các phương, như Khảm trạch thì Phụ bật vị trí Khảm, chính bắc; Khôn
trạch thì Phụ Bật ở vị trí Khôn, tây nam. Tại vị trí có sao Phục Vị, tức có
cổng chính của ngôi nhà thì mở cửa ở giữa Tam sơn; duy cấn sơn chính là Quỉ môn,
chỉ có thể mở cửa ở hai bên Dần sơn, Sửu sơn. Phụ bật làm bản cung, còn là mộït
trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Phục vị: Phướng vị. Chỉ phương vị ký gửi cung Phúc Đức của chủ nhân. Còn
gọi là Phục Ngâm hoặc Bản cung, tương ứng sao Phu bật. Cổng lớn của dương trạch
đều ở phương vị Phục Vị. Xem mục Phụ bật tinh.
Thái tuế: Phương vị. Thời xưa lấy phương đối xứng với Tuế tinh làm Thái tuế.
Hung. Ở phương vị sở tại của Thái tuế, 1ớn thì như việc quốc gia cất quân, xây
dựng cung điện mở mang bờ cõi, nhỏ thì như việc xây tường sửa nhà, đều phải né
tránh nếu phạm tức thị rất xấu. Thái tuế cứ 12 năm sẽ trở lại một vòng, năm Tý
ở phương Tý, năm Sửu ở phương Sửu phương vị đối xứng với Thái tuế ở dưới mặt
đất gọi là Tuế Hạ, ý nói bên dưới Thái tuế.
Tuế phá: Phương vị. Phương đối xứng với Thái tuế là Tuế Phá, thực ra là
Tuế tinh sở tại. Hung. Phương vị Tuế Phá sở tại không được động thổ xây dựng, thay
đổi hôn nhân, xuất hành đi xa, phạm vào đó thi hao tổn tiền bạc, hại cho gia
trưởng. Tuế phá 12 năm trở lại một vòng, năm Tý thì Tuế phá ở Ngọ, năm Ngọ thì
ở Tý, vòng trong là 12 chi ghi năm, vòng ngoài là phương vị Tuế Phá sở tại.
Tuế hạ:
Phương vị. Tức bên dưới sao Thái tuế. Thái tuế ở trên trời, phương vị đối ứng
với nó ở dưới đất là Tuế hạ, thực ra là phương vị Thái tuế. Xem mục Thái tuế.
Thái tuế thổ: Phong tục thời xưa cho rằng phương vị sở tại của Thái tuế thì
không được động thổ tu sửa hoặc xây dựng, nếu phạm sẽ rất xấu. Đồng thời nếu
đào thấy trong đất một khối thịt, người trong nhà sẽ bị bạo bệnh mà chết, tức
là Thái tuế thổ. Trước thuật thời cố có nhiều ghi chép về điều này. Gần đây ở
một huyện nọ thuộc tỉnh Cam Túc có đào được một khối thịt, giám định khoa học
cho biết đó là một loại khuẩn mô trắng hiếm thấy gọi là “Thái tuế
khuẩn”. E rằng đó là “Thái tuế thổ”mà cổ nhân từng gọi.
Đại tướng quân: Phương vị. Phương mà Thái tuế “ăn”(che lấp) gọi là Đại tướng
quân. Hung. Có hai thuyết. Thuyết thứ nhất nói rằng không được động thổ tu sửa
hoặc xây dựng xung phạm Đại tướng quân. Thuyết thứ hai cho rằng nếu động thổ
xay dựng ở phương vị Thái tuế, thì người ở phương vị Đại tướng quân sẽ bị tai
hoạ. Đai tướng quân thường cư ở Tứ chính, ba năm thay đổi một lần. Ví dụ, nếu
Thái tuế ở phương Dần, Mão, Thìn, thì Đại tướng quân ở vị trí Tý, chính bắc. Trong
đồ hình, vòng ngoài là nơi sở tại của Đại tướng quân, vòng trong là phương vị
sở tại của Thái tuế.
Lai lộ để lộ: Phương vị. Phàm người ta di chuyển chỗ ở, nơi từ đó dời đi gọi là
Lai lộ, nơi sẽ điều gọi là Để lộ. Ví dụ chuyển từ phương nam lên phương bắc, thì
phía nam của nhà ở là Lai lộ, phía bắc của nhà ở là Để lộ. Sửa nhà không nên ở
hướng Để lộ, sẽ khiến người ở bất an; còn sửa ở hướng Lai lộ thì không sao.
Trùng âm trùng dương: Hương vị. 24 sơn lấy từ truất Sơn thuận chiêu kim đồng hồ
đến Ất sơn là dương, từ Thìn sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Tân sơn là âm. Lại
lấy 12 sơn là Càn, Giáp Khôn, Ất, Khảm (Ty), Quý, Thân, Thìn, Ly (Ngọ), Nhâm, Dần,
Tuất lam dương; lấy 12 sơn Cấn, Bính, Tốn, Tân, Chấn (Mão), Canh, Hợi, Mùi, Đoài
(Dậu), Đinh, Ty, Sửu làm âm. Thuật Phong thủy cho rằng dương hoặc âm không nên
vượng một ình, phải phối hợp với nhau mới là tốt, bởi vậy chủ trương dương
trạch nên tu sửa ở phương âm, âm trạch nên tu sửa ở phương dương.
Nếu dương trạch lại tu sửa ở hướng dương, gọi là trùng dương, âm
trạch tu sửa ở phương âm, gọi là trùng âm, đều không tốt.
Tử khí: Phương vị. Chỉ phương vị cố định nào đó đối xứng với Sinh Khí trong
xây dựng nhà ở. Trong một năm, vị trí của Tử khí thay đổi tùy từng tháng. Tử
khí vào tháng Giêng đóng ở Ngọ, Đinh (chính nam và nam thiên sang tây 15 độ). Xem
mục Nhị thập tứ sơn. Tháng Hai ở Mùi, Khôn; tháng Ba ở Thân, Canh, tháng Tư ở
Dậu, Tân; tháng Năm ở Tuất, Càn; tháng Sáu ở Hợi, Nhám, tháng Bảy ở Tý, Quý;
tháng Tám ở Sửu, Cấn. tháng Chín ở Dần, Giáp; tháng Mười ở Mão, ất; tháng Mười
một ở Thìn, Tốn, tháng Chạp ở Tỵ, Bính. Mỗi năm Tử khí khởi đầu từ chính nam, thuận
chiều kim đồng hồ xoay một vòng, ở vị trí đối diện với Sinh khí. Nếu tu sửa
hoặc xây dựng nhà ở mà xung phạm Tử khí, thì sẽ bị tai họa.
Thổ khí: Phương vị. Phong thủy dương trạch cho rằng tu sửa hoặc xây dựng
nhà ở sẽ động thổ, làm kinh động thổ khí. Thổ khí bị kinh động, một phương vi
cố định nào đó bị xung phạm, thì người sống ở phương vị ấy sẽ gặp tai họa. Ở
phương vị đo cần được yểm, trấn. Phương vị thổ khí bị xung phạm trong một năm
sẽ khác nhau tùy từng tháng: tháng Giêng ở Đinh, Mùi (chính bắc và tây bắc
thiên sang bắc 15 độ). Xem mục Nhị thập tứ sơn. Tháng hai ở Khôn, tháng ba ở
Nhâm. Hoả ; tháng Tư ở Tân, Tuất; tháng năm ở Càn; tháng Sáu ở Dần, Giáp, tháng
Bảy ở Quý, Sửu; tháng Tám ở Cấn; tháng Chín ở Bính, Tỵ, tháng Mười ở Thìn, Ất;
tháng Mười một ở Tốn; tháng Chạp ở Thân, Canh.
Chỉ có 4 phương vị chính nam (Ngọ), chính bắc (Tý), chính đông (Mão),
chính tây (Dậu) là thổ khí không bị xung phạm.
Nhị thập tứ sơn ngũ hành thủy pháp Phương vị. Phương pháp phối hợp
24 sơn với Chính Ngũ hành, Tràng sinh Ngũ hành và Cửu tinh. Căn cứ phương vị
của Lai long để biểu thị cát hung của phương vị thủy chảy đến và chảy đi. Trình
tự cụ thể như sau: trước hết đem 24 sơn phối thuộc Ngũ hành theo ca quyết
“Giáp dần thìn tốn đại giang thủy, tuất khảm (Tý), thân tân thủy tổng đồng.
Chấn (mão) Cấn tỵ sơn người thuộc mộc, ly (ngọ) nhâm bính ất hỏa vi tông”.
(Thanh nang hải giác kinh). Khi đã định tính chất Ngũ hành của 24 sơn ất sẽ
phân chia 5 cục kim mộc, thủy, hỏa, thổ, khởi Tràng sinh từng cục, đồng thời
tạp phối Cửu tinh, tổng cộng được 24 vị trí, tương ứng 24 sơn. Trong đó kim cục
khởi Tràng sinh ở Tỵ sơn, mộc cục khởi Tràng sinh ở Hợi sơn; thủy cục và Thổ
cục khởi Tràng sinh ở Thân sơn; hỏa cục khởi Tràng sinh ở Dần sơn. Tràng sinh
Ngũ hành phối hợp với Cửu kinh (thực ra chỉ với 7 sao) xếp theo trật tự thuận
và trạng thái cát hung như sau: Tràng sinh (cát), Tham Lang (cát); Mộc dục
(hung), Văn khúc (hung), quan đới (hung), Văn khúc (hung), lâm quan (cát) Vũ
khúc (cát), Đế vương (cát), Vũ khúc (cát), Suy (hung), Cự môn (hung), Bệnh
(hung), Liêm trinh (hung), Tử ((hung), Liêm trinh (hung), Mộ (hung), Phá quân
(hung), Tuyệt (hung), Lộc tồn (hung) Dưỡng (cát), Tham lang (cát). Lấy 24 vị
trí, khởi từ Tràng sinh, thuận chiều kim đông hồ, sắp xếp 24 sơn tương ứng. Câu
ca là: “Dưỡng sinh Tham lang vị, Quan đới Mộc dục văn, Vũ khúc làm quan
vượng, phùng suy thị Cự môn. Liêm trinh đa bệnh tử, đại mộ thuộc Phá quân, tuyệt
thai thị Lộc tồn, thất diệu nhất khởi phân”. (Thanh nang hải giác kinh). Do
5 cục khởi Tràng sinh khác nhau nên Tràng sinh Ngũ hành sau khi phối với Cửu
tinh tại 24 sơn tương ứng mỗi cục cũng khác nhau. Dưới đây chỉ nêu ví dụ thủy
cục và thổ cục khởi Tràng sinh. Các cục khác có thể suy diễn tương tự. Đã biết
phương vị của 24 sơn tương ứng với Tràng sinh Ngũ hành, Cửu tinh, thì có thể
suy ra phương vị đến và đi nào của thủy là cát hoặc là hung. Nguyên tắc cơ bản
là nên từ phương sinh vượng (phương cát) chảy đến, và chảy đi phương tử tuyệt
(phương hung). Ví dụ, Tý sơn lai long. Về Ngũ hành tý sơn thuộc thủy, thủy cục
khởi Tràng sinh tại Thân, nên phàm là 4 phương vị Canh sơn (tương ứng Tham
lang), Mùi sơn (tương ứng Dưỡng), Khôn sơn (tương ứng Than Lang), Thân sơn
(tương ứng Tràng sinh), mà có thủy chảy đến, thì đều chủ có nhiều phú quý; còn
phương vị Dậu sơn (tương ứng Mộc dục), Tân sơn (tương ứng Văn khúc) thủy chảy
xộc đến thì chủ phụ nữ trong nhà dâm loạn; lai thủy phương vị Cấn sơn (tương
ứng Mộ) chủ người trong nhà bị hình phạt; lai thủy phương vị Can sơn (tương ứng
Văn khúc), Tân sơn (tương ứng Văn khúc), chủ trong nhà có dịch bệnh.
Nếu lai thủy chảy về phương sinh vượng, thì không có gì đáng lưu
luyến đất này. Nếu thủy chảy đi về hướng phương vị Bính sơn (tương ứng Lộc tồn),
Tốn sơn (tương ứng Phá quân), chủ đời sau có công khanh. Ca nói: “Tý sơn
địa, Canh Mùi cập Khôn Thân. Tứ vị triều lai đa phú quí, Dậu tân xạ nhập phụ
nhân dâm. Long (Thìn) tẩu nhập, định tao hình. Lưu Phá, Sinh, Vượng bất tu tầm.
Văn khúc triều lai động ôn hỏa, như lưu Bính, Tốn xuất công khanh, lai khứ yếu
phân minh”(Thanh nang hải giác kinh). Nói chung chỉ cần nhớ rằng thủy từ thường
sinh vượng chảy đến và chảy đi về hướng tử tuyệt là cát thì đủ rồi.
Tràng sinh Ngũ hành: Tức Ngũ hành ký sinh 12 c ung. Vốn chỉ trạng thái khác nhau
trong 12 tháng của Ngũ hành theo trình tự Tuyệt, Thai, Dưỡng, Tràng sinh, Mộc
Dûục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ. Thuật Phong thủy mượn
các tên gọi ấy để chỉ trạng thái cát hung của phương vị, trong đó Tràng sinh, Dưỡng,
Lâm quan, Đế vượng là cát, còn lại đều hung. Cũng có khi coi Quan đới, Mộc dục
cũng là cát. Tràng sinh Ngũ hành trong thuật Phong thủy chỉ phương vị, tùy Ngũ
hành sở thuộc khác nhau của 24 sơn mà biến đổi, trong đó tác dụng chủ yếu là
biểu thị phong vị thuỷ lưu chảy đến và chảy đi. Xem thêm mục Nhị thập tứ sơn
Ngũ hành thủy pháp.
Đại du niên biến hào pháp: phương pháp tính toán phương vị bát quái Cửu tinh ký gửi
cung phúc đức của chủ nhà dùng để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà. Trình tự
cụ thể như sau. Trước hết, căn cứ phép Tam nguyên tính xem mệnh của chủ nhà ký
gửi ở cung nào (tên quẻ), tức cung Phúc đức, hoặc còn gọi là Bản cung; sau đó
khởi từ bản cung tính Cửu tinh theo trật tự thuận cùng phương vị sở tại. Phải
sử dụng phép biến hào tức là phải biến đổi ba hào trên, giữa, dưới của quẻ ký
gửi Bản cung, hào dương thì biến thành âm, hào âm thì biến thành dương, từ đó
mà biết được phương vị Cửu tinh. Lấy quẻ Càn làm ví dụ. Nếu mạng của chủ nhà ký
gửi ở quẻ Càn, biến hào trên sẽ thành quẻ Đoài, là Sinh khí; biến hào trên và
hào giữa, sẽ thanh quẻ Chấn là Ngũ quỉ; biến hào trên và hào dưới sẽ thành quẻ
Khảm, là Lục sát; biến hào giữa sẽ thành quẻ Ly, là Tuyệt mệnh. biến hào giữa
và hào dưới, sẽ thanh quẻ Cấn, là Thiên ất hoặc còn gọi là Thiên y; biến hào
dưới, sẽ thành quẻ Tốn, là Họa hại; biến cả ba hào sẽ thành quẻ Khôn, là Diên
niên; cả ba hào đều không biến thì vẫn là quẻ Càn, là Phụ bật, hoặc còn gọi là
Phục vị, tức cung Phúc đức, hoặc Bản cung. Trong Cửu tinh, lấy Sinh khí, Diên
niên, Thiên Ất, Phụ bật làm 4 cát tinh; con Họa hai, Lục sát, Ngũ quỉ, Tuyệt
mệnh làm 4 hung tinh; cũng có thuyết coi Phụ bật là hung tinh. Do phương vị bát
quái đã định, tức là cung Phúc đức sở tại, ta đem Cửu tinh (thực ra chỉ có 8
sao) sắp xếp theo trật tự thuận trên bề mặt 8 vị trí của nhà ở (Tứ chính và Tứ
ngung), thì có thể phán cát hung, chỉ đạo việc xây dựng nhà ở. Vì sự biến hào
quá rắc rối, cho nên các trước tác Phong thủy nói chung đưa ra cách bố trí thứ
tự Cửu tinh bát quái như sau: Càn trạch là Càn (Phúc đức, Phụ bật, Phục vị, từ
đây xuống dưới cũng như vậy), Lục sát, Thiên Ất, Ngũ quỉ, Hoạ hại, Tuyệt mệnh, Diên
niên, Sinh khí, Khảm trạch là Khảm, Ngũ quỉ, Thiên ất, Sinh khí, Diên niên, Tuyệt
mệnh, Họa hại, Lục sát. Cấn trạch là Càn, Lục sát, tuyệt mệnh, họa hại, Sinh
khí, Diên niên, Thiên Ất, Ngũ quỷ. Chấn trạch là Chấn, Diên niên, Sinh khí, Họa
hại, Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ. Thiên ất, Lục sát. Tốn trạch là Tốn, Thiên ất, Ngũ
quỷ, Lục sát, Hoạ hại, Sinh khí, Tuyệt mệnh, Diên niên, Ly trạch là Ly, Lục sát,
Ngũ quỷ, tuyệt mệnh, Diên niên, Hoạ hại, Sinh khí, Thiên ất. Khôn trạch là khôn,
Thiên ất, Diên niên, Tuyệt mệnh, Sinh khí, Hoạ hại, Ngủ quỷ, lục sát, Đoài
trạch là đoài, Sinh khí, Hoạ hại, Diên niên, Tuyệt mệnh, Lục sát, Ngũ quỷ, Thiên
Ất. Đối chiếu trật tự sắp xếp trên, có thể phân biệt phương vị cát hung của 8
phía nhà ở.
Tam nguyên pháp: Phương pháp căn cứ trình tự nhất định mà tính toán
bát quái ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Còn gọi là “Phúc nguyên
Pháp”. Tam nguyên tức là thượng nguyên, trung nguyên và hạ nguyên. Lục
thập (60) Giáp Tý là một nguyên. Tam nguyên cộng là 180 năm. Trước hết cần biết
niên đại khởi đầu hoặc chấm dứt ở Giáp Tý thượng nguyên, trung nguyên hay hạ
nguyên. Qui định rằng năm 1504 (năm thứ 17 niên hiệu Hoằng Trị, Giáp Tý, đời
nhà Minh) là Thượng nguyên Giáp Tý, năm 1564 (năm thứ 13 Gia Tĩnh, Giáp Tý, đời
nhà Minh) là Trung nguyên Giáp Týù, năm 1624 (năm thứ 4 Thiên Khải, Giáp Tý, đời
nhà Minh) làm hạ nguyên Giáp Tý. Từ năm 1504 trở về trước và từ năm 1684 trở về
sau, cứ 180 năm là một Tam nguyên mà tính mãi mãi. Ví dụ, năm 1864 1à Thượng
nguyên Giáp Tý, năm 1924 là Trung nguyên Giáp Tý, năm 1984 là Hạ nguyên Giáp Tý,
năm 2044 lại là Thượng nguyên Giáp Tý. Khi đã biết tam nguyên Giáp Tý, căn cứ
giản đồ Dã mã Khiêu ta tính trên các ngón tay, theo khẩu quyết: “Dã mã
khiêu giản tấu, tòng Dân số đáo Cẩu (Tuất). Nhất niên cách nhất vị, bất dụng
Hợi, Tý, Sửu”. Khẩu quyết phối hợp Tam nguyên pháp: “Thượng nguyên
giáp tý nhất cung liên, Trung nguyên khởi Tốn hạ Đoài gian. Thượng ngũ trung
nhị hạ bát nữ, nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên”(Dương trạch thập thư).
Ngoài ra qui định nam ở 5 trung thì ký gửi tại Khôn, nữ ở 5 trung thì ký gửi
tại Cấn. Cách tính cụ thể như sau: trước hết tra xem can chi nam sinh của chủ
nhà nam hoặc nữ, xem thuộc nguyên nào trong tam nguyên; sau đó tính theo khẩu
quyết. Nếu chủ nhà là người sinh năm Bính Dần thượng nguyên, thì áp dụng câu
“Thượng nguyên giáp tý nhất cung liên”, tức là nam sinh trong 60 năm
thượng nguyên, thì khởi nhất Khảm ở vị trí Dần, nam nghịch nữ thuận khởi căn
nguyên, tức là nam thì tính số theo chiều nghịch, nữ thì đếm số theo chiều
thuận, vậy sau 1 sẽ đến 9 Ly ở vị trí Tuất, là năm Ất Sửu, đó là do “nhất
niên cách nhất vị, bất dụng Hợi Tý Sửu”, cho nên phải chuyển tới 9 Ly, vị
trí Tuất. Tính nghịch tiếp đến số 8 là Cấn, vị trí Dậu, là năm Bính Dần, ắt sẽ
biết cung Phúc đức của chủ nhà là ở Cấn. Nếu chủ nhà là người sinh năm Qúy Hợi,
thuộc Hạ nguyên, trung nguyên khởi Tốn, Hạ Đoài gian”, tức là nam giới
sinh vào Trung nguyên, thì năm Giáp tý khởi tính từ số 4 ở vị trí Tỵ, còn người
sinh vào Hạ nguyên thì khởi tính từ số 7 Đoài, ở vị trí Thân. Vậy là năm Giáp
Tý hạ nguyên tính từ sô 7 Đoài ở Thân, đếm nghịch đến 6 càn ở Mùi là năm Ất Sửu,
đến 5 trung ở ngọ là năm Bính Dần, đến 4 Tốn ở Ly là năm Đinh Mão, đến 3 Chấn ở
Thìn là năm Mậu Thìn, đến 2 khôn ở mão là năm Kỷ Tỵ, đến 1 Khảm ở Dần là năm
canh Ngọ, nhảy sang 9 Ly ở Tuất (vì bỏ qua Hợi tý sửu) là năm Tân Mùi đến 8 Cấn
ở Dậu là năm Nhâm Thân, tiếp đến 7 Đoài ở Thân là nărn Quý Dậu. Do năm Quý Hợi
ở cuối 60 giáp tý, nếu cứ tính lần lượt từng năm một như thế thì quá phiền toái.
Trên bàn tay Dã mã khiêu có 9 vị trí, trong 60 giáp tí cứ 10 năm thì thiên can
lặp lại một lần, mỗi lần một vị trí, thực tế mỗi vị trí vừa vặn cách nhau 1o
năm; do đó ta có thể đơn giản hóa quá trình tính toán. Như vậy, khi tính nghịch
đến 6 Càn ở Mùi là năm Quý Mùi cách năm Quý Dậu 10 năm, đến số 5 trung ở Ngọ là
năm Quý Ty, đến số 4 Tốn ở Tỵ là năm Quý Mão, nên số 3 Thìn ở thìn là năm Quý
Sửu, đến số 2 Khôn ở mão sẽ là năm Quý Hợi, ắt ta biết Phúc đức của chủ nhà ấy
nằm ở Khôn. Nếu chủ nhà là nữ giới, theo câu: “Thượng ngũ trung nhị hạ bát
nữ”tức là Nữ sinh vào thượng nguyên giáp ty thì khởi 5 trung ở Ngọ, sinh vào
trung nguyên giáp tý thì khởi tính 2 khôn ở mão, sinh vào hạ nguyên giáp Tý thì
khởi Bính 8 Cấn ở Dậu. Nếu nữ chủ nhà sinh năm ất Dậu thuộc trung nguyên, thì
khởi tính 2 Khôn ở Mão, rồi “nam nghịch nữ thuận”, vậy theo chiều

TRẠCH HÌNH

Dung huyệt: 1) Chỉ nền đất của nhà ở, thôn xóm, thành trấn (thành thị, thị
trắn), gọi là huyệt trường của dương trạch, điểm dương huyệt”tức là xác định
nền đất và phạm vi của một địa chi nào đó. 2) Mộ huyệt có phân ra âm và dương;
âm long mà kết huyệt âm thì chủ bị nói xấu, phá hại gia sản; dương long mà kết
huyệt dương, chu sự sinh li tử biệt. Phân biệt âm dương thì căn cứ vào vị trí
âm hay dương mà xác định.
Chính huyệt: Chỉ trung tâm của thành trấn. Tức Chính trung của Dương huyệt. Đất
là nơi xây cất công trình chính, nếu ở kinh đô thì là nội thành cung điện, hoàng
cung; nếu ở tỉnh thành thì đó là dinh tỉnh trưởng, ở châu huyện là công đường. Cho
nên, xây dựng kinh đô thì trước hết phải xây dựng ở trung tâm (Chính huyệt)
tông miếu, cung điện; xây dựng tỉnh thành thì trước tiên xây dựng dinh thự quan
nha; xây dựng châu huyện thì trước hết chọn Chính huyệt xây dựng công đường
chính trị, thứ đến kho lẫm, nhà lao. Thuật Phong thủy coi đây là bảo đảm thể
hiện thể chế tông pháp phong kiến trong kiến trúc thành trấn, cũng là một đặc
trưng kiến trúc đô thị của Trung Quốc thời cổ.
Trạch hình: Tức hình dáng của nhà ở, chia ra hai loại trong và ngoài. Hình
dáng bên ngoài của nhà ở là chỉ vị trí, hình dạng, địa hình tứ phía cùng cảnh
vật kiến trúc của toàn bộ ngôi nhà. Hình dáng bên trong của nhà ở thì chỉ hình
dạng, vị trí của mọi vật kiến trúc cùng hình thức phối hợp giữa chúng với nhau.
Thuật Phong thủy cho rằng hình dáng bên ngoài của nhà ở liên quan đến khí thế
của mạch đến, nếu không tốt, thì dù hình dáng bên trong có hay mấy, cũng sẽ
không toàn vẹn. Hình dáng bên ngoài của nhà ở lấy vị trí địa thế của nhà ở làm
yếu tố quan trọng nhất, nói chung nhấn mạnh yêu cầu địa thế bằng phẳng, Minh
đường rộng rãi, trước sau có thủy bao bọc, thủy khẩu cách nhà không quá xa. Kiến
trúc cảnh vật xung quanh cũng rất quan trọng. Tốt nhất là bên trái nhà ở có
dòng chảy, bên phải có đường đi, đằng trước có ao, sau lưng có gò cao, gọi là
đất “Tứ thần tương ứng”. Nhà ở không nên nằm ngay giao lộ, năm cạnh quan
nha hầm hố, câu, nhà lao, không nên ở chỗ cây cỏ không thể mọc nổi, không nên
có giếng nước ở ngay trước cổng . . . Nhà ở tại các quần thể kiến trúc, như
thôn trấn, thành phố, thì điều kiện tự nhiên chi phối căn nhà là phụ; chủ yếu
phải xem xét mối tương quan hài hòa với cảnh vật kiến trúc xung quanh, đồng
thời so sánh Sa, Thuỷ. Ca nói: “Vạn ngõa lân lan thị tỉnh trung, cao liên tầng
tích thị lai long”(Dương trạch tập thành; quyển 1), lại nói: “Nhất tầng nhai cù
vi nhất tầng thủy, nhất tầng tường ngõa vi nhất tầng sa. Môn tiền nhai đạo tức
thị Minh đường, đối diện thất vũ tức vi án sơn”. (mỗi đường phố coi như một
dòng nước chảy, mỗi bức tường là một lớp Sa, Đường phố trước cửa tức là Minh
đường đối diện phía trước ngôi nhà tức là Án sơn) (Dương trạch hội tâm tập). Nghĩa
là các mái nhà liên tiếp nhau tức là Long, căn cứ vào các đường hẻm để luận khí,
còn đường phố là thủy đạo vậy. Qui định về hình dáng nhà ở cũng rất phức tạp, không
dưới một trăm điều, chỉ nêu ví dụ vài điều, như hình 198. Hình dáng bên trong
của nhà ởchủ yếu là vị trí, dạng thức, độ cao thấp của các vật kiến trúc trong
nhà, ví dụ qui định cột phòng chính phải dùng số 9, cột sảnh dùng số 7, cứa
dùng số chẵn. Thuật Phong thủy cho rằng mở cửa phía tây là “bạch hổ há mồm”thì
không cát. Cối giã gạo không được nằm cùng một hàng với lai long. Bên ngoài
cổng không được xây dựng thêm phòng ốc; bên trên cổng không được xây dựng lầu. Trong
nhà không nên có phòng ốc hình chữ Đinh, không nên có đường đi xuyên tâm. Phương
vị mở cửa, độ cao thấp của phòng ốc chủ yếu căn cứ vào phương vị Cửu tinh rnà
xác định. Việc bố trí giếng nước, chuồng gia súc, nhà vệ sinh, nhà bếp cũng vậy.
Qui định về hình dáng bên trong nhà ở cũng rất phức tạp, không dưới một trăm
điều, chi nêu ví dụ vài điều, như hình 199. Phần lập luận trong Thuật Phong
thủy liên quan đến hình dáng nhà ở có một bộ phận là sự tích lũy và đúc kết
kinh nghiệm lâu dài, ví dụ nhà ở không nên hẹp theo chiều nam bắc. dài theo chiêu
đông tây. không nên bốn phía là đường lớn không năm trên sống núi, chỗ cửa gió.
. . Có một bộ phận mang tính chất mê tín, còn lại thì liên quan đến tập quán
truyền thống dân tộc và quan niệm thẩm mỹ.
Tam yếu lục sự: Hình dáng nhà. Tổng kết những nhân tố quan trọng liên quan đến xây
dựng nhà ở của Phong thủy dương trạch. Tam yếu gồm: chủ, môn, táo, tức là mệnh
của chủ nhà phối họp với ngôi nhà, hướng mở cổng và cửa. vị trí của bếp. Lục sự
gồm: môn (cồng cửa), táo (bếp), tỉnh (giếng nước), lộ (lối đi), xí (nhà xí), cối
giã gạo, những vị trí nên hoặc kỵ của các nhân tố đó. Tĩnh trạch: Hình dáng bên
trong của nhà ở. Chỉ nhà ở chỉ có 1 dãy hay 1 phòng. Vì số dãy, phòng ít, nên
phương vị của cửu tinh ngũ hành về cơ bản là cố định, không cần thay đổi vị trí,
độ cao thấp của vật bài trí khi cửu tinh thay đổi.
Động trạch: Hình dáng bên trong của nhà ở. Chỉ nhà ở có từ 2 – 5 dãy hoặc
phòng. Vì số dãy, số phòng nhiều, nên cửu tinh ngũ hành sẽ biến đổi có qui luật
theo dãy phòng và phương vị cổng, phương vị và độ cao thấp của vật bài trí
trong nhà cũng thay đổi tùy theo sự biến động của cửu tinh ngũ hành.
Bát trạch: Dựa theo phương vị Toạ, Hướng cùng phương vị mở cửa của nhà ở, chia
thành bát quái, cả thảy có 8 loại, gồm: Càn trạch, Ly trạch, Đoài trạch, Khảm
trạch, Cấn trạch, Tốn trạch, Khôn trạch, Chấn trạch, Cửu tinh sẽ biến động có
qui luật theo sự khác nhau của mỗi loại nhà tại phương vị sở tại, từ đó có thể
phán đoán lành dữ, chỉ dẫn xây dựng, sửa chữa. Thuộc tính bát quái của nhà ở là
cố định, phương vị của Tọa Hướng và cửa cũng theo đó mà xác định, nhưng do có
thể đặt cửa ở hai bên trái phải của bốn quẻ Ngẫu: Càn, Khảm, Tốn, Cấn, nên nhà
ở thực ra có tới 12 Toạ hướng và cửa khác nhau, đó là: Tọa nam Hướng bắc cửa
Khảm, Tọa bắc Hướng nam cửa Ly, Tọa đông hướng tây cửa Đoài, Tọa tây Hướng đông
cửa Chấn, Tọa nam Hướng bắc cửa Càn, Tọa đông Hương tây cửa Càn, Tọa bắc Hướng
nam cửa Khôn, Tọa đông Hướng tây cửa Khôn, Tọa nam Hướng bắc cửa Cấn, Tọa tây
Phương đông cửa Cấn, Tọa bắc Hướng nam cửa Chấn, Tọa tây Hướng đông cửa Chấn.
Đông tứ trạch: Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Chấn trạch, Tốn trạch, Khảm trạch
và Ly trạch là Đông tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu
(theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung Chấn, Tốn, Khảm, Ly thì nên
sống ở ngôi nhà Đông tứ trạch.
Tây tứ trạch: Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Càn trạch, Khôn trạch, Cấn trạch, Đoài
trạch là Tây tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của chủ nhà ký gửi ở đâu (theo
phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung Càn, Khôn, Cấn, Đoài thì nên sống ở
ngôi nhà Tây tứ trạch.
Khảm trạch: Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa nam
hướng bắc, mở cửa ở chính hướng bắc Khảm, thích hợp với người thuộc Đông tứ
trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Khảm trạch theo chiều thuận lần lượt là
Khảm (Phúc đức), Ngũ quỉ (đông bắc)- Thiên ất (chính đông), Sinh khí (đông nam),
Diên niên (chính nam), Tuyệt mệnh (tây nam), Hoạ hại (chính tây), Lục sát (tây
bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tinh từ Bản cung là dãy nhà hoặc
ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể
bên trong hoặc bên ngoài nhà ở thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao,
nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; Ở phương hung
tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. .
. Xem mục đông tứ trạch.
Ly trạch: Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa bắc
hướng nam, mở cửa ở chính phương nam Ly, thích hợp với người thuộc Đông tứ
trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Ly trạch theo chiều thuận lần lượt là Ly
(Phúc đức), lục sát (tây nam), Ngũ quỷ (chính tây), Tuyệt mệnh (tây bắc), Diên
niên (chính bắc), Hoạ hại (đông bắc), Sinh khí (chính đông), Thiên ất (đông
nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là
dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quì, Diên niên. Bất
kể bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc
to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương
hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà
xí. . .
Chấn trạch: Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa tây
hướng đông, mở cửa ở chính hướng đông Chấn, thích hợp với người thuộc Đông tứ
trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Chấn trạch theo chiều thuận lần lượt là
Chấn (Phúc đức), Diên niên (đông nam), Sinh khí (chính nam), Hoạ hại (tây nam),
Tuyệt mệnh (chính tây), Ngũ quỉ (tây bắc), Thiên ất (chính bắc), Lục sát (đông
bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là
dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất. Bất
kể trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương bị cát tinh nên xây phòng ốc to
cao, nên mở cổng cửa, bố trí giường ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương
hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà
xí. .
Tốn trạch: Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Tốn trạch do toạ hưởng
khác nhau mà chia làm hai; một là ngôi nhà tọa tây phương đông, mở cửa ở hướng
đông nam Tốn: hai là ngôi nhà toạ bắc hướng nam và mở cửa ở hướng đông nam Tốn;
thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Tốn
trạch theo chiều thuận lần lượt là Tốn (Phúc đức), Thiên Ất (chính nam), Ngũ
quỉ (tây nam), lục sát (chính tây), Hoạ hại (tây bắc), Sinh khí (chính bắc), Tuyệt
mệnh (đông bắc), Diên niên (chính bắc). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này
tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Diên niên, Lục sát, Sinh
khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ bắc hướng nam mở cửa hướng Tốn thì
sắp xếp Cửu tinh cung giống như nhà toạ tây hướng đông, lần lượt tính từ ngăn
thứ nhất là Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ. Bất kể toạ tây hay
toạ bắc, bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây
phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc;
ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã
gạo, nhà xí. . .
Càn trạch: Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Càn trạch do toạ hướng
khác nhau nên chia làm 2; một là ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Càn
tây bắc, và hai là ngôi nhà toạ đông phương tây cũng mở cửa ở hướng Càn tây
bắc; thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Nhà toạ nam hướng bắc thì phương
vị sắp xếp Cửu tinh của Càn trạch theo chiều thuận làn lượt là Càn (Phúc đức), Lục
sát (chính bắc), Thiên ất (đông bắc), Ngũ quỉ (chính đông), Hoạ hại (đông nam),
Tuyệt mệnh (chính nam), Diên niên (tây nam), Sinh khí (chính tây). Cửu tinh
xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp
đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ đông hướng tây mở
cửa hướng Càn thì Cửu tinh sắp xếp cũng giống như ngôi nhà toạ nam hướng bắc mở
cửa hướng Càn, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong là Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất,
Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài loại nhà này thì ở phương
vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa bố trí phòng ngủ, giếng
nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố
trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. . .
Đoài trạch: Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa đông
hướng tây, mở cửa ở hướng chính tây Đoài thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch.
Phương vị sắp xếp Cửu tinh của trạch theo chiều thuận lần lượt là Đoài (Phúc
đức), Sinh khí (tây bắc), Hoạ hại (chính bắc), Diên niên (đông bắc), Tuyệt mệnh
(chính đông): Lục sát (đông nam), Ngũ quỷ (chính nam), Thiên ất (tây nam). Cửu
tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc
ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể
bên trong hoặc bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to
cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương
hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà
xí . . .
Khôn trạch: Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Khôn trạch do tọa hướng
khác nhau nên chia làm hai loại; một là ngôi nhà tọa đông hướng tây, mở cửa
hướng Khôn tây nam, và hai là nhà tọa bắc hướng nam, mở cửa ở hướng Khôn tây
nam, thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của
ngôi nhà toạ đóng hướng tây, mở cửa hướng Khôn tây nam theo chiều thuận lần
lượt là Khôn (Phúc đức), Thiên ất (chính tây), Diên niên (tây bắc), Tuyệt mệnh (chính
bắc), Sinh khí (đông bắc), Hoạ hại (chính đông), Ngũ quỹ (đông nam), Lục sát
(chính nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy
nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Sinh khí, Ngũ
quỷ, Thiên ất. Nhà tọa bắc hướng nam mở cửa hướng Khôn tây nam cũng sắp xếp Cửu
tinh giống như nhà tọa đóng hướng tây nói trên, còn Cửu tinh xuyên cung bên
trong tính từ dãy hoặc ngăn thứ nhất lần lượt là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỷ
Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên trong hoặc bên ngoài hai loại nhà này
thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng
nghỉ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp
nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí. . .
Cấn trạch: Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Cấn trạch chia ra hai loại,
một là nha toạ tây phương đông mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, hai la ngôi nhà tọa
nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thích hợp với người thuộc Tây tứ
trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ tày hướng đông, mở cửa ở
hướng Cấn, Dần sơn, đông bắc, theo chiều thuận lần lượt là Cấn (Phúc đức). Lục
sát (chính đông), Tuyệt mệnh (đông nam), Hoạ hại (chính nam), Sinh khí (tây
nam), Diên niên (chính tây). Thiên ất (tây bắc), Ngũ quỉ (chính bắc). Cửu tinh
xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp
đến Lục sát, Sinh khí, Ngu quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Nhà tọa nam hướng
bắc, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thì sắp xếp Cửu tinh cũng giống như nhà tọa
tây hướng đông, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong
tính từ ngăn thứ nhất lần lượt là Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh
khí.
Bất kể bên trong hoặc bên ngoài thì hai loại nhà này ở phương vị
cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước:
chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí
nhà bếp, cói giã gạo, nhà xí. . . Đặc thù của Cấân trạch là ở Cấn là Quỉ môn, mở
cửa không tốt; chỉ nên mở cửa ở Dần sơn, Sửu sơn là hai bên phải trái của Cấn
son, chứ không thể ở chính Cấn sơn.
Chu địa: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp, gọi
Chu địa. Còn có tên khác là đất Địa tàng. Quân
tử cư trú ở đây tốt, chủ phú quí liên tục. Tiểu nhân mà cư trú ở đất này thì
hung. Câu ca nói: “Trung ương chính diện tứ diện cao, tu cái trung trạch phúc
hữu dư. Ngưu dương lục súc đa hưng vượng, gia đạo cao quí xuất anh hào”. (Dương
trạch thập thư).
Hàn địa: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở rìa phía bắc cao, rìa phía
nam thấp, gọi là Hàn địa. Còn có tên là đất Trạch tàng. Cư trú ở đây cực tốt.
Tề địa:
Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông có lưu thủy thì gọi là Tề
địa. Cư trú ở đây tốt.
Ngụy địa: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía nam có lưu thủy
thi gọi là Ngụy địa. Cư trú ở đây tốt.
Cung địa: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp,
lại có vũng nước. Cư trú ở đây tốt.
Lương thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bằng phẳng, không lồi lõm
hoặc ở giữa hơi lồi lên một chút thì gọi là Lương thổ. Cư trú ở đây tốt.
Tấn thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước thấp sau cao thì gọi
là Tấn thổ. Cư trú ở đây tốt.
Lỗ thổ:
Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông thấp, phía tây cao, thì
gọi là Lỗ thổ. Con trai cả sống ở đất này thì hưng vượng, phú quí anh hào. Nếu
địa thế âm trạch mà phía đông thấp, phía tây cao, thì lại không Tốt.
Tề thổ:
Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước cao sau thấp thì gọi là Tề thổ. Cư
trú ở đây không tốt
Vệ thổ:
Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa thấp thì gọi là Vệ
thổ. Cư trú ở đây không tốt
Tú thần tương ứng: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm phía đông nhà có dòng chảy là
Thanh long, phía tây nhà có đường đi là Bạch hổ, phía nam có ao hồ là Chu tước,
phía bắc có gò đống là Huyền vũ. Có đủ 4 thủ đó gọi là cách tứ thần tương ứng, là
đất đại cát đại quí. Cư trú ở đây cực tốt
Huyền vũ thú: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía sau (phía bắc) nhà ở có gò đống
hoặc công trình kiến trúc cao thì gọi là Huyền vũ thủ (Huyền vũ trấn giữ). Cư
trú ở đây đại cát
Chu tước môn: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía trước (phía nam) nhà ở địa thế
trải rộng ra gọi là Chu tước môn. Cư trú ở đây
đại cát.
Tứ phương vị: Địa hình bên ngoài nha ở. Bốn phía nhà ở bị các con
đường bao vây, gọi là đất Tứ phương vị. Cư trú ở đây rất xấu. Câu ca nói: “Tứ
diện giao đạo chủ hung tàn, họa khởi nhân gia bất khả đương, nhược bất tôn tài
tai họa tử, đầu hà tự vẫn tỉnh trung vong”(đường vây bốn phía chủ hung tàn, tai
họa ập đến người ta kho bề chống đỡ, nếu không tốn tiền thì cũng chết người, nhảy
xuống sông xuống giếng mà tự vẫn) (Dương trạch thập thư).
Huyết bàn chiếu kinh: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phong thủy dương trạch lấy phía
trước nhà ở có ao hồ hình vuông là “Huyết bàn chiếu kính”. Cư trú ở đây
rất xấu. Có thuyết nói rằng phàm phía trước nhà mà có đào ao hồ mới thì đều là
Huyết bàn chiếu kính, không tốt. Câu ca nói: “Nhược hữu thử đường đương diện
tiền, đại đại lao tật bất thậm ngôn. Nhất đường tiện đoạn nhất nhân táng, hà
sủng bất dữ ngoại nhân truyền”(nếu nhà có ao vuông ở ngay phía trước, thì đời
nọ tiếp đời kia bị bệnh lao, mỗi ao làm chết một mạng người).
Tây ích trạch: Địa hình bên ngoài nhà ở. Tức là làm thêm phòng ốc vào phía tây
ngôi nhà cũ. Phong tục cổ của người Trung Quốc cho rằng Tây ích trạch là không
tốt.
Phong tục này có từ thời Xuân thu Chiến quốc, rất thịnh hành vào
đời Hán, là một trong điều đại kỵ. Sách Phong tục không giải thích: “Phong
tục coi phía tây là cao nhất, làm thêm phòng ốc ở phía đó sẽ hại cho chủ nhà, nên
mới có sự cấm ky đó”. Có thuyết nói Đông ích trạch (làm thêm phòng ốc vào
phía đông nhà cũ) cũng không tốt.
Xung hạng: Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính của nhà ở bị
đường hẻm đâm thẳng vào. Cư trú ở đây không tốt. Phong thủy dương trạch coi
đường hẻm là thủy đạo (dòng nước), Xung hạng chẳng khác gì bị dòng chảy xối, bắn
thẳng vào, cho nên phải tránh. Cách né tránh là làm cổng chếch đi hoặc dùng bùa
trấn áp.
Chúng để sát: Địa hình bên ngoài nhà ở. Ch ỉ ngôi nhà nằêm trái ngược với hướng
của các công trình xây dựng xung quanh. Không tốt. Thuật Phong thuỷ mượn cách
này để nhấn mạnh tính nhất trí, hài hòa của cả quần thể kiến trúc.
Địa đài: Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ khoảng đất trống đằng trước nhà, tức
Minh đường. Yêu cầu Địa đài của nhà này không được cao hơn Địa đài của hai nhà
bên phải bên trái: nếu hói thấp mọt chút nhưng đừng trũng thì tốt.
Đột khuy: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm một trong 4 phía nhà có chỗ vết
lõm vào hoặc lồi ra thì gọi là Đột khuyết. Cổ nhân mê tín cho rằng nếu phần lõm
vào dài không quá 2/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Khuyết, hung (xấu); nếu lồi
ra không quá 1/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Đột, cát (tốt). Song nếu Đột
(lồi ra) ở hai hướng đông bắc và tây bắc thì cát biến thành hung. Ngoài ra, đột
tuy là cát, Khuyết tuy là hung, nhưng còn phải xem năm sinh của chủ nhà phối
với phương vị Cửu tinh, có thể cát biến thành đại cát, hung biến thành đại hung
tại phương vị có đột khuyết.
Kiều lương: Địa hình bên ngoài nhà ở. Nói chung Thuật Phong thủy nghiêm cấm
làm cầu ở 4 phía nhà ở, vì cho rằng bốn phía có cầu là bị bắn thẳng, ở nhà đó
con cháu sẽ khiếp nhược, gia sản lụn bại. Hung. Câu ca nói: “Nhất kiều cao giá
trạch sảnh tiền, tả hữu tương đồng hậu diệc nhiên, bất xuất tam niên tịnh ngũ
tái, gia tư đãng tận mại điền viên”(Dương trạch thập thư) (trước nhà hai bên
nhà mà có một chiếc cầu thì chỉ trong vòng ba năm gia sản sẽ khánh kiệt phải
bán cả ruộng vườn). Nếu nhà ở bên cạnh cầu thì phải trấn yểm thường dùng bia đá
dựng ngay trước cầu. Một thuyết khác nói rằng nếu quanh nhà có cầu, thì cân
phân biệt cầu ở phương nào, phương suy hay phương vượng; phương suy mà có cầu
thì hung, phương vượng mà có cầu thì cát. Nếu Chu tước (phía nam) có cầu, không
kỵ; nếu Thanh long (phía đông) có cầu, gia đình bình an. Đối với làng xóm, thị
trấn, có khi người ta sử dụng cầu ở thủy khẩu để phong toả sinh khí, ngăn chặn
gió thổi, là một yếu tố quan trọng của Phong thủy nơi đó. Phong thủy âm trạch
thì không coi trọng lắm sự hiện diện hay không của những cây cầu.
Văn bút tháp: Kiến trục hình tháp. Vì hình dáng giống cây bút, lại cĩ quan hệ
tới sự đỗ đạt, nên có tên gọi đó. Còn gọi là “Văn phong tháp”. Thuật Phong
thủy cho rằng, nếu một thành phố hoặc thôn trấn nào đó mà việc văn chương khoa
cử yếu kém, thì tại 4 phương vị là Giáp sơn (chính đông thiên bắc), Tốn sơn
(đông nam), Bính sơn (chính nam thiên đông), Đinh sơn (chính nam thiên tây) nên
chọn mảnh đất tốt mà xây Văn bút tháp. Bất kể địa thế nơi ấy thế nào, tháp đều
phải cao hơn mọi công trình kiến trúc khác, thì sẽ có những người đỗ cao. Có
khi người ta đắp đất đá làm hòn giả sơn, cũng được gọi là Văn bút phong, Văn
bút sơn.
Ngũ hư ngũ thục: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ 5 trạng thái cát hung của kết cấu
bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy coi 5 điều sau là “Ngũ hư “: nhà lớn mà
ít người cư trú, cổng lớn mà nhà nhỏ, tường rào không trọn vẹn, giếng và bếp bố
trí sai phương vị, nhà rất lớn mà ít phòng ốc; 5 điều sau là “ngũ thực”: nhà
nhỏ mà đông người, nhà lớn mà cổng cửa nhỏ, tường rào hoàn chỉnh, nhà nhỏ nhưng
nhiều gia súc, nước ở phía trước và phía sau nhà chảy về phía đông nam. Ngũ hư
làm cho nghèo hèn, còn Ngũ thực làm cho người ta phú quí. Thực ra đó là khuynh
hướng xây dựng những ngôi nhà cỡ vừa và nhỏ, đồng thời khuyên người ta chú ý
hoàn thiện kết cấu không gian bên trong nhà ở.
Xuyên cung cửu tinh: Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định tình trạng cát
hung của các ngăn hoặc dãy phòng, để chỉ đạo việc tu sửa và xây dựng nhà ở. Tuy
mang tên Cửu tinh (9 sao), nhưng thực ra chỉ sử dụng 5 sao là Lục sát, Sinh khí,
Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, tương ứng với ngũ hành hỏa, thổ, kim, thủy, mộc, sắp
xếp theo trật tự thuận cố định, không thay đổi, trong đó Lục sát, Ngũ quỉ là
hung tinh, dãy hoặc ngăn phòng ốc nào có hai sao đó thì nên làm nhỏ, thấp, con
ba sao Sinh khí, Thiên ất, Diên niên là cát tinh, phòng ốc nào có 3 sao ấy thì
nên làm cao rộng. Phương pháp sắp xếp cụ thể phải kết hợpvới phương vị Bát
trạch cửu tinh. Trước tiên, xem cửa chính của ngôi nhà mở về hướng nào, là sao
nào, lấy sao ấy làm đại diện cho ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất, sau đó lần
lượt 4 sao kia theo trật tự cố định, thì có thể biết ngăn nào là sao gì. Ví dụ,
ngôi nhà toạ đông hướng tây, mở cửa về hướng Khôn tây nam, chính giữa phương mở
của, tức phương chính tây, là sao Thiên ất; vậy Thiên ất là ngăn (hoặc dãy
phòng) thứ nhất nên làm cao, rộng. Trong trật tự cố định, Thiên ất ở vị trí thứ
tư tiếp sau nó là sao Diên niên. Vậy Diên niên là người thứ hai, phòng này cũng
nên cao rộng. Tiếp sau Diên niên sẽ trở lại từ đầu, là sao lục sát, ngăn thứ ba,
với sao này, phòng nên thấp nhỏ. Ngăn thứ tư là sao Sinh khí, phòng này nên cao
to. Ngăn thứ năm là Ngũ quỉ, nên thấp nhỏ. Ngăn thứ sau lại là Thiên ất nên làm
cao to. Ví dụ khác, ngôi nhà tọa tây hướng đông, mở cửa hàng Cấn. Chính giữa
phương mở cửa tức đông bắc là sao Lục sát, thì lấy Lục sát làm ngăn thứ nhất, tiếp
đến Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát.
Nếu ngôi nhà mở cửa ở phương vị Tứ chính, thì ngăn thứ nhất là Hán
cung Phúc đức phòng ốc nên làm cao to hoặc vừa phải. Ngăn thứ hai là Lục sát, tiếp
đến Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Ví dụ, ngôi nhà toạ nam hướng bắc, mở
cửa tại phương Khảm chính bắc, thì Khảm là Bản cung Phúc đức, lấy đó làm ngăn
thứ nhất, tiếp đến Lục sát, là dãy thứ hai, Sinh khí là dãy thứ ba; Ngũ quỷ là
dãy thứ tư; Thiên ất là dãy thứ năm, Diên niên là dãy thứ sáu. Bất kể nhà nào, nếu
cửa của dãy thứ nhất mở ra phía ngoài, thì từ dãy thứ hai tính là Lục sát, mà
không tính đến Cửu tinh theo phương vị tứ chính nữa. Xuyên cung Cửu tinh gặp
sao Sinh khí (Tham lang, Mộc) cư ở Trung cung, còn gọi là Cát tinh đương hung, phòng
ốc không nên cao to, là một trường hợp ngoại lệ. Phương vị sắp xếp Bát trạch
cửu tinh hữu quan, xin xem thêm các mục Bát trạch.
Tài lộ phân phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định cát hung của từng
ngăn (hoặc dãy) phòng ốc trong một toà nhà. Căn cứ Đại du niên biến hào pháp và
tam nguyên pháp có thể tính toán cung Phúc đức của chủ nhà nằm ở đâu và từng
người nên ở loại nhà nào; nhưng trong cùng một toà nhà, cỏ rất nhiều nhân khẩu,
già trẻ, trai gái, mệnh rất khác nhau. Cho nên Phong thủy dương trạch lại có
phép Tài lộ phân phòng để giải quyết tình trạng đó. Phép này tính Cửu tinh cho
từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc, theo toạ hướng và phương mở cửa của chúng. Trình
tự sắp xếp Cửu tinh có thể biết nhờ phép Đại du niên biến hào pháp. Ví dụ, nhà
toạ nam hướng bắc, cửa Khảm, chủ nhà là người thuộc Đông tứ trạch. Trong nhà đó
ngăn thứ nhất mở cửa Khảm, thích hợp cho người thuộc Đông tứ trạch cư trú. Ngăn
thứ hai được ngăn cách bằng tường vách, mở cửa Đoài (chính tây), ắt thành nhà
toạ đông hướng tây, cửa Đoài, là Tây tứ trạch, thích hợp cho người nào mạng
thuộc Tây tứ trạch cư trú. Trình tự sắp xếp Cửu tinh của ngăn này giống như ở
ngôi nhà toạ đông hướng tây mở cửa Đoài, ở phương vị cát tinh nên làm phòng ốc
cao to, còn ở phương vị hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, người chủ nên
ở phương vị cát tinh. Lại còn phải chú ý kết hợp phương vị cát hung tinh từng
ngăn (hoặc dãy) trong nhà với toàn bộ toà nhà; nếu phương vị cát tinh của một
ngăn trùng với cát tinh của cả tòa nhà, thì đương nhiên là đã tốt càng thêm
tốt; ngược lại, nếu hung tinh của ngăn ấy cũng là hung tinh của cả toà nhà, thì
đã xấu càng thêm xấu; nếu cát tinh lẫn lộn với hung tinh, thì nên làm phòng
thấp nhỏ hoặc vừa phải, tùy tình hình cụ thể mà xác định. Trong một nhà, vợ
chồng không nên ở hai dãy khác nhau, nếu cung Phúc đức khác nhau, thì lấy của
chồng làm chính. Thuyết tài lộ phân phòng nhằm chứng minh một đại gia đình có
thể đoàn tụ ở một nơi.
Khai môn: Địa hình bên trong nhà ở. Xác định phương vị, ngày giờ tu sửa
hoặc làm và kích thước của cổng và cửa các phòng của ngôi nhà là một nội dung
quan trọng của phong thủy dương trạch. Thuật Phong thủy cho rằng người sống
trong nhà bị cách biệt với sinh khí, phải dựa hoàn toàn vào sự thông thoáng khí,
nên Khai môn rất quan trọng. Câu Ca nói: “Ninh dữ nhân gia tạo thập phần, bất
dữ nhân gia tu nhất môn”(Thà làm cho người ta mười cái mộ còn dễ hơn sửa một
cái cửa) (Dương trạch thập thư). Trình tự Khai môn cụ thể như sau: trước hết, xác
định phương vị Bát trạch. Thường lấy phương vị cung Phúc đức của chủ nhà hoặc
phương cát tinh làm phương vị Khai môn, nếu nhầm lẫn thì rất xấu. Trước cổng
không nên có Sa, Thuỷ xối thẳng vào, không nên là đường gập ghềnh nguy hiểm, không
nên có cây khô, đền miếu, không nên đối diện hoàn toàn với cổng nhà khác, không
nên bị đường hẻm đâm thẳng tới. Trên cổng không được xây lầu, chủ bất lợi cho
chủ nhà. Cổng lớn và cửa từng dãy, từng ngăn trong nhà không được nằm trên một
đường thẳng, để sinh khí khỏi bị tiết thóat đi mất. Thứ nữa, tu tạo cổng cửa
phải chọn ngày lành tháng tốt, mùa xuân không được Khai môn ở Phía đông, mùa hạ
ở phía nam, mùa thu ở phía tây, mùa đông ở phía bắc. Làm cổng, cửa kỵ các sao
như Cửu lương, Đại hao, Tiểu hao, Khưu công sát, cộng cả thảy hơn 10 điều cấm
kỵ. Lại có Môn quang pháp tính toán ngày lành hợp thì tốt, không hợp mà làm thì
xấu. Thứ ba kích thước của cổng, cửa phải theo qui định, không được tùy tiện. Nội
dung luận thuật của Phong thủy dương trạch về Khai môn có phần phù hợp yêu cầu
bảo đảm ánh sáng và sự thoáng khí, là có giá trị. Còn qui định kích thước tỉ mỉ
là mang tính chất mê tín.
Khí khẩu: Địa hình trên trong nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính. Thuật Phong
thuỷ cho rằng ngôi nhà tiếp nhận khí ở cổng, cửa, giống như người hít thở bằng
miệng, nên gọi là khí khẩu. Yêu cầu kiến tạo ở phương vị cát tinh để đón khí
tránh hung.
Phúc đức môn: Địa hình bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy qui định rằng phàm là
chùa chiền (của Phật giáo) tọa ở 7 phương vị là Khảm (chính bắc), Cấn (đông
bắc), Chấn (chính đông), Tốn (đông nam), Ly (chính nam), Khôn (tây nam), Đoài (chính
tây), đều có thể mở cổng cửa ở chính giữa. Duy tọa ở phương vị Càn (tây bắc) thì
không được Khai môn ở Thìn, Tốn, Ty sơn, tức ở chính hướng đông nam đối diện;
mà phải thiên sang ất sơn, như thế gọi là Phúc đức môn, đại cát.
Thanh long môn: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hương nam mở cổng
hoặc cửa ở phương vị đông nam (vị trí Tốn), gọi là Thanh long môn, cực tốt. Theo
thuyết Bát trạch, toạ bắc hướng nam có 3 loại nhà, một toạ bắc hướng nam Ly môn,
hai, toạ bắc hướng nam Tốn môn, ba, toạ bắc hướng nam Khôn môn. Hai loại đầu
thi vị trí Tốn chính là cát tinh Thiên ất, Phúc đức; còn loại thủ ba vị trí Tốn
là sao Ngũ quỉ, rất xấu.
Nội lộ:
Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ lối đi trong nhà. Trong nhà có một cưa thì chỉ có
một lối đi. Yêu cầu lối đi trong nhà không được xuyên thăng từ cổng vào đến
cuối cùng.
Ngoại lộ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ các con đường bên ngoài không nên đâm
thẳng vào cổng không nên vây quanh tứ phía hoặc kèm hai bên.
Hỏa yên: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc. Thuật Phong thủy cho rằng
khói lửa là vật không lành, cho nên nhà bếp nên bố trí ở phương vị có hung tinh
trong nhà để hun khói hung thần sát khí. Nếu đặt ở phương vị cát tinh, thì sẽ
làm ô uế thần phúc sinh khí, cực hung. Câu ca nói: “Càn Bính Cấn ất vị hỏa
yên, Khôn Đoài Quý thượng thị căn nguyên, Chấn Tốn hỏa yên Canh thượng thị, Khảm
Ly Giáp thượng bất hư truyền”(Dương trạch thập thư), nghĩa là đối với Càn trạch
thì bố trí bếp ở Bính sơn, Cấn trạch thì bếp ở ất sơn; Khôn trạch và Đoài trạch
thì bếp ở Qúy sơn; Chấn trạch và Tốn trạch thì bếp ở Canh sơn; Khảm trạch và Ly
trạch thì bếp ở Giáp sơn, đều là phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm,
Ly là ở phương vị cát tinh. Có thuyết nói Hoả yên là hương hỏa từ đường, hướng
coi đó là Phục vị Phúc đức, đều là dị thuyết về Phong thủy dương trạch, không
đáng tin.
Hóa lộ:
Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc, tức Hỏa yên. Câu ca nói: “Càn trạch toạ
Bính Chấn toạ Canh, Đoài trạch Qúy vị Tốn trạch Tân. Khảm trạch toạ Giáp Ly tu
Ất, Cấn trạch tọa ất Khôn trạch Nhâm”(Dương trạch thập thư) nghĩa là đối với
Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính sơn. Chấn trạch thì bếp ở Canh sơn; Đoài trạch
thì bếp ở Quý sơn, Tốn trạch thì bếp ở Tân sơn, Khảm trạch thì bếp ở Giáp sơn;
Ly trạch thì bếp ở Aát Sơn. Cấn trạch thì bếp ở Ất sơn. Khôn trạch thì bếp ở
Nhâm sơn, đều là phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phương
vị cát tinh. Thuyết này câu ca hơi khác so với Hỏa yên.
Phóng thủy: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ việc xả nước của nhà ở. Phong thủy
dương trạch rất coi trọng Phóng thủy. Lôi xả nước có qui định hết sức nghiêm
ngặt, theo nguyên tắc chung là dương sơn thì xả dương, âm sơn thì xả âm. Nghĩa
là nước của phương vị dương sơn phải chảy ra từ dương sơn, mà nước của phương
vị âm sơn thì phải chảy ra từ âm sơn. Trong 24 sơn, thì Càn, giáp, khôn, ất, tý,
qúy, thân, thìn, nhâm, dần, ngọ, tuất là dương sơn, còn Cấn, bính, tốn, tân, dậu,
đinh, tỵ, sửu, canh, hợi, mão, mùi là âm sơn. Cưả xả nước lại chỉ được ở phương
vị Thiên can, cái gọi là “Phóng thủy chỉ tòng thiên thượng khứ”(Dương trạch
thập thư). Từ dương sơn chảy ra dương thủy, chủ phú quí tột bậc. Từ âm sơn chảy
ra âm thủy, chủ có nhiều con cháu. Nêu lẫn lộn âm dương, tai họa sẽ dồn dập. Phóng
thủy còn phải liên quan tới phương vị Cửu tinh. Phương vị Tham lang, Văn Khúc, Vũ
khúc, thủy chảy đến thì đại cát, thủy chảy đi thì hung. Phương vị Cự môn, Phụ
bật, thủy đến và đi đều cát. Phương vị Lộc tồn, Liêm trinh, Phá quân, thủy nên
chảy đi, không nên chảy đến. Thủy chảy đến hoặc chảy đi trên phương vị Cửu tinh
sẽ có ảnh hưởng không giống nhau tới chủ nhà. Ví dụ thủy Tham lang chảy đến thì
chủ con trưởng hưng vượng, thủy Cự môn chảy tới, thì con thứ phát triển; thủy
Lộc tồn chảy đến, chủ trong nhà sẽ có quả phụ; thủy Văn khúc chảy đến, chủ con
thứ bị suy kém. Phóng thủy ngoài việc phải theo qui định về phương vị chảy đến
và chảy đi, còn có những điều nên hoặc không nên, chẳng hạn kỵ chảy thẳng, xuyên
ngang, phân nhánh hình chữ Bát; kỵ chảy ngầm bên dưới phòng ốc, tối kỵ chảy
xuyên qua cổng. Nên chảy vòng, men bên cạnh. Tốt nhất là uốn lượn ngoằn ngoèo
mà chảy đi. Phóng thủy (xả nước, thoát nước) là yếu tố tất nhiên phải suy tính
khi xây dựng nhà ở. Thuật Phong thủy đề ra hàng loạt yêu cầu hoàn chỉnh về mặt
này, có nhiều điều đáng tiếp nhận, chẳng hạn cống thoát nước không nên chảy
xuyên qua sân, không nên chảy qua dưới lòng nhà, không để trong nhà qua mức ẩm
thấp, nhưng về mặt phương vị cát hung thì mang màu sắc mê tín.
Thủy phá Thiên tâm: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước trong nhà chảy
xuyên thẳng hoặc tràn ngang qua nhà, hung. Nếu xuyên thẳng qua nhà còn gọi là
“Bão thương sát”.
Bão thương sát: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước trong nhà chảy
xuyên thẳng qua giữa nhà; còn gọi là “Thủy phá Thiên tâm”, hung. Xả nước
xéo qua nhà cũng gọi là Bão thương sát. Hung.
Khốn tự: Địa hình bên trong nhà ở. Phàm làm nhà mà xây tường rào vày xung
quanh trước, sau đó mới xây phòng ốc, gọi là “khốn tự”, vì giống hình chữ
“Khốn”. Chủ nhà này sẽ không thể phát đạt, hưng vượng nổi.
Đình táng: Địa hình bên trong nhà ở. Nhà đã làm xong, lại làm thêm một phòng
ốc nhỏ ở phía sau, gọi là Đình táng, không tốt. Ai sống trong căn phòng làm
thêm ấ thì đại hung.
Long đốn trạch: Địa hình bên trong nhà ở. Sau phòng ở làm nhà kho, gọi là Long
đốn trạch. Vì phía sau nhà là Lai long, nên có tên như vậy.
Xuyên tâm sát: Địa hình bên trong nhà ở. Phàm lối đi bên trong hoặc đường đi bên
ngoài đâm thẳng vào cổng nhà thì gọi là Xuyên tâm sát.
Qui đầu: Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà tọa bắc hướng nam mà
làm thêm phòng ốc ở phía trước, gọi là Qui đầu, vì giống con rùa thò đầu ra. Được
giải thích là nhà đó sẽ bị hao tài tốn của.
Thanh long đầu: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ nhà ở có phòng ốc phía bắc, phía
đông, mà không có phòng phía tây, gọi là Thanh long đầu; ngược lại thì gọi là
Bạch hổ đầu. Bạch hổ đầu Câu ca nói: “Thử ốc danh vi Thanh long đầu, tất chủ
trưởng phòng y thực sầu. Tại gia cô quả chủ trưởng bại, xuất khứ bất hồi không
ỷ lâu”(nhà kiểu Thanh long đầu thì con trưởng suy bại, nghèo khổ). “Thử ốc
danh vi Bạch hổ đầu, tất chủ tiểu phòng y thực sầu. Ấu nam cô quả tất tổn bại, tiện
kiến nguyên nhân tại lí đầu”(nhà kiểu Bạch hổ đầu thì con thứ suy bại, nghèo
khổ) (Dương trạch thập thư).
Thanh long phệ đầu tháp vĩ: Địa hình bên trong nhà ở. Căn phòng phía đông mà đầu nam
nối với một phòng nhỏ, gọi là . “Thanh long phệ đầu”, đầu bắc nối với một
phòng nhỏ, gọi là “Thanh long tháp vĩ”. Câu ca nói: “Thanh long
tháp vĩ cộng phệ đầu, nhất niên lục độ trưởng tử sầu, tiền tài phá tán nhân tật
bệnh, thời thời ương quái chí môn đầu”(ở nhà kiểu Thanh long co đầu rụt đuôi
thì con trưởng trong một năm sáu lần gặp chuyện buồn, như hao tài tốn của, bệnh
tật, tai ương dồn dập) (Dương trạch thập thu). Ngoài ra, nếu trong nhà mà phòng
phía bắc, phòng phía tây, phòng phía nam nối với một phòng nhỏ, thì gọi là
Huyền vũ phệ đầu tháp vĩ, Bạch hồ phệ đầu tháp vĩ, Chu
tước phệ đầu tháp vĩ, đều là những kiểu không lành, cần giỡ bỏ hoặc trấn yểm.
Đằng xà cử đầu: Địa hình bên trong nhà ở. Tại gốc đông bắc của nhà ở xây thêm một
phòng nhỏ, gọi là Đằng xà cử đầu. Câu ca nói: “Đằng xà cử kỳ đầu, cư gia đa hữu
ưu, lục súc gia tài tan, tật bệnh sự bất hưu”(Ở nhà kiểu Đằng xà ngóc đầu thì
gặp nhiều chuyện lo buồn như hao tài tốn của, bệnh tật liên miên, gia súc chết)
(Dương trạch thập thư).
Tả hữu tích xạ: Địa hình bên trong nhà ở. Góc nhọn của nóc phòng chính chĩa thẳng
sang phòng phía đông và phòng phía tây ở hai bên phải trái thì gọi là Tả hữu
tích xạ. Câu ca nói: “Oác tích xạ tả phòng, trưởng tử mệnh tiêu vong. Oác tích
xạ hữu phòng, ấu tử chủ li hương, nhược hoàn tề lai xạ, xạ đắc lãng đãng quang”(Phòng
phía đông chủ con trưởng, phòng phía tây chủ con út. Góc nhọn nóc nhà chĩa sang
phòng bên trái thì con trưởng chết trước, chĩa sang phòng bên phải thì con út
phải rời bỏ quê hương) (Dương trạch thập thư)
Trùng âm phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà chỉ có phòng phía nam hoặc phòng
phía tây mà không có phòng phía bắc, phía đông, thì gọi là Trùng âm phòng. Câu
ca nói: “âm thịnh dương suy tối bất cường, nữ nhân hưng vượng nhi bất trưởng. Đạo
tặc quan sự đô vô số, tuyệt liễu hậu đại thiểu nhi lang”(Âm thịnh dương suy thì
nữ mạnh, nam yếu, ở nhà này sẽ gặp kiện tụng, trộm cướp và không có con trai
nối dõi) (Dương trạch thập thư)
Cô dương phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Nhà chỉ có phòng phía bắc gọi là Cô
dương phòng. Câu ca nói: “Chỉ hữu nhất bắc phòng, nam vượng nữ tao ương, tiền
tài chủ phá tán, niên niên hữu bất tường”(Nhà chỉ có phòng phía bắc, thì nam
vượng, nữ gặp tai ương, hao tài tốn của, năm nào cũng có tai họa) (Dương trạch
thập thư).
Giang thi phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Bất kể phòng nào, phàm ở giữa cao lớn
mà hai bên phòng xép thấp nhỏ, thì gọi là Giang thi phòng (Phòng gánh xác chết).
Câu ca nói: “Xung thiên lạc địa lưỡng đầu đê, tam niên lưỡng độ tổn nam nữ. Hựu
chủ giang thi tịnh ngoại tử, thái tuế đương môn vô cải di”(Nhà kiểu Gánh xác
chết thì ba năm gặp hai cái tang, một nam một nữ) (Dương trạch thập thư)
Đơn nhĩ phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Ơû đầu phía đông của căn phòng phía bắc
làm thêm một phòng xép thì gọi là Đơn nhĩ phòng. Câu ca nói: “Đường ốc đông đầu
tiếp tiểu phòng, trạch trung tiểu khẩu tu tao ương, tam niên lưỡng độ ứng nan
miễn, nhân khẩu lục súc hữu tổn thương”(Nhà kiểu Đơn nhĩ phòng thì dễ bị tai
họa, ba năm hai lần bị tổn hại về người và gia súc) (Dương trạch thập thư).
Song nhĩ phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Ở cả hai đầu của căn phòng phía bắc đều
làm thêm phòng xép, thì gọi là Song nhĩ phòng. Câu ca nói: “Bắc phòng
lưỡng đầu đô hữu phòng, trạch trung lão thiếu thường bệnh ương, ám phong huyết
khí tịnh hoàng thũng, hạch thấu sinh phong chủ ôn hoàng”(Ở nhà kiểu Song nhi
phòng thì già trẻ đều dễ bị các loại bệnh như ho lao, phù thũng. . .) (Dương
trạch thập thư).
Tiểu tự phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Đằng trước nhà lại xây một phòng chính
chắn ngang, gọi là Tiểu tự phòng. Câu ca nói: “Mạc cái Tiểu tự phòng, dương
nhân hữu tai ương. Nhân khẩu đa hữu bệnh, nhất niên lưỡng độ vong”(chớ nên làm
nhà kiểu chữ Tiểu mà nam giới bị bệnh, một năm có hai người chết) (Dương trạch
thập thư).
Thủy tự phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Ở hai bên phòng chính lại có phòng, gọi
là Thúy tự phòng. Câu ca nói: “Mạc cái Thủy tự phòng, âm nhân hữu tai thương, đa
phục cổ độc tử, nhất niên lưỡng độ vong (chớ nên làm nhà kiểu chữ Thủy mà nữ
giơi bị bệnh cổ trướng, một năm có hai người chết) (Dương trạch thập thư).
Vương tụ phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Từ phòng chính nhô ra hai bên đông tây
hai phòng như hình chữ Vương, gọi là Vương tự phòng. Câu ca nói: “Mạc cái
Vương tự phòng, gia trương tất tai ương, thũng khí tịnh cước tật, âm nhân tất
tổn thương”(chớ nên làm nhà kiểu chữ Vương mà gia trưởng bị tai ương, bệnh phù
thũng, phù chân, nữ giới bị tổn thương) (Dương trạch thập thư).
Lộ cốt phòng: Địa hình bên trong nhà ở. Khi làm nhà để lộ ra các đầu keo bằng gỗ
ở mái hiên, gọi là Lộ cốt phòng. Câu ca nói: “Nhưọc cái Lộ cột phòng, lão gia
bệnh trước sàng, sổ niên tần tần khổ, bất miễn mại điền trang”(chớ nên làm nhà
kiểu lộ xương mà người già sẽ ốm liệt giường mấy năm, phải bán sạch ruộng vườn)
(Dương trạch thập thư).
Trạch thần: Thần cai quản nhà ở. Có thuyết lấy thần thổ địa làm Trạch thần, có
thuyết lấy ông Táo làm Trạch thần.
Chủng thụ thuyết: Qui định của Thuật Phong thủy về việc trồng cây. Nhin chung có
thể chia ra hai loại, khung cảnh lớn và khung cảnh nhỏ. Trong khung cảnh lớn, để
bảo vệ cây cối là chính, Thuật Phong thủy cho rằng cây co là da và lông của
Long, mà lai long là mạch máu sở tại của nhà ở và mộ phần, chặt cây ắt Long bị
tổn thương. Hơn nữa, cây mọc ở phương vị tốt, chặt cây tức là trừ bỏ điều lành
; cây mọc ở phương vị hung, chặt cây tức là kích động sự hung hãn. Do đó nghiêm
cấm chặt cây. Có khi chủ trương trồng cây một cách có chủ đích, ví dụ nếu hậu
sơn Lai long và Sa hai bên tả hữu thưa thớt cây cỏ, thì có thể dùng sức người
trồng cây cho khói thưa thớt. Bờ thủy khẩu và trên núi cũng có thể trồng cây để
bảo đảm tính kín đáo của thủy khẩu.
Trong khung cảnh nhỏ, chủ yếu trong phạm vi nhà ở, thì có nhiều
thuyết phức tạp, trồng cây ở vị trí nào phải theo qui định rất nghiêm ngặt. Chẳng
hạn, ở phía đông trồng cây hạnh, chủ nhà sẽ say mê tửu sắc, toàn gia ly tán, hung.
Tại phía bắc có cây mận, phía tây có cây đào, thì người nhà ấy dâm tà, hung. Bốn
phía quanh nhà đều có hoa hồng, thì chủ nhà nát rượu, hung. Còn trồng đào, liễu
ở phía đông, cây du, cây quất ở phía tây, cây mai cây táo ở phía nam, cây hạnh
cây thị ở phía bắc, thì cát. Trước cửa giữa trồng hoè, ba đời phú quí; sau nhà
có cây du, ma quỉ chẳng dám bén mảng. Tùng, trúc cũng là những thứ cây lành. Câu
ca nói: “Thanh tùng úc úc trúc y y, khí sắc quang dung hảo trú cơ”(tùng xanh
trúc vàng từng khóm làm đẹp cảnh sắc nhà cửa) (Dương trạch thập thư). Nếu địa
hình làm nhà trái qui tắc, dẫn tới hung họa, cũng có thể trồng cây để biến hung
thành cát. Thuật Phong thủy rất coi trọng cây cối ở trước cổng. Qui định rằng
trước cổng không được cò cây lớn, không được có một cây độc nhất, không được có
cây rỗng ruột, không được có cây cành sứt sẹo, không được trồng bụi mây song .
. . Thuyết trồng cây trong Thuật Phong thủy tuy có yếu tố mê tín, song cũng có
tính khoa học của nó.
Biện thổ pháp: Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt
xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định làm nhà, ta đào một cái hố vuông,
mỗi chiều 1 thước 2 tấc, độ sâu cũng vậy. Đất đào lên đem đập vụn, sàng qua, rồi
đổ xuống hố, lấp đầy thì thôi, không được nén. Sáng sớm hôm sau ra đó quan sát,
nếu thấy đất trong hố lồi lên, chứng tỏ sinh khí dồi dào, làm nhà rất tốt; nếu
thấy hố lõm xuống, chứng tỏ sinh khí suy kiệt, làm nhà ắt là hung. Biện thổ
pháp giống như Xứng thổ pháp, là phương pháp khảo sát xác định chất đất thời cổ
cua Trung Quốc.
Xứng thổ pháp: Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt
xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định làm nhà, ta lấy một cục đất
vuông, mỗi chiều 1 tấc. Đem cân lên, nếu nặng 9 lạng là đất tốt, nặng 5 – 7
lạng là đất tốt vừa, nên làm nhà; còn chỉ nặng 4 lạng trở xuống là đất dữ, không
nên làm nhà. Hoặc đào đất, đập nát, dùng đấu mà đong rồi cân. Nếu mỗi đấu cân
nặng 10 cân là rất tốt, nặng 8 – 9 cân là tốt vừa, nặng 7 cân cũng tốt. Phương
pháp này là sự tổng kết kinh nghiệm lâu đời mà có, xác định độ bền của nền đất
xây dựng khá chính xác.
Thổ sắc: Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất đất tốt
xấu. Người ta quan sát màu sắc của đất nơi đào mộ hoặc làm nhà, chia ra 5 loại
màu: đỏ, vàng, trắng, xanh, đen. Ba màu đỏ, vàng, trắng là tốt nhất, màu xanh
kém hơn, xấu nhất là màu đen.
Tục khí: Tức là tiếp tục sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng nhà ở sau một
thời gian sẽ hết sinh khí, cần được tiếp tục bồi bổ sinh khí. Cũng có phân biệt
Bát trạch mà qui định thời hạn khác nhau. Ví dụ, Càn trạch sau 40 năm hết sinh
khí, Khôn trạch sau 50 năm. . . Khi đó phải Tục khí (hoặc Hoán khí, nghĩa là
dùng gạch mới, đất mới tu tạo nhà ở).

CHỌN LỰA VÀ TRẤN YỂM

Mệnh chủ: Chủ nhân của ngôi nhà. Cổ nhân cho rằng nam sinh của mỗi
người khác nhau, nên cung mệnh sở thuộc cũng khác nhau. Phong thủy dương trạch
yêu cầu căn cứ cung mệnh của chủ nhà mà tính toán thuộc tính của ngôi nhà để
xác định phương vị lành dữ và ngày khởi công, nên gọi là Mệnh chủ. Mệnh chủ có
phân biệt nam nữ.
Đông tứ mệnh: Thuật Phong thuỷ cho rằng, phàm cung Phúc đức của ai ký gửi ở 4
quẻ Chấn, Tốn, Khảm, Ly, thì là người sinh Đông tứ vị, thuộc Đông tứ mệnh. Theo
lý luận Phong thủy dương trạch, người sinh Đông tứ mệnh chỉ có thể ở tại Đông
tứ trạch, ví dụ đối với người Khảm mệnh trong Đông tứ trạch, Phúc đức tại Kham,
thì nhà toạ bắc hướng nam là cực tốt, nhà toạ nam hướng bắc là rất tốt, nhà toạ
tây hướng đông cũng tốt, còn toạ đông hướng tây thì hung. Cũng có thể áp dụng
phương pháp Tài lộ phân phòng. Phòng ngủ ở phòng phía nam dãy đông là cực tốt, ở
phòng phía đông dãy nam là rất tốt, ở phòng phía bắc dãy giữa cũng tốt. Cổng
nếu mở ở phương đông nam Tốn sơn, tỵ sơn, thìn sơn, là cực tốt; tại phương
chính bắc Khảm sơn sẽ là cổng Phúc đức, rất tốt; tại phương chính nam Ly sơn
cũng tốt. Giếng nước nếu ở phương vị đông nam thìn sơn, ty sơn thì đại cát. Bếp
nên đặt ở phương đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn. Cối giã gạo nên đặt ở phương đông
bắc, Giáp sơn, Dần sơn và phương chính tây Đoài sơn. Chuồng gia súc nếu bố trí
ở phương đông nam thì đại cát. Phong thủy (thoát nước) nên bố trí tại Giáp sơn,
ất sơn. Mệnh Chấn, mệnh Ly, mệnh Tốn qui định còn phức tạp hơn. Thực ra đều có
qui luật phải theo, đó là căn cứ trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phương vị
cát tinh thì bố trí tọa hướng, mở cổng của, làm phòng ngủ, giếng nước, chuông
gia súc, còn ở phương vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo.
Tây tứ mệnh: Thuật Phong thủy cho rằng, phạm cung Phúc đức của ai
ký gửi ở 4 quẻ Càn, Khôn, Cấn, Đoài, thì là người sinh Tây tứ vị, thuộc Tây tứ
mệnh. Theo lý luận Phong thuỷ dương trạch, người sinh thuộc Tây tứ mệnh chỉ có
thể ở tại Tây tứ trạch, ví dụ Càn mệnh lấy cung Càn làm cung Phúc đức, thì ở
ngôi nhà toạ bắc hướng nam Khôn môn, hoặc ngôi nhà toạ nam hướng bắc Càn môn là
rất tốt, ở ngôi nhà toạ đông hướng tây Càn môn, Khôn môn, Đoài môn cũng tốt, nhà
toạ nam hướng bắc phong Cấn Sửu sơn. toạ tây hướng đông phương Cấn Dần sơn cũng
tốt. Cổng nhà nên mở ở phương Tây bắc Càn sơn, Hợi sơn, Tuất sơn; ở phương tây
nam Khôn sơn, Mùi sơn, Thân sơn, thì rất tốt. Cổng ở phương chính tây Tân sơn, đông
bắc Dần sơn, Sửu sơn, cũng tốt. Nhưng không được ở chính cấn sơn vì đó là Qui
môn. Phòng ngủ thì lấy lầu trên phòng phía tây là tốt nhất; cũng có thể ở phòng
phía bắc dãy tây, dãy đông, phòng phía nam dãy tây. Giếng nước, chuồng gia súc
mà đặt ở phương chính tây thì đại cát. Bếp ở phương nam Bính sơn, cối giã gạo ở
phương chính đông, đông nam là đại cát Phóng thủy (thoát nước) ở phương đông
Giáp sơn, Ất Sơn, phương bắc Nhâm sơn, Qúy sơn là đại cát. Khôn mệnh, Cấn mệnh,
Đoài mệnh cũng theo nguyên tắc tương tự đó là căn cử trật tự sắp xếp Bát quái
cửu tinh, ở phương vị cát tinh thì bố trí toạ hướng, mở cổng cửa, làm phòng ngủ,
giếng nước, chuồng gia súc; còn ở phương vị hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà
xí, cối giã gạo.
Phúc đức: Còn gọi là cung Phúc đức. Chỉ nơi ký gửi năm mệnh của chu nhà, phương
vị của nó dùng Bát quái thay thế. Ví dụ, nếu Phúc đức của một người chủ nhà nào
đó là Càn, ắt người đó thuộc Tây tứ vị, nên ở Tây tứ trạch, mở cổng ở vị trí
Càn (tây bắc). nếu Phúc đức của một người chủ nhà nào đó là Chấn, ắt người đó
thuộc Đông tứ vị, nên ở Đông tứ trạch, mở cổng ở vị trí Chấn (chính đông). Muốn
biết cung Phúc đức ở quẻ nào, có thể dùng Tam nguyên pháp mà tính. Biết nó ở
quẻ nào rồi, thì dùng Đại du niên biến hào pháp sẽ tính ra tình trạng lành dữ
của 8 phương vị (Tứ chính và Tứ ngung).
Du niên biến trạch pháp: phương pháp tính lành dữ năm làm nhà căn cứ tuổi của chủ
nhà. Cần phối hợp với Tam nguyên pháp, Cửu cung kiến trạch pháp, Đại du niên
biến hào pháp. Cách tính như sau. Nam nữ đều khởi tính từ Đoài là 10 tuổi, nam
thì đến Ly 20 tuổi, đến Chấn 30 tuổi đến Khảm 40 tuổi. đến Càn 41 tuổi, đến
Đoài 42 tuổi. Theo Tam nguyên pháp, nữ sinh năm Bính Ngọ, trung nguyên, thì
cung Phúc đức nằm ở quẻ Cấn. Theo Cửu cung kiến trạch pháp, định cung Sinh của
người này là Chấn; rồi theo Đại du niên biến hào pháp tính ra các phương vị sắp
xếp Cửu tinh cho Chấn trạch như sau: Phúc đức (Chấn), Diên niên (Tốn), Sinh khí
(Ly), Hoạ hại (Khôn), Tuyệt mệnh (Đoài), Ngũ quỉ (Càn), Thiên ất (Khảm), Lục
sát (Cấn). Đã biết Du niên của người ấy ở Đoài, vị trí đó là Tuyệt mệnh, thì
năm Đinh Hợi 42 tuổi tuyệt đối không được làm nhà, đại hung.
Theo Du niên biến trạch pháp, sẽ biến được tình trạng cát hung Cửu
tinh diên niên của chủ nhà như sau. Biến được Thiên ất, chỉ trong một năm nhà
ấy có người đỗ cao; biến được Sinh khí, chủ nhân khâu và gia súc tăng nhiều, phú
quí liên tục; biến được Diên niên, chủ trong vòng 180 ngày có tin vui, hỉ sự;
biến được Phúc đức (Phục vị), chủ người nhà đi xa trở về đoàn tụ. Đó là 4 cát
tinh, gặp chúng thì nên khởi công tu tạo nhà ở. Câu
ca nói: “Sinh khí Diên niên kiêm Phục vị, Thiên ất tứ lộ hảo
hưng công”(Dương trạch thực thư). Biến được Lục sát, chủ người nhà bị chết
trong vòng một năm có tai họa lớn; biến được Ngũ quỉ, thì trong vòng 200 ngày
sẽ có tang; biến được Tuyệt mệnh, chủ hai năm sau, con trai giữa sẽ bị chết;
biến được Hoạ hại, hao tài tốn của. Đó là 4 hung tinh, gặp chúng thì không nên
động thổ làm nhà
Cứu cung biến trạch pháp: phương pháp tính cung Định sinh căn cứ vào nơi ký gửi cung
Phúc đức của chủ nhà. Cần kết hợp với Tam nguyên pháp. Trình tự cụ thể như sau.
Theo Tam nguyên pháp mà tính ra xem cung phúc đức của chủ nhà nằm ở quẻ nào;
tiếp đó theo hình bàn tay Dã mã khiêu động đồ mà khởi tính số 1 từ cung ấy, bấ
kể nam nữ, theo chiều nghịch lùi lại 5 cung, tức là cung Định Sinh. Ví dụ, chủ
nhà là nam, sinh năm Canh Tý, thượng nguyên. Theo Tam nguyên pháp, tính ra cung
Phúc đức (bản cung) nằm ở Khảm, lùi ngược lại là Ly, lùi tiếp 5 cung đến 5 trung
là vị trí Ngọ, nam giới thì 5 cung ky gửi tại Khôn, ta biết cung Định Sinh của
anh ta là Khôn. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Giáp Tuất, hạ nguyên. Dùng
Tam nguyên pháp tính ra Bản cung nằm tại Ly, lùi lại sau Ly là Cấn, từ Cấn lùi
trên ngón tay 5 cung là Tốn, ắt ta biết cung Định Sinh của người này là Tốn. Sau
khi biết cung Định Sinh, có thể dùng phương vị Bát trạch cửu tinh cùng Du niên
biến trạch pháp mà tính được Du niên sở tại, tử đó sẽ biết cát hung của việc
khởi công tu tạo nhà ở.
Hành niên hiên trạch pháp: Phương pháp mê tín lấy hành niên của chủ
nhà để tính cát hung cho việc làm nhà. Đem 12 thần phối với 12 địa chi, qui
định rằng năm Tý là Thần hậu, năm Dần là Công tào, năm Ngọ là Thắng Quang, năm
Thân là Truyền Tống; 4 năm đó gọi chung là năm Đại thông, tu tạo nhà ở sẽ đại
lợi. Năm Hợi là Đăng Minh, năm Sửu là Đại Cát, năm Mùi là Tiểu Cát Ba năm này
gọi chung là năm Tiểu thông, nên tu tạo nhà ở. Năm Mão là Thái Xung, năm Dậu là
Tòng Khôi, năm Ty là Thái ất; ba năm này là năm tiểu hung, không nên tu tạo nhà
ở. Năm Thìn là Thiên Canh, năm Tuất là Hà Khôi, hai năm này đại hung, làm nhà
sẽ gặp tai hoạ. Câu ca nói: “Tý Ngọ Dần Thân vi Đại thông, Tiểu thông Sửu Hợi
Mùi Đăng Minh, Thái ất Mão Dậu bất kham tạo, Thìn Tuất Thiên Canh vị đại hung
(Dương trạch thập thu). Đã biết cát hung 12 năm, sẽ phân ra nam nữ để tính hành
niên của chủ nhân để định lành dữ. Đầu tiên giở xem bảng Lục thập Giáp tý. Từ
năm Giáp tý trở xuống 10 năm là tuần giáp tý, từ năm Giáp tuất trỏ xuống 10 năm
là tuần Giáp tuất, tương tự là tuần giáp thân, tuân Giáp ngọ, tuần Giáp thìn, tuần
Giáp dần. Mệnh nam, người sinh vào tuần Giáp tý, 1 tuổi khởi tính từ Bính dần, 11
tuổi là Bính tý, 21 tuổi là Bính tuất, 31 tuổi là Bính thân, 41 tuổi là Bính
ngọ, 51 tuổi là Bính thìn, 61 tuổi là bính dần. Người sinh vào tuần giáp tuất 1
tuổi khởi bính tý, 11 tuổi là Bính tuất. Người sinh vào tuần Giáp thân 1 tuổi
khởi Bính tuất, 11 tuổi là Bính thân. Người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi
Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ. Người sinh vào tuần giáp thìn, 1 tuổi khởi Bính
ngọ, 1 1 tuổi là Bính thìn. Người sinh vào tuần Giáp dần, 1 tuổi khởi Bính thìn,
11 tuổi là Bính dần. Mệnh nữ thì người sinh vào tuần Giáp ty, 1 tuổi khởi Nhâm
thân, 11 tuppri là Nhâm tuất 21 tuổi là Nhâm tý, 31 tuổi là Nhâm dần, 41 tuổi
là Nhâm thìn, 4l tuổi là Nhâm ngọ, 5l tuổi là Nhâm thân. Người sinh vào tuần
Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý; người sinh vào tuần Giáp
thân, 1 tuổi khỏi Nhâm tý, 11 tuổi là Nhâm dần; người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1
tuổi khởi Nhâm dần, 11 tuổi là Nhâm thìn; người sinh vào tuần Giáp thìn 1 tuổi
khỏi Nhâm thìn, 11 tuổi là Nhâm ngọ; người sinh vào tuần Giáp dần 1 tuổi khởi
Nhâm ngọ, 1 1 tuổi là Nhâm thân. Khi tính toán, cần chú ý đối vơi nam, theo
chiều ngang tính nghịch, theo cột dọc tính thuận, còn đối với nữ, theo chiều
ngang tính thuận, theo cột dọc tính nghịch. Tức la nam tính từ phải sang trái
theo chiều ngang hết hàng ngang thì chuyển xuống dưới 1 hàng; nữ thì tính từ
trái sang phải theo chiều ngang, đến cuối thì chuyển lên 1 hàng. Vi dụ, chủ nha
là nam, sinh năm Tân Sửu, đến nam Mậu Tuất là 58 tuổi (tuổi mụ). Tân Sửu thuộc
tuần Giáp Ngọ, 1 tuổi khởi tính từ Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ, 21 tuổi là
Bính thân, 3l tuổi là Bính dần, 41 tuổi là Bính tý, 51 tuổi là Bính tuất, theo chiều
ngang lùi lại là ất Dậu 52 tuổi, Giáp thân 53 tuổi, theo cột dọc tính thuận, chuyển
xuống 1 hàng là Qúy mão 54 tuổi, Nhâm dần 55 tuổi, tân sửu 56 tuổi, Canh tý 57
tuổi đến Kỷ hợi 58 tuổi. Thuận với hành niên của chủ nhà tài lợi, Hợi là Đăng
Minh, là năm Tiểu thông, có thể làm nhà, vậy thì biết rằng năm ông này 58 tuổi
mà làm nhà thì tốt. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Đinh sửu, đến năm Tân
dậu là 45 tuổi (tuổi mụ). Đinh sửu thuộc tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất,
11 tuổi là Nhâm tý, 21 tuổi là Nhâm dần, 31 tuổi là Nhâm thìn, 41 tuổi là Nhâm
ngọ, chiều ngang tính thuận đến Qúy mùi 42 tuổi, cột dọc tinh nghịch, chuyển
lên 1 hàng là Giáp tý, 43 tuổi, tiếp đến ất sửu 44 tuổi, Bính dần 45 tuổi, thuận
với hành niên của bà này tại Dần, Dần là Công Tào, là năm Đại thông, làm nhà
thì đại lợi. Vậy ta biết bà này mà làm nhà vào năm 45 tuổi thì rất tốt.
Mệnh tiền ngũ thần pháp: phương pháp tính năm làm nhà cát hung căn cứ năm sinh của
chủ nhà và Thái tuế sở tại Ngũ thần tức là đem 10 thiên can chia ra 5 nhóm, mỗi
nhóm 1 thần, cộng là 5 thần, cát hung khác nhau. Giáp, ất là Thanh Long; Bính, Đinh
là Minh Hỷ; Mậu, Kỷ là Thương Khố; ba thần ấy là thần hành. Thương khố chủ lúa
thóc đầy kho. Minh hỷ chủ hỉ sự dồn dập. Thanh long chủ đại phú đại quí, đều
nên tu tạo nhà ở. Nhâm, Qúy là Đạo tặc, chủ chuốc họa trộm cướp, hao tài tốn
của. Canh, Tân là Bạch hổ, chủ tai họa, tang tóc; đó là 2 hung thần, xung phạm
thì đại hung, không nên tu tạo nhà cửa. Đem 5 thần trên phối với năm sinh của
chủ nhà, tức là Mệnh tiền ngũ thần. Người sinh năm Tý ngũ thần ở Tỵ. Người sinh
năm Sửu ngũ thần ở Ngọ. Người sinh năm Dần ngũ thần ở Mùi. Người sinh năm Mão
ngũ thần ở Thân. Người sinh năm Thìn ngũ thần ở Dậu. Người sinh năm Tỵ ngũ thần
ở Tuất. Người sinh năm Ngọ ngũ thần ở Hợi. Người sinh năm Mùi ngũ thần ở Tý. Người
sinh năm Thân ngũ thần ở Sửu. Người sinh năm Dậu ngũ thần ở Dần. Người sinh năm
Tuất ngũ thần ở Mão. Người sinh năm Hợi ngũ thần ở Thìn. Khi tính cụ thể thì
phối hợp với Thái tuế sở tại và phép “Ngũ hổ độn”. Thái tuế sở tại: năm
Giáp tý tại Tý, năm ất sửu tại Sửu, năm Bính dần tại Dần, các năm khác cứ thế
mà suy. Khẩu quyết “Ngũ hổ độn”là: Giáp, Kỷ chi niên Bính tác thủ, ất Canh chi
tuế Mậu vi đầu, Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng, Đinh Nhâm chi vị thuận hành
lưu, Mậu Quý chi tuế hà phương khởi, Giáp dần chi thang hảo suy cầu”(Dương
trạch thập thư). Nghĩa là năm Giáp, năm Kỷ thì khởi tính từ Bính dần; năm ất, Canh
khỏi từ Mậu dần, năm Bính, tân khởi từ Canh dần; năm Đinh, Nhâm khởi từ Nhâm
dần; năm Mậu Qúy khởi từ Giáp dần. Lại tham chiếu bảng Lục thập Giáp tý để biết
Mệnh tiền ngũ thần sở tại của chủ nhà. Ví dụ, một người sinh năm Ngọ muốn biết
năm Mậu Tuất tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là Mậu Tuất. Theo Ngũ hổ
độn, năm Mậu, Qúy khởi Giáp dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta hướng sang bên phải
thuận đến Qúy hợi. Người sinh năm Ngọ, ngũ thần tại Hợi, cho nên phải đếm từ
Giáp dần trở đi, tới năm Hợi thì dừng. Qúy là Đạo Tặc, vậy Mệnh tiền ngũ thần
năm mậu Tuất của ông tuổi Ngọ nói trên là Đạo Tặc, không nên tu tạo nhà cửa. Ví
dụ khác, người sinh năm Tuất muốn biết năm ất sửu tu tạo nhà ở lành dữ thế nào.
Thái tuế là ất Sửu. Theo Ngũ hổ độn, năm ất, Canh khởi Mậu dần, ở bảng Lục thập
giáp tý ta hướng sang bên phải thuận đến năm Mão. Người sinh năm Tuất thì ngũ
thần ở Mão. Mậu, Kỷ là Thương Khố, chủ tiền của đầy kho, vậy người ấy làm nhà
vào năm ất Sửu thì đại lợi.
Định tinh: Tức sao Doanh Thất, còn gọi là sao Doanh, một trong Nhị thập bát
tú (28 sao). Phong tục thời xưa lấy phương vị sao Định sở tại để khởi công động
thổ cho rằng đó là lành. Phương vị sao Định trong 12 tháng không giống nhau, tháng
Giêng nhìn thấy nó ở Thìn, tháng hai nhìn thấy nó ở Mão, tháng ba nhìn thấy nó
ở Dần, tháng tư nhìn thấy nó ở Sửu, tháng năm nhìn thấy nó ở Tý, tháng sáu nhìn
thấy nó ở Hợi, tháng bảy nhìn thấy nó ở Tuất, tháng tám nhìn thấy nó ở Dậu, tháng
chín nhìn thấy nó ở Thân, tháng mười nhìn thấy nó ở Mùi, tháng 11 nhìn thấy nó
ở Ngọ, tháng Chạp nhìn thấy nó ở Tỵ. Phương vị sở tại của sao Định cùng phương
vị hai sơn tả hữu là có lợi cho việc khởi công động thổ. Ví dụ, tháng Giêng
thấy sao Định ở Thìn, thì tại 3 phương vị Tốn sơn, Thìn sơn, ất sơn đều có thể
động thổ; tháng hai thấy nó ở Mão, thì tại ba phương vị ất sơn, Mão sơn, Giáp
sơn đều có thể đọng thổ. Tiếp theo các tháng khác cứ theo đó mà suy.
Thần sát xuất du nhật: Chỉ các ngày mà Thái tuế cùng các Thần sát khác rời vị trí
sở tại đi tuần du 5 phương. Trừ phương vị mà các thần Sát đến tuần du, các
phương còn lại đều có thể khởi công động thổ. Ví dụ nếu các thần đi tuần ở
trung ương, thì bốn phương còn lại không hề bị cấm kỵ. Các thần đi tuần lấy
Thái tuế làm đầu, trong 5 ngày giáp tý, ất sửu, bính dần, đinh mão mậu thìn đi
tuần ở phương đông, trong 7 ngày kỷ tỵ, canh ngọ, tân mùi, nhâm thân, qúy dậu, giáp
tuất, ất hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày bính tý, đinh sửu, mậu
dần, kỷ mão, canh thìn đi tuần ở phương nam, trong 7 ngày tân ty, nhâm ngọ, qúy
mùi, giáp thân, ất dậu, bính tuất, đinh hợi thì các thần trở về vị trí cũ;
trong 5 ngày mậu tý, kỷ sửu, canh dần, tân mão, nhâm thìn các thần đi tuần ở
trung ương, trong 7 ngày quý tỵ, giáp ngọ, ất mùi, bính thân, đinh dậu, mậu
tuất, kỷ hợi thì các thần trở về vị trí cũ ; trong 5 ngày canh tý, tân sửu, nhâm
dần, quý mão, giáp thìn các thần đi tuần ở phương tây, trong 7 ngày ất tỵ, bính
ngọ, đinh mùi, mậu thân, kỷ dậu, canh tuất, tân hợi thì các thần trở về vị trí
cũ; trong 5 ngày nhâm tý, quý sửu, giáp dần, ất mão, bính thìn các thần đi tuần
ở phương bắc, trong 7 ngày đinh tỵ, mậu ngọ, kỷ mùi, canh thân, tân dậu, nhâm
tuất, quý hợi thì các thần trở về vị trí cũ; cứ thế mà xoay vòng mãi mãi.
Môn quang tinh: Sao Môn Quang theo Phong thủy dương trạch là những ngày trong
tháng mà có sao này chiếu rọi thì tốt lành đối với việc đặt cửa, làm cửa và mở
cửa. Có 2 cách tính sao Môn Quang. Một, theo khẩu quyết: “Thiêm thiêm tiêu
tạc dạ vũ lâm ly vũ quá trường sa mãn động đình đao tại giang hồ lưu bất tận
đắc trừng thanh xứ thị trùng thanh”(tổng cộng 30 chữ, những chữ nào có bộ
“Chấm thủy”tức là ngày có sao Môn Quang, như các chữ thiêm, tiêu, lâm, ly,
sa, mãn, động, giang, hồ, lưu, trừng, thanh, là ngày lành, còn lại là ngày dữ. Tháng
nào đủ thì dùng câu đó, tháng thiếu (có 29 ngày) thì bỏ chữ thứ ba, chữ “Tiêu”;
tháng đủ hay tháng thiếu thì đều đếm từ ngày mồng 1 trở đi theo chiều thuận. Ví
dụ, ngày 20 tháng đủ, đếm gặp chữ “Lưu”là lành; ngày 20 tháng thiếu, bỏ chủ thứ
ba, nên đếm ngày ấy gặp chữ “Bất”là hung. Cách thứ hai, dựa vào ký hiệu sắp xếp
cố định để tìm sao Mơn Quang
OOXXXOOHHHOOOXXXOOOHHHOOXXXOOO.
Tháng đủ 30 ngày thì tính ngược từ phía sau lên phía trước; tháng
thiếu chỉ có 29 ngày, thì tính thuận từ trước ra sau, gặp ký hiệu O là ngày
lành, gặp hai ký hiệu H và X là ngày hung (X thì hại cho gia súc, H thì hại cho
người). Ví dụ, ngày 21 tháng đủ, tính từ sau ngược lên trước, gặp ký hiệu H, là
hung. Tháng thiếu, ngày 21, đếm thuận từ trước ra sau, cũng gặp ký hiệu H là
hung.
Bốc nhật: Bói để biết ngày giờ lành dữ. Cũng chỉ việc chọn ngày tốt để chôn
cất, làm nhà hoặc chuyển nhà. Thuật Phong thủy cho rằng việc chôn cất, dựng nhà,
chuyển chỗ ở nếu không chọn năm, thang, ngày, giờ tốt, đất tốt thì sẽ hóa thành
hung; cho nên rất coi trọng Bốc nhập Sách Duyệt vi tháo đường bút ký của Kỷ Vân
đời Thanh có chép: “Nhà họ Mã nọ trong nhà bỗng nhiên xuất hiện những điều
quái gở, khó tin, bèn “Bốc nhật”chuyển chỗ ở thì mọi việc trở lại yên
lành”.
Phù trấn pháp: Phương pháp mê tín ma nghìn xưa sử dụng bùa chú và các vật đặc
định khác để trấn yểm nhà cửa, mộ phần hoặc công trình kiến trúc khác, đồng
thời tiến hành nghi thức tương ứng đặng giải trừ điều dữ. Tục này có nguồn gốc
rất sớm, thới kỳ Tiên Tần đã xuất hiện các hoạt động trấn yểm như người ta thấy
về sau. Thời kỳ Hán Đường bùa chú thịnh hành khắp nơi với những hình thức vô
cùng phức tạp. Phép trấn yểm liên quan đến âm dương trạch chủ yếu là viết, vẽ
bùa, cử hành nghi thức nhất định, rồi đốt, treo hoặc chôn sâu lá bùa để ngăn
chặn nhưng điều chẳng lành. Đồng thời tục chôn đá cũng rất thịnh hành, mà nội
dung bao hàm từ việc bảo đảm sự bình yên cho ngôi nhà, đến việc đề phòng chuột
cắn quần áo, nội dung trấn yểm trong Thuật Phong thủy cũng rất đa dạng, bao hàm
đủ thứ ăn mặc, ở, đi lại, chủ yếu nhằm ngăn chặn các hiện tượng quái gở, bằng
các hình thức như vẽ bùa, chôn đá, trát bùn đất, khắc gỗ làm tượng. . phép trấn
yểm của Thuật Phong thủy, bùa chú của Dạo giáo sử dụng các biến thể Giáp cốt
văn, Kim văn cùng phù hiệu vô ý nghía tạo nên, mang màu sắc kỳ bí là nhám an ủi
tinh thần người khác. Tục chôn đá có liên quan đến sự sùng bái đá thời cổ. Có
bùa chú sử dụng dược liệu, cũng có công dụng trừ tà chữa bệnh nhất định. Tuy
nhiên, những nghi thức và vật phẩm đặc định chứng tỏ màu sắc thần bí quá rõ rệt
của phép trấn yểm.
Tam giáo cứu trạch thần phù: Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng phàm gia
quyến thân thích gặp nhiều tai ương là vì khi làm nhà gặp phải hung tinh cao
lớn, cần làm nhà khác. Nếu không làm nhà khác, thì phải cấp tốc sử dụng “Tam
giáo cứu trạch thần phù”, gồm 8 lá bìa, dùng bút bằng gỗ hồng đào mà viết vẽ, rồi
đem dán ở 8 phương, vài tháng sau tai họa sẽ bớt dần.
Trấn lão trạch họa hoạn bát chỉ pháp: Một trong các phép trấn yểm. Cổ
nhân cho rằng phạm nhà làm đã lâu năm, sinh khí sắp kiệt, người và tiền của đều
tổn thương. Cần lấy 5 thăng đất ở phương vị Bản cung Phúc đức của chú nhà, 5
thăng đất ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức trộn với bùn nước chảy về phía đông
mà trát lên phương vị Thái tuế của ngôi nhà ấy. Tiếp đó dùng bút mực son vẽ bùa
mà yểm. Mỗi trạch trong Bát trạch có số năm nhất định. Ví dụ càn trạch 40 năm
là hết sinh khí; Khôn trạch thì 50 năm; nếu không làm nhà thác thì phải trấn
yểm như trên.
Trấn trạch trung yêu tà pháp: Một trong các phép trấn yểm. Chủ ngăn chặn yêu tà trong nhà.
Dùng bút mực son vẽ bài vị Phong Đô đại đế để thờ, tiếp đó dùng thanh bùa bằng
gỗ bách dài 1 thước hai tấc mà trấn yểm trong nhà.
Trấn phòng ốc tụ hướng pháp: Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng đây là cách
trân yểm để giải trừ hiện tượng phòng ốc tự dưng vô cớ phát ra âm thanh kỳ dị
Dùng Bạch Chi, phèn trắng và một hòn đá xanh nặng 60 cân, Chu Sa 1 tiền, Hùng
Hoàng 1 tiền rưỡi, cọng cỏ 7 cái, lấy đất và nước ở phương vị Thiên đức, Nguyệt
đức, mỗi thứ 1 thăng, hoà với bùn mà trát lên chỗ có âm thanh lạ.
Trấn thủy tinh pháp: Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng nếu người ta đào
giếng không ở phương vị tốt, thì sẽ gặp hung họa. Khi đó phải dùng hai phiến gỗ
bách dài 1 thước rưỡi, dùng bút mực son vẽ hai tấm bùa “Ngũ phương thần chú”đính
ở miệng giếng. Lại thả một hòn đá và 1 thăng ngũ cốc vào trong giếng, miệng
niệm chú câu sau 7 lần: “Thần giếng năm phương, hãy ở yên chỗ mình”.
Trấn lân cư động thổ xung phạm pháp Một trong các phép trấn yểm. Cổ
nhân cho rằng phàm bốn phía quanh nhà mình mà người ta động thổ làm nhà sẽ đều
xung phạm nhà mình, là hung. Phải lấy 3 phiến gỗ dai 3 thước 6 tấc hoặc 1 thước
2 tấc, dùng bút mực son vẽ ba tấm bùa rồi treo ở giữa nhà mình.
Mộ huyệt phù: Một trong các phép trấn yểm. Chuyên dùng ở huyệt mộ. Lấy 4 phiến
gỗ đào dài 1 thước, vẽ và viết trên đó như rồi cắm ở 4 góc mộ huyệt, để giải
trừ hiện tượng nhà cửa không yên, tiền tài hao tán.
Giải thổ: Tức cúng Thổ thần để giải trừ hung họa. Thời trước, sau khi ngôi
nhà được làm xong, chủ nhà phải làm lê cúng tạ ơn Thổ thần, vì động thổ làm nhà
e xúc phạm đến quỉ thần tứ phương. Thường là dùng đất nặn tượng quỉ thần, mời
thày cúng tới làm lễ, niệm chú.
Thạch thu đường: Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà mình đối diện với đường
hẻm, cầu, thì dùng tấm bia đa, trên khắc ba chủ “Thạch thủ đường”hoặc năm
chữ “Hoàng đế thạch thủ đương”chôn ngay trước cổng để trấn yểâm. Có nhiều
thuyết nói về nguồn gốc phong tục này. Có thuyết nói nó xuất hiện từ thời Hoàng
đế đánh nhau với Si Vưu; có thuyết nói nó bắt nguồn từ thời Tây Chu, có thuyết
bảo từ thời Ngũ đại Văn tự nhắc đến “Thạch thủ đương”sớm nhất là trong sạch Cấp
tựu chương của Sử Du đời Hán. Nhan Sư Cổ đời Đường chú giải: “Thạch là họ, thủ
đương là mượn tên gọi mà thôi; ý nói là không có gì địch nổi”. Phong thủy
dương trạch dùng “Thạch thủ đong”để trấn yểm khi có đường hầm hoặc cây cầu đâm
thẳng vào phía cổng nha. Đa cần được khắc vào 10 ngày sau giết Đông chí, là các
ngày Giáp thìn, Bính thìn, mậu thìn, canh thìn, nhâm thìn, giáp dần, bính dần, mậu
dần, canh dần, nhâm dần, tức là vào “các ngày Long (thìn), Hổ (dần). Bia làm
xong đêm Trừ tịch dùng ba miếng thịt sống ma cúng, rồi vào giờ Dần thì đem cắm
ở cổng.
Sơn trấn hải: Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà bị đường hẻm đâm thẳng
vào, thì dùng một tấm bia đá có khắc ba chữ “Sơn trấn hải”cắm ở trước cổng để
trấn áp điều xấu. Tương tự “Thạch thủ dương”, song không được phổ biến
rộng rãi bằng.

NHÂN VẬT VÀ ĐIỂN TỊCH

Sủ Lý Tử: (300 trước CN). Tên là Tật, em trai của Tân Huệ Vương, từng nhiều
lần đem quân Tần đi chinh phạt các nước Triệum Ngụy, Sở; được phong tước Nghiêm
Quân. Khi Tần Vũ Vương lên ngôi ông làm Tả thừa tướng.
Là một người túc trí đa mưu, biệt hiệu “Trí Nang”(túi khôn). Sắp
chết đa chọn trước cho mình mộ huyệt ở phía nam Vị Thuỷ và nói: “Trăm năm sau, sẽ
có cung tiến từ bên mộ của ta”. Đến đời Hán hưng thịnh, ngươi ta đã xây dựng
cung Trường Lạc ở phía đông ngôi mộ và cung Vị Ương ở phía tây ngôi mộ, kho vũ
khí thì ở ngay chỗ ngôi mộ. Việc này không đáng tin lắm, nhưng các nhà phong
thủy dựa vào đó coi Sù Lí Tử là nhà địa lý nổi danh đầu tiên.
Thanh Ô tiên sinh: Tức Thanh Ô Tử, người đời Hán. Có thuyết nói ông là người thời
Hoàng đế. Tương truyền tinh thông Thuật Phong thủy. Hiện có Thanh Ô tiên sinh
táng kinh, 1 quyển, nghi là do người thời Tấn – Đường mạo danh viết ra. Lại có
Cựu đường thư Kinh tịch chí chép Thanh Ô Tử, 3 quyển, đã thất lạc.
Quản Lộ: (năm 207 – 256), tự Công Minh, người nước Ngụy, ở Bình Nguyên
(nay là tây nam huyện Bình Nguyên, tỉnh Sơn đông). Nổi tiếng thần đồng. Từng
được thái thú Thanh Hà tên là Hoa khen có tài văn chương, lại được thứ sử Ký
châu cho giữ chức Văn học tòng sự, sau đỗ tú tài, làm quan đến chức Thiếu phủ
thừa. Quản Lộ tinh thông Chu Dịch, bói toán, Phong thủy, đoán gì đúng nấy. Từng
qua chỗ mộ Vô Khưu Kiệm, tựa gốc cây buồn bã nói “Cây cối rậm rạp như rừng,
nhưng vô hình chẳng thể sống lâu; bia mộ tuy đẹp, nhưng không có mặt sau để giữ.
Huyền vũ rụt đầu, Thương long không chân, Bạch hổ ngậm xác, Chu tước than khóc,
4 cái nguy đều có cả, đó là cái họa giết cả họ”(Tam quốc chí, quyển 29. Đây là
thuyết Tứ linh của Thuật Phong thủy được thể hiện lần đầu bằng văn tự.
Hiện còn sách Quán thị địa lý chí mông, 1 quyển, thực ra là của
người đời sau mạo danh. Xem thêm mục Quán thị đều lý chi mông).
Quách Phác: (năm 276 – 324), tự Cảnh Thuần, người cuối thời Tây Tấn, huyện Văn
Hỷ, Hà Đông (nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây), tránh loạn đến Giang Đông, lúc
đầu được Thái thú thành Tuyên cho làm Tham quân, sau làm Trước tác tá lang, rồi
mượn cớ mẹ mất mà từ chức. Sau lại được Vương Đôn ban chức Ký thết tham quân, nhưng
vì không theo Đôn mưu phản nên bị Đôn giết. Quách Phác thuở nhỏ yêu thích kinh
thuật thơ phú nổi danh một thời, sau theo Quách Công học Dịch lý, địa lý, thiên
văn, bói toán, được Quách Công tặng Thanh nang thư. Từng chọn đất mai táng cho
mẹ ở bãi sông, người ta báo sao lại chôn dưới nước, ông nói rồi nơi đây sẽ
thành đất khô. Quả nhiên về sau nơi đó được cát bồi thành nương dâu. Lại từng
chọn mộ cho người khác. Tấn Minh đế từng tới xem, hỏi chủ nhân vì sao chôn ở
đất “Long giác”, dễ thành tai họa cả họ bị giết. Chủ nhân đáp rằng Quách
Phác bảo táng ở tai rồng thì sẽ được nhà vua hỏi tới. Huyền thoại này e của
người đời Đường, khó tin. Hiện có sách Táng thư còn gọi là Táng kinh. 1 quyển, đề
của Quách Phác, có lẽ do người đời Đường mạo danh viết nên.
Tiêu Cát: Tự Văn Hưu, người Lan Lăng (nay là tây bắc thành phố Thường Châu,
tỉnh Giang Tô), cháu của Lương Vũ Đế. Nhà Lương diệt vong, ông vào Bắc Ngụy làm
Nghi đồng. Sau khi nhà Tùy thống nhất, ông làm quan đến chức Thượng nghi đồng, Thái
thường; Tùy Dạng Đế lên ngôi, phong ông chức Phủ thiếu khanh. Chết khi đang làm
quan. Tiêu Cát là người uyên bác, tinh thông âm dương, thuật đoán mệnh, Thuật
Phong thủy. Nhân Thái tử ở Đông cung hay thấy ma quỉ, ông đã lập đàn thần trấn
yểm. Lại chọn mộ cho Văn Đế hoàng hậu. Trước tác về phong thủy có Trạch kinh, ý
quyển, Táng kinh 6 quyển ; nay đều thất truyền. Song trong trước tác của các
nhà phong thuỷ đời sau thường dẫn lời của Tiêu Cát.
Thư Xước: Người Đông Dương (nay thuộc tỉnh Chiết Giang), đời nhà
Tùy. Giỏi thuật số địa lý. Tể tướng Dương Cung Nhân muốn dời mộ tổ, bèn mời năm
sáu ông thày nổi tiếng trong nước tới, lấy đất ở 4 góc ngôi mộ, mỗi góc 1 đấu, vẽ
địa hình ngôi mộ rồi bỏ vào phong bì dán kín lại, đoạn đưa đất ra cho các thày
phán. Duy chỉ có Thư Xước nói rằng đất ấy có phúc và miêu tả hình thế giống hệt
như thực địa. Thiên hạ nhân đó tôn ông là thánh phong thủy. Đây là một ví dụ
điển hình về phép nhìn đạt biết phong thủy thời cổ .
Lã Tài:
(665), ngươi đời Đường, ở Thanh Bình, Bác Châu (nay là huyện Liêu, tỉnh Sơn
Đông). Giỏi âm dương, thiên văn, phương thuật, địa lý, âm luật học. Thời Trinh
Quán vào cung Huyền Văn, làm Lụy thiên thái thường bác sĩ, Thái thường thừa. Từng
được triều vào triều san định sách âm dương để ban hành cho thiên hạ. Còn làm
“Phương vực đồ”. Các trước tác phần lớn nay đã thất truyền. Hiện còn Tự trạch
kinh, Tự táng thư, Tự trạch kinh chuyện bàn về cách phối ngũ tính với ngũ hành
để xác định cát hung của nhà ở và huyệt mộ. Táng táng thư thì nói đại ý rằng
Táng thư có đến 120 nhà, với đủ thứ thuyết cát hung, cấm kỵ. Song thời thượng
cổ chôn cất có ai chọn lựa gì năm tháng ngày giờ chẳng ai tin chuyện lành dữ, cũng
không phân biệt họ tên, tước vị, quan chức. Như vậy táng thư chỉ làm bại hoại
phong tục, làm những chuyện vô bổ. Lã Tây là người đầu tiên thời cổ đi sâu vào
Thuật Phong thủy mà phê phán các yếu tố mê tín.
Lý Thuần Phong: (năm 602 – 670), người đời Đường ở đất Ung, Kỳ châu (nay là phía
nam huyện Phụng Tường tỉnh Thiểm tây). Đầu thời Trinh Quăn, từ chức Tướng sĩ
lang vào thẳng Thái sử cục, chế ra máy Hỗn thiên nghi, dần dần được thăng đến
chức Thái sử lệnh. Trước tác phong thuỷ có Trạch kinh, Aâm dương chính yếu, nay
không rõ bao nhiêu quyển, ngờ rằng do người đời sau mượn tên soạn nên.
Khâu Diên Hàn: Tự Dực Chỉ, người đời Đường, ở đất Văn Hỷ (nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh
Sơn Tây). Thuở nhỏ nổi tiếng về văn thơ. Truyền thuyết kể rằng Khâu từng du
ngoạn Thái Sơn, gặp thần trong hang đá. nhận “Hải giác kinh”, nhờ đó thông
hiếu âm dương, phong thủy.
Khoảng năm Khai Nguyên (7 1 8 – 714) có chọn mộ cho viên tri huyện,
có khí thiên tử bốc lên trên mộ. Triều đình kỵ điều đó, sai phá bỏ mộ, đồng
thời hạ chiếu bắt giữ Khâu Diên Hàn, nhưng ông trốn được. Sau triều đình tha
tội, Khâu đem dâng Thiên cơ thư. Đường Huyền Tông phong làm Á đại phu và cất
sách kia vào hộp ngọc. Cuối đời Đường thì sách ấy bị Dương Quân Tùng, Tăng Cầu
Kỷ lấy trộm. Trước tác có Ngọc hàm kinh, 1 quyển, Hoàng nang đại quái quyết 1
quyển, Nội truyện thiên hoàng biết cực trấn thế thần thư 3 quyển. Theo Địa lý
chính tông, Khâu Diên Hàn là đệ tử của Phạm Việt Phụng, mà Phạm Việt Phụng là
cao túc của Dương Quân Tùng. Dương là người thời Hi Tông, Khâu là người thời
Cao Tông, như vậy là lẫn lộn về thời gian, chứng tỏ truyền thuyết về sự việc và
trước tác không đáng tin, là do người đời sau tạo ra.
Dương Quân Tùng: Vốn tên là ích, tự Thúc Mậu, hiệu Cứu Bần, người Đậu châu (nay là
phía nam huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông) đời Đường. Thời Hi Tông, ông làm Quốc
sư, làm quan đến chức Kim tứ quang lộc đại phu, phụ trách công việc địa lý của
Linh Đài. Năm Quảng Minh (năm 880), khi nghĩa quân Hoàng Sào tiến đánh kinh đô,
Dương Quân Tùng thửa cơ rối ren đã lấy trộm sách Thiên cơ thư cất trong hộp
ngọc của hoàng thất rồi trốn đến núi Côn Luân, sau đến Kiền châu hành nghề địa
lý phong thủy, sáng lập nên phai Giang Tây, được đời sau tôn là tổ sư chính
tông của Thuật Phong thủy. Học thuyết của ông lấy hình pháp làm chính, chú
trọng hình thế sông núi, phối hợp Long – Huyệt – Sa – Thủy, chú trọng bám sát
thực địa, mà ít dung phép suy lý. Về sau do học thuyết này lấy hình pháp làm
chỗ dựa, bởi vậy chủ yếu được áp dụng cho Phong thủy âm trạch, mà ít cho phong
thủy dương trạch. Trước tác có Hám Long Kinh 1 quyển, Nghi long kinh 1 quyển, Táng
pháp chế trượng còn gọi là Thập nhị trượng pháp 1 quyển, Thanh nang áo ngữ 1
quyển, Thên ngọc kinh 1 quyển, Hắc nanh kinh, Tam thập lục long. Nhưng việc và
sách của ông không thấy chép trong sử truyện; duy Trực trai thư lục giải đề của
Trần Chấn Tôn và Tống sử. Nghệ văn chí có chép 12 trước tác đề là của Dương Cứu
Bần soạn. Các chuyện về ông phần lớn la do các nhà phong thủy lưu truyền.
Tăng Văn Siêm: Có khi viết la Tăng Văn Thuyên hoặc viết lầm thành Tăng văn Địch.
Người Ninh Đô (nay là tỉnh Giang tây) đời Đường. Cha là Tăng cầu Kỷ đã cùng
Dương Quân Tung lấy trộm Thiên cơ thư trong hộp ngọc của hoàng thất mà chạy đến
Giang Nam.
Ông là đệ tử giỏi nhất của Dương Quân Tùng, nổi tiếng không kém gì thầy; sau
đem thuật học được truyền cho Trần Đoàn. Những điều đó lẫn lộn về thời gian, không
đáng tin. Trước tác có Thanh nang tự 1 quyển.
Hà Phổ:
Tự là Lệnh Thông, người thời Ngũ Đại, Nam Dường; quê quán, lai lịch không rõ. Có
Linh thành tinh nghĩa, 2 quyển, thực ra la của người đời Minh mượn tên soạn nên.
Xem mục Linh thành tinh nghĩa.
Ngô Cảnh Loan: (1068). Tự Trọng Tường, người Đức Hưng (nay là tỉnh
Giang Tây) đời Tống. Tương truyền cha ông là Ngô Khắc Thành từng theo học Trần
Đoàn, được thầy truyền hết nghề. Loan từ bé thông minh đĩnh ngộ, được cha
truyền lại cái học của Trần Đoàn. Năm Khánh Lịch thứ nhất (năm 1041), triều
đình hạ chiếu tuyển dụng các nhà âm dương. Ngô Cảnh Loan được tiến cử vào kinh
đô, ứng đối trôi chảy được giữ chức Tư thiên giám chính. Sau do trái ý Tống
Nhân Tông, bị hạ ngục. Nhân Tông chết,
ông được phóng thích, bèn gọt tóc giả điên, đi ẩn cư. Mất năm Trị
Bình thứ nhất (l068). Cái học của ông được truyền cho con gái, sau truyền cho
Liêu Vũ. Trước tác có Lý khí tâm ấn, Ngô Công giải nghĩa. Tiếp tục viết xong 2
cuốn sách cha mình viết dở là Thiên ngọc kinh ngoại truyện, Tứ khố toàn cục đồ.
Liêu Vũ: Tự Nghiêu Thuần, lại có tự là Vạn Bang, người Vu Đô (nay là huyện
Vu Đô, tỉnh Giang Tây) đời Tống. Có thuyết nói lầm ông là người đời Đường. Thuở
nhỏ thông minh, 15 tuổi thông thuộc ngũ kinh, dân làng nhân đó đặt cho biệt
hiệu “Liêu Ngũ kinh”. Khoảng năm Kiến Viêm (1127 – 1 130) đi thi không đỗ.
Ông được truyền thụ cái học từ con gái của Ngô Cảnh Loan, tinh thông Thuật
Phong thuỷ. Sau ẩn cư ở núi Kim Tinh, do vậy có biệt hiệu “Kim Tinh sơn
nhân”. Trong giới phong thủy, nổi tiếng ngang với Dương Quân Tùng, Liêu
Văn Xiêm, Lại Văn Tuấn thành tên gọi gộp “Dương, Tăng, Liêu, Lại”. Trước
tác có Cửu tinh huyệt pháp, 4 quyển, Biết cực kim kinh (không rõ mấy quyển, nghi
là do người đời sau mạo danh).
Thái Nguyên Định: (năm l]35 – 1198) Tự Quý Thông, người Kiến Dương (nay là tỉnh
Phúc Kiến). Cha vốn là nhà Lý học, thuở nhó ông theo học cha mình, sau thành
học trò của Chu Hy, cùng Chu Hy biện luận ý nghĩa các kinh đến tận đêm khuya. Học
trò bốn phương đến học, nếu hỏi gì thì Chu Hy bao giờ cũng trao đổi trước với
Thái Nguyên Định. Khi Hàn Thái Trụ nêu việc “Cấm ngụy học”ông bị đày đi Đạo
châu. Đến Xuân Lăng, học trò theo học càng đông. Ông chết ở đó, sau khi chết
được truy tặng thụy hiệu Địch công lang, Văn Tiết. Trước tác rất nhiều, về
phong thủy có Phát vi luận 1 quyển, dùng học thuyết Nho gia giải thích lý luận
phong thủy. Xem thêm mục Phát vi luận.
Vương Cấp: Tự Triệu Khanh, còn có tự là Khổng Chương, người thời Nam Tống. Tổ
tiên vốn ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam), sau di cư đến
Cán châu (nay là tỉnh Giang Tây). Vương Cấp chịu khó học hành, nhưng đi thi hai
lần không đỗ, bèn bỏ nhà đi ngao du sơn thủy. Sau ông yêu thích phong cảnh núi
Long Tuyền mà định cư tại Tùng Nguyên (nay là huyện Tùng Khê, tỉnh Phúc Kiến). Ông
đọc các sách phong thủy của Quản Lộ, Quách Phác, nắm vững và vận dụng vào việc
chọn huyệt mộ cho người ta, sao cho con cháu họ quí hiển, thường thường linh
nghiệm. Lập luận của ông coi trọng lý pháp và các nguyên lý thuật số để định
cát hung của phương vị tọa hướng, mà coi nhẹ hình thế sông núi, nên ông trở
thành nhân vật tiêu biểu cho trường phái Phúc Kiến (thiên về Lý pháp). Trước
tác có Tam kinh và các ghi chép vấn đáp, được môn nhân là Diệp Thúc Lượng biên
soạn thành sách.
Lại Văn Tuấn: Tự Thái Tố, hiệu Bố Y Tử, nên còn có tên Lãn Bố Y, người Xử châu
(nay là huyện Lệ Thủy tỉnh Chiết Giang) đời Tống. Có thuyết nói ông người Ninh
Đô (nay là tỉnh Giang Tây) đời Đường là nhầm. Theo truyền ngôn của các nhà
phong thủy, Lại Văn Tuấn là con rể Tăng Văn Siêm, đệ tử đời thứ ba của Dương
Quân Tùng. Làm quan đến chức Kiến Dương lệnh, sau mê thuật phong thủy nên từ
quan mà hành nghề địa lý. Hiện nay một dải đất Quảng Đông có rất nhiều truyền
thuyết về ông. Trước tác có Thiệu Hưng đại địa bát kiềm, đã thất truyền. Chỉ
còn Thôi quan thiên, 2 quyển.
Lưu Binh Trung: (năm 1216 – 1274). Thoạt đầu tên là Khản, tự Trọng Hối. Tổ tiên
vốn là người Thụy châu (nay ]à thành phố Hình Đài tỉnh Hà Bắc). Năm 17 tuổi làm
Tiết độ sứ phủ lệnh sử Hình Đài, sau bỏ quan vào rừng đi tu, đổi tên thành Tư
Thông. Hốt Tất Liệt (Nguyên Thế tổ) triệu vào dinh cùng bàn việc cơ mật, nên
người ta gọi ông là “Thông thư ký”. Sau khi Hốt Tất Liệt lên ngôi, liền
phong cho ông chức Quang lộc đại phu, Thái bảo, Tham dự trung thư tỉnh sự và
ban cho cái tên Bỉnh Trung. Ông tham gia bàn tính nhiều kế sách lớn trong thiên
hạ. Ông tinh thông cái học âm dương địa lý, từng giám sát việc xây dựng Thượng
Đô (hiện ở Nội Mông) và Đại Đô (nay là thành Bắc Kinh), dùng Thuật Phong thuỷ
để xác định qui mô hai Đô ấy. Cuối đời lại có hiệu Tàng Xuân Tản Nhân, khi chết
được truy phong tước Thường son vương, thụy Văn Chinh. Trước tác có Ngọc Xích kinh
4 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh soạn nên.
Lưu Cơ: (năm 1311 – 1875) Tự Bá ôn, người Thanh Điền (nay là tỉnh
Chiết Giang) đời Minh. Đỗ tiến sĩ cuối đời Nguyên, bỏ quan đi ẩn cư. Sau phò tá
Chu Nguyên Chương dựng nước, giữ chức Khanh sử trung thừa, Thái sử lệnh, tước
Thanh Yù bá. Khi mất được phong thụy Văn Thành. Lưu Cơ tinh thông âm dương, thiên
văn, thuật số; người đời sau tạo các đồ thư thường mượn tên ông. Hiện còn Phệ
can lộ đởm kinh. Kham dư mạn hung cùng nhiều bản chú.
Cung trạch địa hình: Tên sách. Không rõ tác giả. 20 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ
văn chí xếp vào phái Hình pháp. Sửù ký khảo chứng nói sách này bàn về phương vị
phong thủy”. Hán chí viết: “Thuộc loại Hình pháp, bàn về hình thế 9 châu
đề xây dựng nhà cửa thành quách”. Đủ biết sách này là trước tác phong thủy
sớm nhất chuyên bàn về phong thủy dương trạch.
Kham du kim quí: Tên sách. Không rõ tác giả, 14 quyển, đã thất truyền. Hán thư. Nghệ
văn chí xếp vào loại ngũ hành. Sử ký khảo chứng nói sách này bàn về “phương vị
phong thủy”. Theo Sử ký. Nhập giả liệt truyện, các nhà Kham dư (địa lý)
từng tham khảo phần bàn về ngày lành cho việc cưới vợ, thuộc về “Chiêm gia”(thày
bói), đủ biết đây không chỉ là sách phong thủy. Lai theo Luận hoành, Chu Lễ chú,
Hoài Nam Tử, Thuyết văn giải tự, thì hai chữ Kham dư là tên vị thần, có thuyết
nói la tên gọi chung trời đất, không phù hợp hoàn toàn với những gì phong thủy
đề cập. Cho nên nghĩ rằng sách nay là sách bói toán, trong đó có phần bàn về
phong thủy.
Thanh Ô tiên sinh táng kinh: Tên sách. Trước đề là do Thanh Ô tiên sinh (Thanh Ô Tử)
đời Thanh soạn Kim thừa tướng Ngột Khâm Trắc chú, 1 quyển. Trong lời tựa viết: “Táng
thư của họ Quách thường dẫn “Kinh viết”chính là sách này vậy”. Khảo cứu
văn của Kinh viết trong Táng thư với Thanh ô tiên sinh táng thư, thì thấy có
nhiều điểm giống nhau, song cũng có chỗ khác nhau. Tứ khố toàn thư tổng mục
viết: “Văn sách này thiển cận, kinh với chú như của cùng một người viết ra, hẳn
là người đời sau mạo danh kinh vậy”. Khảo cứu các sách như Văn tuyển, Sơ học ký,
Thái bình ngự lãm có Sách Tướng chủng thư (sách xem mộ) của Thanh Ô Tử thì nghi
là sách này. Sách Táng thư ~ của Quách Phác đời Đường thì mãi về sau này (mấy
trăm năm sau) mới xuất hiện, trong khi Tướng chủng thư thì đã sớm thất truyền cho
nên nghi là người đời sau mạo danh viết ra. Nội dung Táng kinh khá tỉ mỉ, chuyên
bàn về cát hung của hình thế sơn thủy, lại đưa ra những qui tắc thế nào là đất
công hầu, đất tể tướng, đất phú quí, đất văn sĩ mà không có lý luận kèm theo.
Đồ trạch thuật: Tên sách. Tác giả là người thời Đông Hán, khuyết danh. Sách này
nay đã thất truyền, chỉ còn hai đoạn văn nói sơ qua về lành dữ trong cách phối
hợp ngũ tính ngũ hành nhà ở, thuộc loại văn tự sớm nhất về phong thủy còn giữ
được đến ngày nay.
Quán thị địa lý chỉ mông: Tên sách. Trước đề là của Quản Lộ đời Tam
Quốc nước Ngụy Soạn. Tổng cộng 100 thiên. Thực ra là sách của ngưđời đời Minh
viết ra. Chuyên ban về hình pháp âm trạch là chính, văn từ thanh nhã, chú giải
rõ ràng. Thuyết hình pháp đến đây đã hầu như hình thành quá nửa. Duy sách trình
bày thành 100 thiên là gò ép miễn cưỡng, rắc rối khó đọc.
Táng thư: Tên sách. Còn gọi là Quách Phác táng thư, 1 quyển. Trước đề là do
Quách Phác đời Tấn soạn; nhưng sách này xuất hiện lần đầu trong Tống sử. Nghệ
văn chí khảo sát nội dung, thì sách này hẳn do người đời Đường viết, mạo danh
Quách Phác. Sau khi sách ra đời các nhà phong thủy thêm thắt vào, thành ra hơn
20 thiên. Thái Nguyên Định đời Tống mới san định lại còn 8 thiên; Ngô Trứng san
đinh lại còn 2 thiên nội, ngoại tức bản hiện hành. Sách này nêu các thuyết, như
thuyết Sinh khí, thuyết Tam cát lục hung, thuyết Hình thế, thuyết Ngũ bất táng
phát triển hoàn thiện thuyết Tứ linh; đồng thời đề xuất định nghĩa Phong thủy, tôn
định hệ thống lý luận của Thuật Phong thủy, là tiêu chí hoàn toàn chín muồi của
phong thủy âm trạch, trở thành một trước tác lý luận rất quan trọng của học
thuyết phong thủy. Đời sau tôn sùng gọi là “Táng kinh”. Trong Táng thư có
nhiều chỗ viết hai chữ “Kinh nói”, đủ hiểu trước sách này từng có một bộ Táng
kinh, sách nay chi la tiếp tục phát triển học thuyết kia mà thôi.
Thanh nang Hải giác kinh: Tên sách. Tên đầy đủ là Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải
giác kinh, trước đề do Quách Phác đời Tấn tu chỉnh, đòng thời có lời tựa của
Trương Sĩ Nguyên đời Tống và Ngô Thiên Tước đời Minh, 4 quyển. Sách này nửa đầu
nói về Lý khi, nửa sau về Hình pháp, chuyên luận âm trạch, nội dung cực kỳ rắc
rối. Tam ban đại quái, Long huyệt sa thủy, nào ngũ tinh cửu tinh, chính thể
biến thể, đều tập hợp ở sách này. Có thiên chuyên bàn về huyệt pháp, lại được
nhắc lại phía sau, văn từ lúc nhã lúc thô, dưới chính văn có chú văn, không rõ
của ai. Ngờ rằng sách này là do người từ đời Minh trở đi mạo danh Quách Phác mà
soạn nên.
Trạch kinh: Tên sách. Thời Tùy Đường có rất nhiều sách Trạch kinh lưu truyền,
không dưới vài ba chục loại; theo người đời sau chép lại, thì có Hoàng đế nhị
trạch kinh, Địa điển trạch kinh, Tam nguyên trạch kinh, Văn vương trạch kinh, Khổng
tử trạch kinh, Thiên lão trạch kinh, Lưu căn trạch kinh, Huyền nữ trạch kinh, Tư
Mã Thiên sư trạch kinh, Hòai nam Tử trạch kinh, Vương Vĩ trạch kinh, Tư tối
trạch kinh, Lưu Tấn Bình trạch kinh, Lục thập tứ quái trạch kinh. Hữu bàn long
trạch kinh, Tả bàn long trạch kinh, Lý Thuần Phong trạch kinh, Ngũ kinh trạch
kinh, Lã Tài trạch kinh, Phi âm loạn phục trạch kinh, Tử Hạ trạch kinh, Điêu
Đàm trạch kinh, Huyền Ngộ trạch kinh, Ngũ Phi trạch kinh, Bát Quái trạch kinh, Tiêu
Cát trạch kinh . v. v… trong đó có một số là cùng một sách mà đề tên khác nhau,
nay đã không thể khảo cứu, vì hiện chỉ còn Hoàng đế nhị trạch kinh, các sách
khác đã thất truyền. Sự xuất hiện nhiều trạch kinh như vậy chứng tỏ trước tác
phong thủy rất thịnh hành vào đời Tùy đường.
Hoàng đế trạch kinh: Tên sách. Còn gọi là Hoàng đế Nhị trạch kinh. Không
rõ người soạn. 2 quyển. Nhị trạch tức là dương trạch và âm trạch. Sách chia ra
24 phương vị, khu biệt âm dương, qui định cát hung, xác định hưu cữu. Điều cơ
bản là âm dương tương đắc, phương vị không loạn. Không khảo sát hình dạng cụ
thể và địa hình xung quanh nhà ở, cho nên có học giả coi đây là trước tác đại
biểu cho trường phái Lý pháp trong phong thủy. Sách bàn nhiều về việc chọn ngày
có ảnh hưởng lớn tới việc chọn lựa ngày giờ của Thuật Phong thủy đời sau. Tứ
khố toàn thư cho rằng sách này “rất có nghĩa lý”lại viết rằng trong Tổng sử có
chép Tướng trạch kinh 1 quyển, chính quyển sách này. Nhưng khảo sát văn hiến
Đôn Hoàng, thấy đã có văn bản Hoàng đế trạch kinh đủ giết sạch đã được lưu hành
rộng rãi từ đời Đường, và hoàn toàn không phải là bản Tướng trạch kinh chép
trong Tống sứ. Nghệ văn chí.
Thập nhị trượng pháp: Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Sách
này chuyên bàn về phép điểm huyệt căn cứ hình thể bối hướng của Lai long, sự
thuận nghịch mạnh yếu của khí mạch mà chia ra 12 loại huyệt pháp là: thuận
trượng, nghịch trượng, túc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng, cao
trượng, một trượng, đối trượng, tài trượng, phạm trượng, đốn trượng. Tiếp đó
lại phân ra 17 loại trượng kiêm như: thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm
túc, thuận trượng kiêm xuyết, thuận trượng kiêm xuyên, thuận trượng kiêm cao, thuận
trượng kiêm đốn, thuận trượng kiêm một, thuận trượng kiêm đối, thuận trượng
kiêm tài, thuận trượng kiêm phạm, nghịch trượng kiêm túc, nghịch trượng kiêm
xuyết, nghịch trượng kiêm khai, nghịch trượng kiêm xuyên, nghịch trượng kiêm
cao. . Mỗi loại đều có đồ hình, mỗi đồ hình có thuyết minh, căn cứ trượng pháp
định huyệt có thể tránh hung đón cát. Nguyên tắc chung là phân liệt từng li
từng tấc để thụ khí. Dương Quân Tùng lại có Táng pháp đảo trượng, thực ra là
Thập nhị trượng pháp, mà cuối sách kèm theo 1 thiên “24 sa táng pháp”‘
Thập nhị trượng pháp là trước tác quan trọng của trường phái Hình pháp của
Thuật phong thùy, có ảnh hưởng rất lớn.
Nghi long kinh: Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc
Mộc đời Minh chú. Sách này gồm 3 thiên thượng, trung, hạ. Thiên thượng bàn về
Can long tìm chi, lấy “thủy khẩu quan cục”làm chính; thiên trung bàn về phép
tìm phần tận cùng của long, phép nhìn triều ứng trước sau, thiên hạ bàn về hình
thế kết huyệt. Cuối sách kèm theo “Nghi long thập vấn”đề giải thích những chỗ
khó. Là trước tác lý luận quan trọng, được lưu hành rộng rãi, của trường phái
Hình pháp trong Thuật Phong thủy. Sách Trưc trai thư lục giải đề của Trần Chấn
Tôn đời Tống co chép sách này, nhưng không nói ai là tác giả, nên Tứ khố tòan
thư tống mục viết: “Bản này không biết của ai”.
Hám long kinh: Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lý Quốc
Mộc đời Minh chú. Sách này chuyên luận về hình thế của sơn long mạch lạc, chia
ra 9 sao: Cự môn, Tham lang, Lộc tồn, Văn khúc, Vũ khúc, Liêm trinh, Phá quân, Hữu
Bật để nhận biết hình dạng sơn và phân biệt cát hung. Là trước tác tiêu biểu
của trường phái Hình pháp trong Thuật Phong thủy.
Thanh nang áo ngữ: Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1 quyển. Lưu Cơ
đời Minh chú. Sách này chuyên bàn về hình thế sông núi phân ra âm dương thuận
nghịch, cửu tinh thất diệu để phân biệt cát hung quí tiện. Khảo sát sách Quận
trai độc thư chí của Triệu Hy Biền đời Tống có chép Thanh nang bản chỉ, 1 quyển,
không đề người soạn sách Trực trai thư lục giải đề có chép Diệu kim ca, Tam
thập đồ tượng của Dương Quân Tùng, 1 quyển; sách Thông chí. Nghệ văn lọc của
Trịnh Tiêu lại có chép Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Xiêm, 1
quyển không biết có phải là sách này chăng. Bản này được lưu hành đồng thời với
Thanh nang tự của Tăng Văn Siêm.
Kim cương toàn bản hình pháp táng đồ quyết: Tên sách. Tên đấy đủ là Dương
Tái Thương tiên nhân Dương công Kim cương tòan bản hình pháp táng đồ quyết, 1
quyển. Đầu sách có lời tựa, nói là của Dương Quân Tùng, rằng “Long hung mà
huyệt cát, vô tình mà có tình vậy, tuy có phúc nhưng không lâu bền; còn long
cát mà huyệt hung, có tình mà là vô tình vậy, tuy hung nhưng lại có phúc”,
cho nên sách bàn về cách dùng sức người cải tạo địa hình Long cát mà huyệt hung,
để tránh hung đón cát. Sách có 24 bản hình, 24 pháp táng, kèm theo thuyết minh.
Phàm Lai Long mà có tình, thì dù thuỷ thế nào, mạch ra sao, Minh đường rộng hay
hẹp, đều có thể dùng nhân công cải tạo làm cho huyệt trở nên cát (lành).
Thanh nang tự: Tên sách. Trước đề là do Tăng Văn Siêm soạn, 1 quyển. Lưu Cơ đời
Minh chú. Sách này lưu hành đồng thời với Thanh nang áo ngữ của Dương Quân Tùng.
Sách lấy ngũ hành phối hợp với 8 Can, khởi tính Tràng sinh theo từng hành. Tiếp
đó lấy hợi mão mùi làm mộc cục, dần ngọ tuất làm hỏa cục, tỵ dậu sửu làm kim
cục, thân tý thìn làm thủy cục, cứ thế diễn dinh, cộng thành 48 cục, dương
nghịch âm thuận, dùng để phán đoán cát hung của phương vị thủy lưu toạ hướng. Thực
ra là “Song sơn ngũ hành”đón sau. Tứ khố toàn thư tổng mục cho rằng các sách
đời sau như Ngô Công giáo tử thư, Ngọc xích kinh, Trục chí nguyên chân đều là
sự tiếp tục phát triển thuyết này mà thành, cho nên Thanh nang tự là trước tác
quan trọng của trường phái Lý pháp trong Thuật Phong thủy là khởi đầu của sáng
lập pháp. Song Tứ khố toàn thư tổng ngục lại nói Tăng Văn Siêm là đệ tử của
Dương Quân Tùng, nhân vật trung kiên tiêu biểu cho trường phái Hình pháp, chứ
không phải cho trường phái Lý pháp. Khảo cứu sách Thông chí. Nghệ văn lược của
Trịnh Tiêu thấy có chép Thanh nang tử ca, 1 quyển, của Tăng Văn Xiêm và Thanh
nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Siêm, 1 quyển: không có Thanh nang tự
nên sách này có lẽ do người đời sau soạn ra, mạo danh Tăng Văn Siêm cho thêm vẻ
kỳ bí.
Linh thành tinh nghĩa: Tên sách. Trước đề do Hà Phố đời Nam đường soạn
Lưu Cơ đời Minh chú. 2 quyển. Quyển thượng nói về hình thế sơn thủy, biện Long
định huyệt chủ theo thuyết Hình pháp. Quyển hạ bàn về thiên tinh quái lệ, cát
hung sinh khắc, để định huyệt lập hướng, lại theo thuyết Lý pháp pha tạp hai
phái Hình và Lý. Thuyết “nguyên vận”dùng trong sách nay vốn xuất hiện từ đầu
đời Minh nên chắc bằng sách nay hẳn phải do người đời Minh soạn mới đúng.
Cửu tinh huyệt pháp: Tên sách. Trước đề do Liệu Vũ đời Tống soạn, 4 quyển. Sách này
chuyên nói lấy Cửu tinh phân biệt hình dạng huyệt. Cửu tinh là Thái dương, Thái
âm, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, Ao não, Thiên Canh, Bình não, Song não; mỗi
sao lại phân 9 thể: Chính thể (ngay ngắn), Khai khẩu (há miệng), Huyền nhũ
(treo vú), Cung cước (cong chân), Song tí (hai cánh tay), Đơn cổ (một đùi), Trắc
não (đầu), Một cốt (khung xương), Bình diện (bằng phẳng). Mỗi thứ đều có đồ
hình và thuyết minh. Là trước tác quan trọng cua thuyết Hình pháp liên quan đến
việc định huyệt. Sách còn nói nếu hình sơn không đẹp có thể dùng sức người san
lấp tăng giảm.
Phát vi luận: Tên sách. Thái Nguyên Định đời Tống soạn. Nội dung chủ yếu nói về
Địa đạo một âm một dương, một cương một nhu, phàm sự động tĩnh, tụ tán, hợp
phân, hướng bối, thư hùng (đực cái), thuận nghịch, mạnh yếu, sinh tử, vi trước
(nhỏ, rõ), phù trầm (chìm nổi), sâu nông . . . của sơn thủy đều có thể từ đó mà
phân biệt rõ ràng, nghĩa là theo trường phái Hình pháp. Cuối sách có kèm một
thiên nhan đề “Nguyên cảm ứng”muốn dùng học thuyết Nho gia mà nghiên cứu và đề
cao địa vị phong thủy. Thái Nguyên Định là học trò Chu Hy, quan điểm của ông
phản ánh thái độ Lý học tán dương Thuật Phong thủy. Có thuyết nói sách này do
Thái Thu Đường soạn. Thái Thu Đường tức Thái Phát, hiệu Thu đường lão nhân, là
cha của Thái Nguyên Định, cũng tinh thông địa lý.
Thôi quan thiên: Tên sách. Lại văn Tuấn đời Tống soạn. 2 quyển. Gồm
4 thiên Long, Huyệt, Sa, Thủy, mỗi thiên có ca quyết và chú giải. Long thì lấy
24 sơn chia âm dương, lại phân ra tam cát lục tú, mà thay đổi thụ huyệt. Huyệt
thì lấy Long làm chủ, nhưng tùy theo khí mạch mà phân tả hữu. Sa, Thủy thì lấy
phương vị phán đoán cát hung theo cái lý sinh khắc chế hóa của âm dương ngũ
hành. Tuy nhiên có nhiều điều vô căn cứ ví dụ cho rằng Đoài Long Thìn thủy chủ
đời con có sẽ bị bệnh sâu răng, hư răng, bởi lẽ Thìn có kim sát, Đoài là miệng
lưỡi, răng lợi bị kim sát thì răng gãy, răng hư.
Ngọc xích kinh: Tên sách. Trước đề Lưu Bỉnh Trung đời Nguyên soạn, Lưu Cơ đời
Minh chú. 4 quyển. Thực ra người soạn và người chú đều là cuối đời nhà Minh. Sách
nói về các mạch núi lớn trong thiên hạ, Côn Luân là tổ của vạn ngọn núi. Ngũ
nhạc cùng Trương Giang, Hoàng Hà phối với 24 sơn. Nói rằng toạ hướng Long, Huyệt
cát hung lấy thủy làm chính, không hề tính đến hình thế của sơn, cường điệu cát
hung của thủy khẩu, coi Giang Nam là địa hình chính tông. Tưởng Bình Giai nói
rằng sách này “sao chép cách phân chia Long thành thuận nghịch và Sa thành
quí tiện của hai nhà Dương, Lại; lập luận theo kiểu ức thuyết, nông cạn”(Địa lý
biện chính).
Kham dư mạn hưng: Tên sách. Trước đề do Lưu Cơ đời Minh soạn. 1 quyển. Sách toàn
dùng ca quyết thất ngôn tứ cú, tổng cộng 150 đề, luận Long, Huyệt, Sa, Thủy lấy
Hình pháp làm chính. Lời văn ý tứ sáng sủa, tuy trước sau hay lặp lại, rất ít
ví dụ.
Địa lý đại toàn: Tên sách. Lý Quốc Mộc đời Minh soạn. 2 tập, 55 quyển. Tập hợp rất
nhiều trước tác phong thủy của Quách Phác, Khâu Diên Hàn, Dương Quân Tùng, Liêu
Vũ, Thái Nguyên Định, Lưu cơ, Tăng Văn Siêm, Lưu Bỉnh Trung, Lại Văn Tuấn, Ngô
Khắc Thành, có đến hơn 10 loại Kèm theo phụ đồ, phụ thuyết của Lý Quốc Mộc, chiêm
đến một nửa bộ sách Tập chuyên luận về Hình pháp, tập 2 luận về Lý pháp. Tuy
việc tuyển chọn không tinh, nhưng phải nói là dày công.
Táng kinh dực: Tên sách. Mậu Hy Ung đời Minh soạn. 1 quyển. Nửa sách này nói về
Táng thư của Quách Phác, phần giữa giải thích “Thập nhị trượng pháp”của Dương
Quân Tùng; phần cuối tạp giải Tam hợp, Bát tự, kèm theo “Nan giải 24
thiên”. Lấy Hình pháp làm chính. Lời văn rõ ràng, tinh tế.
Thuỷ long kinh: Tên sách. Không rõ soạn giả, 5 quyển. Đầu sách có lời Tựa của
Tưởng Bình Giai là người ở buổi giao thời Minh – Thanh, viết năm “Hạ
nguyên Quý Mão”(tức năm 1663), người Tùng Giang, Giang Tô, một người tinh thông
Thuật Phong thủy. Quyển 1 nói về đại thể Hành long kết huyệt, chi long can long
tương thửa; quyển 2 nói về chính thể và biến thể ngũ tinh, thẩm biện cát hung;
quyển 3 nói về cách cục của thủy – long; quyển 4 nói về tượng thủy – long thác
vật tỉ loại; quyển 5 nhan đề “Thân ngôn”. Trước sau tuy có mâu thuẫn,
nhưng thể lệ về cơ bản như của một tác giả, nên ngờ rằng sách này là do Tưởng
Bình Giai tham khảo các trước thuật liên quan mà soạn ra, chứ không chỉ viết
lời Tựa. Nội dung sách là vấn đề làm nhà xây mộ ở vùng đồng bằng sông nước, nhiều
hình vẽ mà ít lời văn, căn cứ hình dạng để định cát hung. Lại kèm theo thuyết
Sơn long, lấy Can thủy làm Hành long, Chi thủy làm Chi long, Can Chi tương phối,
nội ngoại hợp khí. Lại tạo Ngũ tinh thủy hình, Tinh tú thủy hình, nhưng dựa vào
hình để nhận biết cách, không nói đến Lý pháp; ca quyết thì thô kệch vụng về.
Dương trạch thập thư: Tên sách. Không rõ soạn giả. 10 quyển. Cuối sách có lời
Bạt, với câu “Vương Tử đã soạn xong Dương trạch thập thư”chứng tỏ soạn giả họ
Vương. Nội dung rất phức tạp, bao gồm những gì liên quan đến lý luận, phương
pháp của Phong thủy dương trạch. Sách có 10 thiên là: Luận trạch ngoại hình, Luận
phúc nguyên, Luận đại du niên, Luận xuyên cung cửu tinh, luận huyền không trang
quái quyết, Luận khai môn tu tạo môn, Luận phóng thủy, Luận trạch nội hình, Luận
tuyển trạch, Luận phù trấn. Do vậy có tên Dương trạch thập thư.
Sơn pháp toàn thư: Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại các sách
địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng
Sơn pháp toàn thư: Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển. Chép lại
các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng và Ngô Cảnh Loan, kèm
với lời bình chú của soạn giả.
Nguồn: Nguyên Vũ – http: //vanhoaphuongdong. com
Còn một số những Ðịnh nghĩa khác , nhưng dienbatn xin cùng các bạn
đi tiếp vì sợ rằng bài viết trở thành cuốn từ điển thì chán lắm.
Trong các Trường phái Phong thủy hiện đang lưu hành truyền bá thì hiện
nay nổi lên những Trường phái sau:
1/Phái BÁT TRẠCH MINH CẢNH do Thái Kim Oanh chủ xướng.
2/Phái DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU do Triệu Cửu Phong và sau này có
thêm cuốn Dương cơ chứng giải của tác giả Lộc Dã Phu.
3/Phái CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC . Theo các sách cổ ghi chép
lại thì Huyền Không Học ban ðầu do Quách Phác đời nhà Tấn phát minh ra, sau
được các nhà Phong Thuỷ Học như Dương Quân Tùng đời Ðường, Tưởng Ðại Hồng đời
Minh, cuối cùng là Thẩm Trúc Nhưng nhà Thanh hoàn thiện lại toàn bộ học thuyết.
4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY. Hiện nay tại Việt nam có tác giả
DƯ QUANG CHÂU và nhiều người nữa đang phát triển rất mạnh , đi kèm theo đó là
Lý thuyết về Năng lượng Sinh học.
5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. Trường phái này có từ rất xa
xưa, thường được truyền trong dân gian qua cách Gia truyền, bí mật. Ngày nay
nhiều chi phái Ðạo giáo đang thực hiện ðể giải phá những Long mạch bị trấn yểm,
Khai mở những Huyệt đạo , dùng năng lượng của nó cứu dân độ thế.
Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác , nhưng dienbatn chỉ xét
đến những Trường phái nổi bật nhất hiện nay. Các Trường phái như: BÁT TRẠCH
MINH CẢNH, DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU, CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC
, hiện nay có rất
nhiều tài liệu cho các bạn nghiên cứu và trên Diễn đàn cũng đã thảo luận rất
nhiều và tưõng đối đầy đủ. dienbatn chỉ xin điểm lại những nét chung nhất của
ba Trường phái này, và mong các bạn hiểu rằng , cả ba trường phái trên , thực
chất chỉ là một vấn đề , nhìn từ những góc độ khác nhau của môn Phong thủy. Trọng
tâm của bài viết này , muốn đưa các bạn đến với những gì hiện nay chưa phổ biến,
chưa có nhiều tư liệu, ngõ hầu giúp các bạn hiểu thêm về Phong thủy và có cách
sử lý chính xác những khiếm khuyết của ngôi nhà mình đang ở. Những tư liệu
trong các Trường phái CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY, dienbatn
trong qua trình đi Ta bà , được các Cao nhân chỉ giáo, xin chép lại để hầu các
bạn. Có những cái thấy mới tin , nhưng một người Thày của dienbatn dạy rằng: “PHÚC
CHO NHỮNG AI KHÔNG THẤY MÀ TIN “. Và các cụ có câu “LINH TẠI NGÃ -BẤT
LINH TẠI NGÃ “. Có những cái tưởng là vững chắc mà thật ra , sẽ đổ lúc nào
chẳng hay. dienbatn xin điểm lại những Trường phái thông thường tạm gọi là
những Trường phái HỮU VI: PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH;DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU
DƯƠNG CƠ CHỨNG GIẢI;CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC. Sau đó dienbatn đi tiếp
vào những Trường phái tạm gọi là VÔ VI: CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN THUẬT
PHONG THỦY
. Ðiều mong muốn của dienbatn là các bạn phải nhớ câu này trước
khi lên đường: “NHẤT BỔN TÁN VẠN THÙ -VẠN THÙ QUY NHẤT BỔN “. Ðó
chính là hai mặt của Âm -Dương đối lập cùng tồn tại trong mọi vật thể, trong Vũ
trụ.

PHẦN PHONG THỦY HỮU VI:

Trong phần này, dienbatn chỉ xin điểm lại những vấn đề chính mà bất
cứ người nào khi bước chân vào nghiên cứu Phong thủy cũng phải bước qua. Phần
này được tạm gọi là PHẦN PHONG THỦY HỮU VI vì nó có tính chất trực quan hơn, gần
gũi với người sử dụng hơn. Trong phần này, như đã trình bày ở các phần trước, dienbatn
coi các Trường phái Phong thủy đều có chung một nguồn gốc và đó chính là những
mảnh bị tán lạc của một nền Văn minh cổ đã bị diệt vong do bản tính xu cát tỵ
hung của loài người cách đây khoảng 7. 000- 14. 000. Vấn đề này dienbatn sẽ
trình bày kỹ khi có dịp. Có một bài thơ nói về vấn ðề này xin chia sẻ cùng các
bạn:
“Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình “.
Cố GS-TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG trong cuốn TÍCH HỢP ÐA VĂN HÓA ÐÔNG
TÂY CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC TƯƠNG LAI
cũng đã cảnh báo về cuộc chiến
này. Trong cuộc chiến tranh Tâm linh này, vũ khí nguyên tử chỉ là những trò
chơi trẻ con và sự tàn phá không chỉ tính là một vài Ðất nước mà là cả một nền
Văn minh của Nhân loại. Cái thuộc tính xu cát tỵ hung của con người, sẽ dần dần
đẩy Văn minh Nhân loại vào cuộc chiến tự hủy diệt và bắt đầu một nền Văn minh
mới được thành lập dưới THỜI ÐẠI DI LẶC THÁNH ÐỨC.
Con người có khả năng làm những điều tốt đẹp nhất cho đồng loại và
đồng thời cũng có thể làm những điều tồi tệ nhất mà không có một giới hạn nào
có thể cản ngăn. Ðó cũng chính là hai mặt Âm Dương đối lập nhưng cùng tồn tại
song song. Cứu cánh cho việc đó chính là công việc của các Tôn giáo đang thực
hiện là hướng con người vào CHÂN- THIỆN- MỸ. dienbatn xin được trình bày vấn đề
này khi có dịp thích hợp.
Trở lại vấn đề Phong thủy. Thực ra nói đến thuật Phong thủy thực ra
cũng chỉ là một bộ môn của nền Văn minh tối cổ đã bị hủy diệt do chính con người.
Cái gốc của Phong thủy cũng như tất cả các vấn đề khác của TRIẾT
HỌC ÐÔNG PHƯƠNG như KINH DỊCH, Y THUẬT, TỬ VI LÝ SỐ, BÁT TỰ HÀ LẠC, THÁI ẤT, ÐỘN
GIÁP, TỬ BÌNH
vv đều dựa trên cơ sở chặt chẽ của THUYẾT ÂM DƯƠNG- NGŨ
HÀNH
. Ðây chính là một siêu công thức Vũ trụ, có thể lý giải những vấn đề
từ vi mô đến Vĩ mô và đồng thời có khả năng dự báo. Ðây cũng chính là công thức
mơ ước của các nhà Khoa học hiện đại. Tuy nhiên, đây cũng chính là công thức
của Tâm linh, của những chiều không gian khác. Thuyết ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH có
thể lý giải tuyệt vời những vấn đề của Khoa học hiện đại, nhưng Khoa học hiện
đại không thể lý giải những vấn đề về Tâm linh. Khoa học của Không gian ba
chiều không thể lý giải được những vấn ðề của Không gian nhiều hơn ba
chiều;Nhưng Tri thức của không gian nhiều hơn ba chiều lại có thể lý giải được
những vấn đề của Không gian ba chiều. Nói theo Toán học thì Không gian ba chiều
nằm trong Tập của không gian đa chiều. Cái tối ưu là sự kết hợp giữa Tâm linh
và Khoa học sẽ làm cho con người tiến rất mau vào biển tri thức ðã có sẵn.
Bây giờ ta trở lại những vấn đề đơn giản hơn của những thuật Phong
thủy cụ thể.
Trong Phong thủy, cái quan trọng nhất vẫn là vấn đề trường Khí. Khí
ở đây không phải là Không khí hay một chất khí cụ thể nào cả. Ở nước ngoài
người ta dịch Khí là SHA, hay Qi, tuy nhiên cũng chưa gọi đúng bản chất của nó.
Thực ra , nói theo từ của Khoa học, KHÍ là một dạng của Năng lượng, có vô số
dạng thù hình khác nhau , tùy theo điều kiện cụ thể. Trong Phong thủy người ta
nói: “Tụ là hình- Tán là Khí”hay “Nhất bổn tán vạn thù- Vạn thù quy
nhất bổn”. Ðó chính là những khái niệm về bản chất của Khí. Theo Ðịnh luật
bảo toàn năng lượng đã khái quát: “NĂNG LƯỢNG KHÔNG TỰ NHIÊN SINH RA VÀ
CŨNG KHÔNG TỰ NHIÊN MẤT ÐI, NĂNG LƯỢNG CHỈ BIẾN ÐỔI TỪ DẠNG NÀY SANG DẠNG KHÁC
“.
Các dạng thù hình của Khí thật là muôn hình vạn trạng nhưng bản chất của nó vẫn
là dạng Năng lượng. Khí cũng không thoát khỏi quy luật của siêu công thức ÂM
DƯƠNG- NGŨ HÀNH. Tức là Khí cũng có những tính chất âm dương – Ngũ hành cụ thể
cho từng dạng thù hình. Những tính chất này tùy theo tương sinh hay tương khắc
mà tác động lên các vật thể khác mà đem lại sự tốt hay xấu, thuận hay không
thuận cho sự vận động của những vật thể khác. Nhiệm vụ của thuật Phong thủy là
tìm ra điều kiện tối ưu cho cuộc sống của con người phù hợp với môi trường sống
của mình. Tất cả các Trường phái Phong thủy đều phải tuân theo quy luật đó.
1/ KHẢO QUA TRƯỜNG PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH: Thực ra Bát Trạch Minh Cảnh cũng mới xuất hiện bằng văn bản
trong vài chục năm gần đây. Tác giả là Thái Kim Oanh. Không thấy nói rõ nguồn
gốc tự ở đâu mà ra. Tuy nhiên đây là một phương pháp khảo sát Phong Thủy tương
đối thuận tiện và dễ xử dụng. Trong các tác phẩm của Thái Kim Oanh có những
cuốn như: Bát Tự Lữ Tài, Bát Môn Thần Khóa, Bác Lãm Quần Thơ, Bát Trạch Minh
Cảnh . . .
Các bạn mới bắt đầu học Phong thủy có thể đi từ trường phái này. Trong
Bát Trạch Minh Cảnh, người ta xét đến mối quan hệ giữa tuổi chủ chủ nhà và
hướng nhà.
Để có thể tự lập cho mình các hướng tốt xấu theo cung phi Bát
trạch, các bạn dùng chương trình của Vietshare rất thuận tiện. Đây là đường
Link: http:
//tuvi. vietshare. com/dialy/battrach. asp
. Các bạn chỉ cần điền giới tính,
năm sinh và hướng nhà chính xác tới từng độ là có thể tự in cho mình những
hướng tốt xấu để lựa chọn khi mua nhà hay xây dựng nhà mới .
Có một cuốn sách điện tử dạng pdf của Kép Nhật bên TUVILYSO cũng
rất hay, các bạn có thể lấy về tham khảo. Đây là đường link của cuốn sách đó: http: //www. tuvilyso. com/forum/upload. . . 2/BatTrach. pdf
Dùng hai công cụ mà dienbatn vừa dẫn, các bạn đã có thể tự coi nhà
cho mình theo phái bát Trạch Minh Cảnh rồi. Tuy nhiên, dienbatn cũng xin cảnh
báo: Phái bát Trạch Minh Cảnh chỉ là một phần nhỏ trong công việc khảo sát
Phong thủy của Dương trạch. Muốn giởi Phong thủy cần phải học tiếp những phần ở
sau .
Thân ái. dienbatn .



Trong phần Bát trạch Minh Cảnh này, chúng
ta cần lưu ý một số điểm sau:
1/ Theo tất cả các sách Hán thì những người có cung phi là Đoài –
Thuộc Tây tứ cung và cung phi Ly thuộc Đông tứ cung. Tuy nhiên theo thiển ý của
người viết và theo PHONG THỦY LAC VIỆT thì những người có cung phi Ly – Thuộc
Đông tứ cung sẽ đổi sang cung phi Đoài thuộc Tây tứ cung, ngược lại, những
người có cung phi Đoài – Thuộc Tây tứ cung sẽ đổi sang cung phi Ly – Thuộc Đông
tứ cung. Việc này dienbatn đã thực hiện thường xuyên và có kết quả rất tốt. Nguyên
lý của nó, các bạn có thể tham khảo trong những cuốn: TÌM VỀ CỘI NGUỒN KINH
DỊCH, BÍ ẨN LỤC THẬP HOA GIÁP . . . của tác giả NGUYỄN VŨ TUẤN ANH. Đây là phát
hiện mới của chúng tôi về sự sai lầm của độ số phương Tây. Bạn nào không tin
thì cũng có thể lấy mình làm thỏ để biết đúng sai. Tuy nhiên, cần hết sức cẩn
thận khi làm cho thân chủ có cung phi bát trạch là Ly, Đoài .
2/ Việc quan trong nữa là khi đo hướng nhà, các bạn phải đo chính
xác tới từng độ một. Ví du Tọa Dậu – Hướng Mão – thuộc cung Chấn – Đông tứ cung.
Chính Mão là 90 độ. Từ tâm của đường chỉ hướng nhà, mỗi bên không quá 3 độ là
còn nằm trong cung này và được tính toán cho Tọa Dậu – Hướng Mão. Khi quá cung
3 độ trở lên (87<v> 93 độ) tức là cung hướng Kiêm, các bạn phải tính toán
theo hướng Kiêm mới chính xác .
3/ Khi đặt La Kinh có vòng Phúc Đức xoay được thì khởi đầu như sau: Tùy theo hướng cửa chính, sao
Phước-đức của sơn được bày bố ở vị trí sau đây:
1. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-bắc: sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Thân.
2. Cửa chính của nhà quay về hướng Bắc: sao Phước-đức được bày bố ở
sơn Dần.
3. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-bắc: sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Giáp.
4. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông: sao Phước-đức được bày bố
ở sơn Tỵ.
5. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-nam: sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Tỵ.
6. Cửa chính của nhà quay về hướng Nam: sao Phước-đức được bày bố ở
sơn Thân.
7. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-nam: sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Hợi.
8. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây: sao Phước-đức được bày bố ở
sơn Hợi.
Các sao kế tiếp được bày bố tiếp tục đến các sơn kế tiếp theo đó
cho đến hết vòng.
Tính chất của vòng Phúc đức như sau:
PHÚC ĐỨC: Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt. Sản xuất chăn nuôi đều
thịnh đạt, giàu sang, con cái hiển đạt.
ÔN HOÀNG: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, bệnh tật làm ăn thua lổ, thị
phi, quan sự bất lợi.
TẤN TÀI: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt , tăng nhân khẩu, điền trạch
thịnh đạt, lợi công danh, sản xuất thịnh đạt.
TRƯỜNG BỆNH: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, nhiều bệnh tật, con cái
hư hỏng, làm ăn thua lổ, thị phi, gia trưởng bị thủ túc bất nhân.
TỐ TỤNG: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia tài bị tranh chấp, tiểu
nhân hãm hại, sản xuất chăn nuôi thua thiệt, cuốc sống không yên ổn.
QUAN TƯỚC: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, quan lộc tăng tiến, tăng
nhân khẩu, sản xuất chăn nuôi phát đạt.
QUAN QUÍ: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, sinh quí tử, chức vị cao, điền
trạch thịnh vượng, chăn nuôi kinh doanh phát tài, giàu có.
TỰ ẢI: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , thiệt nhân khẩu, quan sự bất
lợi, nam ly hương, nữ tật bệnh, chăn nuôi thua thiệt.
VƯỢNG TRANG: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, điền trang gia tăng, nhân
khẩu thịnh đạt, sản xuất kinh doanh phát đạt, Lợi cho chủ mệnh.
HƯNG PHƯỚC: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, trường thọ anh khang
thịnh vượng, trai gái thanh lịch, quan chức gia tăng, chăn nuôi thịnh vượng, lợi
cho con thứ.
PHÁP TRƯỜNG: Đặt cửa vào sơn vị này là rất xấu, đoản thọ, kiện cáo
tù đày, tha phương cầu thực.
ĐIÊN CUỒNG: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, dâm loạn rượu chè, hao
tổn tài sản, con caí bạo ngược, nhân khẩu bất an.
KHẨU THIỆT: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , bị vu oan giáng họa, con
cái ngổ nghịch, huynh đệ bất hoà, chăn nuôi thất bại.
VƯỢNG TÀM: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, gia đạo nghiêm túc, điền
sản thịnh vượng, tiền của nhiều, nhiều con cháu, cần kiệm, chăn nuôi phát đạt.
TẤN ĐIỀN: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, phúc lộc lâu dài, con cái
hiền tài, tiền bạc, ruộng vườn sung túc.
KHỐC KHẤP: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, gia đình luôn bị tai hoạ,
đoản thọ, nhiều bệnh tật, tiền tài bị phá hại, chăn nuôi bất lợi.
CÔ QUẢ: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, quả phụ, tha phương cầu thực,
phá sản, chăn nuôi bất lợi.
VINH PHÚ: Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt, vượng nhân khẩu, gia
đình vô tai hoạ, phú quí vinh hoa, tôt nhứt cho người co mệnh hỏa.
THIẾU VONG: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , hại nhân khẩu, rượu chè,
háo sắc, nhiều bệnh tật.
XƯỚNG DÂM: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , dâm loạn, nam nữ tửu sắc
hại gia phong, hoài thai, chăn nuôi bất lợi.
THÂN HÔN: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, vuợng nhân khẩu, chăn nuôi
thịnh vượng, buôn bán phát tài, lợi người mệnh hoả.
HOAN LẠC: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, phát tài, vượng điền, chăn
nuôi hưng thịnh, lợi cho người mạnh Thuỷ.
TUYỆT BẠI: Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, gia tài phá bại, cha con
không quan tâm đến nhau.
VƯỢNG TÀI: Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, kinh doanh buôn bán phát
tài, phú quí, con cái hiều thảo, lợi cho người mạng hỏa.
TÍNH CHẤT CÁC SAO TRONG HỆ NHỊ THẬP BÁT TÚ.
1. Sao Giác: Là Mộc tinh mang tên con Giao (Cá Sấu). Là một sao tốt,
chủ về vinh hiển, đỗ đạt, gặp Quý nhân, lơi cho việc hôn thú, con cái tốt lành.
Kỵ mai táng và xây cất mộ phần.
2. Sao Cang: Là Kim tinh, mang tên con Rồng. Là một sao xấu, chủ
mọi việc phải giữ mình, đừng làm liều. Ky hôn thú.
3. Sao Đê: Là Thổ tinh mang tên con cầy hương. Là một sao xấu, chủ
phải đề phòng mọi chuyện. Kỵ động thổ, Kinh doanh, xuất hành.
4. Sao Phòng: Là sao Thái dương, mang tên con Thỏ. Là một sao tốt, chủ
về vượng tài sản, ruộng vườn, giầu sang, xây cất, cưới xin hài hòa vui vẻ.
5. Sao Tâm: Là sao Thái âm, mang tên con hổ. Là một sao xấu, chủ
xấu về chung thủy, hôn nhân bất lợi, kinh doanh thua lỗ, kiện tụng.
6. Sao Vĩ: Là hỏa tinh mang tên con Hổ. Là một sao tốt, chủ tốt về
làm nhà, giá thú, xuất ngoại, kinh doanh đều tốt. Thăng quan, tiến chức, sự
nghiệp hưng vượng.
7. Sao Cơ: Là Thủy tinh, mang tên con Báo. Là một sao tốt, chủ tốt
về sự nghiệp, tương lai sang sủa, nhà cửa khang trang, giầu sang.
8. Sao Đẩu: Là Mộc tinh, mang tên con Giải. Là một sao tốt, chủ hôn
nhân, sinh đẻ tốt đẹp. Chăn nuôi, sản xuất tốt. Xây dựng nhà cử tốt đẹp.
9. Sao Ngưu: Là Kim tinh, mang tên con Trâu, là một sao xấu. Chủ
tổn sức lực, tài sản, cưới xin, kinh doanh bất lợi, sản xuất bất lợi, xa nhà
phải thận trọng.
10. Sao Nữ: Là Thổ tinh, mang tên con dơi. Là một sao xấu, chủ xấu
về bị mắc lừa, bất lợi khi sinh đẻ, hao tốn tiền của,
11. Sao Hư: Là Nhật tinh mang tên con chuột. Là một sao xấu về quan
hệ vợ chồng.
12. Sao Nguy: Là Nguyệt tinh mang tên con én. Là một sao xấu, kỵ
xây cất nhà cửa, kinh doanh bất lợi, dễ bại sản.
13. Sao Thất: Là Hỏa tinh mang tên con lợn. Là một sao tốt, chủ về
công danh, sự nghiệp, buôn bán, kinh doanh, xây dựng đều cát lợi.
14. Sao Khuê: Là Mộc tinh mang tên con sói. Sao Khuê nử a tốt nửa
xấu. Tốt về quan hệ vợ chồng hòa thuận, phúc lộc. Xấu về khai trương động thổ, an
táng.
15. Sao Lâu: Là Kim tinh, mang tên con chó. Là sao tốt, chủ về hôn
thú, sinh đẻ, con cái tốt. Thăng quan tiến chức, người của hưng thịnh.
16. Sao Vĩ: Là Thổ tinh, mang tên con chim trĩ. Là một sao tốt, chủ
về Vinh hoa, phú quý, buôn bán, hôn nhân, xây dựng đều cát lợi.
17. Sao Mão: Là Nhật tinh mang tên con gà. Là một sao xấu, chủ về
chăn nuôi, xây dựng đều xấu, hôn thú bất lợi, công danh trục trặc.
18. Sao Tất: Là Nguyệt tinh mang tên con quạ. Là một sao tốt, chủ
về được mùa, chăn nuôi phát đạt, nhà cửa khang trang, hôn nhân, sinh đẻ tốt đẹp.
19. Sao Chủy: Là Hỏa tinh, mang tên con Khỉ. Là một sao xấu, chủ về
kiện tụng, mất của, bất lợi cho công danh.
20. Sao sâm: Là Thủy tinh mang tên con vượn. Là một sao tốt, chủ về
Vinh hoa phú quý, mưu cầu sự nghiệp cát lợi, buôn bán phát tài, xây dựng tốt, an
táng cát lợi.
21. Sao Tỉnh: Là Mộc tinh mang tên con hươu. Là một sao tốt, chủ về
lợi cho việc thi cử, công danh, trồng trọt, chăn nuôi được mùa, xây dựng nhà
cửa, hôn nhân tốt đẹp. Sao này kỵ an táng.
22. Sao Quỷ: Là Kim tinh, mang tên con dê. Là một sao xấu, chủ về
bất lợi cho việc xây cất nhà cửa, hôn nhân bất lợi. Riêng việc an táng tốt.
23. Sao Liễu: Là Thổ tinh mang tên con hoẵng, Là một sao xấu, chủ
về hao tài tổn sức, tai nạn, không được yên ổn.
24. Sao Tinh: Là Nhật tinh mang tên con ngựa. Là một sao xấu, chủ
xấu về quan hệ vợ chồng, hôn nhân. Riêng về xây dựng thì tốt.
25. Sao Trương: Là nguyệt tinh, mang tên con hươu. Là một sao xấu, chủ
về xấu trong xây dựng, tai nạn, quan hệ nam nữ .
26. Sao Dực: Là Hỏa tinh, mang tên con rắn. Là một sao tốt, chủ về
vượng tài lộc, con cháu giầu sang, xây dựng, hôn thú tốt đẹp.
27. Sao Chẩn: Là Thủy tinh, mang tên con giun. Là sao tốt, chủ về
thăng quan tiến chức, tăng tài lộc, kinh doanh phát tài, hôn nhân, an táng tốt
đẹp.
28. Sao Bích: Là một sao tốt .
Hai vòng này được dùng khi xác định tốt xấu của các vị cửa: Chính
Môn, Tả Thiên Môn, Hữu Thiên Môn .
4/ CÁCH ĐẶT BẾP THEO PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH .
Phương Pháp đặt Bếp:
Bếp có 3 tiêu chí để xác định:
Hướng Bếp: Phải quay về hướng tốt của Gia chủ.
• Vị trí đặt Bếp: Phải đặt tại cung tốt của Gia chủ.
• Sơn (lưng) của Bếp phải đốt về hướng xấu chủ.
Khi đặt bếp phải xem khi phân cung, bếp nằm tại cung nào của 24 Sơn
và ta chọn VI TRÍ đặt bếp vào 1 trong 24 cung tốt theo bài thơ sau .
Phép giải hung của bếp: Đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, bệnh
tật cũng do ăn uống mà sinh ra. Do đó bếp phải an theo hướng có sinh khí. Thiên
Y hay Diên Niên, đó là 3 kiết phương, điều tối kỵ là làm bếp ở hung phương như
Ngũ quỷ và Lục sát. Nếu phạm vào cát hung phương này thời hại người hại của, hay
sinh bệnh hoạn. Muốn giải trừ hung họa, thời dọn dẹp hết tro bụi trên bếp cũ, cúng
nước sạch quét rửa cho sạch sẽ. Sau đó đem tro bụi ra đổ ở sông hoặc hoặc ở
vùng đồng trống. Mua những vật liệu mới xây cất theo cát phương Thiên y như vậy
có thể giải quyết được hung tai, điều này rất ứng nghiệm, nếu bếp thuộc phương
Mộc sẽ ứng nghiệm trong vòng 30 ngày, bếp thuộc phương Thổ ứng trong vòng 50
ngày, bếp thuộc phương Kim, ứng nghiệm trong vòng 40 ngày, bếp thuộc Hỏa ứng
trong vòng 20 ngày, cuối cùng bếp thuộc phương Thủy sẽ ứng trong vòng 60 ngày. Nếu
chủ cũng được cát phương thời bệnh mau khỏi, thêm con thêm của, và công danh
hoạn lộ thường ứng trong vòng 3 năm.
Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp cũ, vì e
hung khí chưa tan, nên để nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại mà vô
hại. Riêng những vật dụng thường dùng như chén bát, đũa, muỗng… đều không kỵ. Trái
lại chỉ kỵ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi xa, đúng 5 ngày là lấy
theo ý nghĩa phá Ngũ quỷ.
BÀI THƠ KHAI TÁO MÔN LỆ AN ĐỒNG TÁO VỊ .
Táo nhập Càn cung thị diệt môn .
Nhâm – Hợi nhị vị tổn nhi tôn .
Giáp – Dần đắc tài, Thìn Mẹo phú .
Cấn – Ất thiêu hỏa tức tào ôn .
Tý – Quý – Khôn phương Gia khốn khổ .
Sửu phương tổn súc, gia học ương .
Tỵ – Bính phát tài, Canh đại phú .
Ngọ phương vượng vị phú nhi tôn .
Tân – Dậu – Đinh phương đa tật bệnh .
Thân – Tốn – Mùi – Tuất trạch hanh thông .
Tác Táo thiết kỵ dụng phấn Thổ .
Tàn chuyển – Cận Thủy thiết an ninh .
Giải nghĩa .
Táo đặt vào cung Càn thì Gia môn bị suy sụp .
Đặt vào 2 cung Nhâm – Hợi thì hại cho con cháu .
Đặt vào 2 cung Giáp – Dần thì có tiền, Thìn – Mão thì giầu .
Cung Cấn, Cung Ất thì bị Ôn dịch .
Ba cung Tý – Quý – Khôn nhà bị khốn khổ .
Phương Sửu hại lục súc, nhà gặp họa ương .
Hai Sơn Tỵ – Bính phát tài, Phương Canh đại phú .
Phương Ngọ là phương vượng, con cháu được giầu .
Tân – Dậu – Đinh ba phương này nhiều bệnh tật .
Cung Thân – Tốn – Mùi – Tuất gia đạo được hanh thông .
Làm bếp rất kỵ đất dơ bẩn, dùng gạch mới hay đá ở mé nước rất
tốt .
Khi đặt bếp mới ta có thể khấn theo thủ tục như sau:
Thỉnh ti mệnh Táo quân
Bái thỉnh cửu thiên đông trù, ti mệnh táo quân .
Nhất gia chi chủ, ngũ tự chi thần .
Từ hậu thiệt ư, bắc đẩu chi trung .
Sát thiện ác ư, đông trù chi nội .
Tứ phúc xá tội, di hung hóa cát .
An trấn âm dương, bảo hữu gia đình .
Họa tai tất diệt, hà phúc tất tăng .
Hữu cầu tất ứng, vô cảm bất thông .
Đại bi đại nguyện. Đại thánh đại từ .
Cửu thiên đông trù. Ti mệnh lô vương .
Nguyên hoàng định quốc. Hộ trạch thiên tôn .
Cấp cấp như luật lệnh .
PHẬT THUYẾT:
TƯ MẠNG TÁO QUÂN CHƠN KINH
Tư Mạng Táo Quân Bửu Cáo:
Nhất gia chi chủ, ngũ tự chi thần .
Tư hậu thiệt ư, bắc đẩu chi trung. xét thiện ác ư đông trù chi
nội .
Tứ phúc xá tội, di hung hóa cát. An trấn âm dương, bảo hựu gia
đường
Họa tai tất diệt, hà phúc tất tăng. Hữu cầu tất ứng, vô cảm bất
thông
Đại bi đại nguyện. Đại thánh đại từ .
Cửu thiên đông trù. Tư mệnh Táo Quân . Đế Quân Phật Táo, Nguyên
hoàng định quốc. Hộ trạch thiên tôn . (1 lần)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
TƯ MẠNG TÁO QUÂN CHƠN KINH.
TƯ MẠNG TÁO QUÂN. TÁNH TRƯƠNG, HÚY ĐƠN, TỰ TỬ QUÁCH, BÁT NGOẠT,
SƠ TAM NHỰT (vía mùng 3 tháng 8 âm lịch), THÁNH DIÊN THỊ NHỰT NGHI THIẾT TRAI
CÚNG DƯ- TƯ MẠNG TÁO QUÂN. TÁNH TRƯƠNG, HÚY ĐƠN, TỰ TỬ QUÁCH, BÁT NGOẠT, SƠ TAM
ỜNG. THẬP NHỊ NGOẠT THẬP TỨ NHỰT TÝ THỜI THƯỢNG TẤU THIÊN TÀO, NGHI TIÊN Ư NHỊ
NGOẠT THẬP TAM NHỰT KIỀN THÀNH TRAI CÚNG KỈNH TỐNG CHÍ, TAM THẬP NHỰT HỒI VỊ VỤ,
NGHI CHÍ THÀNH NGHINH TIẾP TRAI CÚNG TÁO THẦN. NẢI NHỨT GIA TƯ MẠNG CHI CHỦ CẢM
ỨNG CHÍ LINH, MỖI NGOẠT THẬP TAM NHỰT, TƯƠNG NHỨT GIA SỞ VỊ THIỆN ÁC, LỤC TẤU
THIÊN TÀO HÀO BẤT ẨN QUÍ GIÁNG TƯỜNG GIÁNG ƯƠNG, BÁO NHƯ ẢNH HƯỞNG, CẬN HỬU NAM
NỮ ĐỘ HẢI PHẦN HƯƠNG ĐĂNG SƠN ĐẢO MIẾU BẤT GIA TRI HỬU TÁO QUÂN TƯ MẠNG TỐI
HIỂN TỐI LINH, NHI BẤT ÂN CẦN KHÂM KỈNH, SỞ VỊ XÁ CẬN CẦU VIỄN, NHƯỢC NĂNG
THÀNH TÂM KĨNG PHỤNG KINH HÀNH, THIỆN SỰ TẤT HỘ KIẾT KHÁNH, PHÀM NHƠN GIA KHẨU
BẤT AN SỰ BẤT TOẠI Ý GIẢ VIỆC NHƠN QUÁT QUA THIÊU CHỬ, HỬU ĐỘC TÁO QUÂN NHI BẤT
TRI GIÁC, CẬN NGỘ CAO NHÂN TRUYỀN THỌ TẠNG KINH, SỞ TẠI NGHI KỴ SỞ KHOẢN CƯ GIA
TRIỀU TỊCH, PHẦN HƯƠNG TÁO TIỀN THƯỜNG GIÁO HƯ HOÀNG ĐẠI ĐẠO, KIẾP KIẾP HÓA
SANH, BIẾN HÓA THÀNH HÌNH, MINH MINH DẠ DẠ, SANH SANH HÓA HÓA, THÁNH THÁNH HIỀN
HIỀN, PHẬT PHẬT TIÊN TIÊN, NHƠN NHƠN QUỶ QUỶ, HỬU TÀ HỬU XÍ, HỬU ÔN HỬU TINH, DỊCH
LỆ LƯU HÀNH, TỬ SANH BỊNH KHỔ. CHUYỂN VIẾT THƯỢNG CỔ, HẠ CHÍ NHƠN GIAN, KIẾT
HUNG THIỆN ÁC, OAN HỒN TẠO TÁC, NHIỂM HOẠN THÂN TRUNG, TẬT BỊNH NAN THÔNG, TỨ
THỜI HÀN NHIỆT, PHONG KHÍ CHI HUYẾT, TÀ MA XÂM LĂNG, KẾT THÀNH OAN TRÁI, CỪU
THÙ CHẤP ĐỐI, NAM THƯƠNG YỂU TỬ, DỊCH LỆ ÔN HOÀNG, HÓA VI BÁ QUỈ, CHUYỂN VẬN
THIÊN ĐỊA, TRỪ TÀ QUI CHÁNH, CHUYỂN THẦN VI THÁNH, CHUYỂN PHẬT VI TIÊN, CHUYỂN
THIÊN VI ĐỊA, CHUYỂN SƠN VI THỦY, CHUYỂN ÔN VI QUỈ, CHUYỂN TÀ VI CHÁNH, CHUYỂN
TỬ VI SANH, CHUYỂN HUNG VI KIẾT. TỐNG ÁC NGHINH TƯỜNG, TAM BÀNH LỤC TẶC, HÓA VI
THÁNH TIÊN . . . . . .
CHUYỂN THIÊN THIÊN ĐỘNG, CHUYỂN ĐỊA ĐỊA KINH, CHUYỂN NHỰT NHỰT
MINH, CHUYỂN NGUYỆT NGUYỆT HIỆN, CHUYỂN PHONG PHONG CHÍ, CHUYỂN VỎ VỎ ĐÌNH, CHUYỂN
SƠN SƠN TẨU, CHUYỂN LÔI LÔI OANH, CHUYỂN THỦY THỦY KIỆT, CHUYỂN HẢI HẢI BÌNH, CHUYỂN
PHẬT PHẬT HIỆN, CHUYỂN TƯỚNG TƯỚNG HÀNH, CHUYỂN BỊNH BỊNH TẨU, CHUYỂN TẬT TẬT
KHINH, TỨ CHI CỬU KHIẾU, BÁT MẠCH TAM TINH, NGỦ TẠNG LỤC PHỦ, THÂN THỂ AN NINH,
TẢ PHỤ HỬU BẬT, TIỀN TỐNG HẬU KHINH, VẬN CHUYỂN THIÊN ĐỊA NHƠN VẠN VẬT HÓA SANH,
TAM HOÀNG NHẤT LÝ, HỖN HIỆP ĐỒNG HÌNH, TÀ MA BÔN TẨU, TÍN CHỦ AN NINH, PHẬT
THUYẾT THỊ KINH VĨ GIA TRÌ, CHUYỂN VẠN VẬT QUỶ DIỆT TÀ KINH, VẠN SANH HOAN
DUYỆT ĐẠI CHÚNG MẪN CỤ TÍN THỌ PHỤNG HÀNH ĐƯƠNG KIẾT TỊNH, SÓC, VỌNG MINH ĐĂNG
MỖI NGOẠT TAM THẬP NHỰT, VÃNG KIỀN THIỀN LỂ KÍNH TÁO THƯỢNG, THIẾT VẬT XAO QUA
ĐẢO THIẾT CƯƠNG QUẾ THÔNG TÁN TÁO TIỀN THIẾT VẬT CA KHỐC CHÚ MẠ, TÁO NỘI BẤT
KHẢ PHẦN HÓA TỰ CHỈ VẬT DỈ UẾ SÀI KÊ MAO THÚ CỐT, NHẬP TÁO VẬT VĨ, HÀI LÝ Y
PHỤC HỒNG TÂM VẬT TÚC ĐẠP TÁO MÔN GIA PHỦ TÁO THƯỢNG TẢO BẢ HƯỚNG TÁO VẬT THỰC
NGƯU KHUYỂN NHỊ NHỤC TỰ NHIÊN THẦN AN GIA VƯỢNG PHƯỚC TẬP TIÊU TAI HỶ. (tụng 3
LẦN)
Nghi thức cúng vào giờ Hợi (22 giờ) các ngày: 7, 13, 23, 24 âm
lịch hàng tháng, lể vật gồm: 3 chung nước, 1 bình bông, trái cây, giấy vàng bạc
cúng Táo Quân (có chử ĐỊNH PHÚC TÁO QUÂN)
Thắp 7 ngọn đèn cầy để trên đĩa cúng nơi bếp và 7 ngọn đèn cầy
để trên dỉa cúng trên bàn thờ ông Táo theo hình sau đây:
      2 3
    1 4 5 6 7
5/ XÁC ĐỊNH TÂM NHÀ: Theo cách thông thường chúng ta xác định tâm nhà bằng cách
lấy tâm cân bằng trọng lực của căn nhà. Tức là chúng ta lấy trọng tâm về lực
của căn nhà theo hình dạng của nó bất kỳ. Các căn nhà chữ nhật, hình vuông lấy
tâm bằng cách đơn giản là điểm giao nhau của đường chéo. Các căn nhà có dạng
bất kỳ phải lấy tâm theo cân bằng lực. Tuy nhiên, khi người Thày Phong thủy có
tu tập Mật Tông, đến một mức nào đó có thể có sự Linh thông với Thần Linh Thổ
địa, chính lúc đó, nếu Phong thủy sư bắt ấn triệu Thổ Địa, với sự Linh thông, Thần
Thổ địa sẽ chỉ cho người đó đâu là trong tâm của Dương trạch và rất nhiều khi
trọng tâm này khác với trọng tâm hình học mà chúng ta đã thực hiện .
dienbatn .
6/ Cung Tài của một căn nhà
Thông thường theo Bát quái của PT thì Các Cung được kể như sau theo
phương hướng (do La bàn xác định). Cách này tại Đài loan rất hay được áp dụng .
1. Cung Nghề nghiệp. Hướng Bắc
2. Cung Quí Nhân/ Cung Du lịch. Tây Bắc
3. Cung Tử (Cung Con trẻ) Tây
4. Cung Hôn nhân hay Cũng gọi là Cung Phu Thê. Tây Nam
5. Cung Danh tiếng. Nam
6. Cung Tài. Đông Nam
7. Cung Gia đình/ Cung Sức khỏe. Đông
8. Cung Học Vấn/ Cung Kiến thức Đông Bắc
9. Trung Cung thuộc Chủ nhà. Chính giữa thuộc Tâm nhà .
Trong bất kể trường hợp nào, chúng ta họp hội nghị, thảo luận nên
ngồi ở góc Đông Nam của căn nhà hay cái bàn để chiếm cung Tài để có lợi thế, quay
mặt về một trong 4 hướng tốt của mình, nhường khách ngồi vào cung Quý nhân (Tây
bắc). Nếu làm ngược lại, tức là mình ngồi ở Tây Bắc, khách ở Đông Nam là hiện
tượng “Phản khách vi chủ “- Phần thiệt hại hay bị động lập tức về phía mình. Cung
Đông Nam tức cung tài tuyệt đối không để WC vì mỗi lần giật nước, tiền bạc sẽ
bị cuốn trôi đi. Khu vực cung Tài nên đặt Tủ chứa tiền, bàn thờ hay chỗ làm
việc của mình. Người Đài Loan thường dùng những cung này để cải biến tình hình
trong nhà. Ví dụ tự nhiên thấy trong nhà vợ chồng hay bị xào xáo, gây gổ, người
ta xem lại góc phía Đông hay Tây Nam của ngôi nhà tức là cung Gia đình và Phu
thê. Người ta quét dọn khu vực này cho sạch sẽ, gắn thêm đèn sáng hoặc đặt thêm
một cái Phong Linh. Chỉ ít bữa sau hiện tượng lục đục trong gia đình sẽ hết. dienbatn
thử cách này thấy rất hiệu quả .
dienbatn .
7/ LƯU Ý VỀ BÁT SÁT: : Bát
sát là quan hệ hung hại giữa phương vị của Long và Thủy chảy vào Minh đường, của
Long và Hướng nhà, giữa Hướng nhà và hướng của Thủy chảy vào Minh đường, giữa
Hướng nhà và phương vị của cửa chính, giữa Hướng nhà và ngày tháng khởi công
xây dựng .
Bát sát là các kiêng cữ rất nghiêm ngặt trong việc lập hướng, lập
Thủy Pháp Trường Sinh, chọn ngày khởi công xây dựng trong cả Âm trạch và Dương
trạch. Nếu vi phạm vào bát sát thì chắc chắngia chủ không tránh khỏi tai họa
cho gia đình và con cháu .
Bát sát bao gồm: Ngọ sát càn, Thìn sát Khảm, Dần sát Cấn, Thân
sát Chấn, Dậu sát Tốn, Hợi sát Ly, Mão sát Khôn, Tỵ sát Đoài .
Ý nghĩa của bát sát rất phức tạp, song các bạn chỉ cần lưu ý những
điều cơ bản sau:
HƯỚNG BỊ SÁT: Cửa nhà hướng Càn mà ở Ngọ vị (ta đặt la kinh trên tâm điểm của
ngôi nhà, phóng các cung tới bức tường đối diện) là bị sát. Nhà hướng Đoài mà
cửa ở Tỵ vị là bị sát. Nhà hướng Khôn mà cửa ở mão vị là bị sát. Nhà hướng Ly
mà cửa ở Hợi vị là bị sát. Nhà hướng Tốn mà cửa ở Dậu vị là bị sát. Nhà hướng
Chấn mà cửa ở vị Thân là bị sát. Nhà hướng Cấn mà cửa ở vị Dần là bị sát. Nhà
hướng Khảm mà cửa ở vị Thìn là bị sát .
NGÀY BỊ SÁT: Tương tự như vậy Nhà hướng càn không được khởi công hay để cửa ra
vào, cửa ngõ, cửa sổ hay dòng nước tới từ vị Ngọ, ngày Ngọ. nếu để vào vị đó, ngày
đó tai họa sẽ ập đến liền. Khi làm nhà, các bạn hết sức lưu ý vấn đề này .
8/ THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH:
Trong Địa lý cổ truyền, phương pháp căn cứ vào các dòng nước chẩy
chảy đến, tụ lại chảy đi ở xung quanh cuộc đất để xác định hướng và vị trí nhà
gọi là Thủy pháp. Phương pháp căn cứ vào các dòng nước chảy, nuớc tụ và hướng
nhà nằm vào cung nào của hệ trường sinh thì gọi là Thủy pháp trường sinh. Vậy
phương pháp kết hợp Thủy pháp với các phương vị của thiên bàn và phương sinh
thái của hệ trường sinh để xác định hướng và vị trí nhà để đón cát tránh hung
gọi là Thủy pháp trường sinh. Trong Địa lý cổ truyền Thủy pháp trường sinh là
quan trọng nhất, ở vùng đồng bằng và Thành phố các điều kiện về Sơn mạch, Long
mạch rất khó phát hiện , do vậy Thủy pháp trường sinh càng quan trọng. Khi làm
đúng Thủy pháp trường sinh rồi , đã đón được cát tránh được hung rồi.
Thủy pháp:
Hướng vượng gặp nước là vượng thủy. Hướng suy gặp nước thì lại suy
hơn. Trái lại, Tọa vượng gặp nước thì lại rất xấu nhưng Tọa suy gặp nước thì
lại rất tốt. Do đó, các bố trí về thủy như bồn tắm, bồn rửa mặt, hồ cá, hồ bơi,
vòi nước, máy giặt. . . đều cần phải đặt đúng vị trí để làm cho suy vượng.
Phía bên ngoài nhà nếu có thủy nơi các Hướng, Tọa vượng, suy như
sông ngòi, hồ ao. . . có thể thấy được từ nhà nhìn ra thì cũng có ảnh hưởng
quan trọng đến những người cư ngụ trong căn nhà này.
Thủy pháp được dùng rất nhiều trong phái Huyền-không để làm vượng
thêm các cung có Hướng đương vượng và cũng để làm vượng các cung có Tọa đương
suy. Khi dùng Thủy-pháp phải chú ý tránh việc làm vượng hướng có thể làm suy
tọa hay ngược lại. Phối hợp Ngũ-hành, Thu sơn xuất xát và Thủy-pháp nhiều khi
có thể giúp làm giãm sự sui sẻo mà lại tăng thêm may mắn.
Ngoài ra, hình thể của sông ngòi theo phái Loan-đầu cũng rất quan
trọng dù rằng thủy ở đúng phương làm cho vượng. Như dòng nước chảy vòng cung
rồi bắn thẵng trở lại hay thuận thủy (còn gọi là tống thủy) tức là thủy khí đi
từ gần nhà xa ra thì xấu cho tài lộc. Còn trường hợp nghịch thủy là nước chãy ngược
tới thì rất tốt cho tiền tài.
Nghịch thủy hay Thuận thủy là căn cứ theo phương hướng của cửa
chính và dòng nước hay con đường phía trước cửa chính. Trong vị thế cửa chính
như đón hướng đi của dòng nước hay hướng đi của dòng xe cộ lưu chuyễn thì như là
đón thủy khí vào nhà, tức là nghịch thủy. Trong vị thế cửa chính quay xuôi theo
dòng nước hay chiều đi của xe cộ trước nhà thì coi như là thủy khí từ nhà theo
dòng này mà thoát ra nên đây là tống thủy khí đi, là thuận thủy, là mất thủy
khí.
Thủy Pháp Tường Sinh rất quan trọng khi thiết kế xây dựng nhà mới. Nó
chính là việc điều tiết dòng Khí ra vào của căn nhà nhờ vào dòng nước cho phù
hợp với Thiên Môn – Địa Hộ của căn nhà. Đây chính là hướng đường cấp, thoát khi
tiến hành tính toán cụ thể khi thiết kế .
9/ Tam sát:
Tam sát là 3 sao có sát khí là Tuế-sát, Kiếp-sát và Tai-sát. Tam-sát
có 3 loại là Niên Tam-sát, Nguyệt Tam-sát và Nhật Tam-sát hay nói cách khác là
Tam-sát của năm, tháng và ngày.
Tam-sát là sát ở các cung sau đây:
1. Năm Thân, Tý, Thìn (hay tháng 7, 11, 3 ta) sát ở 3 phương Tỵ, Ngọ
và Mùi tức phương Nam.
2. Năm Dần, Ngọ, Tuất (hay tháng 1, 5, 9 ta) sát ở 3 phương Hợi, Tý,
Sửu tức phương Bắc.
3. Năm Tỵ, Dậu, Sửu (hay tháng 4, 8, 12 ta) sát ở 3 phương Dần, Mão,
Thìn tức phương Ðông.
4. Năm Hợi, Mão, Mùi (hay thánh 10, 2, 6 ta) sát ở 3 phương Thân, Dậu,
Tuất tức phương Tây.
Các nơi có Tam-sát đều kỵ động làm tăng năng lực sát. Vì vậy mà cấm
động thổ, tu sửa. . . nhứt là khi Tam-sát ở cung Tọa vì khi đó khí mạnh của
hướng xung chiếu thẳng làm phạm xung sát nên tai họa đến liền.
10/ MỘT VÍ DỤ VỀ XÁC ĐỊNH VỊ CỦA CỬA RA VÀO:
CÁC VỊ CỬA CHÍNH: Nhà tọa Nhâm hướng Bính
Cửa chính được chia làm ba vị theo chiều dài mặt tiền. Cửa ở chính
giửa gọi là chánh môn . Cửa bên phải và bên trái mặt tiền (từ trong nhìn ra)
được gọi là tả, hữu thiên môn. Ta lần lượt xét các vị cửa như sau:
A/Chánh môn: Hướng Bính vị Bính bị Xương dâm và các sao Dực, Sao Trương quản .
• Xướng dâm(Hung): Đặt cửa vào sơn vị này là xấu: Dâm loạn nam nữ
tửu sắc hại gia phong, hoài thai, chăn nuôi bất lợi.
• Sao Trương: Là nguyệt tinh, mang tên con hươu. Là một sao xấu, chủ
về xấu trong xây dựng, tai nạn, quan hệ nam nữ .
• Sao Dực: Là Hỏa tinh, mang tên con rắn. Là một sao tốt, chủ về
vượng tài lộc, con cháu giầu sang, xây dựng, hôn thú tốt đẹp.
• Đây là một vị cửa xấu .
B/ HỮU THIÊN MÔN: Hướng Bính vị Mùi: Bị Tuyệt bại và các sao Tỉnh, sao Quỷ quản .
• Tuyệt bại(Hung): Đặt cửa vào sơn vị này là xấu: Gia tài phá hoại,
cha con không quan tâm đến nhau.
• Sao Tỉnh: Là Mộc tinh mang tên con hươu. Là một sao tốt, chủ về
lợi cho việc thi cử, công danh, trồng trọt, chăn nuôi được mùa, xây dựng nhà
cửa, hôn nhân tốt đẹp. Sao này kỵ an táng.
• Sao Quỷ: Là Kim tinh, mang tên con dê. Là một sao xấu, chủ về bất
lợi cho việc xây cất nhà cửa, hôn nhân bất lợi. Riêng việc an táng tốt.
• Đây cũng là một vị cửa xấu .
C/ TẢ THIÊN MÔN: Hướng Bính vị Thìn bị Cô quả và các sao Giác, sao Cang quản .
• Cô quả(Hung): Đặt cửa vào sơn vị này là xấu: Quả phụ , tha phương
cầu thực, phá sản, chăn nuôi bất lợi.
• Sao Giác: Là Mộc tinh mang tên con Giao (Cá Sấu), . Là một sao
tốt, chủ về vinh hiển, đỗ đạt, gặp Quý nhân, lơi cho việc hôn thú, con cái tốt
lành. Kỵ mai táng và xây cất mộ phần.
• Sao Cang: Là Kim tinh, mang tên con Rồng. Là một sao xấu, chủ mọi
việc phải giữ mình, đừng làm liều. Ky hôn thú.
• Đây cũng là một vị cửa xấu .
Như vậy hướng nhà này không có một vị cửa nào tốt cả.
Nếu mở cửa Hướng Bính vị Đinh thì được Hoan lạc trong hệ Phúc đức
là tốt, nhưng bị sao Liễu trong Nhị thập bát Tú lại xấu. Song sao tốt của hệ
Phúc đức ảnh hưởng liên tục còn sao xấu trong Nhị thập bát tú 28 năm, tháng, ngày
mới xuất hiện một lần. Nếu mở cửa hướng Bính vị Tốn thuộc trạch Ly điều kiện
lập Thủy pháp Trường sinh: Thủy khẩu ở Tuất được sinh hướng và Vượng hướng. Thủy
khẩu ở Mùi thì được tự sinh hướng và tự vượng hướng .
12/ TÀI LIỆU THAM KHẢO: NGHỆ THUẬT ĐIỂM THẦN SÁT.
Căn cứ để an Thần sát:
1/ Xác định Tọa . (Phân kim).
2/ Xác định Hướng (Phân kim).
3/ Xác định Đại môn (Phân kim).
I/ MÔN KHÍ CỬU CUNG ĐIỂM THẦN SÁT:
(Môn Lầu cửu cung điểm Thần sát).
A/ CÁC THẦN SÁT PHẢI AN:
a/ Thần sát an theo Can của Đại môn bao gồm.
1/ THIÊN LỘC.
2/ DƯƠNG QUÝ NHÂN.
3/ÂM QUÝ NHÂN.
b/ các Thần sát an theo Chi của Đại môn:
4/ ĐÀO HOA.
5/ ĐẠI SÁT.
6/ THIÊN MÃ.
7/ ĐỘC HỎA.
8/ THIÊN HÌNH.
II/CHỦ ĐỊA KHÍ CỬU CUNG ĐIỂM THẦN SÁT
A/ CÁC THẦN SÁT PHẢI AN:
a/ Thần sát an theo Can của Hướng nhà bao gồm.
1/ THIÊN LỘC.
2/ DƯƠNG QUÝ NHÂN.
3/ÂM QUÝ NHÂN.
b/ các Thần sát an theo Chi của Hướng nhà:
4/ ĐÀO HOA.
5/ ĐẠI SÁT.
6/ THIÊN MÃ.
7/ ĐỘC HỎA.
8/ THIÊN HÌNH.
Ý NGHĨA CỦA THẦN SÁT
Đại môn là nơi họa phúc tiến vào hoặc ra đi, là nơi động Khí, nơi
Âm – Dương – Ngũ Khí gặp nhau mà tạo ra cát hung . “Họa tòng Khẩu xuất – bệnh
tòng Khẩu nhập “. Nghĩa là mọi tai họa, bệnh tật đều do từ miệng mà ra. Có
thể nói rằng: Cát, Hung, Họa, Phúc của Dương Trạch đa phần có liên quan đến
khẩu Môn, mà điều đó người ta có thể tạo ra được thông qua phép KHAI MÔN THỤ
KHÍ. Từ đó có thể tạo ra và quyết định vận mệnh của mình.
1/ THIÊN LỘC:
Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can, tính của Ngũ hành, Lâm quan tới
cát. Lâm quan là thời đương thịnh, đang lên phơi phới, là đúng Đạo sinh thành, gần
tới Vượng mà là Lộc, bởi đã Vượng thì Thái quá. Lộc là cách có Lộc ra chính môn.
Nhà có cách này là cát khánh, rất tốt. Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may
mắn về tiền bạc, gia sản thăng tiến, điền trang vượng . Thường sinh người béo
tốt, thông minh, tuấn tú lại khéo léo, tài năng Kinh doanh giỏi, làm ăn tiến
phát. Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh – Vượng Lộc, tránh không vong tử, tuyệt.
Nếu Mộ, Không vong, Tử, Tuyệt thì Khí tán, không tụ, là vô dụng. Có Lộc cũng
như không. Tài sản dù có như nước, rồi cũng tiêu tan hết. Đó gọi là Tuyệt Lộc. Nếu
gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt, nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo, con
gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch. Trong gia đình hay sinh nội loạn, cãi vã, cả
ngày ồn ào khiến mọi người bất yên . Lộc cung là Cát cung, vì vậy ngoài cách
đặt cửa chính ra, còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc,
bàn thờ, giường ngủ. Tất cả được Lộc đều tốt. Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung
tài, là Lộc cư Lộc, mới thật là đắc cách, mới thật sự tốt đẹp.
2/ THIÊN MÃ: Mã chủ trạng thái động, là tượng của thay đổi, bôn tẩu.
Mã ra chính môn thì Gia trạch luôn gặp sự may mắn, tin vui ngất
trời, phát tài mau chóng, công việc đều trôi chẩy thuận lợi. Thường sinh ra
người khôi ngô, tuấn tú lại hay xuất Ngoại ra ngoài, ăn nên làm ra. Tuy nhiên
cũng như Lộc, Mã cần phải Sinh – Vượng, tránh Không vong, Tử, Tuyệt. Gặp Sinh, Vượng
thì tốc phát, lại sinh ra người thông minh, cao quý. Gặp Không vong, Tử, Tuyệt
thì Giang hồ bôn tẩu nơi xa đểu mưu sinh. Tha phương, cầu thực, công danh thăng
giáng thất thường, sự nghiệp thì long đong, lận đận, lại dễ gặp tai nạn về chân
tay. Công việc chỉ có đầu mà không có đuôi, thành công ít mà thất bại thì nhiều.
Gặp Thoái Khí lại ra cung Đoài trực cùng Đào hoa thì Âm thịnh – Dương suy, con
gái dễ phát sinh dâm loạn, con trai chơi bời, nghiện ngập, bại hoại Gia phong.
Mã cũng là cát cung, vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể
đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng làm việc, bàn thờ, giường ngủ đều tốt.
Chỉ có giường ngủ của Nữ là không nên đặt tại Mã cung, nếu đặt phải thì Tâm bất
an, không ở yên một chỗ.
3/ QUÝ NHÂN: Quý Nhân
Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi
chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phi phù.
Nhà có chính môn ra Quý là Đại cát khánh, Gia đạo bình an, hòa
thuận, hỉ Khí đầy nhà, luôn gặp may mắn. Quý nhân là sao cứu trợ, là Thần giải
tai ách, nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ, gặp ách có người
giải cứu, gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh, công danh thành đạt, dễ thăng
Quan, tiến chức, học hành thi cử nhất nhất đều tốt đẹp. Quý nhân gặp sinh, Vượng,
thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên, tướng mạo phi phàm, tính tình nhanh
nhẹn, lý lẽ phân minh, không thích mẹo vặt, thẳng thắn mà ôn hòa, khôi ngô tuấn
tú. Nếu ngộ Không vong, Tử, Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều, hoặc nếu có mắc
nạn cũng khó tránh, bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn
thất, kiện cáo, thị phi. Lại hay sinh người tính tình cố chấp, bảo thủ mà suốt
đời vất vả, không nên người. Quý nhân ra Thai Khí, nếu lại ngộ Đào hoa thì nam,
nữ tuy thông minh, tuấn tú, nhưng nam thì hiếu sắc, nữ thì dâm đãng, làm bại
hoại Gia phong, lại hay mắc bệnh tật và trong nhà dễ có người tự ải, tự vẫn vì
tình.
Quý nhân là Cát Khí rất tôn quý, nên gia vào cung nào cũng rất tốt,
ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ, nhà bếp, phòng khách, phòng
làm việc, bàn thờ, giường ngủ đều tốt. Đặc biệt bàn thờ đặt trên cung có Âm Quý
nhân là đại cát khánh, như vậy sẽ được âm Linh phù trợ. Không được để phòng tắm,
nhà vệ sinh vào cung Quý nhân, vì như vậy sẽ bị họa hại liên miên, nữ nhân
thiếu máu, động thai, sinh con dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô
nhục, làm điếm, cuối cùng phải tự vẫn. Tài sản tiêu tan, yêu ma hoành hành, gia
đình có người bị cướp bóc, chém giết máu me thảm khốc, bệnh tật đau khổ triền
miên. Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp khó lường .
4/ THIÊN HÌNH:
Chính Môn gia Hình thì hại vô cùng, vì Hình chủ tù, ngục, kiện tụng,
là tượng của chém giết, mổ xẻ, châm chích. Hình gia Môn thì Gia đạo thường
xuyên gặp tai họa, tai bay m họa gió từ đâu đưa đến. Những người sống trong nhà
này, tuổi thọ bị triệt giảm. Trong người hay mang thương tật, lại dễ xảy ra
kiện tụng, hoặc những việc liên quan đến ngục hình. Trai khắc vợ, gái sát chồng.
Hình gia Môn cũng thường sinh ra người có tính khí hung bạo, liều lĩnh, bướng
bỉnh, ngang tàng và gian trá, lại hay mang tật trong mình, lớn lên ắt phá tán
Tổ nghiệp, tha phương cầu thực.
Thiên hình gia cung nào cũng hung, nếu nó thất hãm còn đỡ, chứ nếu
Miếu, Vượng thì vô cùng nguy hiểm. Giường ngủ hay bàn học của con trẻ, nếu để
vào cung Hình thì dù có giỏi giang sáng dạ cũng không may khi thi cử, điểm số
không cao. Thiên Hình mà đóng ở cầu thang, lại gặp Mã thì ra Mã què, chủ gặp
khó khăn trong công việc, nhất là các thủ tục liên quan đến giấy tờ, thủ tục
hành chính. Nếu Hình Vượng thì chủ gặp tai nạn Giao thông, tai nạn thương tích
chân, tay. Hình, Lộc đi cùng nhau, chủ hay bị mất cắp, làm ăn đổ bể, thất tài, phá
sản, hoặc do làm ăn bất chính mà dính dáng tới Pháp luật. Thiên Hình chỉ nên
đặt tại nhà WC, phòng tắm, để yểm, trấn là tốt. Khi ấy Hình không còn hiệu lực
tác phát, trở thành vô họa.
5/ ĐẠI SÁT:
Đại sát là sát của Âm Khí, đó là loại đặc biệt độc. Đại sát thường
đóng ở tứ Quý. Đất của Tuế sát không thể phạm vào, phạm vào ắt thương tổn.
Nhà có chính Môn gia Sát là phạm vào cách hung họa nhất, chủ tai
nạn chết chóc, ốm đau, bệnh tật. Tai nạn giáng xuống liên miên. Nặng thì mất
mạng toàn Gia và chết đến một cách rất thê thảm, khủng khiếp. Nhẹ thì cũng Quan
trường bãi miễn, gia sản lụng bại, bần cùng. Tuế Sát mà Gia Môn thì thường sinh
ra người yểu tử (Hữu sinh vô dưỡng), hoặc sinh ra người tính tình ương ngạnh, hiếu
thắng, hung tơn, nham hiểm, bất nhân nhưng có đầu óc kinh doanh, thủ công, mỹ
nghệ. Tuy nhiên vẫn suốt đời vất vả, thường hay mắc nhiều tai ách và chẳng làm
nên công cán gì. Loại nhà này chẳng thể ở lâu, phải mau chóng sửa, trị kịp thời.
Đại Sát là một sao đại hung họa, nên vào cung nào cũng hung. Giường
ngủ hay bàn học của con trẻ, nếu để ở cung Đại Sát, được Sinh, Vượng Khí, thì
học tài thi phận, thi cử không may. nếu gặp Tử, Tuyệt thì lười biếng, ham chơi
lại hay nói dối.
Đặc biệt tối kỵ đặt bàn thờ vào cung Đại Sát, lúc đó sẽ có người
điện khùng, hoảng loạn, cũng có thể sinh ra người cờ bạc, nghiện hút, đổ đốn, hư
hỏng. Cung Đại Sát chỉ có thể đặt WC hay phòng tắm mà thôi .
6/ ĐỘC HỎA:
Độc Hỏa là khí Hỏa thịnh vượng, là Hỏa khí do sự biến đổi của Âm –
Dương tạo ra. Nó chính là khí Liêm Trinh nên mang nhiều sát khí. Độc Hỏa lâm
môn thì Hỏa khí vượng, khiến dễ bị Hỏa tai hay bị Hỏa khí bốc lên đầu, mà sinh
ra bệnh tật, đồng thời khiến cho những người sống trong nhà hay bị hồ đồ, lỗ
mãng. Độc Hỏa lâm môn hay sinh ra những người nóng tính, liều lĩnh, hung bạo, thường
làm những chuyện rồ dại. Độc Hỏa lâm môn cũng đồng nghĩa thóai tài, nghèo khổ.
Độc Hỏa là hung tinh nên khi đến cung nào cũng không tốt. Tuy vậy, Độc
Hỏa là hung tinh nhưng không quyết liệt như Đại sát, Thiên Hình. Do vậy, Độc
Hỏa chỉ thật sự gây tác hại khi đến cung đặt bàn thờ hay bếp. Những trường hợp
khác có thể châm chước được. Bàn thờ và bếp là hai cung phát hỏa nên không bao
giờ đặt bàn thờ và bếp vào cung có Độc Hỏa .



Thúc Đẩy Vị Trí Đào Hoa Tăng Cường Tình
Duyên
Tham khảo bản dịch của Thế Anh – http: //vanhoaphuongdong. com
Huyệt vị đào hoa, theo quan niệm của Khoa Phong Thủy Trung Hoa
gồm có ba hệ thống tính toán. Hệ thống đầu tiên là Lý Khí lại được chia làm hai.
Phái Bát Trạch thì lấy cung Diên Niên của phi cung mỗi người làm căn cứ để thúc
đẩy Đào Hoa hoặc căn cứ theo cửa để tính. Tức là Tý, Ngọ, Mão, Dậu tức là bốn
vị trí của Đào Hoa, tức là chính Bắc, Nam, Đông , Tây. Tất cả những nhà cửa lớn
hướng Dần, Ngọ, Tuất, Đào Hoa nằm ở chính Đông. Cửa lớn hướng Thân, Tý, Thìn, Đào
hoa tại hướng Nam. Cửa lớn hướng Hợi , Mão , Mùi Đào Hoa nằm chính Bắc .
Phái Cửu Tinh huyền không thì lấy sao Nhất Bạch thủy tinh làm
Đào Hoa tinh, căn cứ cung vị nó đóng ở mỗi nhà, hoặc bay đến hàng năm để kê đặt
cho đúng. Tuy nhiên phái này cũng coi Sao Nhất Bạch này là tán tài, giống như
chúng ta ngày nay thường hay đùa nhau rằng: “Yêu là tốn trong nhà một ít !”.
Hệ thống tính dựa trên Sinh Tiêu (Tuổi con gì) thì đặc biệt coi
trọng tính khác biệt của mỗi người, dù cùng chung một nhà nhưng tôi có Đào Hoa
của tôi, anh có Đào Hoa của anh, “Hồn ai nấy giữ !”. Cách tính như sau:
Năm sinh thuộc Thân Tý Thìn Đào Hoa Tại Tây Phương .
Năm sinh thuộc Dần Ngọ Tuất Đào Hoa tại Đông Phương .
Năm sinh thuộc Tỵ Dậu Sửu Đào Hoa tại Nam Phương .
Năm sinh tại Hợi Mão Mùi Đào Hoa tại Bắc phương .
Căn cứ vào tuổi của mỗi người, có thể bù đắp làm tốt thêm cho
Đào Hoa vị, Đào Hoa chỉ thích hợp dùng cho người có cùng tuổi phù hợp càng quý
hơn (Nghĩa là đối tượng cùng vị trí Đào Hoa thì việc thành công càng dễ hơn) .
Hệ thống cuối cùng thì đơn giản hơn nhiều. Bạn chỉ cần đứng
trong nhà nhìn ra cửa bên tay trái của bạn sẽ là Thanh Long ứng với nam tính, bên
tay phải là Bạch Hổ ứng với nữ tính. Nếu bạn là Nam thì dùng Bạch Hổ, Nữ thì
dùng Thanh Long. Chia mỗi bên làm ba khoảng cách bằng nhau nếu bạn là con trai
thứ 1, 4, 7 thì dùng phần đầu bên Bạch Hổ, 2, 5, 8 thì dùng vị trí thứ hai 3, 6,
9 thì dùng vị trí thứ ba. Nữ cũng thế mà suy ra cho bên Thanh Long. Xin lưu ý
là tính thứ tự của mình thì tính anh em nam riêng, chị em nữ riêng .
Vậy trong ba cách tính Đào Hoa này thì nên chọn cái nào !? Theo
tôi trước hết các bạn nên sử dụng theo cách tính của Bát Trạch và Cửu Tinh
trước rồi sau đến sử dụng hướng của Sinh Tiêu, hướng cửa. Nếu các vị trí đó đều
không thuận tiện để kê đặt thì sử dụng tới Thanh Long, Bạch Hổ .
Để sử dụng phép thúc đẩy Đào Hoa này các bạn có thể sử dụng các
Bảo Khí dùng trong Phong Thủy hoặc sử dụng ngay các vật có sẵn trong nhà như
giường ngủ, bình hoa, bề cá để kê đặt tăng cường cho Đào Hoa vận .
1. Giường Ngủ: Đây là phương pháp đơn giản mà không dễ, bạn chỉ
cần căn cứ theo các phép tính toán như trên rồi kê giường nằm quay đầu và đặt
trong cung vị đó là được. Tuy nhiên cần lưu ý tránh đừng để phạm vào các tiêu
chuẩn khác của Khoa Phong Thủy. Song nếu bạn là người yêu mãnh liệt thì không
ngại ! Tất cả cho tình yêu !
2. Bình Hoa: Tại các vị trí Đào Hoa đặt một bình nước trong, cắm
hoa tươi. Đây là một biện pháp giản tiện, mà hiệu quả. Tuy nhiên có mấy điều
các bạn cần lưu ý như sau:
– Bình Hoa nhất định phải có nước sạch và hoa tươi ! Nếu chỉ có
bình không bạn sẽ phải đối đầu với sự bất hạn trong tình cảm, như yêu đơn
phương, hoặc yêu mà không lấy được .
– Rất cần sử dụng hoa tươi, các loại hoa nhựa, hoa pha lê, hoa
khô đều không có kết quả gì. Số cành tốt nhất là 4 vì tượng cho 4 vị trí Đào Hoa
làm tăng thêm cơ hội cho bạn .
– Hoa tươi khi khô héo nhất định bạn phải thay hoa khác, nếu
không nó tượng trưng cho tình yêu của bạn nửa đường đứt gánh, hoặc miễn cưỡng
trong hôn nhân .
Màu sắc của bình hoa cũng nên phối hợp tốt với phương vị sẽ đặt.
Như Đông, Đông Nam sử dụng màu xanh. Nam sử dụng màu đỏ, hồng. Bắc dùng màu lam,
màu đen. Tây và Tây Bắc dùng màu kim, trắng. Tây Nam, Đông Bắc dùng màu vàng, màu
cam. Nếu sử dụng theo cách tính Thanh Long, Bạch Hổ thì Thanh Long dùng màu
xanh, Bạch Hổ dùng màu trắng .
Bình Hoa có thể sử dụng các chất liệu thuộc hành thổ như Gốm, Sứ,
Pha Lê …v…v… bởi hoa vốn sinh trưởng trong đất !
Dùng hoa tốt nhất là dùng các màu sắc diễm lệ như đỏ thắm, phấn
hồng, vàng, tím, các màu đen trắng rất kỵ .
Còn một vật dụng cũng rất quen thuộc nữ cũng dùng thúc đẩy
lương duyên mà khoa phong thủy hay dùng đó là bể cá cảnh. Đương nhiên trong bể
nhất định phải thả cá thật. Ngày nay do một số người ngại chăm sóc nên dùng bể
cá điện tử, trường hợp này cũng tương tự như dùng hoa giả vậy. Mầu sắc của cá
cũng khá quan trọng, nói chung là nên sử dụng các loại cá có màu sắc rạng rỡ, tươi
tắn, cũng có thể dùng loại cá nhiều màu tha thướt. Tốt nhất là các loại có ánh
kim. Xin các bạn lưu ý là không nên nuôi các loại cá thuộc dòng cá chép, bởi cá
chép (Lý Ngư) chủ về thúc đẩy tài vận, sự nghiệp còn đối với Đào Hoa vận lại vô
hiệu. Cá rồng thì càng không nên vì cá rồng sát khí quá mạnh, chủ về trấn sát, trừ
tà .
Xin gợi ý với các bạn một chút về mầu sắc: Đối với những người
thuộc phi cung Khảm , Chấn, Tốn các bạn có thể dùng các có sắc xanh, lam, đỏ. Đối
với người có phi cung Ly các bạn có thể dùng màu đỏ, xanh, vàng. Đối với người
có phi cung Càn, Đoài nên dùng trắng, bạch kim, vàng. Phi cung Cấn, Khôn nên
dùng đỏ, vàng, kim .
Có một điều mà sẽ ít người để ý đó là số lượng cá ; thật ra có
nhiều thuyết đưa ra để tính số cá cần thiết ; tuy nhiên có hai điều cần chú ý: Tuyệt
đối không thả một con ; nên có cặp đôi trống mái. Vì theo quy luật thiên nhiên
thì nam nữ kết hợp mới sản sinh vạn vật .
Trên đây là một số cách thúc đẩy tình yêu theo quan niệm triết
lý của Khoa Phong Thủy Á Đông. Mùa xuân về chính là mùa của vạn vật sinh sôi
kết thành đôi lứa, chuẩn bị cho một mùa sinh sản mới. Tất cả bừng tỉnh sau một
mùa đông dài lạnh giá. Còn các bạn hãy lạc quan cho tình yêu của mình và thử áp
dụng thêm các cách trang trí này xem. Hiệu quả đến đâu tự các bạn sẽ chiêm
nghiệm, nhưng có một điều quan trọng là các bạn còn yêu và muốn được yêu .
Có một điều nói khẽ là các biện pháp này chỉ dùng cho các bạn
chưa có gia đình. Đối với người đã có gia đình thì không có lợi, lại còn hại, vì
bạn sẽ vô tình đẩy bạn đời của mình vào tay người khác, hoặc tự chuốc cho mình
những rắc rối về tình cảm. Xin hãy cẩn thận !
Tuy nhiên nếu để bảo vệ hạnh phúc của gia đình mình thì bạn
cũng nên nắm rõ vị trí Đào Hoa của mọi người trong gia đình mình để hóa giải, bảo
vệ hạnh phúc gia đình. Với chủ đề này xin hẹn một dịp khác
14/ SỬ DỤNG GƯƠNG TRONG PHONG THỦY .
Trước hết nói về tấm gương:
1/ Những tấm gương có tác dụng phản chiếu: Khi người ta không
muốn nhận các tia hay các nguồn sáng, các dòng Khí (Qi)đi vào nhà hay một phần
nào đó của ngôi nhà, người ta thường dùng gương để phản chiếu nhằm đẩy hắt các
tia hay dòng khí đó đi. Khi căn nhà có hướng không hợp với tuổi chủ nhà, người
ta thường đặt một tấm gương ở mặt tiền căn nhà để hóa giải những bất lợi.
2/ Gương soi làm cho các vị trí mờ tối được sáng sủa lên. Ví
như trong căn nhà, hướng Đông Nam là cung Tài lộc, hướng Tây Bắc là cung Quý
nhân phù trợ, hướng Chánh Nam là cung Danh vọng, Hướng Chánh Bắc là cung Nghề
nhgiệp, hướng Chánh Tây là cung con cái, hướng Chánh đông là cung Gia đạo, hướng
Đông Bắc là cung Kiến thức, hương Tây Nam là cung Hôn nhân. Khi trong nhà phát
sinh ra sự xấu, ví dụ như Gia đạo lộn xộn, xào xáo, người ta đặt gương và những
bóng đèn ở cung Chánh Đông của ngôi nhà, tự nhiên mọi việc được hóa giải. . . .
Đây là cách trấn yểm dùng để khắc phục những sự xấu phát sinh trong nhà.
3/ Gương có tác dụng làm mất đi những góc cạnh hay khiếm khuyết
của ngôi nhà. Nếu ngôi nhà hương Tây bị khuyết góc chẳng hạn, sẽ ảnh hưởng rất
nhiều đến cuộc sống của Thiếu nữ sống trong nhà. Người ta dùng gương lắp vào
góc khuyết làm mất đi sự khiếm khuyết đó.
Gương còn có tác dụng hóa giải những cấy to hay trụ điện trước
cửa – Trường hợp này người ta hay dùng gương lồi hay lõm.
4/Gương soi có thể hóa giải cho những cầu thang đổ ra đường
(Làm cho tiền bạc trong nhà đổ ra vì hình tượng cầu thang đổ ra
đường có hình như một thác nước). Người ta dùng một tấm gương để hóa giải điều
đó. Lúc đó có hai cầu thang thật và ảo giống như hai con Rồng âm và dương đối
diện nhau. Bởi lẽ “Nhất âm nhất dương chi vi Đạo”nên hai con Rồng tương tác, hóa
giải được việc cầu thang đổ ra đường.
5 /Gương soi còn có tác dụng làm cho căn phòng thêm rộng ra, có
thể rời đổi vị trí của đồ vật kê trong phòng mà trong thực tế ta không có khả
năng dời đổi. Tác dụng này được sử dụng rất nhiều trong các trường hợp đồ vật
để không đúng chỗ mà người ta không thể dịch chuyển chúng sang vị trí khác. Lúc
đó ta dùng gương làm cho vật đó như đã được đổi chỗ.
Một điều rất quan trọng là khi đặt gương như thế nào cụ thể
trong nhà, bạn phải tính toán hết sức cẩn thẩn, vì đôi khi chỉ có một mảng
gương bằng bàn tay để không đúng chỗ sẽ làm cho cuộc sống của bạn đi về một hướng
khác.
PHẦN HAI LÀ NÓI VỀ NHỮNG NÉT PHÙ ĐƯỢC VẼ TRÊN GƯƠNG.
Thông thường các bạn chỉ tiếp xúc với những tấm gương bán trên
thị trường đã vẽ sẵn Tiên Thiên hay Hậu Thiên Bát quái.
Trong thực tế đó chỉ là một trong các dạng Linh phù, thường
được các Pháp sư vẽ trên gương, hay bảng gỗ, kim loại. . . Những Linh phù này
theo Huyền môn có tác dụng hóa giải những tác dụng xấu của ngôi nhà về nhiều
mặt, đây cũng là một dạng Trấn yểm mà các Pháp sư hay dùng để hóa giải những
cái xấu trong căn nhà.
Trong các dạng Linh phù (Hay còn gọi là Bùa), thì các Linh phù
dùng Bát quái có công năng giải trừ những điều xấu rất mạnh. Chính vì vậy, các
Pháp sư từ xưa đến nay sử dụng rất thông dụng trong việc Trấn yểm nhà cửa.
Trong việc trấn Trạch, người ta không chỉ sử dụng hai dạng Bát
quái Tiên Thiên và Hậu Thiên cơ bản có bán sẵn trên Thị trường để Trấn yểm, mà
người Pháp sư có học qua môn CẢM XẠ PHONG THỦY phải biết sử dụng cả 64 gương
Bát quái khi Trấn trạch. Tuỳ theo Sơn và Hướng của từng ngôi nhà cụ thể, người
ta có những QUẺ THU VÀ PHÁT của Bát quái để vẽ trên gương. Như vậy chúng ta
thấy rằng, hai loại gương Bát quái vẽ sẵn bán trên Thị trường chỉ là hai trường
hợp của 64 phương pháp Trấn trạch bằng gương Bát quái.
Ngoài ra, rất nhiều khi, người ta sử dụng gương để Trấn trạch
mà không sử dụng Linh phù Bát quái, mà tùy theo sự xấu xẩy ra trong nhà, người
ta vẽ các Linh phù khác nhau lên gương để Trấn yểm.
14/ HÓA GIẢI HÌNH SÁT: Trên thực tế, ít khi thấy một ngôi nhà hội
đủ những mặt đúng và tốt theo Phong thuỷ. Do vậy, Phong thuỷ học đưa ra những
phương pháp hoá giải hình sát, đó là những hình thế mang sát khí ở phía bên
ngoài ngôi nhà. Sau đây là cách hoá giải những hình sát thường gặp.
1. Phản quang sát:
Đó là những ngôi nhà gần sông, hồ, biển, ao lớn, khi sáng hay
chiều tà, ánh nắng mặt trời chiếu xuống mặt nước khúc xạ rồi lại hắt ánh nắng
vào nhà làm cho đầu óc người ta tối tăm, tinh thần tán loạn, có khi gây bệnh
nặng nguy đến tính mạng. Mặt nước như vậy được phong thuỷ gọi là “gương soi
chậu máu”. Một dạng phản quang sát khác thường thấy ở đô thị, nơi nhiều nhà cao
tầng, bên ngoài gắn nhiều kính và gương, khi ánh nắng mặt trời chiếu nghiêng, sẽ
phản quang chiếu xạ vào nhà đối diện. Phản quang sát như vậy khiến người ở đó
dễ mắc bệnh về máu hoặc gặp tai nạn do va đập. Hoá gỉai phản quang sát có thể
dùng giấy nhám có keo dính thấu suốt dán lên kính nơi ánh nắng hay chiếu vào. Ngoài
ra còn dùng hai xâu minh chú hồ lô treo ở hai bên góc cửa sổ. Nếu phản quang
sát mạnh thì đặt thêm hai xâu tiền cổ ngũ để phối hợp với bạch ngọc minh chú. Nếu
phản quang yếu thì không cần thêm hồ lô gỗ.
2. Liêm đao sát:
Đó là đất bằng có hình đường cong mà lưng cong quay về phía nhà,
có sức sát thương lớn gây đổ máu. Cách hoá gỉai: ở cát phương đặt một đôi ngựa
đồng và ngũ đế bạch ngọc thì có thể hoá gỉai được.
3. Thương sát:
Đây là một loại sát khí vô hình, phong thuỷ gọi là “nhất điều
đạo lộ, nhất điều thương”, tức là có một hành lang thẳng và dài đối thẳng với
cửa chính ngôi nhà. Ngoài ra ở ngoài cửa sổ có trồng trúc lá nhọn chĩa vào, cũng
là thương sát. Lấy nhà mình làm trung tâm, thấy có đường thẳng hoặc dòng sông
chĩa thẳng vào nếu khi mở cửa sổ ra quan sát được, cũng là thương sát. Ảnh
hưởng: tai nạn chẩy máu, bệnh tật. Cách hoá gỉai: treo rèm hạt châu hoặc làm
bình phong. Hoặc ở cửa sổ treo một đôi chuông gió kỳ lân hoặc đặt kim nguyên
bảo.
4. Bạch hổ sát:
Bạch hổ sát là bên phải nhà đang ở, hàng xóm phá thổ; hoặc bên
phải nhà có một toà nhà xây lên hoặc phá đi. Ảnh hưởng đến bệnh tật. Cách hoá
gỉai: cạnh tường bị xung sát đặt hai xâu ngũ đế bạch ngọc hoặc hai con kỳ lân
cùng với minh chú hồ lô.
5. Thiên trảm sát:
Nếu từ ngôi nhà mình ở nhìn ra ngoài thấy phía trước có hai toà
nhà cao tầng rất gần mà giữa hai nhà cao tầng ấy hình thành một kẽ hở rất hẹp, nhìn
vào như chiếc búa trời chém xuống tách làm đôi sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và gây
tai nạn. Hoá gỉai: đơn giản là đặt ngựa đồng hoặc một đôi kỳ lân đặt ở chỗ sát
khí xông đến để ngăn sát.
6. Pháo đài sát:
Có những ngôi nhà nằm đối diện với một toà kiến trúc có hai
khẩu pháo thật hoặc gỉa chĩa vào, gặp trường hợp này là phạm sát, khiến người ở
tính khí cục cằn, do lợi mà mất nghĩa tình. Vì sát khí ở đây rất lớn, cho nên
vật hoá sát cũng phải nhiều, như ở hai bên cửa sổ treo đôi chuông gió kỳ lân, ở
giữa cửa đặt tiền cổ ngũ đế và 5 xâu minh chú hồ lô.
7. Khai khẩu sát:
Khai khẩu sát là ngôi nhà có cửa chính đối diện với cửa cầu
thang máy của một ngôi nhà khác; khi ta mở cửa nhà, thấy cánh cửa cầu thang máy
mở ra, nhìn vào như một cái mồm to muốn nuốt mình. Trường hợp này có thể tốt mà
cũng có thể xấu, như người xưa nói: “Xung khởi lạc cung vô giá bảo”, nghĩa là: khi
đang gặp vận tốt thì có chuyện vui mừng, nhưng khi vận xuống thì người trong
nhà gặp cảnh ốm đau hoặc tán tài. Hoá gỉai khai khẩu sát: cửa treo rèm, trên đó
có minh chú quan âm, thêm một bộ tiền ngũ đế, nếu để kín trong chốt cửa thì
càng có hiệu qủa.
8. Đao sát:
Đó là hình vật giống như con dao chĩa thẳng vào nhà. Trong
thành phố, nhiều toà nhà cao tầng có lối kiến trúc dài, một đầu nhà trông giống
cán chuôi dao chĩa vào một khu nhà cao tầng khác, như ở Hồng Kông, trung tâm
ngân hàng Hưng Cảng có đầu hồi giống cán dao chĩa vào phủ Thống đốc. Phạm sát
này, phong thuỷ cho rằng dễ bị thương nạn. Hoá gỉai đao sát: ở trong nhà đặt
long thần toạ đã đánh bóng thì hoá gỉai được sát này.
9. Xung sát:
Hiện nay, do tốc độ xây dựng ngày càng nhanh và ngày càng nhiều
ngôi nhà chọc trời, theo phong thuỷ học, người ở từ tầng lầu thứ 5 trở xuống dễ
bị xung sát, vì hay bị cột đèn hoặc cây cối ngăn cản. Phạm sát này người ta dễ
bị nhiễm bệnh. Hoá gỉai sát này dùng tiền cổ văn xương ngũ đế đã đánh bóng treo
trong nhà; hoặc cửa đối diện với cây cối, cột điện treo rèm hạt châu hay bình
phong.
10. Cô dương sát:
Là khi nơi ở gần trạm biến thế điện, trạm bán xăng dầu, trạm
bán gas, người ở nơi đây tính tình bất định, thô bạo, vì lợi mà vất bỏ tình
nghĩa, trong nhà hay xô sát, cãi nhau. Hoá gỉai bằng cách lấy hồ lô gỗ đánh
bóng và la bàn bát quái treo phía tường giáp các vật gây sát nói trên. Nếu chủ
nhà ốm yếu, nhiều bệnh thì treo thêm hai xâu minh chú hồ lô cũng ở vị trí này.
11. Độc âm sát:
Là loại hình sát khi trước nhà cao tầng có nhà vệ sinh công
cộng, hoặc nơi thu mua phế liệu, nơi gom rác. Nhà ở từ 5 tầng trở xuống thường
phạm loại độc âm sát này. Nếu các trạm thu gom rác thải hay nhà vệ sinh càng
gần nhà, thì độc âm sát càng nặng, ảnh hưởng đến sức khoẻ mọi hành viên trong
gia đình, hao tài tốn của. Nếu độc âm sát đến từ bên ngoài, ở trong nhà đặt hồ
lô gỗ và tiền cổ ngũ đế có thể hoá gỉai sát khí; nếu độc âm sát đến từ trong nhà,
thì căn buồng cạnh nhà vệ sinh treo 4 xâu minh chú hồ lô.
12. Thanh sát:
Âm thanh có thể làm rung động lòng người, cũng có khi gây khó
chịu cho con người, gây ảnh hưởng hoặc bệnh thần kinh, khi đó âm thanh trở
thành thanh sát. Nhà ở gần sân bay, bến tàu, ga xe, đường sắt… đều có thanh sát.
Thanh sát nếu xuất hiện từ phương Tây Nam(phương Khôn) là hung nhất. Trong
trường hợp này, hoá sát bằng cách đặt hồ lô đồng hoặc hai xâu chuông gió kỳ lân
ở phương Khôn để hút hung khí. Tuy vậy cũng không thể loại trừ âm thanh bên tai,
cách thông thường phải đóng kín cửa nhà.
13. Cân trời xung xạ sát:
Là nơi ở gần công trường xây dựng quy mô lớn, cạnh đó có tháp
cần trục cao để nâng vật liệu, khi mở cửa ra thấy cần trục là phạm cân trời
xung xạ sát. ảnh hưởng của sát khí này thường gây bệnh mắt hoặc dễ bị thương. Hoá
gỉai sát khí này bằng cách đặt ngay phía xung sát long thần toạ và tiền cổ ngũ
đế phối với bạch ngọc.
14. Tiêm xạ sát:
Gần giống thương sát nói trên, chỉ khác có nhiều góc nhọn và
chúng không tập trung chỉ một hướng nhất định. Ví dụ trong nhà đặt núi gỉa có
đá nhọn, các tượng hay hình điêu khắc có các mũi nhọn chỉ vào đâu đó trong nhà.
Khi mở cửa ra, nhìn thấy núi với vô số mũi đá nhọn chĩa vào, cũng gọi là tiêm
xạ sát. Cách hoá gỉai: đặt chén liên hoa tại phương sát ở trong nhà và tiền cổ
ngũ đế có thể không chế sát khí này.
15. Phản cung sát:
Là phía trước ngôi nhà có đường hình cong mà lưng cong lại đối
diện với cửa nhà, phạm sát này dễ bị tai nạn hoặc tiêu tốn nhiều tiền của một
cách vô ích. Nếu phản cung sát nằm ở phía Đông Tây ngôi nhà thì sức sát thương
càng lớn; nếu xuất hiện ở cạnh một thôn xóm, cả thôn sẽ có nhiều người bị tai
nạn, hao tốn tiền của. Nếu phản cung sát lại là khúc sông hay con ngòi, thì sức
sát của nó càng lớn. Do vậy, khi mua nhà, người ta hết sức chú ý địa hình xung
quanh. Hoá gỉai sát này dùng đồng tử vận tài đánh bóng để đặt trong nhà gỉai
sát, đặt minh chú hồ lô và tiền cổ ngũ đế đặt ở phía phản cung chĩa vào nhà
mình. Cũng có thể đặt một đôi kỳ lân đặt ở phương phạm sát để ngăn sát.
16. Hỏa hình sát:
Khi ngoài nhà có những vật thể nhọn sắc xung xạ chiếu đến, như:
góc tường nhà cao tầng, góc đình, những pho tượng nghệ thuật dựng ở công viên…,
ống khói từ 3 cái trở lên, tam giác, góc nhọn, góc rẽ của con đường chĩa thẳng
vào nhà. ảnh hưởng của sát này rất mạnh, thường gây bệnh đường ruột, nhà dễ bị
hỏa hoạn. Hoá gỉai bằng cách dùng gấu trắng bằng đồng để ngăn sát, hoặc dưới
cửa treo tiền đồng để tăng sức mạnh hoá gỉai sát khí từ bốn phương.
17. Liêm trinh sát:
Khi lưng nhà dựa núi, theo phong thuỷ là cát tướng, đó là “đằng
sau dựa minh sơn là nắm quyền”. Nhưng núi dựa phải có cây cỏ tốt tươi, hình
dáng thanh tú. Nếu núi dựa ít cây cối, đá lộ ra lởm chởm, phong thuỷ gọi là
liêm trinh sát, làm cho tài năng người ở bị thui chột, không phát huy được. Nếu
bản thân là công chức thì không có thực quyền, nếu có quyền thì cấp dưới không
phục, hay chống đối. Hoá gỉai bằng cách: thường buông rèm cửa sổ, ở phưng phạm
sát đeo hồ lô hoặc 2 xâu ngũ đế mịnh chú. Nếu nặng dùng 4 đôi gấu trắng để ngăn
sát.
18. Thích diện sát:
Trường hợp trước cửa hoặc cửa sổ thấy sườn núi nhấp nhô, gọi là
thích diện sát. Loại này làm cho người trong nhà dễ bị người khác đánh đập hoặc
bị thương, hoặc dễ có hành vi phạm pháp. Hoá gỉai bằng cách treo hai xâu mịnh
chú hồ lô hoặc tượng voi bằng đồng trước cửa hoặc cửa sổ.
19. Ngô công sát:
Khi mở cửa nhà hay cửa sổ nhìn thấy những vật thể như ống dẫn
nước, cống dẫn nước bẩn, có ống chính và ống phụ trông như con rết. Ảnh hưởng: người
ở hay bị đơm chuyện đặt điều, công việc không thuận lợi. Hóa gỉai bằng cách
dùng một đôi gà đồng đặt ở phương phạm sát.
20. Đỉnh tâm sát:
Là trước cửa hay cửa sổ có cột đèn, biển chỉ đường, biển quảng
cáo, chúng sẽ tạo ra xung xạ vào nhà, làm cho người ở tính bất định, hay cáu
gắt, dễ bị tai nạn. Hoá gỉai bằng cách dùng 2 xâu ngũ đế minh chú để chế sát.
Những quan niệm khống chế hình sát theo quan điểm của Phong
thuỷ học nêu trên, chỉ có giá trị tham khảo .



15/ Nhà ở và phân gian
Phong thuỷ học cho rằng, ngôi nhà tuy nằm trên mảnh đất đẹp về
hình và thế, chọn phương và hướng đúng phong thuỷ, song việc bố trí phân gian
các căn phòng trong khuôn viên căn nhà không đúng cách cũng gây bất lợi. Về vấn
đề này, người xưa quan niệm như sau:
Nhà ở lớn người ít thì dương khí không đủ, thiếu sự phát triển, dần dần đi
đến suy vi, nghèo khó. Theo quan điểm của xã hội hiện đại, điều đó có thể có
căn cứ vì những lý do sau đây: chủ nhà mất thời gian và mệt nhọc phải quét dọn,
làm vệ sinh các căn phòng; phòng không có người ở lâu ngày ẩm thấp, mốc meo, ánh
sáng không đủ, không thông gió sẽ mau hỏng; về tâm lý học, không gian quá rộng
khiến người ở cảm thấy không ổn định. Các nhà kiến trúc, môi trường đưa ra cách
tính diện tích ở hợp lý theo số người như sau:
Đối với nhà đông người, lấy tổng số tuổi của mọi người
trong nhà nhân với 1m vuông chính là tổng diện tích quy ra mét vuông ngôi nhà
gồm phòng khách, phòng ngủ bố mẹ, phòng ngủ con cái, phòng ăn, nhà tắm và vệ
sinh. Như một gia đình có 4 người, chồng 35 tuổi, vợ 30, con 9 tuổi và 6 tuổi, tổng
số tuổi của họ là 80, vậy diện tích ở thích hợp là 80 m vuông.
– Một cách tính khác là tính theo từng đầu người, như phòng ở
bố mẹ là 50m vuông, con chưa đến tuổi đi học là 10m vuông, con học mẫu giáo, tiểu
học, phổ thông trung học mỗi suất 15m vuông, học đại học trở lên và người già
mỗi người 20m vuông. So với cách tính qua ví dụ trên, kết qủa như nhau.
Nhà ở nhỏ người đông theo bí truyền dương trạch là tướng tôn quý phồn vinh. Phong
thuỷ cho rằng, ở trường hợp này do người đông nên dương khí sung mãn, sinh khí
tràn đầy, báo sự phát triển dần thành giàu có, làm ăn phát đạt. Tuy vậy ở ngôi
nhà này phòng khách phi rộng rãi thích đáng, các phòng khác phi thiết kế đặc
biệt để có thể sử dụng hết công suất.
Nhà ở chiều sâu dài hơn chiều ngang. Chiều sâu nhà tính từ cổng
trước đến cổng sau, chiều rộng tính từ bên trái đến tường bên phải. Người xưa
cho loại nhà này là cát lành. Nếu chiều sâu không dài, tuy có khí phồn vinh
nhưng không bền. Quan điểm này có cơ sở bởi Trung Hoa cổ xưa tiền thuế đất ở
tính theo chiều rộng sát mặt đường; mặt khác chiều sâu nhà dài ngăn gian dễ. Để
giữ được bí mật trong nhà thì các phòng đều ngăn lùi về phía sau là thuận nhất.
Nhà ở bề ngang dài hơn bề sâu. Theo Phong thuỷ học, nhà bề ngang rộng hơn bề sâu, người
nhà dễ sinh bệnh, là hung. Ngày nay các ngôi nhà được xây dựng thường bị ảnh
hưởng bởi địa thế đất mà người ta có. Sau khi xây dựng, tỷ lệ bề ngang gấp đôi
bề sâu, Phong thuỷ cho là được. Song loại nhà này có nhược điểm làm cho từng
thành viên trong nhà sống không độc lập, sắp xếp đồ đạc thường khó khăn.
Nhà ở ngăn 3-4 gian. Theo thuật số Trung Hoa cổ xưa phán đoán
sự cát hung trong kiến trúc theo số gian của ngôi nhà: một gian là cát, hai
gian không chướng ngại, 3-4 gian là hung, 5, 6, 7 gian là cát, 8 gian là hung, 9
gian là cát.
Gia đình hiện đại thông thường có ba loại không gian: không
gian ngủ, bao gồm phòng ngủ của vợ chồng, của con cái là hai làm chuẩn, nếu có
ông bà phải có phòng riêng, ngoài ra có nhà tắm nhà vệ sinh; không gian ăn uống
bao gồm nhà bếp, nhà ăn; không gian dùng vào việc khác như phòng khách, phòng
đọc sách, tiền sảnh, ban công, nhà kho, nhà xe…Theo ba loại không gian, loại
nhà rộng để ngăn phòng như trên không phải ai cũng có. Vì vậy, người ta thường
gộp lại dùng chung mấy loại không gian, như vậy nhà ngăn 3, 4 gian là không đủ
dùng. Nhưng nhà quá nhỏ ngăn ra nhiều phòng là không dễ, mà có được cũng không
tiện. Có lúc người ta dùng chung phòng ăn, phòng khách dùng chung làm một, làm
cho nhà hung trở thành nhà cát.
Gian giữa ngôi nhà khi trở thành không gian vô dụng. Theo gia
tướng học, gian giữa ngôi nhà được cho là gian quan trọng nhất. Nếu gian giữa
nhà bố trí thành giếng trời, nhà tắm, nhà vệ sinh hoặc thành một không gian vô
dụng sẽ là hung tướng, quyền uy của chủ nhà ngày càng sa sút.
Gian giữa nhà tốt nhất nên bố trí là tiền sảnh để mọi người
trong nhà có thể tụ họp chuyện trò, vui chi gỉai trí hoặc nghỉ ngi. Nơi đây có
lúc dùng làm phòng tiếp khách hoặc phòng ăn. Gian này phải mở nhiều cửa sổ và
cửa rộng để người ra vào dễ dàng, nên đặt ghế ngồi, ti vi, máy hát ở đây. Gian
phòng này phải rộng, thoáng, độ cao từ 8 điệp (2, 4m) đến 12 điệp (3, 6m), phía
Đông Nam cần có cửa sổ để thông gió.
Phòng ngủ của chủ nhà đặt giữa nhà. Trong gia tướng học, phương
vị có liên quan rất nhiều đến sự cát hung cho người ở, nguyên điểm quan trọng
nhất của phương vị là điểm trung tâm của nhà. Ngôi nhà là tượng trưng cho địa
vị quyền thế của người chủ, nên gian giữa bố trí làm phòng ngủ của chủ nhà là
thích hợp nhất.
Nhà ở hiện đại, phòng ngủ thường đặt ở một góc nhà, theo gia
tướng học địa vị chủ yếu của chủ nhà không được tôn trọng, trong nhà hay xẩy ra
tranh chấp, thiếu không khí thân mật và ấm áp trong nhà, dẫn tới người chủ nhà
càng tìm cơ hội tìm niềm vui bên ngoài, không muốn về nhà, tính cách tiêu cực, gia
đạo ngày càng suy vi, về cuối không cứu vãn nổi, gia đình tan nát.
Cửa chính và cổng thành một đường thẳng. Cổng và cửa chính ngôi nhà
thành một đường thẳng, theo gia tướng học có sát khí, không lợi cho người ở. Về
lý thông thường, cửa, cổng như vậy dễ để người ngoài dò xét nội tình bên trong
căn nhà, cho nên người xưa làm cổng hơi lệch về trái hoặc về phải một chút để
cho nhà kín đáo. Ngày nay đất chật người đông, nhiều nhà không có cổng, chỉ có
cửa chính ra vào, Phong thuỷ khuyên nên làm cánh cửa đẩy vào trong, cửa sẽ kín
đáo và an toàn hơn, còn có hàm ý như đón mời khách vào nhà, nhà sẽ nhiều khách.
Nhà đông khách là đầy sinh khí, cuộc sống và làm ăn phát đạt. Người xưa có câu:
“Môn đa khách đáo thiên tài đáo, gia hữu nhân lai vạn vật lai ”(cửa rộng thì
tài nhiều, nhà nhiều người lui tới phát đạt giàu có).
Nhà ở không mở cửa sau. Theo sách cổ Lạc địa của Trung Hoa cổ đại, nhà dù lớn
hay nhỏ mà không có cửa sau thì không nên ở, vì ở vợ chồng trước sau cũng ly
tán, người mất người còn. Cái lý của quan niệm này do xưa có kẻ thù có khi đến
gây hại, nếu không có cửa sau không có lối thoát hiểm. Của sau cũng có thể là
cửa sổ, nếu không như cách nói của phong thuỷ sẽ gặp hung hoạ.
Theo quan điểm của vệ sinh phòng bệnh hiện đại, nhà có cửa
trước không cửa sau không khí không lưu thông, không có sự thông gió, thấp khí
nặng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người trong nhà.
Nhà ở hướng về Nam các phòng đặt bên phía Tây, buổi sáng có đủ
ánh sáng mặt trời, mùa Đông rất ấm áp, mùa hè gió nồm nam thổi tới, mùa Đông
ngăn được gió lạnh từ Đông Bắc về, do vậy đây là ngôi nhà cát tướng.
Phòng ngủ và cửa chính thành một đường thẳng. Sự ngủ và phòng ngủ là quan
trọng đối với cuộc sống mỗi người. Người xưa khi bố trí phòng ngủ bao giờ cũng
suy xét hai điều kiện là an toàn và yên tĩnh, an toàn được đặt lên vị trí hàng
đầu. Phòng ngủ gần cổng, gần cửa chính đều có sát khí, người xưa cho là dễ bị
kẻ xấu quấy rối, đột kích.
Phòng ngủ và cửa chính thành đường thẳng, khách đến nhà phải đi
qua phòng ngủ khiến người ta cảm thấy không an toàn, không tiện lợi nên ngủ
không yên.
Phòng ngủ cạnh bếp. Người xưa không bao giờ đặt phòng ngủ cạnh bếp vì cho
là hung. Trên thực tế, phòng ngủ cạnh bếp bị nhiễm nhiều tiếng ồn, vì nơi đây
nhiều người qua lại, nói năng ồn ào, dễ bị hỏa hoạn. Phòng ngủ tốt nhất đặt nơi
ngăn cách với bên ngoài; nơi ít người qua lại nhất và an toàn nhất. Ngoài ra
phòng ngủ phải luôn thông gió mới đảm bảo sức khoẻ cho con người.
Từ ngoài nhìn thấy bếp trong nhà bếp. Theo gia tướng học, người
ngoài cửa thấy được lửa khi bếp đang đun là không tốt, vì người xưa cho rằng
lửa là thần linh nên không để ai nhìn thấy. Theo lý thông thường, nhà bếp như
chỗ hậu sân khấu, theo quan điểm mỹ học, không nên để người ngoài nhìn vào nơi
lộn xộn này. Phong thuỷ học còn cho rằng, nhà bếp sạch sẽ không mùi hôi thì mới
làm ăn phát đạt, gia đình hưng vượng.
Nhà vệ sinh đặt ở giữa nhà.
Theo lý thông thường, nhà vệ sinh đặt giữa ngôi nhà là thiếu mỹ
quan, vì nó phá mất bố cục chung của ngôi nhà. Nhưng có người cho là tiện, vì
mọi người ở các phòng khác nhau có thể vào đó mà không làm phiền nhau. Trong
gia tướng học, người ta rất coi trọng vị trí trung tâm ngôi nhà, coi đây là vị
trí tốt nhất cho chủ nhà, chỉ có thể đặt nhà tiền sảnh hoặc nhà khách là hợp lý
nhất. Nếu nhà vệ sinh đã đặt ở giữa nhà, phải chú ý khâu vệ sinh, không cho mùi
hôi bốc ra xung quanh. Xong cũng không nên đặt nhà vệ sinh ở giữa nhà, phong
thuỷ cho như vậy là không cát.
Cầu thang đặt ở giữa nhà là không tiện, vì trong gia tướng học, giữa
nhà là nơi quan trọng của chủ nhân, nên tốt nhất là phòng ngủ của chủ nhà; cầu
thang đặt ở giữa nhà, khác nào cắt đôi ngôi nhà, làm mất đi vẻ hoàn chỉnh ngôi
nhà đó, phong thuỷ cho như vậy sẽ ảnh hưởng tới hạnh phúc của toàn gia. Việc bố
trí cầu thang phải căn cứ vào tình hình các phòng ở tầng trên mà quyết định, thường
nên đặt ở sát rường. Nếu phòng khách đặt ở tầng trên thì cầu thang nên đặt gần
cổng để khi khách đến nhà đi thẳng lên phòng khách. Nếu phòng ngủ đặt ở các
tầng trên thì cầu thang nên đặt ở góc cửa chính, hoặc cạnh nhà ăn, nhà bếp.
Cửa sổ đặt ở hướng Bắc ngôi nhà, người xưa cho rằng kinh nguyệt
của phụ nữ trong nhà không đều. Đông y cho rằng, môi trường lạnh lẽo cũng gây
bệnh phụ nữ. Ở Việt Nam, cửa sổ đặt hướng Bắc, gió mùa đông Bắc lạnh lẽo sẽ
thổi vào nhà, khiến ở trong nhà rất khó chịu, nhất là đối với phụ nữ, nên dễ
gây bệnh cho họ. Nếu phải mở cửa sổ hướng Bắc, thì nên mở cửa sổ nhỏ đủ để
thông gió; cửa nên làm hai lớp kính để chống lạnh.
Nhà hướng Tây, mở cửa sổ hướng Nam, theo bí tryền của phong
thuỷ là cát, nhất là mở cửa sổ lớn. Tuy vậy cũng nên một cửa sổ nhỏ hướng bắc
để thông gió, làm cho mùa hè đến thì mát.
Nhà bếp hướng Đông. Theo phong thuỷ học, nhà bếp hướng về Đông
hoặc Đông Nam là cát. Cái lý ở đây theo học thuyết ngũ hành: đốt mộc thì sinh
hỏa, mộc thuộc Đông, hỏa thuộc Nam, sự nhóm lửa của bếp là có sự sinh, cho nên
nhà bếp ở hai hướng này là cát. Theo quan điểm môi trường sinh thái, nhà bếp ở
hai hướng nói trên là tốt. Buổi sáng nhiệt độ thấp nhưng được ánh sáng mặt trời
chiếu vào, buổi chiều nhiệt độ cao lại trở thành nơi mát mẻ, việc bảo quản thức
ăn và thực phẩm dễ dàng.
Xây thêm nhà phụ ở hướng Tây nhà chính. Theo phong thuỷ học, nếu
xây thêm nhà phụ ở phía Tây nhà chính là dấu hiệu phồn vinh của gia chủ, nếu có
hành lang liên kết hai nhà lại thì được cát tướng. Tuy vậy, khi xây nhà phụ, điều
đầu tiên khi chọn hướng không cản trở nhà chính. Vì nếu nhà phụ đặt ở phía Đông
hoặc Nam sẽ cản trở sự thông gió và ánh sáng của nhà chính, nếu đặt ở phía Bắc
thì sẽ bị nhà chính che chắn hòan toàn, thông gió không tốt. Nếu nhà chính và
nhà phụ có hành lang thông nhau thì không phải đi qua các phòng khác, không ảnh
hưởng tới sự kín đáo của phòng khác, điều mà phong thuỷ học cho là không tạo ra
sát khí.
Trên đây là cách phân gian trong một ngôi nhà theo phong thuỷ
học, quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo.



16 / NHỮNG LỐI KIẾN TRÚC GÂY TAI HẠI.
Ngày nay, khi xây dựng những công trình dân sinh, người ta
thường thiết kế theo trường phái công năng, tạo điều kiện tiện dụng tối đa cho
người ở. Theo Phong thuỷ học, nhiều khu nhà theo lối kiến trúc này, cũng gây
những sự cố về tài vận và sức khoẻ cho người ở. Sau đây là những lối kiến trúc
thường gặp, dưới góc nhìn của phong thuỷ học là chưa ổn.
Hành lang giữa nhà, chủ sẽ phân ly
Trong các ngôi nhà cao tầng hiện đại, thang máy và hành lang
thường ở trung tâm nhà, các phòng tỏa ra 4 hướng, 6 phương…, nhiều trường hợp
hành lang đặt giữa nhà, Phong thuỷ học cho rằng, đó là lối thiết kế gây xấu
nhất cho người ở.
Có những đơn nguyên tương đối lớn, bước vào cửa đã là phòng
khách, phòng ăn, cửa chính đối thẳng với hành lang mà độ dài hành lang bằng nửa
diện tích nhà. Tình hình càng bất lợi hơn đối với người ở, khi nhà vệ sinh lại
ở hai bên hành lang. Nếu kiến trúc nhà ở như vậy, chủ nhà thường dễ phân ly
hoặc bệnh tật, vận thế cũng đi xuống. Phong thuỷ học cho rằng, để hoá gỉai sát
trong trường hợp này, tốt nhất là dùng rèm treo cửa bằng vỏ ốc hến.
Cái xà cái cột gây bệnh
Trong kiến trúc hiện đại xưa và nay khác nhau về sử dụng vật
liệu, tạo dáng… mà còn khác nhau về cái cột cái kèo (hay xà). Cột kèo của người
Việt Nam, Trung Hoa xưa phần lớn là hình tròn, nếu có dùng hình vuông thì bao
giờ người ta cũng vuốt bỏ góc nhọn đi. Kiến trúc hiện đại, cột bằng bê tông, hầu
như là hình vuông. Về kết cấu xây dựng không thể không có cột xà, Phong thuỷ
học cho rằng, những cột phải dấu trong tường, không lộ ra, vị trí dầm cần tính
toán hợp lý cho bố trí nội thất. Với loại nhà này, vị trí đặt giường ngủ cần
cân nhắc, nếu nơi ngủ bị xà (hoặc kèo) đè, sẽ sinh ốm đau, vận thế đi xuống.
Làm ăn lụn bại vì hướng cửa sai
Phong thuỷ học cho rằng, phưng vị của cửa là chủ sát hung hoặc
cát đối với chủ hộ, do vậy khi xây nhà hoặc mua nhà, người ta rất chú ý điều
này. Một nữ doanh nhân tuổi Mùi, người Hồng Kông ngoài 30 tuổi đang làm ăn phát
đạt, có tiền mua căn nhà, sau khi về ở, bỗng dưng làm ăn đi xuống. Nhiều hợp
đồng mà chị đã ký kết bỗng dưng bị huỷ bỏ. Linh cảm thấy việc làm ăn của bản
thân có liên quan đến ngôi nhà, mời thầy Phong thuỷ đến xem xét. Thầy Phong
thuỷ phát hiện cổng chính ngôi nhà đặt không đúng phương vị, nên sự kinh doanh
của chị đi xuống. Chị tuổi Mùi, nhưng cổng chính lại ở Thân Sơn; nhà toạ Dần
hướng Thân không đẹp, khí khẩu hỗn tạp. Cửa sổ mở ra ở phương Đông và Đông Bắc,
niên sát nằm ở Mão Sơn, phối hợp niên vận gọi là điệp sát (sát kép). Do vậy nữ
doanh nhân này suy thoái trong làm ăn do phương vị cửa không nạp vượng. Theo
lời khuyên của thầy phong thuỷ, trước cửa sổ phương vị chính Đông, đặt một chậu
nước nuôi cây cảnh, ở cổng chính phía trong treo một bức rèm kết bằng vỏ ốc hến
để hy vọng có thể giảm bớt điều không lợi. Sau không đầy một tháng, nữ doanh
nhân làm ăn có khá lên, nhưng thầy Phong thuỷ vẫn khuyên nên đổi nhà.
Về chuyện ấy…
Phong thuỷ học cho rằng, vị trí phòng ngủ trong nhà có liên
quan đến quan hệ giới tính của gia chủ; như phạm hay không phạm đào hoa, có hay
không lãnh cảm và bất lực giới tính. Khái niệm đào hoa ở đây chỉ ngoài người
bạn đời chính thức, còn có quan hệ với người bạn khác giới nữa.
Trong 24 Sơn hướng của phong thuỷ học, nếu chủ nhân có phòng
ngủ ở Mão Sơn và Dậu Sơn dễ phạm đào hoa, còn nằm ở vị trí Tý Sơn và Ngọ Sơn là
cũng có đào hoa, nhưng không mạnh mẽ. Về vấn đề này, phong thuỷ học còn cho
rằng, phải xem xét thêm bản mệnh của gia chủ. Trong môn tử vi, người có mệnh
thân ở Mão Dậu thì có đào hoa, nếu phòng ngủ lại nằm ở Mão Sơn, Dậu Sơn thì đào
hoa càng mạnh; người tương khắc với Mão Sơn, Dậu Sơn thì mắc chứng lãnh cảm
giới tính hoặc bất lực tình dục. Những người này muốn khôi phục lại giới tính
trời sinh, hẳn phải bố trí giường ngủ ở Mão Sơn, Dậu Sơn.
Phong thuỷ học cho rằng, người bản mệnh đào hoa, phương vị
phòng ngủ lại ở Mão Sơn, Dậu Sơn thì nên đổi vị trí phòng ngủ, nếu không, có
người “nằm ngủ trên giường mà lòng tơ tưởng ”, còn ông chồng thì dễ biến thành
“người sâu đo”. Khái niệm “người sâu đo”do dân gian Trung Hoa cổ đại cuối Triều
Minh chỉ những quan đại thần giầu có, sinh hoạt xa xỉ, rất nhiều nàng hầu thê
thiếp; suốt ngày đêm uống thuốc kích dục để cùng thê thiếp hoan lạc, nhằm quên
đi nỗi sắp mất nước về tay nhà Mãn Thanh. Vì dâm dục quá độ, có quan đại thần
chết, nhưng có người không chết được, xưng cốt rã rời, người co rúm lại, không
duỗi thẳng ra được, giống hình con sâu đo, người dân đương thời gọi họ là
“người sâu đo”.
Phong thuỷ học còn cho rằng, trong thế giới đương đại, người
bản mệnh đào hoa, giường ngủ ở Mão Sơn hoặc Dậu Sơn, nhà lại ở gần đền miếu, khí
âm sát ở đây nạp vào nhà, ông chủ nhà cũng sẽ trở thành “người sâu đo”nếu không
đổi Phong thuỷ.
Không nên ở nhà tầng lầu có góc nhọn
Kiến trúc hiện đại có nhiều ngôi nhà có những cụm nhà cao tầng
liên kết với nhau, ở mỗi tầng lầu có tới 6 đến 8 đơn vị, trên mặt phẳng mỗi
tầng lầu nhìn ra như hình quạt; cầu thang máy và hành lang đều đặt ở giữa lầu
có thể toả ra 6 phương 8 hướng. Cách thiết kế này tạo ra từng bộ phận nhô ra
một góc, làm cho ánh sáng và không khí vào từng căn hộ đầy đủ. Đứng về góc độ
phong thuỷ mà nói, vì các hộ chĩa ra 6 phương tám hướng, nên không đạt được “4
bình 8 ổn”, mà mỗi căn hộ có một phòng với một góc nhọn. Những người sống trong
ngôi nhà ấy luôn cảm thấy mơ hồ, trong lòng lúc nào cũng buồn bực, sức khoẻ
gỉam dần, gia cảnh sa sút. Xu hướng xấu nặng hay nhẹ, còn tuỳ thuộc vào mệnh
của chủ nhân, hướng và phương của ngôi nhà.
Mua nhà cũng nên chọn tầng
Phong thuỷ học cho rằng, khi mua nhà ở chung cư, ngoài việc chọn
hình thế ngôi nhà có dấu hiệu cát, còn nên chọn tầng lầu họp với bản mệnh của
gia chủ. Nguyên tắc mà phong thuỷ đưa ra là: nếu số tầng lầu ngũ hành sinh chủ
mệnh là tốt nhất, nếu khắc chủ mệnh là không tốt. Nếu số tầng lầu ngũ hành bị
chủ mệnh khắc cũng tốt vào loại trung bình; ngũ hành chủ mệnh với ngũ hành tầng
lầu như nhau thì giúp chủ mệnh nên cát. Ví dụ người sinh năm Hợi, hành Thuỷ, nên
ở tầng 1 hoặc 6 (đều thuộc thuỷ); tầng 4 và 9 thuộc kim, kim sinh thuỷ là cát, ở
cũng tốt; cũng có thể ở tầng 2 và tầng 7 (đều thuộc hoả), vì thuỷ khắc hoả;
không nên ở tầng 5 hoặc 10 (đều thuộc thổ), vì thổ khắc thuỷ.
Về mối quan hệ tầng lầu với ngũ hành, được người xưa nêu như
sau:
Tầng 1 và 6 thuộc thuỷ; tầng 3 và 8 thuộc mộc; tầng 4 và 9
thuộc kim; tầng 5 và 10 thuộc thổ. Tầng 10 thuộc thổ, tầng 11 thuộc thuỷ, tầng
12 thuộc hoả, tầng 13 thuộc mộc, tầng 14 thuộc kim, tầng 15 thuộc thổ, tầng 16
thuộc thuỷ, tầng 17 thuộc hoả, tầng 18 thuộc mộc, tầng 19 thuộc kim, tầng 20
thuộc thổ…
Về tuổi theo ngũ hành như dịch học nêu ra như sau:
Tý hành thuỷ, Sửu hành thổ, Dần hành mộc, Mão hành mộc, Thìn
hành thổ, Tỵ hành hoả, Ngọ hành hoả, Mùi hành thổ, Thân hành kim, Dậu hành kim,
Tuất hành thổ, Hợi hành thuỷ.
Về mối quan hệ tương sinh, tương khắc như sau:
Tương sinh: Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả
sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Mối quan hệ tương khắc như sau: Kim khắc Mộc, Mộc khắc
Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim…
Vị trí nhà vệ sinh trong khuôn viên ngôi nhà
Trong gia tướng học không nói rõ nhà vệ sinh đặt ở phương vị
nào thì tốt, chỉ nhắc nhở cần tránh đặt giữa nhà, phía Đông Bắc hoặc phía Tây
Nam. Nếu đặt ở phía Bắc thì từ thu phân đến xuân phân không nhìn thấy ắnh mặt
trời, khí hậu ẩm lạnh, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Phong thuỷ học còn cho rằng, vị
trí nhà vệ sinh không đặt nơi trùng với bản mệnh. Ví dụ người sinh năm Tý và
Hợi (đều thuỷ), không đặt nhà vệ sinh phương Bắc, vì Bắc thuỷ; người sinh năm
Dậu và Thân (đều là kim), không đặt nhà vệ sinh phương Tây, vì Tây kim…
Trên đây là một số trường hợp thường gặp đối với một ngôi nhà, với
nơi ở mà phong thuỷ học nêu ra, quan niệm này chỉ có giá trị tham khảo .
17/ LƯU Ý HƯỚNG BÀN LÀM VIỆC: Thông
thường chủ một cơ sở làm ăn, buôn bán cần phải đặt bàn làm việc của mình và của
các nhân viên dưới quyền theo hướng tốt của cung Mạng người chủ. Ta cũng cần
lưu ý rằng: Các cung quan trọng như cung Danh vọng (Phương Nam);cung Sự nghiệp
(Chánh Bắc);Cung Phú quí, Tài lộc (Đông Nam);cung Tri thức (Đông Bắc) cần phải
xác định cho chính xác để làm cho các khu vực đó thêm sáng sủa , sinh động. Khi
cần phát triển một vấn đề nào đó ta làm cho cung đó nổi bật lên bằng cách thắp
đèn, treo Phong linh hay quả cấu thủy tinh, đặt hồ cá cảnh vào vị trí tương ứng
của cung đó.
Bàn làm việc của chủ nhân cần phải có chỗ dựa đằng sau (Sơn), như
là dựa lưng ghế vào tường. Ghế ngồi không được quay ra cửa sổ, cửa ra vào, không
được để các góc nhọn như cạnh bàn, tủ, góc tường đâm vào vị trí ngồi. Chỗ ngồi
của người Chủ không được có đường đi đâm trực diện vào. Khi làm việc, từ chỗ ngồi
của mình, người Chủ phải bao quát được toàn bộ cơ sở của mình và không để người
khác nhòm ngó vào chỗ làm việc của mình.
Khi bố trí bàn làm việc, Chỗ ngồi của Chủ nhân phải chiếm được các
phương vị tốt và tuyệt đối không để bất cứ ai ngồi vào vị trí đã chọn của mình.
Nên bố trí làm sao khách ngồi vào cung Quí nhân là tốt nhất. Có như vậy Chủ
nhân mới được giúp đỡ, hậu thuẫn , nâng đỡ. Nếu có điều kiện nên treo sau lưng
chỗ ngồi các bức tranh Long –Hổ.
18/ Thế ngồi trong Phong Thủy của Bạn.
* Bất cứ một cuộc họp nào, bạn nên ngồi ở vị trí góc Đông Nam của
căn phòng hay cái bàn để chiếm giữ cung Tài .
** Khi Bạn kinh doanh một thương nghiệp, Bạn có những buổi họp
thương mại, hãy cố gắng chọn một chỗ ngồi tốt cho riêng Bạn (nghĩa là những
hướng tốt theo phong thủy của Bạn). Nếu có khó khăn khi Bạn không thể chọn chỗ
ngồi theo ý ý mình muốn, thì hãy xoay người về hướng tốt đó hay quay mặt về
hướng tốt đó khi phát biểu háy nói chuyện.
** Khi Bạn phải đi ra ngoài dự một buổi ăn tối thật quan trọng để
tạo một cơ hội tốt, Bạn hãy ngồi đối diện với hướng Diên Niên. Hướng này sẽ làm
cho Bạn có cảm giác tốt và may mắn.
** Khi có một cuộc phỏng vấn cho nghề nghiệp hay một buổi họp mặt
quan trọng, hãy ngồi day mặt về hướng Sinh khí. Hướng này sẽ gia tăng may mắn và
thành công cho Bạn .
Như vậy chỗ ngồi họp của bạn cần lưu ý tới Vị (tọa độ của chỗ ngồi
trong phòng) và Hướng mặt của mình .
19/ Ảnh hưởng của đòn dông: Theo
khoa Phong thủy thì cái đòn dông chính thường tạo ra một lực tác động mạnh mẽ
đối với những vật thể nằm trên đường thẳng trực chiếu của nó, nơi nào bị trực
chiếu thì nơi đó bị ảnh hưởng nặng nề nhất đối với những người ở trong đó, ví
dụ chiếu vào phòng ngủ thì người nào ở trong phòng mới bị ảnh hưởng, nếu chiếu
vào phòng làm việc thì người ngồi làm việc bị tác hại. Đặc biệt chiếu vào cửa
chính ra vào thì cả gia đình đều bị ảnh hưởng chứ không riêng gì chủ gia đình. Riêng
về cái đòn dông có rất nhiều cách sửa chửa hoặc là treo một cái bát quái có
gương phản chiếu ở chính giửa treo ngay trước cửa nhà. Một cách khác làm một
mái hiên che nắng hay là giàn cây leo ngay trước cửa nhà che khuất tầm mắt mình
đối với cái đòn dông trên cao của nhà đối diện cũng tránh được ảnh hưởng xấu.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *