CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM . BÀI 7

VUA
QUANG TRUNG VÀ CHIẾC HOÀNG BÀO BÍ ẨN 
HỒ VĂN
QUANG


Hơn hai thế kỷ qua, nhiều sử
gia, nhiều học giả đã từng tốn nhiều công sức trong việc nghiên cứu của mình,
nhằm tìm hiểu đâu chính là sự thật về lần vĩnh biệt của vị anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ vua Quang Trung, vị Ðại Ðế đã làm rạng rỡ cho cơ đồ Việt Nam! Chuyện
tức tưởi bước vào cõi vĩnh hằng không phải chỉ dành riêng với cá nhân ông ta mà
còn là sự uất ức chung cho cả dân tộc Việt Nam ta. Do đó, vấn đề bàn cãi đâu là
nguyên do chính đáng nhất của nó vẫn còn bao trùm bởi chiếc màn dày đặc của sự
bí mật. Nếu ai đó đưa ra cân trả lời để kết luận “Nhà vua chết vì bệnh.” thì
chúng ta khỏi nói thêm nữa… Hiện tại, người viết bài này chỉ biết kiểm nghiệm
lại những gì có trong tài liệu sưu tầm được, để gọi là phần nào đó, ghi góp thêm
cho cách giải đáp “thắc mắc” thôi. Chuyện “Chiếc áo ấm” mà Càn Long (vua Thanh)
cẩn tặng vua Quang Trung để mặc lúc ngự hàn, là một nghi vấn nằm trong những
nghi vấn khác mang tính: “khó tin nhưng có thật”, vì chỉ có nó mới có thể nói
lên cả một kế hoạch lâu dài của các nhà “lý số” Tàu dưới triều Càn Long quyết
hại chết vua ta, để trừ mọi hậu hoạn nơi bờ cõi phương Nam của
họ.
Sách
“Ngụy Tây Liệt Truyện” của bộ sử ký “Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện”, quyển 30
trang 42, các sử quan triều Nguyễn ghi như sau: “...Một hôm về chiều, Quang
Trung đang ngồi, bỗng xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời
xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt mắng rằng: Ông cha ngươi sống ở đất của Chúa,
đời đời làm dân của Chúa, Ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm? Rồi lấy gậy đánh vào
trán, Quang Trung mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự, lâu lắm. Lúc tỉnh dậy nhà
vua đem việc ấy nói với quan trung thư Trần Văn Kỷ. Từ đó bịnh chuyển nặng mới
triệu quan trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó. Thương
nghị chưa xong thì Thế Tổ ta đã lấy lại được Gia Ðịnh, chiếm Bình Thuận, Bình
Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động. Quang Trung nghe được lo buồn, bịnh ngày
càng kịch liệt…”
Ðọc những trang sử này, chúng ta có thể hiểu được ý chính
của các sử quan triều Nguyễn, họ muốn dựng lên một huyền thoại, nhằm thóa mạ vua
Quang Trung. Dụng ý chính ở đây là để ghép tội, và chứng minh rằng vua Tây Sơn
là người: Vô đạo và tàn bạo.
Tiếm đoạt thành Phú Xuân, xâm phạm lăng tẩm các Chúa Nguyễn
nên bị tổ tiên các Chúa Nguyễn trừng phạt Vì đang bệnh mà vua Quang Trung còn
phải lo lắng thêm việc con cháu Chúa Nguyễn phục thù, đang chiến thắng tại nhiều
nơi, lấn chiếm dần các phần đất phía Nam… và lãnh thổ Tây Sơn ngày một thu hẹp
lại. Do đó, nhất định bệnh tình nhà vua ngày một nặng thêm, và rồi nhất định
phải chết. Dầu có nói gì chăng nữa, họ cũng không thể che giấu hành vi trả thù,
một sự trả thù dã man, tàn bạo đối với một triều đại từng làm cho họ xích bích
xang bang, sống trong tan tác, cơ hồ như bị hủy diệt luôn. Cho nên khi chiến
thắng rồi, họ quên bẵng thời điểm lịch sử 1792 (năm vua Quang Trung mất), tình
thế chiến trường đem ra so sánh, binh đội phe Nguyễn Ánh chỉ là một nhóm người
nhỏ lẻ tẻ, ô hợp, chưa đủ khả năng chống chọi với đại binh Tây Sơn. Sách “Ðại
Nam Thực Lục Chính Biên”, là bộ sách sử tuy được cả triều Nguyễn ca tụng, nhưng
phần “Ðệ Nhất Kỷ” cũng phải ghi: “Tháng 3 năm Nhâm Tý (1792) nhân khi gió Nồm
thổi, Nguyễn vương sai tướng là Nguyễn Văn Trương cùng Nguyễn Văn Thành đem
chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại Tây Sơn ở của Thị Nại (Quy
Nhơn) rồi rút lui về. Khi lui về Nam, Nguyễn Ánh có ý định chiếm Phan Rang, Phan
Rí… nhưng cuối cùng Nguyễn Ánh thấy chống không nổi, phải cho rút quân về lại
Gia Ðịnh”.
Như vậy, giai đoạn từ mùa hè 1792 trở về trước, Nguyễn Ánh đã
không thể có mặt trên đất miền Trung, mà phải lo cố thủ Gia Ðịnh, có nghĩa là
triều đại Tây Sơn vẫn còn cai quản phần đất từ Gia Ðịnh trở ra Bắc và chính lúc
bình yên trên phần đất cai quản của mình như thế này, vua Quang Trung bị bệnh,
rồi sau đó băng hà. Không giống như nội dung đoạn sử trên mô tả: Về tính huyền
thoại huyễn hoặc: bị ông tiên nào đó đánh cho một gậy để phải lâm bệnh  Về mặt
thực tế cụ thể: như lo âu mất đất và bị thua trên chiến trường… Chính hai lý
do này đã khiến vua Quang Trung buồn phiền, rồi bệnh nặng mà băng hà? Thực ra,
từ năm 1787 trở đi, vua Quang Trung bận rộn rất nhiều về chuyện nội trị, phần
khác cần đối phó loạn lạc tại Bắc Hà! Riêng phía Nam, cũng có chuyện cần cấp
giải quyết, vì sự cai quản non kém của Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, tạo điều kiện
thuận lợi để Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Ðịnh. Và cũng nhờ vào sự bận rộn này mà
bắt đầu từ năm 1787 cho đến năm 1792, Nguyễn Ánh mới có cơ hội chiếm lại rồi
củng cố thành Gia Ðịnh. Mãi tới tháng 5 năm 1790, Nguyễn Ánh cho Lê Văn Câu (có
sách ghi là Lê Văn Quân, một đại công thần, có thứ bậc trên cả Võ Tánh, Nguyễn
Văn Thành) đem quân ra đánh chiếm Bình Thuận. Chưa đầy một tháng sau đó, Tây Sơn
phản công, quân lính Câu tan tác, phải cấp báo về Gia Ðịnh xin Nguyễn Ánh cho
viện binh. Ánh không chấp thuận trong tình thế nguy cấp này, Nguyễn Văn Câu đành
rút chạy về Phan Rí, quân binh Tây Sơn tiếp tục truy kích, Câu phải chạy thẳng
về Gia Ðịnh…  Trước một bại tướng từng sống chết với mình, Nguyễn Ánh không
những không tìm cách che chở, bảo bọc, mà còn tỏ ra không thương tiếc, nhất định
nghị tội, bãi chức… Quá uất ức, Câu đành uống thuốc độc, kết liễu đời mình.
Thương thay cho một vị đại tướng tìm lầm chúa thờ! Trở lại cái chết của vua
Quang Trung, chúng ta không nhìn nội dung trên ở khía cạnh mạ lỵ cá nhân, mà
trên sự kiện nguyên do cái chết. Từ đó chúng ta cũng có thể kết luận họ đã xác
nhận vua Quang Trung chết vì bệnh. Ðọc sử Việt Nam, có rất nhiều cách giải thích
khác về cái chết của vị anh hùng dân tộc của chúng ta, nhưng không mấy hấp dẫn.
Do đó, người viết phải tìm thấy thêm trong “Ðại Thanh Thực Lục” và “Ðông Hoa
Toàn Lục” (Sử Trung Quốc) ghi rằng:”Năm Càn Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793),
Quách Thế Huân khấu báo lên Càn Long là An Nam quốc vương Quang Trung đã chết vì
bệnh”.Càn Long, hơi giật mình rồi như đang suy nghiệm một điều gì có thể đúng
với dự tính trước đó của ông ta… Phải chăng, vua Thanh đã biết trước được một
chuyện gì chăng về cái phải xảy ra với vua Quang Trung? Theo hắn ta phải sớm
hơn… (vì khoảng sáu tháng sau ngày vua Quang Trung băng hà, Càn Long mới biết
tin). Tại Bắc kinh, trước lúc đó, Vũ Văn Dũng được tin mật, vị trưởng đoàn sứ
thần này xỉu đi… Khi tỉnh lại, liền gấp rút từ tạ vua Thanh mà trở về Phú Xuân
ngay. Chính sự đau đớn này, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ (Tập san sử địa số 9, Sai
Gòn 1968, trang 154):
 “Bố y phấn tích ngũ niên phong 
Mai cổ thi vi tự bất
đồng 
Thiên vị Ngô Hoàng tăng nhất kỷ 
Bất ư Ðường, Tống thuyết
anh hùng”.
 Tạm dịch: 
Năm năm dựng nghiệp tự thân nông 
Thời trước thời sau có mấy
ông? 
Có thương, trời cho mươi năm nữa, 
Anh hùng Ðường, Tống khó
so công!
Vua Quang Trung mất vào mùa Thu 1792, nửa năm sau Mãn Thanh
mới biết, và cho người sang báo tang. Sự chậm trễ này không phải do Quách Thế
Trung, mà chính do sự sắp đặt của hoàng triều Phú Xuân muốn làm vậy. Trong “Ðông
Hoa Toàn Lục”, quyển 117, trang 5s, đã ghi lại ý trách móc của Càn Long:
Quốc Vương Nguyễn Quang Bình đã mất ở Nghệ An vào tháng 9 năm ngoái. Vua Càn
Long liền quở trách người đưa tin như thế là quá chậm, chắc bây giờ đã tống táng
rồi
“. Sự việc rõ ràng bên trong có dụng ý riêng, vì không phải báo về cái
chết của Nguyễn Quang Bình chậm, mà còn sai chỗ nữa (Phú Xuân chứ không phải
Nghệ An). Mặt khác, Phú Xuân còn cho làm mộ giả của vua bên Hồ Tây để đón sứ
thần Mãn Thanh sang phúng điếu. Sứ Thanh đến, muốn vào thăm Phú Xuân, triều thần
Tây Sơn nhất định không cho, còn tìm mọi cách đánh lạc hướng như dẫn họ lên tận
Sơn Tây, khi sứ Thanh phát hiện, triều thần Tây Sơn mới chịu dẫn họ trở lại,
nhưng chỉ dừng ở Thăng Long mà thôi.  Những việc nhà Thanh làm rất mâu thuẫn và
bí mật, nhất là việc đòi phải vào đến tận Phú Xuân xem xét… Năm 1789, chính
Thành Lâm không chịu vào Phú Xuân để phong vương cho vua Quang Trung (lần đầu
sau khi Phạm Công Trị đóng vua Quang Trung giả), mà chỉ tại Thăng Long, viện lý
do không được trái lệ thường (Các triều đại trước mỗi khi Trung Hoa cho sứ sang
nước ta làm lễ phong vương, đều thực hiện tại Thăng Long theo qui lệ của các vua
Trung Hoa), nhưng lần này lại đòi vào tận Phú Xuân để điếu tang. Tại sao triều
thần Tây Sơn không cho Thành lâm vào Phú Xuân? Cũng như vua Quang Trung luôn cho
người giả mình để tiếp xúc với nhà Thanh? Tất cả mọi nghi vấn như thế này chỉ có
vua Quang Trung và các cận thần của ông ta mới biết! Ngày nay, chúng ta sao có
thể suy đoán rằng: triều thần Tây sơn sợ các thầy địa lý Tàu ếm bùa ếm ngãi nơi
mộ vua Quang Trung!(?). Giai đoạn xã hội lúc đó, chuyện xảy ra như thế này không
phải là không có. Triều thần Tây Sơn làm sao lường trước chuyện rửa nhục “thất
trận Xuân Kỷ Dậu”? (Vào cuối năm 1788, Tôn Sĩ Nghị ngày nào cũng cấp báo tin
thắng trận, vua Càn Long vô cùng mừng rỡ, tiệc mừng được liên tiếp tổ chức, ba
quân luôn được cất nhắc thăng thưởng (tăng thêm một tháng lương cho đội quân
viễn chinh dùng để ăn tết trên xứ Nam). Chính Càn Long đã chọn ngày mồng 5 Tết
làm ngày “Hội mừng công, bình định đương An Nam”, các Ðại thần, các Ðại học sĩ,
các Văn nhân, quan chức phải tề tựu về kinh đô (Bắc Kinh) cùng nhau xướng họa,
bình phẩm, gọi là chúc mừng thọ nhân buổi đầu năm lên vua. Thực ra, đây là việc
mừng chiến thắng bình định phương Nam. Nhưng, ngày mồng 5 đã làm họ ê chề đau
đớn, vì họ không có thắng lợi, mà ngược lại đã bị vua Quang Trung xóa sổ 29 vạn
quân xâm lược tinh nhuệ ngay trên đất Thăng Long! Tàn quân Thanh khi chạy về lại
nước mình, chỉ còn vỏn vẹn 5.500 người mà đa số đều bị sứt tay gãy gọng! Thật
đột ngột, thật bất ngờ, và cũng thật đau đớn nữa… Trước tin này, Càn Long vẫn
bình tĩnh, ra lệnh chiêu an Tôn Sĩ Nghị, ghép tội cho Lê Chiêu Thống… Sự thật
thế nào cũng phải phơi bày, nên về sau, Càn Long biết được lỗi lầm do Tôn Sĩ
Nghị gây nên, mới xuống chiếu nghiêm trị, bãi chức họ Tôn, cho Phúc Khang An
thay thế làm lưỡng Quảng Tổng Ðốc, cầm giữ 50 vạn quân để bảo vệ biên giới tiếp
giáp với An Nam. Trước tình hình như thế này, vua Quang Trung nhất định không
thể khinh xuất, đã phải cùng triều thần nghị bàn quyết định dùng ngoại giao để
giải quyết cuộc chiến đầy thầm lặng này.  Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển
30, trang 36s, ghi lại bức thư của Thang Hùng Nghiệp (quan đạo Tả Giang) viết
cho vua Quang Trung như sau: “Lê Duy Kỳ đã trốn ra khỏi nước, thiên triều
không ủng hộ cho y làm vua nước Nam nữa. Vậy trong khi chưa có người đến gõ cửa
quan xin thụ phong, thì “Người” nên đến sớm để được đặc ân..
.”. Cơ hội hòa
hoãn với Thanh triều coi như đã nắm chắc trong tay, vua Quang Trung liền cho đòi
Ngô Thời Nhiệm vào chầu, giao cho nhiệm vụ thảo thư trả lời vua Thanh. Cũng
trong sách này, quyển 30, trang 136b, 37a, có viết lại lời Phúc An Khang nói về
tình hình sau vụ Xuân Kỷ Dậu: “…đã chính thấy mắt Nghị trơ trọi một mình
chạy về. Sau đó, tai hại được nghe thanh thế của vua Quang Trung nên trong bụng
không khỏi rụt rè, lo sợ… bèn nói nhỏ với viên thuộc quan rằng: Nam – Bắc thôi
việc binh đao đó là phúc của sinh dân, mà là điều may mắn cho quân ở ngoài bờ
cõi. Ta nghe nói viên quan coi việc giấy tờ của nước Nam tên là Ngô Thì Nhậm,
bao nhiêu thư từ, từ trước đến nay đều do tay y mà ra. Vậy ngươi nên viết thư
trả lời, bảo y chuyên tâm chủ trương việc giảng hòa, gấp rút viết tờ biểu tạ tội
đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng xong…
” Vua Quang
Trung xuống chỉ bảo Hồ Hổ hầu làm chính sứ sang Trung Hoa, trực tiếp gặp Thang
Hùng Nghiệp. Nội dung tờ biểu đã nói lên được tính nhún nhường, kèm theo sự giải
thích rõ ràng lý do phế bỏ Lê Chiêu Thống. Riêng việc va chạm với binh đội thiên
triều, thì đây chẳng qua là cách đối xử quá vụng về của Tôn Sĩ Nghị mà thôi.
Trong đoạn chót, nội dung thư, tỏ ra cứng rắn, không chịu lép vế, có đoạn rất
đanh thép, mỉa mai, hăm dọa (Sách vừa dẫn cùng trang): “...Tôn Sĩ Nghị lấy
địa vị đại thần ở biên cương, lại vì tiền hay vì gái mà đem tờ biểu chương của
thần xé ném xuống đất, làm nhục sứ giả, ý muốn động binh dấy quân, không biết
việc đó quả do Ðại Hoàng Ðế sai khiến hay do Tôn Sĩ Nghị? Thử hỏi vì một người
đàn bà sai khiến mong lập công ở biên cương mà cầu lợi lớn có đáng mặt quân tử
không?.
..” Trong phần cuối thư Ngô Thời Nhiệm còn nhấn mạnh: “...nay
đường đường là triều đình thiên tử, lại đi so hơn thua với một nước rợ nhỏ, ắt
là muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn
bạo, thì chắc lòng dạ của Thánh Thượng cũng không nhẫn. Còn nếu như cứ chiến
tranh kéo dài, tính thế đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần
cũng không dám nói trước rồi tình thế sẽ đi đến đâu..
.” Ðọc xong thơ, Thang
Hùng Nghiệp run sợ, nhưng vẫn cố giữ thái độ thật ôn hòa, bình tĩnh nói với Hồ
Hổ hầu rằng: “…nay không phải là lúc hai nước đánh nhau, sao lại hành sự toàn
một giọng giận dữ? Nói như thế là để cần phong vương hay muốn gây rối can qua
chăng?…” Ðối với chuyện này, Thang Hùng Nghiệp thật dở khóc dở cười, không
biết phải làm thế nào, thủ tiêu ngay lá thơ thì không dám mà trình lên Càn Long
thì lại càng không dám hơn. Sự việc mà đổ bể, Thang Hùng Nghiệp sẽ mất hết lòng
tin của Càn Long đối với Y. Do vậy, từ đó về sau, mọi giao thiệp với Ðại Nam đều
về một tay Phúc Khang An bưng bít lo liệu. Chuyện ngoai giao giữa hai nước kể từ
đó mỗi ngày một mật thiết hơn. Tháng 11 năm 1789, khi đọc tờ biểu của Tôn Vĩnh
Thanh, nói về kết quả công việc Thành Lâm sang Thăng Long phong vương cho Nguyễn
Quang Bình, Càn Long chỉ thị ngay cho Tôn Vĩnh Thanh (Ðại Thanh Thực Lục, quyển
1342, trang 17a): “Trẫm xét Thành Lâm sang Thăng Long tuyên phong, tất chắc
mục kích được quốc vương và phong thổ nước ấy, Trẫm muốn đích thân xét hỏi viên
quan ấy sẽ được rõ ràng hơn là lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh, phải cho ngay Thành
Lâm tiến kinh, để Trẫm hỏi..
.” Sứ Thanh – Thành Lâm, trong chuyến sang nước
Nam phong vương, vua Càn Long có gởi tặng vua Quang Trung một chiếc áo choàng
màu, trên đó thêu 7 chữ: “Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử” Và kèm theo một
bài thơ trong đó có câu: “Phát Dị Nam Bang Y Dữ Quan” (Mũ áo không khác
gì người nước Nam). Lúc đó không ai có thể hiểu được nội dung “7 đại tự” thêu
trong chiếc áo, mang ý gì… Năm 1792, sau khi vua Quang Trung băng hà, Càn Long
lại làm thêm một bài thơ khác nhắc lại, ở câu thứ 7 với 7 chữ: “Thất Tự Bất Năng
Bãi Ai Thuật” (ý nói: 7 chữ không dứt được niềm xót xa của Trẫm) Và câu:”Trung
Thu Thượng Ức Y Quan Túc” (Trong mùa Thu trước Trẫm nhớ Quốc vương đã có áo mão
đoan trang), và thêm câu: “Hoài Nghi Kham Tiếu Ðại Kim Nhân” (Hoài nghi và đáng
cười việc triều trước bắt phải làm việc cống người vàng để thay thế). Cái ái
ngại và lo lắng nhất khi vua Quang Trung còn tại vị, là Càn Long vẫn cứ đòi gặp
cho bằng được con người bằng xương bằng thịt của Nguyễn Quang Bình? Chuyện bí
mật vẫn chưa ai có thể khám phá ra vua Thanh có hàm ý gì trong “chiếc áo tặng”?
Nội dung lời thơ? Tại sao “7 chữ” đó lại không nói hết được nỗi xót xa?… Tặng
“chiếc áo” chắc có lý do “đặc biệt” bên trong, nên Càn Long mới nhắc đi nhắc lại
mãi?… Phải chăng triều Minh đòi vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) cống “người vàng”,
thì triều Thanh đòi vua Quang Trung cống “người thật”? Vua Càn Long cho vẽ
truyền thần Quang Trung (Phạm Công Trị 1790) có mưu mô gì? Có thể Càn Long đã
biết người được vẽ hình không phải là Quang Trung thật? Ngược lại, Quang Trung
giả xin một bức chân dung của Càn Long thì lại không được?… (bài biểu của sứ
đoàn nước Nam nộp cho Phúc Khang An để trình lên Càn Long: “Nay hạ thần muốn xin
một bức chân dung của Hoàng Ðế để mang về nước, kính cẩn cung phụng ở điện Kính
Thiên”). Trên thực tế, Mãn Thanh, không hề đặt điều kiện tiền bạc cho sự bang
giao giữa 2 nước. Không những bãi bỏ lệ cống người vàng mà còn chịu chi phí rộng
rãi, nồng hậu mọi khoản tiếp đón cho cả đoàn sứ thần nước Nam cả chuyến đi lẫn
chuyến về. Nhất định không thể sai lầm khi có nhận định rằng ở đằng sau bộ mặt
dễ thương đầy vẻ hiếu hòa kia, sẽ có một âm mưu gì thật đáng sợ? Trả thù? Càn
Long đang ráo riết thi hành một kế hoạch, và chưa có cơ hội bộc lộ ra bên
ngoài?… Mùa Thu 1792, vua Quang Trung băng hà, triều thần Tây Sơn mới có thể
khám phá ra được ý nghĩa của “7 đại tự” kim tuyến thêu trong “chiếc áo” tai ác
kia!Theo cách chiết tự và diễn nghĩa từ 7 chữ “Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử” đã
có ý nói rõ: Nguyễn Huệ chết vào năm Tý. Vì chữ “Xa” và chữ “Tâm” đem ghép lại
là chữ “Huệ”; “Chiết Trục” là gẫy trục; “Thử” là chuột mà chuột là “Tý”, hay năm
Tý… Như thế, phải chăng từ năm 1790 trở về trước, Càn Long đã đoán được số
mạng của vua Quang Trung sẽ mất vào năm Tý? Chúng ta có thể đưa ra hai cách suy
nghĩ để lý giải lập luận này: 1).- Càn Long là một vị vua giỏi nhất, thông minh
nhất của Thanh Triều, như thế về thuật số, bấm độn, tính quẻ, ông ta không thể
không tinh thông. 2).- Chính Càn Long là người có âm mưu và dự mưu giết cá nhân
vua Quang Trung từ lâu, và đã dùng thuật số ếm vào chiếc áo bào, hay gài độc vào
7 đại tự kim tuyến để vua Quang Trung khi mặc vào sẽ bị chất độc khuếch tán từ
từ. Cho đến hôm nay, đối với việc ra đi của vua Quang Trung vẫn còn là chuyện bí
mật, chưa một ai có thể giải đáp được những câu hỏi: “Tại sao nhà vua lại chết
vào lúc tuổi đời đang sung mãn (đang đi vào độ tuổi 40), công danh, thắng lợi cứ
dồn dập ập đến? Nhà vua đã chết vì bệnh? Hay chết vì bị đầu độc, bị ếm bùa ngãi
của Càn Long? Và cũng có thể chết vì bức chân dung của Phạm Công Trị vẽ bằng một
loại mực có pha hóa chất cực độc cộng thêm việc dùng bùa chú ếm vào chân dung
đó? Hay chết vì những hoạt động tình báo của đối phương? (kẻ thù gài điệp viên
vào cạnh bệ rồng? Cũng có thể là sự trả thù của con cháu nhà Lê? Của Nguyễn Ánh?
Và cũng có thể là do đoàn sứ bộ của Thành Lâm (Thành Lâm là một người rất giỏi
thuật số hồi ấy)? Sau cùng cũng có thể là sự ám hại từ phía Nguyễn Nhạc?…” Tất
cả những câu hỏi trên đều phát xuất từ các giả thuyết của một vấn đề: “Cái chết
của vua Quang Trung”. Rốt cuộc, những nhà nghiên cứu chỉ có thể kết luận: “Ông
ta chết vì bệnh”! Thật đơn giản, bị bệnh mà không chữa trị đúng cách, dĩ nhiên
chỉ có chết! Không thể có một ai bài bác nổi lập luận này! Tình hình chính trị
xã hội ở giai đoạn cuối thế kỷ 18 của nước ta thật quá nhiều biến động. Sự xôn
xao không những xảy ra ngay trong cung đình mà ngay cả trong dân gian… Bởi vậy
theo sau một vấn đề chính thường được gài thêm những chuyện phụ, nhằm tô vẽ cho
sự phát triển giáo phái “Thần quyền” của những kẻ lãnh đạo phong kiến… Làm sao
ngày nay chúng ta không thể không hoài nghi về các tài liệu để lại? Cũng cùng
trong một thời gian lịch sử, lại mang nội dung trái ngược nhau? Chúng ta có thể
tin tưởng ngày chết của một người phải đúng vào ngày giỗ hàng năm do con cháu
dựng ra để tưởng niệm. Nhưng, cũng có thể vì một lý do an nguy nào đó, mà con
cháu nhất định chọn ngày khác, trùng với ngày qui tiên của người trưởng tộc của
họ? Ðây cũng là cách giải quyết mang tính tục lệ  của người Việt Nam chúng ta.
Ngày vĩnh biệt của vua Quang Trung có thể rơi vào tình trạng này
lắm…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *