Kình dương và Đà la – Toàn thư

      Kình
dương

      Thuộc tính ngũ hành
của sao Kình dương là dương hỏa, lại thuộc dương kim, là sát tinh thứ nhất trong
chòm Bắc Đẩu, hóa khí là hình chủ về hình thương, tại số chủ về hung hại.
Sao Kình dương còn có tên gọi là sao Dương Nhận, cùng các sao Đà la, Hỏa tinh,
Linh tinh, Địa không, Địa kiếp gọi chung là sáu Sát tinh. Sở dĩ chúng được gọi
là Sát tinh là vì chúng phá hoại vận mệnh, công phá và sát thương các Cát tinh,
khuyết điểm nhiều hơn ưu điểm. Nếu gặp phải cách cục không tốt hoặc chủ tinh lạc
hãm chẳng khác gì lửa đổ thêm giầu, sẽ khiến cho vận mệnh càng trở nên gian nan
trắc trở. Sát tinh trấn mệnh sẽ khiến cả cuộc đời sóng gió bất an, nhưng không
có nghĩa là không có thành tựu, mà chỉ là thêm nhiều thăng trầm trở
ngại.

      Sao Kình dương là
sao có lực phá hoại và sát thương mạnh mẽ nhất trong sáu Sát tinh, cá tính cương
liệt lại có uy quyền, cực kỳ nóng nảy kèm thêm có sát khí, có khả năng công phá
và phá hoại đối với Cát tinh, đồng thời Kình dương còn có tác dụng khống chế các
Sát tinh khác. Bởi vậy, nếu sao Kình dương tọa tại cung Mệnh, dù là mệnh nam hay
nữ, cũng chủ về thủa nhỏ tổn thương, để lại vết thương vết sẹo, hoặc những ký ức
đau đớn.

      Sao Kình dương
nhập miếu tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, nếu như Mệnh nằm tại 4 cung này là cách
Kình dương nhập miếu, thì có thể phát huy trọn vẹn ưu điểm của sao Kình
dương, là sự mạnh mẽ quyết đoán trong những tình huống nhạy cảm phức tạp, để đạt
được những thành tựu xuất sắc mà trở nên giầu sang. Kình dương nằm đồng cung với
sao Hỏa, nếu lại được miếu vượng đó là dùng ác chế ác, lấy uy quyền biến thành
sức bật. Sao Kình dương lạc hãm trấn mệnh tại Ngọ địa là cách Mã đầu đới
tiễn
(Đầu ngựa mang tên) không chết non cũng phải chịu thương tật, phiêu bạt
vô định tai họa trùng trùng. Kình dương ưa thích đồng cung với sao Thiên đồng,
Thái âm, sẽ mang lại sức phấn đấu cho hai sao vốn mang tính nhu thuận ôn hòa, và
đồng thời phát huy được tính xung lực của Kình dương để đạt được những thành tựu
xuất sắc.

      Sao Kình dương là
sức mạnh hiển hiện, nếu lạc hãm càng bộc lộ rõ đặc điểm này. Những cung vị mà
Kình dương đóng vào, hoặc hội hay chiếu cũng đem lại hình thương hoặc những trắc
trở rõ ràng hiển hiện. Thường các sao khác khi gặp phải Kình dương, đều phải
chịu thêm nhiều vất vả tai ương. Nếu gặp được Cát tinh trợ giúp sẽ không quá
đáng ngại. Nhưng nếu lại gặp thêm hung tinh như Liêm trinh, Tham lang, Cự môn,
sẽ khiến vận mệnh trở nên xấu đi hoặc thành phá
cục.

      Thuộc tính ngũ
hành của sao Kình dương là dương hỏa và dương kim, mang khí hung sát, nhưng nếu
như biết uốn nắn tính cách đó, mà hướng theo những ngành nghề như bác sỹ ngoại
khoa, quân đội, hoặc những công việc liên quan đến kim loại, cơ điện, sẽ có thể
biến nhược điểm thành ưu điểm, phát huy trọn vẹn các sở trường mà đạt được thành
tựu xuất sắc. Nếu như lại gặp thêm các hung sát như Hỏa tinh, Hóa Kị, Địa không,
Địa kiếp, Thất sát, Phá quân xung phá, lại trở thành hạ
cục.

      Đà
La

      Thuộc tính ngũ hành
của sao Đà la là âm kim, là sát tinh thứ hai trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là
kị chủ về thị phi, là một trong sáu Sát tinh nhưng sát khí của Đà la
không nặng bằng Kình dương. Nếu như sức công phá của Kình dương là hiển hiện dễ
nhận biết, thì sao Đà la như mũi tên ngầm tai họa sóng gió đến lúc nào không hay
biêt.

      Hóa khí của sao
Đà La là kị nên có thể coi là sao Kị, nhưng sao Kị này không hoàn
toàn giống như sao Hóa Kị trong bốn sao Hóa. Sao Hóa Kị chủ về nhiều tai nạn
hung hiểm, đố kỵ, thị phi dễ chuốc điều tiếng, mọi sự đều bất lợi. Còn Kị của
sao Đà la khi nằm tại Thìn Tuất Sửu Mùi, nếu gặp Cát tinh đồng cung hay gia hội,
lại gặp Không Kiếp Hỏa Linh hoặc Hóa Kị, thì lại chủ về tích cực phấn phát, phần
nhiều sẽ có được biểu hiện xuất chúng.


 
    Sao Đà la đồng cung với Tham lang dễ vì tửu sắc mà thành tật. Sao Đà
la đồng cung với Phá quân thường chóng phất chóng bại. Sao Đà la đồng cung với
Hỏa tinh, Linh tinh dễ bị mụn nhọt, mắc bệnh ngoài da hoặc bệnh truyền nhiễm.
Sao Đà la rơi vào cung Tật ách dễ mắc bệnh ngầm kinh niên. Đại hạn, lưu niên gặp
phải Đà la, thì thành tựu đến chậm, mệnh nữ thì khó kết hôn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *